Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

skkn vận dụng kiến thức liên môn hóa học, lịch sử, sinh học, hóa học, tiếng anh, học tập và làm theo tấm gương đạo đức hồ chí minh vào giảng dạy môn giáo dục công dân lớp 10 bài 13 công dân với cộng đồng (tiết 2 – từ phầ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.48 KB, 48 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NĂM HỌC 2015 - 2016
I. Tên cơ sở được yêu cầu công nhận sáng kiến
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NINH BÌNH

II. Tên sáng kiến
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN: ĐỊA LÍ, LỊCH SỬ, SINH HỌC,
HÓA HỌC,TIẾNG ANH, HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC
HỒ CHÍ MINH VÀO GIẢNG DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10
BÀI 13: CÔNG DÂN VỚI CỘNG ĐỒNG (Tiết 2 – Từ phần b mục 2 đến hết bài)

III. Tác giả sáng kiến
- Họ và tên giáo viên: CN. TẠ THỊ QUỲNH HOA
Ngày sinh: 20/11/1991; Môn: Giáo dục công dân
Điện thoại: 0977738784; Email:
- Họ và tên giáo viên: CN. CHU VĂN KHỞI
Ngày sinh: 10/2/1981; Môn: Lịch sử
Điện thoại: 0914483387; Email:
- Họ và tên giáo viên: CN. NGUYỄN THỊ THU THỦY
Ngày sinh: 28/5/1991; Môn: Tiếng anh
Điện thoại: 01649710668; Email:
- Họ và tên giáo viên: CN. VŨ THỊ THU HUYỀN
Ngày sinh: 10/5/1991; Môn: Tiếng anh
Điện thoại: 0918910591; Email:
Địa chỉ: THPT Bình Minh – Kim Sơn – Ninh Bình
Tỉ lệ đóng góp cho sáng kiến:
Họ và tên giáo viên
TẠ THỊ QUỲNH HOA
CHU VĂN KHỞI

Tỉ lệ đóng góp
40%


30%

NGUYỄN THỊ THU THỦY
VŨ THỊ THU HUYỀN

15%
15%

MỤC LỤC

1


A. PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................................3
I. Lý do chọn đề tài..........................................................................................................................3
II. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài...............................................................................5
1. Mục đích nghiên cứu của đề tài...................................................................................................5
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.....................................................................................................5
B. PHẦN NỘI DUNG.....................................................................................................................6
I. Cơ sở lí luận.................................................................................................................................6
II. Cơ sở thực tiễn (thực trạng của vấn đề - giải pháp cũ thường làm)..........................................15
E. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ............................................................................................34
I. Kết luận......................................................................................................................................34
II. Kiến nghị, đề xuất.....................................................................................................................36
1. Đối với người dạy và người học................................................................................................36
2. Ý kiến với các cấp lãnh đạo chỉ đạo bộ môn.............................................................................37
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................................38

PHỤ LỤC…………………………………………………………………………40


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

GDCD

Giáo dục công dân

HS

Học sinh

GV

Giáo viên

NL

Năng lực

GD

Giáo dục

SGK

Sách giáo khoa

PP

Phương pháp


2


KTDH

Kĩ thuật dạy học

ASEAN

Hiệp hội các nước Đông Nam Á

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, việc thực hiện đổi mới ngành giáo dục nói chung,
giáo dục phổ thông nói riêng đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên
bên cạnh đó vẫn còn những tồn tại cần được tiếp tục đổi mới, bổ sung. Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 2 – Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng (khóa VIII) đã chỉ rõ con
đường đổi mới giáo dục - đào tạo đó là:“Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục
đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo
của người học”.
Môn GDCD ở trường trung học phổ thông có vị trí hàng đầu trong việc định
hướng phát triển nhân cách của HS thông qua việc cung cấp hệ thống tri thức cơ
bản về giá trị đạo đức - nhân văn, đường lối chính sách lớn của Đảng, Nhà nước và

3


pháp luật, kế thừa các truyền thống đạo đức, bản sắc dân tộc Việt Nam; trung
thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tiếp thu những giá trị tốt
đẹp của nhân loại và thời đại. Tuy nhiên, môn GDCD vẫn bị coi là môn học khó,

khô và khổ. Nhiều GV chỉ dạy qua loa, chiếu lệ; còn HS thì coi thường môn học,
coi giờ học GDCD là giờ để giải lao. Chính vì vậy, đòi hỏi mỗi GV dạy bộ môn
GDCD phải có những phương pháp thích hợp để tạo hứng thú cho HS trong các
giờ học, để mỗi giờ học không còn là “nỗi khổ” cho cả thầy và trò.
Trong thực tế giảng dạy ở trường phổ thông, qua việc dự giờ một số đồng
nghiệp, tôi nhận thấy đa số các GV vẫn còn nặng về sử dụng các phương pháp
truyền thống như thuyết trình, đàm thoại và tuân thủ tuyệt đối bố cục, cách trình
bày của sách giáo khoa một cách khiên cưỡng, cứng nhắc. Do đó, nhiều khi
phương pháp dạy học của GV không phù hợp với đối tượng HS, giờ học trở nên
nặng nề hoặc nhàm chán, không tạo được sự hứng thú học tập cho các em.
Trong giáo dục nói chung, dạy học nói riêng thì rất cần có phương pháp;
phải giúp cho người học bằng sự nỗ lực cố gắng của bản thân, dưới sự hướng dẫn
của giáo viên, chiếm lĩnh được kiến thức bằng con đường ngắn nhất. Nhiệm vụ của
toàn ngành giáo dục nói chung và mỗi GV dạy bộ môn GDCD nói riêng hiện nay
là đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực của HS, phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động của HS, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, hình thành thế giới quan, nhân
cách toàn diện cho các em.
Một trong những quan điểm mới, hiện đại trong dạy và học hiện nay là dạy
học theo chủ đề, dạy học tích hợp và tích hợp liên môn. Tích hợp là một trong
những quan điểm giáo dục đã trở thành xu thế trong việc xác định nội dung dạy
học trong nhà trường phổ thông và trong xây dựng chương trình môn học ở nhiều
nước trên thế giới. Quan điểm tích hợp được xây dựng trên cơ sở những quan niệm
tích cực về quá trình học tập và quá trình dạy học.
Thực tiễn ở nhiều nước đã chứng tỏ rằng việc hiểu và làm đúng quá trình
tích hợp sẽ giúp nâng cao năng lực của người học, đào tạo những người có đầy đủ
phẩm chất, năng lực vận dụng sáng tạo kiến thức, kỹ năng và phương pháp của

