1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là chính sách xã hội cơ bản và là trụ cột chính trong
hệ thống chính sách an sinh xã hội (ASXH) của mỗi quốc gia. Chính sách BHXH
thể hiện bản chất nhân văn sâu sắc và mục tiêu chủ yếu của nó là đảm bảo nhu cầu
thiết yếu và điều kiện cơ bản của đời sống con người, mà trước hết là người lao
động và gia đình họ, tạo cho xã hội an toàn, ổn định và phát triển bền vững. Tham
gia BHXH là một trong những quyền cơ bản của con người, cho nên trong bản
Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên Hợp Quốc (10/12/1948) đã ghi: “Tất cả mọi
người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó được
đặt cơ sở trên sự thỏa mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa, nhu cầu cho
nhân cách và sự tự do phát triển con người” [47, tr.35]. Chính vì vậy, việc hoàn
thiện và tổ chức thực hiện tốt chính sách BHXH luôn là động lực to lớn phát huy
tiềm năng sáng tạo của người lao động trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, đồng thời góp phần đảm bảo ASXH.
Ở Việt Nam, BHXH xuất hiện từ những năm 1930 của thế kỷ XX. Khi đó,
thực dân Pháp đã thực hiện một số chế độ BHXH như: Hưu trí, ốm đau hoặc chết
cho những người Việt Nam làm việc trong bộ máy cai trị của Chính phủ Pháp.
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, Chính phủ đã quan
tâm đến chính sách BHXH và ban hành nhiều văn bản pháp quy về BHXH. Cụ thể,
Sắc lệnh 54/SL ngày 03/11/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh quy định một số điều
kiện cho công chức nghỉ hưu [24] và Sắc lệnh 105/SL ngày 14/6/1946 quy định việc
cấp hưu bổng cho công chức [25]. Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 quy định các chế
độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí, tử tuất đối với công nhân [26]. Sắc
lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ngoài chế độ trợ cấp hưu trí đã quy định cụ thể hơn chế
độ thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn lao động và chế độ tử tuất đối với công chức [27].
Sau khi hòa bình lập lại ở Miền Bắc, Chính phủ đã ban hành Nghị định
218/CP ngày 27/12/1961 quy định về các chế độ BHXH cho công nhân viên chức
[36]. Đây là văn bản pháp luật về BHXH khá hoàn chỉnh lần đầu tiên được ban
hành ở nước ta.
2
Sau Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền kinh tế nước ta chuyển đổi
từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Để phù hợp với cơ
chế quản lý mới, chính sách BHXH được Đảng và Nhà nước ta tiếp tục sửa đổi, bổ
sung và ngày 22/6/1993 Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP quy định tạm thời
về các chế độ BHXH áp dụng cho các thành phần kinh tế [19], đánh dấu bước đổi
mới của BHXH Việt Nam.
Tiếp theo, để cụ thể hóa các quy định của Bộ luật Lao động được Quốc hội
thông qua ngày 23/6/1994 [51], Chính phủ ban hành Điều lệ BHXH Việt Nam kèm
theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 [20] và Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995
về việc thành lập hệ thống BHXH Việt Nam [21]. Có thể nói, chính sách BHXH
Việt Nam lúc này đã thực sự đổi mới cả về nội dung cũng như cách thức tổ chức
thực hiện.
Tuy nhiên, các văn bản pháp quy trên mới dừng lại ở các Nghị định và Thông
tư hướng dẫn thực hiện, nên tính pháp lý chưa cao, chế tài tổ chức thực hiện chưa
đủ mạnh. Để tiếp tục đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 29/6/2006 Quốc hội
đã thông qua Luật BHXH [53], Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007,
riêng đối với BHXH tự nguyện thực hiện từ ngày 01/01/2008.
Để cụ thể hóa Luật BHXH, Chính phủ ban hành Nghị định số
190/2007/NĐ-CP ngày 28/12/2007 hướng dẫn một số điều trong Luật BHXH về
BHXH tự nguyện [22] và Thông tư số 02/2008/TT-BLĐTBXH ngày 31/01/2008
của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn một số điều về BHXH tự
nguyện [16]. Như vậy, BHXH tự nguyện ở Việt Nam đã có hành lang pháp lý
vững chắc để tổ chức triển khai.