4



khối lượng tri thức toàn diện, hài hòa và hợp lý trong giải quyết các tình huống
khác nhau trong cuộc sống hiện đại và làm cho việc học tập trở nên ý nghĩa hơn
đối với HS so với việc các môn học, các mặt giáo dục được thực hiện riêng rẽ.
Đồng thời dạy học tích hợp, liên môn giúp hình thành và phát triển ở HS các năng
lực cần thiết của một người lao động trong tương lai như: NL tự học; NL giải quyết
vấn đề; NL sáng tạo; NL hợp tác; NL giao tiếp; NL sử dụng công nghệ thông tin và
truyền thông….
Với một đóng góp nhỏ của mình tham gia vào việc đổi mới phương pháp
dạy học, tạo được sự tích cực, chủ động, hứng thú với môn học, tôi chọn đề tài: “
Vận dụng kiến thức liên môn: Hóa học, Lịch sử, Sinh học, Hóa học, Tiếng anh,
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vào giảng dạy môn Giáo
dục công dân lớp 10 - Bài 13: Công dân với cộng đồng (Tiết 2 – Từ phần b mục 2
đến hết bài)”.
II. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài
1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Làm rõ cơ sở lí luận của quan điểm dạy học tích hợp liên môn.
- Thực trạng của việc dạy học các phạm trù “hòa nhập - hợp tác” (Bài 13: Công
dân với cộng đồng – GDCD 10).
- Đề xuất giải pháp vận dụng kiến thức liên môn khi giảng dạy phạm trù “hòa nhập
– hợp tác” (Bài 13: Công dân với cộng đồng – GDCD 10) nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động của HS.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy phạm trù
“hòa nhập - hợp tác” (Bài 13: Công dân với cộng đồng – GDCD 10).
- Khách thể nghiên cứu: HS lớp 10 THPT.
- Phạm vi khách thể nghiên cứu: HS lớp 10A (35 HS), 10B (34 HS), 10C (37 HS)
– trường THPT Bình Minh – Kim Sơn – Ninh Bình.

5



B. PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
1. Khái quát về quan điểm dạy học tích hợp liên môn
1.1. Các khái niệm cơ bản
a) Tích hợp
Theo từ điển Tiếng Việt: “Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động, chương
trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích hợp có
nghĩa là sự thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp”.
Theo từ điển Giáo dục học: “Tích hợp là hành động liên kết các đối tượng
nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau
trong cùng một kế hoạch dạy học”.

6


Trong tiếng Anh, tích hợp được viết là “integration” một từ gốc Latin
(integer) có nghĩa là “whole” hay “toàn bộ, toàn thể”. Có nghĩa là sự phối hợp các
hoạt động khác nhau, các thành phần khác nhau của một hệ thống để bảo đảm sự
hài hòa chức năng và mục tiêu hoạt động của hệ thống ấy.
Dạy học tích hợp có nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có liên quan vào
quá trình dạy học các môn học như: tích hợp GD đạo đức, lối sống; GD pháp luật;
GD bảo vệ mội trường; GD chủ quyền quốc gia về biên giới….
Đưa tư tưởng sư phạm tích hợp vào trong quá trình dạy học là cần thiết. dạy
học tích hợp là một xu hướng của lí luận dạy học và được nhiều nước trên thế giới
thực hiện.
b) Dạy học tích hợp liên môn
Dạy học tích hợp liên môn là dạy học những nội dung kiến thức liên quan
đến hai hay nhiều môn học. “Tích hợp” là nói đến phương pháp và mục tiêu của

hoạt động dạy học còn “liên môn” là đề cập tới nội dung dạy học. Đã dạy học “tích
hợp” thì chắc chắn phải dạy kiến thức “liên môn” và ngược lại, để đảm bảo hiệu
quả của dạy liên môn thì phải bằng cách và hướng tới mục tiêu tích hợp.
1.2. Đặc điểm của dạy học tích hợp liên môn
a) Lấy người học làm trung tâm
Dạy học lấy người học làm trung tâm được xem là phương pháp đáp ứng
yêu cầu cơ bản của mục tiêu giáo dục, có khả năng định hướng việc tổ chức quá
trình dạy học thành quá trình tự học, quá trình cá nhân hóa người học. Dạy học lấy
người học là trung tâm đòi hỏi người học là chủ thể của hoạt động học, họ phải tự
học, tự nghiên cứu để tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình, người học
không chỉ được đặt trước những kiến thức có sẵn ở trong bài giảng của giáo viên
mà phải tự đặt mình vào tình huống có vấn đề của thực tiễn, cụ thể và sinh động
rồi từ đó tự mình tìm ra cái chưa biết, cái cần khám phá học để hành, hành để học,
tức là tự tìm kiếm kiến thức cho bản thân.
Trong dạy học lấy người học làm trung tâm đòi hỏi người học tự thể hiện
mình, phát triển năng lực làm việc nhóm, hợp tác với nhóm, với lớp. Sự làm việc

7


theo nhóm này sẽ đưa ra cách thức giải quyết đầy tính sáng tạo, kích thích các
thành viên trong nhóm hăng hái tham gia vào giải quyết vấn đề.
Sự hợp tác giữa người học với người học là hết sức quan trọng nhưng vẫn
chỉ là ngoại lực, điều quan trọng nhất là cần phải phát huy nội lực là tính tự chủ,
chủ động nỗ lực tìm kiếm kiến thức của người học. Còn người dạy chỉ là người tổ
chức và hướng dẫn quá trình học tập, đạo diễn cho người học tự tìm kiếm kiến
thức và phương thức tìm kiếm kiến thức bằng hành động của chính mình. Người
dạy phải dạy cái mà người học cần chứ không phải dạy cái mà người dạy có.
b) Định hướng đầu ra
Đặc điểm cơ bản nhất, có ý nghĩa trung tâm của dạy học theo năng lực thực

hiện là định hướng chú ý vào kết quả đầu ra của quá trình đào tạo xem người học
có thể làm được cái gì vào những công việc thực tiễn để đạt tiêu chuẩn đầu ra. Như
vậy, người học để làm được cái gì đó đòi hỏi có liên quan đến chương trình, còn để
làm tốt công việc gì đó trong thực tiễn như mong đợi thì liên quan đến việc đánh
giá kết quả học tập. Người học đạt được những đòi hỏi đó còn tùy thuộc vào khả
năng của mỗi người.
Dạy học tích hợp chú ý đến kết quả học tập của người học để vận dụng
vàogiải quyết những tình huống nảy sinh trong thực tiễn cuộc sống công việc, đòi
hỏi quá trình học tập phải đảm bảo chất lượng và hiệu quả để thực hiện nhiệm vụ.
Do đó, đòi hỏi người dạy phải dạy được cả lý thuyết vừa phải hướng dẫn quy trình,
thực hành chuẩn xác, phổ biến được kinh nghiệm, nêu được các dạng sai lầm,
nguyên nhân và biện pháp khắc phục, biết cách tổ chức hướng dẫn luyện tập.
c) Dạy và học các năng lực thực hiện
Dạy học tích hợp liên môn có thể hiểu là một hình thức dạy học kết hợp giữa
dạy lý thuyết và dạy thực hành, qua đó ở người học hình thành một năng lực nào
đó hay kỹ năng nhằm đáp ứng được mục tiêu bài học. Do đó, việc dạy kiến thức lý
thuyết không phải ở mức độ hàn lâm mà chỉ ở mức độ cần thiết nhằm hỗ trợ cho sự
phát triển các năng lực thực hành ở mỗi người học.
Trong dạy học tích hợp, lý thuyết là hệ thống tri thức khoa học về những vấn
đề cơ bản. Hơn nữa, việc dạy lý thuyết thuần túy sẽ dẫn đến tình trạng lý thuyết

8


suông, kiến thức sách vở không mang lại lợi ích thực tiễn. Do đó, cần gắn lý thuyết
với thực hành trong quá trình dạy học. Thực hành là hình thức luyện tập để trau dồi
kỹ năng, kỹ xảo hoạt động giúp cho người học hiểu rõ và nắm vững kiến thức lý
thuyết. Đây là khâu cơ bản để thực hiện nguyên lý giáo dục học đi đôi với hành, lý
luận gắn với thực tiễn.
Trong dạy học tích hợp liên môn, người học được đặt vào những tình huống

của đời sống thực tế, người học phải biết vận dụng linh hoạt khối lượng kiến thức
phức hợp của các môn học để giải quyết.
Người học cần phải tiếp nhận đối tượng qua các phương tiện nghe, nhìn,...và
phân tích đối tượng nhằm làm bộc lộ và phát hiện ra các mối quan hệ bản chất, tất
yếu của sự vật, hiện tượng. Từ đó, người học vừa nắm được kiến thức vừa nắm
được phương pháp thực hành. Như vậy, người dạy không chỉ đơn thuần truyền đạt
kiến thức mà còn hướng dẫn các thao tác thực hành.
1.3. Một số quan điểm dạy học trong tổ chức dạy học tích hợp liên môn
1.3.1. Về phương pháp dạy học
Tiến trình dạy học phải thể hiện chuỗi hoạt động học của HS phù hợp với
phương pháp dạy học tích cực được vận dụng. Tùy theo đặc thù bộ môn và nội
dung dạy học của chủ đề, GV có thể lựa chọn các phương pháp dạy học khác nhau.
Tuy nhiên, các phương pháp dạy học tích cực nói chung đều dựa trên quan điểm
dạy học giải quyết vấn đề có tiến trình sư phạm tương tự nhau: xuất phát từ một sự
kiện/ hiện tượng/ tình huống/ nhiệm vụ làm xuất hiện vấn đề cần giải quyết – lựa
chọn giải pháp/ xây dựng kế hoạch giải quyết vấn đề - thực hiện giải pháp / kế
hoạch để giải quyết vấn đề - đánh giá kết quả giải quyết vấn đề. Vì vậy, nhìn chung
tiến trình dạy học một chủ đề tích hợp liên môn như sau:
a) Đề xuất vấn đề
Để đề xuất vấn đề, GV giao cho HS một nhiệm vụ có tiềm ẩn vấn đề. Nhiệm
vụ giao cho HS có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: giải
thích một sự kiện/ hiện tượng trong tự nhiên hay xã hội; giải quyết một tình huống
trong học tập hay trong thực tiễn; tiến hành một thí nghiệm mở đầu … Dưới sự
hướng dẫn của GV, HS quan tâm đến nhiệm vụ đặt ra, sẵn sàng nhận và tự nguyện

9


thực hiện nhiệm vụ. Từ nhiệm vụ cần giải quyết, HS huy động kiến thức, kĩ năng
đã biết và nảy sinh nhu cầu về kiến thức, kĩ năng còn chưa biết, nhưng hi vọng có

thể tìm tòi, xây dựng được; diễn đạt nhu cầu đó thành câu hỏi. Lúc này, vấn đề đối
với HS xuất hiện, dưới sự hướng dẫn của GV, vấn đề đó được chính thức diễn đạt.
Nhiệm vụ giao cho HS cần đảm bảo rằng, HS không thể giải quyết trọn vẹn
với kiến thức, kĩ năng đã có mà cần phải học thêm kiến thức mới để vận dụng vào
quá trình giải quyết vấn đề.
b) Giải pháp và kế hoạch giải quyết vấn đề
Sau khi đã phát biểu vấn đề, HS độc lập hoạt động, xoay trở để vượt qua khó
khăn, tìm các giải pháp để giải quyết vấn đề. Trong quá trình đó, khi cần phải có sự
định hướng của GV để HS có thể đưa ra các giải pháp theo suy nghĩ của HS.
Thông qua trao đổi, thảo luận dưới sự định hướng của GV, HS xác định được các
giải pháp khả thi, bao gồm cả việc học kiến thức mới phục vụ cho việc giải quyết
vấn đề đặt ra, đồng thời xây dựng kế hoạch hành động nhằm giải quyết vấn đề đó.
c) Thực hiện kế hoạch giải quyết vấn đề
Trong quá trình thực hiện giải pháp và kế hoạch giải quyết vấn đề, HS diễn
đạt, trao đổi với người khác trong nhóm về kết quả thu được, qua đó có thể chỉnh
lý, hoàn thiện tiếp. Trường hợp HS cần phải hình thành kiến thức mới nhằm giải
quyết vấn đề, GV sẽ giúp HS xây dựng kiến thức mới của bản thân trên cơ sở đối
chiếu kiến thức, kinh nghiệm sẵn có với những hiểu biết mới; kết nối/ sắp xếp kiến
thức cũ và kiến thức mới dựa trên việc phát biểu, viết ra các kết luận/ khái niệm/
công thức mới… Trong quá trình đó, HS cần phải học lí thuyết hoặc/ và thiết kế
phương án thực nghiệm, tiến hành thực nghiệm, thu lượm các dữ liệu cần thiết và
xem xét, rút ra kết luận. Kiến thức, kĩ năng mới được hình thành giúp cho việc giải
quyết được câu hỏi/ vấn đề đặt ra.
Trong quá trình hoạt động giải quyết vấn đề, dưới sự hướng dẫn của GV,
hành động của HS được định hướng phù hợp với tiến trình nhận thức khoa học.
GV cần hướng dẫn HS vận dụng những kiến thức, kĩ năng mới học để giải quyết
các tình huống có liên quan trong học tập và cuộc sống hàng ngày; tiếp tục tìm tòi
và mở rộng kiến thức thông qua các nguồn tư liệu, học liệu khác nhau; tự đặt ra các

10



tình huống có vấn đề nảy sinh từ nội dung bài học, từ thực tiễn cuộc sống, vận
dụng các kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết bằng những cách khác nhau. Qua
quá trình dạy học, cùng với sự phát triển năng lực giải quyết vấn đề của HS, sự
định hướng của GV tiệm cận dần đến định hướng tìm tòi sáng tạo, nghĩa là GV chỉ
đưa ra cho HS những gợi ý sao cho HS có thể tự tìm tòi, huy động hoặc xây dựng
những kiến thức và cách thức hoạt động thích hợp để giải quyết nhiệm vụ mà họ
đảm nhận. Nghĩa là dần dần bồi dưỡng cho HS khả năng tự xác định hành động
thích hợp trong những tình huống không phải là quen thuộc đối với HS.
d) Trình bày, đánh giá kết quả
Sau khi đã hoàn thành hoạt động giải quyết vấn đề, dưới sự hướng dẫn của
GV, HS trình bày, tranh luận, bảo vệ kết quả thu được. GV chính xác hóa, bổ sung,
xác nhận, phê duyệt kết quả, bao gồm những kiến thức mới mà HS đã học được
thông qua hoạt động giải quyết vấn đề. HS ghi nhận kiến thức mới và vận dụng
trong thực tiễn cũng như trong các bài học tiếp theo.
1.3.2. Về kĩ thuật dạy học
Tiến trình dạy học nói trên được thể hiện cụ thể thành chuỗi hoạt động học
của HS. Mỗi hoạt động học của HS phải thể hiện rõ mục đích, nội dung, phương
thức và sản phẩm học tập mà HS phải hoàn thành. Phương thức hoạt động của HS
thể hiện thông qua kĩ thuật học tích cực được sử dụng. Có nhiều kĩ thuật học tích
cực khác nhau, mỗi kĩ thuật có mục tiêu rèn luyện các kĩ năng khác nhau cho HS.
Tuy nhiên, dù sử dụng kĩ thuật học tích cực nào thì việc tổ chức mỗi hoạt động học
của HS đều phải thực hiện theo các bước sau:
- Chuyển giao nhiệm vụ học tập: nhiệm vụ học tập được giao cho HS phải rõ
ràng và phù hợp với khả năng của HS, thể hiện ở yêu cầu về sản phẩm mà HS phải
hoàn thành khi thực hiện nhiệm vụ; hình thức giao nhiệm vụ sinh động, hấp dẫn,
kích thích được hứng thú nhận thức của HS; đảm bảo cho tất cả HS tiếp nhận và
sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ.
- Thực hiện nhiệm vụ học tập: HS được khuyến khích hợp tác với nhau khi

thực hiện nhiệm vụ học tập; GV cần phát hiện kịp thời những khó khăn của HS và

11


có biện pháp hỗ trợ phù hợp, hiệu quả; không để xảy ra tình trạng HS bị bỏ quên
trong quá trình dạy học.
- Báo cáo kết quả và thảo luận: yêu cầu về hình thức báo cáo phải phù hợp
với nội dung học tập và kĩ thuật dạy học tích cực được sử dụng; GV cần khuyến
khích cho HS trao đổi, thảo luận với nhau về nội dung học tập; xử lí những tình
huống sư phạm nảy sinh một cách hợp lí.
- Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập: GV tổ chức cho HS trình
bày, thảo luận về kết quả thực hiện nhiệm vụ; nhận xét về quá trình thực hiện
nhiệm vụ học tập của HS; phân tích, nhận xét, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ
và những ý kiến thảo luận của HS; chính xác hóa các kiến thức mà HS đã học được
thông qua hoạt động.
1.3.3. Về thiết bị dạy học và học liệu
Thiết bị dạy học và học liệu được sử dụng trong dạy học mỗi chủ đề phải
đảm bảo sự phù hợp với từng hoạt động học đã thiết kế. Việc sử dụng các thiết bị
dạy học và học liệu đó được thể hiện rõ trong phương thức hoạt động học và sản
phẩm học tập tương ứng mà HS phải hoàn thành trong mỗi hoạt động học.
1.3.4. Về kiểm tra, đánh giá
Phương án kiểm ra, đánh giá trong quá trình dạy học phải đảm bảo sự đồng
bộ với phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực được sử dụng. Cần tăng cường
đánh giá về sự hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất của HS thông qua quá
trình thực hiện các nhiệm vụ học tập, thông qua các sản phẩm học tập mà HS đã
hoàn thành; tăng cường hoạt động tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng của HS. Để
thực hiện được điều đó, đối với mỗi hoạt động học trong cả tiến trình dạy học, cần
mô tả cụ thể các sản phẩm học tập mà HS phải hoàn thành cùng với các tiêu chí
đánh giá cụ thể.

2. Sự cần thiết của dạy học tích hợp liên môn
Giúp cho giờ học trở nên sinh động hơn, vì không chỉ có GV là người trình
bày mà HS cũng tham gia vào quá trình tiếp nhận kiến thức, từ đó phát huy tính
tích cực của HS.

12


Góp phần phát triển tư duy liên hệ, liên tưởng ở HS, tạo cho HS một thói
quen trong tư duy, lập luận tức là khi xem xét một vấn đề phải đặt chúng trong một
hệ quy chiếu, từ đó mới có thể nhận thức vấn đề một cách thấu đáo.
Giúp HS hứng thú học tập, từ đó khắc sâu được kiến thức đã học do việc dạy
học tích hợp liên môn có tính thực tiễn.
Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa: bằng cách gắn học tập với cuộc sống
hàng ngày, trong quan hệ với các tình huống cụ thể mà HS sẽ gặp sau này, hòa
nhập thế giới học đường với thế giới cuộc sống.
Dạy cho HS sử dụng kiến thức trong tình huống cụ thể: thay vì tham nhồi
nhét cho HS nhiều kiến thức lí thuyết đủ loại, dạy học tích hợp chú trọng tập dượt
cho HS vận dụng các kiến thức kĩ năng học được vào các tình huống thực tế, có ích
cho cuộc sống sau này làm công dân, làm người lao động, có năng lực sống tự lập.
Xác lập mối quan hệ giữa các khái niệm đã học: trong quá trình học tập, HS
có thể lần lượt học những môn học khác nhau, những phần khác nhau trong mỗi
môn học nhưng phải biết đặt các khái niệm đã học trong những mối quan hệ hệ
thống, trong phạm vi từng môn học cũng như giữa các môn học khác nhau. Thông
tin càng đa dạng, phong phú thì tính hệ thống phải càng cao, có như vậy thì các em
mới thực sự làm chủ được kiến thức và mới vận dụng được kiến thức đã học khi
phải đương đầu với một tình huống thách thức, bất ngờ, chưa từng gặp.
Phân biệt cái cốt yếu với cái ít quan trọng hơn: cái cốt yếu là những năng lực
cơ bản cần cho HS vận dụng vào xử lí những tình huống có ý nghĩa trong cuộc
sống, hoặc đặt cơ sở không thể thiếu cho quá trình học tập tiếp theo.

3. Quy trình tổ chức dạy học tích hợp liên môn
a) Thiết kế giáo án vận dụng kiến thức liên môn
- Các bước để soạn một giáo án theo chủ đề tích hợp liên môn…….
- Giáo án vận dụng kiến thức liên môn không phải là một bản đề cương kiến
thức để giáo viên lên lớp giảng giải, truyền thụ áp đặt cho học sinh, mà là một bản
thiết kế các hoạt động, thao tác nhằm tổ chức cho HS thực hiện trong giờ lên lớp
để lĩnh hội tri thức, phát triển năng lực và nhân cách theo mục đích giáo dục và
giáo dưỡng của bộ môn. Đó là bản thiết kế gồm hai phần hợp thành hữu cơ: Một

13


là, hệ thống các tình huống dạy học được đặt ra từ nội dung khách quan của bài
dạy, phù hợp với tính chất và trình độ tiếp nhận của học sinh. Hai là, một hệ thống
các hoạt động, thao tác tương ứng với các tình huống trên do giáo viên sắp xếp, tổ
chức hợp lí nhằm hướng dẫn HS từng bước tiếp cận, chiếm lĩnh bài học một cách
tích cực và sáng tạo.
- Thiết kế giáo án vận dụng kiến thức liên môn phải bám chặt vào những
kiến thức các bộ môn có liên quan.
- Thiết kế giáo án vận dụng kiến thức liên môn phải bảo đảm nội dung và
cấu trúc đặc thù nhưng không gò ép vào một khuôn mẫu cứng nhắc mà cần tạo ra
những chân trời mở ra sự tìm tòi sáng tạo trong các phương án tiếp nhận của học
sinh, trên cơ sở bảo đảm được chủ đích, yêu cầu chung của giờ học.
- Nội dung dạy học của giáo án vận dụng kiến thức liên môn phải làm rõ
những tri thức và kĩ năng cần hình thành, tích luỹ cho HS qua phân tích, chiếm lĩnh
kiến thức; mặt khác, phải chú trọng nội dung tích hợp giữa tri thức bộ môn mình
dạy với các bộ môn khác.
- Giáo án vận dụng kiến thức liên môn theo quan điểm tích hợp phải chú
trọng thiết kế các tình huống tích hợp và tương ứng là các hoạt động phức hợp để
học sinh vận dụng phối hợp các tri thức và kĩ năng của các phân môn vào xử lí các

tình huống đặt ra, qua đó chẳng những lĩnh hội được những tri thức và kĩ năng
riêng rẽ của từng phân môn mà còn chiếm lĩnh tri thức và phát triển năng lực tích
hợp.
b) Tổ chức giờ dạy vận dụng kiến thức liên môn
- Tổ chức giờ học trên lớp là tiến trình thực thi bản kế hoạch phối hợp hữu
cơ hoạt động của giáo viên và học sinh theo một cơ cấu sư phạm hợp lí, khoa học,
trong đó giáo viên giữ vai trò, chức năng tổ chức, hướng dẫn, định hướng chứ
không phải truyền thụ áp đặt một chiều, học sinh được đặt vào vị trí trung tâm của
quá trình tiếp nhận, đóng vai trò chủ thể cảm thụ, nhận thức thẩm mĩ, trực tiếp tiến
hành hoạt động tiếp cận, khám phá, chiếm lĩnh kiến thức.
- Tổ chức hoạt động đọc hiểu vận dụng kiến thức liên môn trên lớp, giáo
viên phải chú trọng mối quan hệ giữa học sinh và nội dung dạy học, phải coi đây

14


là mối quan hệ cơ bản, quan trọng nhất trong cơ chế giờ học. Muốn vậy, giáo
viên phải từ bỏ vai trò, chức năng truyền thống là truyền đạt kiến thức có sẵn cho
học sinh, còn học sinh không thể duy trì thói quen nghe giảng, ghi chép, học thuộc,
rồi “làm bài” theo lối tái hiện, sao chép, làm thui chột dần năng lực tư duy sáng
tạo, khả năng tự đọc, tự tìm tòi, xử lí thông tin, tổ chức các kiến thức một cách
sáng tạo.
- Tổ chức chủ đề tích hợp liên môn tuyệt đối không cho học sinh biết trước
hệ thống câu hỏi và nội dung kiến thức mà chúng ta chỉ thông báo chủ đề dạy học
để các em tự tìm tòi, khám phá nội dung liên quan.
II. Cơ sở thực tiễn (thực trạng của vấn đề - giải pháp cũ thường làm)
Với “quan niệm” GDCD là môn phụ nên GVcũng không đầu tư nhiều trong
khâu tìm kiếm tư liệu, xây dựng tiến trình bài dạy với những phương pháp dạy học,
kĩ thuật dạy học tích cực. Nội dung của giáo án được GV trích dẫn hay giảng giải
từ nội dung của SGK, khi lên lớp GV cứ việc tuân theo giáo án mà thực hiện từ

đầu đến kết thúc.
Thông thường giáo án soạn theo phương pháp cũ được GV xây dựng theo
cấu trúc của một giờ học gồm các bước như sau:
- Kiểm tra bài cũ.
- Giới thiệu bài mới.
- Dạy bài mới.
- Luyện tập, củng cố kiến thức hình thành ở HS.
- Hướng dẫn HS làm việc ở nhà.
Cấu trúc một bài soạn GDCD theo phương pháp truyền thống ở trên cho
thấy sự sắp xếp một cách công thức, cứng nhắc, chi tiết, đầy đủ những việc làm
của GV và HS theo một trình tự nhất định.
* Các phương pháp GV thường sử dụng trong bài dạy GDCD là:
1.1. Phương pháp thuyết trình nêu vấn đề
- Là phương pháp để trình bày, giải thích nội dung bài học một cách chi tiết,
dễ hiểu cho HS tiếp thu. Đối với HS qua nghe giảng giải nhanh chóng hiểu được

15


vấn đề và học được PP trình bày vấn đề học tập một cách có hệ thống. GV thường
sử dụng PP này khi tiến hành nội dung các kiến thức cần nhớ trong bài học, thể
hiện mối liên hệ kiến thức trong một phần hoặc toàn bộ chương trình.
- Tuy nhiên, đây là phương pháp độc thoại, HS rơi vào tình trạng thụ động,
phải cố gắng nghe để hiểu, ghi nhớ và không có cơ hội trình bày ý kiến riêng của
mình dẫn đến thói quen thụ động chờ đợi ý kiến giải thích của GV.
1.2. Làm việc với sách giáo khoa
- Ưu điểm: HS làm việc một cách độc lập, tích cực, tạo không khí sôi nổi
trong học tập và phát huy năng lực tư duy của HS.
- Nhược điểm: Kiến thức trong sách giáo khoa chỉ hạn chế trong lượng kiến
thức của môn học, chưa đề cập được hết tất cả các kiến thức, tình huống mà HS sẽ

gặp trong cuộc sống.
1.3. Phương pháp đàm thoại (vấn đáp)
- Phương pháp đàm thoại (vấn đáp) là phương pháp GV đặt ra những câu hỏi
để HS trả lời nhằm gợi mở cho HS sáng tỏ những vấn đề mới; tự khai phá những
tri thức mới bằng sự tái hiện những tài liệu đã học hoặc từ những kinh nghiệm đã
tích lũy được trong cuộc sống, nhằm giúp HS củng cố, mở rộng, đào sâu, tổng kết,
hệ thống hóa những tri thức đã tiếp thu được và nhằm mục đích kiểm tra, đánh giá
và giúp HS tự kiểm tra việc lĩnh hội tri thức.
- Ưu điểm: Nếu vận dụng khéo léo phương pháp vấn đáp sẽ có tác dụng:
+ Điều khiển có hiệu quả hoạt động tư duy của HS, kích thích tính tích cực
hoạt động nhận thức của họ.
+ Bồi dưỡng cho HS năng lực diễn đạt bằng lời những vấn đề khoa học một
cách chính xác, đầy đủ, xúc tích.
+ Giúp GV thu được tín hiệu ngược từ HS một cách nhanh, gọn, để kịp điều
chỉnh hoạt động của mình và của HS. Đồng thời qua đó HS cũng thu được tín hiệu
ngược để kịp thời điều chỉnh hoạt động nhận thức - học tập của mình. Đồng thời,
thông qua đó, GV có khả năng chỉ đạo hoạt động nhận thức của cả lớp và của từng
HS.

16


- Nhược điểm: Nếu vận dụng không khéo sẽ dễ làm mất thời gian, ảnh
hưởng đến kế hoạch lên lớp, biến vấn đáp thành cuộc đối thoại giữa GV và một vài
HS, không thu hút toàn lớp tham gia vào hoạt động chung. Nếu câu hỏi đặt ra chỉ
đòi hỏi nhớ lại tri thức một cách máy móc thì sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển
tư duy lôgic, tư duy sáng tạo của HS.
Mục đích của bài soạn này là làm sao truyền thụ được nội dung thông tin
định sẵn theo ý muốn chủ quan của giáo viên. Để đạt được mục đích đó, giáo viên
sắp xếp một cách lôgic kết cấu bài soạn sao cho thích hợp với nội dung cần truyền

đạt. Nội dung cần truyền đạt này chỉ căn cứ vào nội dung bài học trong SGK. Như
vậy, lôgic của bài soạn chỉ dựa vào SGK và lập luận của người trình bày mà không
tính đến khả năng tiếp nhận kiến thức của học sinh vốn là nhân vật trung tâm của
hoạt động dạy - học.
Hiện nay, việc thực hiện chương trình và SGK mới đã góp phần tích cực vào
việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa HS. SGK đã được thiết
kế cho GV dễ dàng tổ chức các hoạt động học tập. Các tình huống có vấn đề, các
câu hỏi tìm tòi cũng được đặt ra, mặc dù chưa nhiều nhưng đã mang tính gợi ý
giúp cho GV định hướng phương pháp. Bài 13: Công dân với cộng đồng, phần
phạm trù “hòa nhập”, “hợp tác” cũng được SGK xây dựng trên tinh thần đó. Khi
dự giờ một số GV, tôi thấy phương pháp chủ đạo của đa số GV khi dạy hai phạm
trù này là nêu vấn đề, thuyết trình kết hợp với đàm thoại để làm rõ từng vấn đề,
cuối cùng là làm bài tập củng cố. Phương pháp dạy học trên về ưu điểm đã tạo
được sự hứng thú cho HS khi bắt đầu bài học bằng cách nêu vấn đề. HS được GV
giảng giải kĩ lưỡng từng vấn đề cùng với một số câu hỏi phát vấn cũng phần nào
phát huy được tính tích cực của các em trong hoạt động học tập. HS nắm được một
số kiến thức cơ bản của bài. Tuy nhiên, với bài học trên, ta hoàn toàn có thể sử
dụng thêm các phương pháp dạy học khác để phát huy tính chủ động, tích cực cũng
như sự hứng thú đối với môn học, giảm bớt sự căng thẳng cho HS theo định hướng
phát triển năng lực học sinh.
Sau đây, tôi xin đề xuất một phương án như sau:
III. Đề xuất giải pháp giải quyết vấn đề ( giải pháp mới cải tiến)

17


Phương án dạy học phạm trù “hòa nhập” và “hợp tác” – bài 13: “Công dân
với cộng đồng” – GDCD 10.
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN: ĐỊA LÍ, LỊCH SỬ, SINH HỌC,
HÓA HỌC,TIẾNG ANH, HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC

HỒ CHÍ MINH VÀO GIẢNG DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10
BÀI 13: CÔNG DÂN VỚI CỘNG ĐỒNG (Tiết 2 – Từ phần b mục 2 đến hết bài)
I. MỤC TIÊU DẠY HỌC:

1. Môn GDCD
Bài 13: Công dân với cộng đồng (tiết 2 )

- GDCD 10 -

a) Kiến thức
- Nêu được thế nào là hòa nhập, hợp tác.
- Hiểu được hòa nhập, hợp tác là những yêu cầu đạo đức của người công dân hiện
nay trong mối quan hệ với cộng đồng nơi ở và lớp học, trường học.
b) Kĩ năng
Biết sống hòa nhập, hợp tác với mọi người xung quanh.
c) Thái độ
- Yêu quý, gắn bó với lớp, với trường và cộng đồng nơi ở.
- Cởi mở, chan hoà với thầy cô, bạn bè, có ý thức tham gia các hoạt động chung
của tập thể, của cộng đồng, địa phương nơi mình sinh sống.
2. Môn Địa lí
Bài 17: Hiệp hội các nước Đông Nam Á

- ĐỊA LÍ 8-

Nhớ được sự ra đời, mục tiêu hoạt động và thành tích đạt được trong kinh tế để tìm
hiểu phần hợp tác.
3. Môn Lịch sử
Bài 29: Cả nước trực tiếp chống Mĩ, cứu nước (1965 – 1973)

- LỊCH SỬ 9


Mô tả được một số sự kiện của lịch sử Việt Nam những năm 1968 - 1973 để giải
quyết câu hỏi phần “hợp tác”.
4. Môn Sinh học
Bài 65: Đại dịch AIDS – Thảm họa của loài người

18

- SINH HỌC 8 -


Nhớ được phương thức lây truyền HIV/AIDS để giải quyết tình huống phần “hòa
nhập”.
5. Môn Tiếng anh
- Môn Tiếng anh
Bài 12: Sports and pastimes

- TIẾNG ANH 6-

HS nhớ được một số từ vựng liên quan đến các môn thể thao để giải quyết nhiệm
vụ phần “hợp tác”.
6. Môn hóa học
Bài 18: Nhôm

- HÓA HỌC 9-

HS nhớ được kí hiệu hóa học, nguyên tử khối, tính chất vật lí của nhôm.
Bài 19: Sắt

- HÓA HỌC 9-


HS nhớ được kí hiệu hóa học, nguyên tử khối, tính chất vật lí của sắt.
7. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Thông qua những câu chuyện về nếp sống của Bác, HS học tập và làm theo lối
sống hòa nhập với cộng đồng của Bác.
II. CÁC NĂNG LỰC HƯỚNG TỚI HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN Ở HS:
- NL tự học.
- NL giải quyết vấn đề.
- NL hợp tác.
- NL tự nhận thức và điều chỉnh hành vi phù hợp chuẩn mực đạo đức xã hội.
III. PP/KTDH TÍCH CỰC CÓ THỂ SỬ DỤNG:
- Thảo luận lớp/nhóm.
- Xử lý tình huống.
- Giao nhiệm vụ.
- Kể chuyện.
IV. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC:
- SGK, Sách giáo viên GDCD lớp 10.
- SGK các bộ môn có liên quan: Địa lí; Hóa học; Sinh học; Tiếng anh; Lịch sử.
- Tài liệu về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Máy chiếu, bảng phụ, bút dạ.

19


V. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức:
2. Kiểm tra bài cũ: (Kết hợp trong bài mới).
3. Giới thiệu bài mới:
Mỗi cộng đồng đều có những chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử riêng mà mỗi cá

nhân sống trong đó phải có nghĩa vụ tuân thủ. Đối với tập thể lớp học, nhà trường
và cộng đồng dân cư nơi cư trú, hòa nhập và hợp tác là những chuẩn mực đạo đức
quan trọng nhất mà công dân hiện nay cần phải có. Bài học ngày hôm nay chúng ta
cùng nhau đi tìm hiểu thế nào là hòa nhập, hợp tác.
4. Học bài mới
Hoạt động của GV và HS
Hoạt động 1: Thảo luận, đàm thoại, kể

Nội dung bài học
1. Cộng đồng và vai trò của

chuyện tìm hiểu thế nào hòa nhập, biểu

cộng đồng đối với cuộc sống

hiện của sống hòa nhập.

của con người

- Mục tiêu:

2. Trách nhiệm của công dân

Nêu được thế nào là hòa nhập.

đối với cộng đồng

Nêu được các biểu hiện đặc trưng của hòa

a) Nhân nghĩa


nhập.

b) Hòa nhập

- Cách tiến hành:

- Khái niệm: Sống hòa nhập là

+ GV cho tình huống (chiếu trên màn hình)

sống gần gũi, chan hòa, không

Tình huống: Lan là một HS lớp 8, thật không xa lánh mọi người; không gây
may Lan bị nhiễm HIV. Mỗi lần đến trường là mâu thuẫn, bất hòa với người
Lan lại thấy tự ti, mặc cảm về bản thân. Lan khác; có ý thức tham gia các
sống khép mình, chưa bao giờ niềm vui hiện hoạt động chung của cộng đồng.
hữu trên gương mặt. Các bạn thì không dám - Ý nghĩa: giúp con người có
nói chuyện với Lan, không dám đến gần Lan thêm niềm vui và sức mạnh vượt
vì sợ sẽ lây nhiễm. Đã nhiều lần, Lan muốn qua khó khăn trong cuộc sống.
tìm đến cái chết để giải thoát cho cuộc sống - Biểu hiện sống hòa nhập:
đơn độc, khổ đau của mình nhưng đều được + Tôn trọng, đoàn kết, quan tâm,
người thân phát hiện kịp thời.

gần gũi, vui vẻ, cởi mở, chan

20


GV chia lớp thành 4 nhóm, thảo luận các câu hòa; không xa lánh, bè phái, gây

hỏi sau:

mâu thuẫn, mất đoàn kết.

Nhóm 1: Dựa vào các phương thức lây truyền + Tích cực tham gia các hoạt
HIV/AIDS, theo em việc các bạn không dám động tập thể, hoạt động xã hội;
nói chuyện với Lan, không dám đến gần Lan đồng thời vận động bạn bè và
vì sợ lây nhiễm HIV có đúng không?

mọi người cùng tham gia.

HS vận dụng kiến thức môn Sinh học về các

c) Hợp tác

phương thức lây truyền HIV/AIDS để giải - Khái niệm: Hợp tác là cùng
thích việc một người nói chuyện, đến gần chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ
người bị nhiễm HIV/AIDS thì có bị nhiễm trợ lẫn nhau trong một công
HIV/AIDS không?

việc, một lĩnh vực nào đó vì mục

Nhóm 2: Nếu em là bạn cùng lớp với Lan, em đích chung.
sẽ làm gì để Lan và các bạn trong lớp có thể - Biểu hiện của hợp tác
hòa nhập với nhau? Từ đó, em hiểu thế nào là + Cùng bàn bạc.
sống hòa nhập?

+ Phối hợp nhịp nhàng.

Nhóm 3: Từ việc Lan mặc cảm, tự ti, sống thu + Biết về nhiệm vụ của nhau.

mình, nhiều lần muốn tìm đến cái chết do + Sẵn sàng giúp đỡ, hỗ trợ nhau.
không hòa nhập được với các bạn, em hiểu - Nguyên tắc của hợp tác
sống hòa nhập có ý nghĩa như thế nào đối với + Tự nguyện, bình đẳng
con người?

+ Các bên đều có lợi

Nhóm 4: Thanh niên HS cần phải làm gì để có + Không làm phương hại đến
thể sống hòa nhập với tập thể lớp học, trường lợi ích của người khác
học, với cộng đồng nơi ở?

- Cấp độ - mức độ của hợp tác

GV chiếu lên màn hình cho HS xem một số + Hợp tác song phương hoặc đa
hình ảnh về sống hòa nhập.

phương.

* Lồng ghép nội dung học tập và làm theo + Hợp tác về từng lĩnh vực, từng
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

hoạt động hoặc hợp tác toàn diện

Kể cho HS nghe một mẩu chuyện ngắn về lối về tất cả các mặt, các lĩnh vực.
sống hòa nhập của Bác Hồ: “Hỡi ai bưng bát + Hợp tác giữa các cá nhân, giữa
cơm đầy”

các nhóm, giữa các cộng đồng,
21



Sau đó GV đặt câu hỏi:

giữa các dân tộc hoặc giữa các

? Thông qua câu chuyện, em thấy được gì ở quốc gia.
lối sống của Bác? Em đã học được điều gì từ * Bài học rút ra cho bản thân
câu chuyện của Bác?

Rèn luyện tinh thần hợp tác với

- Kết luận: GV định hướng HS

bạn bè và mọi người trong các

+ Nhóm 1

hoạt động học tập, lao động,

HIV/AIDS lây truyền qua 3 con đường:

hoạt động tập thể và hoạt động

Một là, qua quan hệ tình dục không an toàn

xã hội.

Virus HIV có rất nhiều trong máu, trong các
chất dịch sinh dục. Do vậy, virus có thể xâm
nhập vào máu bạn tình qua cơ quan sinh dục.

Việc sinh hoạt tình dục, dù có giao hợp hay
chỉ tiếp xúc cơ quan sinh dục, đều dẫn đến
nguy cơ lây nhiễm.
Hai là, qua đường máu
HIV có nhiều ở trong máu. Do đó nếu nhận
máu của người nhiễm HIV thì chắc chắn bị
lây nhiễm.
Ba là, qua nhau thai (từ mẹ truyền sang con)
HIV có thể lây sang bé qua nhau thai khi bé ở
trong bụng mẹ, qua máu và chất dịch của mẹ
khi sinh, hoặc qua sữa mẹ khi mẹ cho con bú.
Ngoài những con đường trên, từ trước tới nay
chưa có trường hợp nhiễm HIV nào được xác
định lây qua đường khác.
HIV không lây truyền qua các kiểu tiếp xúc
thông thường như cùng ăn uống, mặc chung
quần áo, ôm ấp, bơi chung bể bơi, ở cùng nhà,
ngủ chung giường, làm việc cùng cơ quan,
dùng chung nhà vệ sinh, cắt tóc…
22


Như vậy, việc các bạn không dám nói chuyện
với Lan, không dám đến gần Lan vì sợ lây
nhiễm HIV là không đúng.
+ Nhóm 2
Chỉ ra cho các bạn cùng lớp biết HIV không
lây qua các tiếp xúc thông thường dựa vào
kiến thức Sinh học.
Bản thân mình sẽ động viên Lan, trò chuyện

với Lan giúp Lan bớt mặc cảm, tự ti. Việc nói
chuyện với Lan sẽ giúp các bạn khác thấy
HIV không nguy hiểm tới chúng ta nếu như
chúng ta nhận thức rõ về nó.
Cùng các bạn trong lớp tổ chức các hoạt động
tập thể có Lan tham gia, giúp đỡ Lan trong
học tập và cuộc sống để Lan cảm thấy mình
không đơn độc, không mặc cảm với bản thân.
+ Nhóm 3
Sống hòa nhập giúp chúng ta có được những
mối quan hệ tốt đẹp, có thêm nhiều niềm vui
và sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn trong
cuộc sống. Ngược lại, người sống không hòa
nhập sẽ cảm thấy đơn độc, buồn tẻ, cuộc sống
kém ý nghĩa.
+ Nhóm 4
Để hòa nhập với tập thể lớp học, trường học,
cộng đồng nơi ở, thì thanh niên học sinh
chúng ta cần:
Tôn trọng, đoàn kết, quan tâm, gần gũi, vui
vẻ, cởi mở, chan hòa với thầy cô giáo, bạn bè
và những người xung quanh; không xa lánh,
23


bè phái, gây mâu thuẫn, mất đoàn kết với
người khác.
Tích cực tham gia các hoạt động tập thể, hoạt
động xã hội do nhà trường, địa phương tổ
chức; đồng thời vận động bạn bè và mọi

người cùng tham gia.
+ Thông qua câu chuyện về Bác, HS thấy
được mặc dù là vị lãnh tụ tối cao của dân tộc,
bận chăm công nghìn việc nhưng Người vẫn
rất gần gũi, quan tâm, chan hòa với tầng lớp
quần chúng, không vì địa vị mà tự cao, xa rời
quần chúng. Chính nhờ đi theo đường lối
quần chúng đúng đắn, coi sự nghiệp cách
mạng là của quần chúng mà mới có được
chiến thắng của dân tộc ta.
Từ đó, giáo dục các em phải biết sống hòa
nhập, trong lớp phải đoàn kết, không chia bè
phái, không phân biệt giàu - nghèo, các bạn
học giỏi không được tự cao, coi thường các
bạn học yếu, mà phải quan tâm, giúp đỡ để
các bạn tiến bộ. Có như vậy lớp mới đi lên,
đạt nhiều thành tích. Trong cuộc sống hàng
ngày, cần phải vui vẻ, cởi mở, quan tâm giúp
đỡ mọi người xung quanh, không sống theo
kiểu “đèn nhà ai nhà nấy rạng”.
* Hoạt động 2: Thảo luận, đàm thoại tìm
hiểu thế nào là hợp tác.
- Mục tiêu: HS nêu được khái niệm hợp tác
- Cách tiến hành:
GV: Chia lớp làm 4 nhóm:
24


Nhóm 1, 2: Chiếu một số hình ảnh liên quan
đến chiến thắng Điện Biên Phủ trên không.

Sau đó đặt câu hỏi:
? Những hình ảnh trên gợi cho em nhớ tới
chiến thắng hào hùng nào của quân và dân ta?
? Theo em, yếu tố nào làm nên chiến thắng
lừng lẫy của “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên
không” năm 1972?
Nhóm 3,4: Chiếu một số hình ảnh về tổ chức
ASEAN.
Sau đó đặt câu hỏi:
? Em hãy cho biết nguyên tắc hoạt động của
ASEAN?
? Những thành tựu mà ASEAN đã đạt được?
HS vận dụng kiến thức Lịch sử, Địa lí đã
học để trả lời câu hỏi.
- Kết luận: GV định hướng HS:
Nhóm 1, 2: Trước hết, chúng ta đã phát huy
sức mạnh truyền thống cả nước đồng lòng,
toàn dân đánh giặc; chủ động xây dựng thế
trận phòng không nhân dân, nghiên cứu đề
xuất kịp thời cách đánh B-52.
Hai là, tổ chức hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ
giữa các lực lượng; kết hợp vũ khí tương đối
hiện đại và hiện đại, đánh địch bằng nhiều
mưu kế sáng tạo.
Ba là, chúng ta đã kết hợp đúng đắn sức mạnh
của dân tộc với sức mạnh của thời đại; giữa
đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị,
ngoại giao.
25



×