Theo Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai
đoạn 2012-2020 đã đề ra mục tiêu: “Nghiên cứu xây dựng chính sách khuyến khích
nông dân, lao động trong khu vực phi chính thức (PCT) tham gia BHXH tự
nguyện….Phấn đấu đến năm 2020 có khoảng 50% lực lượng lao động (LLLĐ)
3
tham gia BHXH, trong đó đối tượng tham gia BHXH tự nguyện đến năm 2015 ước
đạt 700 nghìn người, năm 2020 đạt 3 triệu người” [2].
Tuy nhiên, sau 7 năm tổ chức triển khai chính sách BHXH tự nguyện ở nước
ta kết quả đạt được còn rất khiêm tốn. Tính đến hết năm 2014 mới chỉ có 196.254
người tham gia (chiếm xấp xỉ 0,36% tổng số lao động) [15]. Trong số đó, chủ yếu là
những người đã tham gia BHXH bắt buộc và BHXH nông dân ở Nghệ An chuyển
sang, còn số người tham gia ngay từ đầu là rất thấp.
Vậy nguyên nhân nào mà chính sách BHXH tự nguyện chưa đi vào cuộc
sống? Xuất phát từ thực tế nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Tổ chức triển khai bảo
hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam ” làm luận án tiến sĩ kinh tế nhằm góp phần giải
quyết những vấn đề còn bất cập cả về chính sách và tổ chức triển khai chính sách
BHXH tự nguyện.
2. Tổng quan nghiên cứu về tổ chức triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
2.1.1. Các công trình khoa học có liên quan trước khi ban hành Luật Bảo
hiểm xã hội
Với sự hiểu biết và nỗ lực tra cứu của tác giả, liên quan đến chủ đề về tổ chức
triển khai BHXH tự nguyện ở Việt Nam, có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài
viết đã đề cập, nhưng ở những giác độ và mục tiêu khác nhau, cụ thể:
(1) Nghiên cứu về BHXH tự nguyện của cơ quan BHXH tỉnh Nghệ An
(2001), với đề tài: “Các giải pháp thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện đối với lao
động thuộc khu vực nông, ngư và diêm nghiệp” do Trần Quốc Toàn làm chủ nhiệm
[65]. Đề tài đã đề cập một số nét khái quát về BHXH tự nguyện, phân tích các nhân
tố ảnh hưởng tới việc thực hiện BHXH tự nguyện, khả năng tham gia, nhu cầu tham
gia BHXH tự nguyện, những vấn đề rút ra từ thực tế hoạt động của BHXH nông
dân Nghệ An, đề xuất các giải pháp, kiến nghị và các điều kiện thực thi giải pháp
thực hiện BHXH tự nguyện đối với người lao động thuộc khu vực nông, ngư và
diêm nghiệp. Đề tài dừng lại ở phạm vi cấp tỉnh và đối tượng là lao động thuộc khu
vực nông, ngư và diêm nghiệp, chưa mở rộng phạm vi và đối tượng nghiên cứu.
(2) Đề tài nghiên cứu khoa học của cơ quan BHXH Việt Nam (2002), với tiêu
đề: “Cơ sở lý luận cho việc định hướng thực hiện loại hình bảo hiểm xã hội tự
4
nguyện ở Việt Nam trong thời gian tới” do TS. Nguyễn Tiến Phú làm chủ nhiệm
[44]. Trong đó, đã đưa ra một số vấn đề lý luận chung đối với loại hình BHXH tự
nguyện ở Việt Nam, khảo sát nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện đối với người lao
động thuộc các đối tượng dự kiến sẽ tham gia loại hình bảo hiểm này, đánh giá thực
trạng một số mô hình BHXH tự nguyện trong thời gian qua và đưa ra một số quan
điểm, giải pháp và khuyến nghị cho việc định hướng thực hiện loại hình BHXH tự
nguyện ở Việt Nam trong thời gian tới. Đề tài dừng lại ở việc nghiên cứu về nhu
cầu tham gia BHXH tự nguyện, đưa ra những định hướng cho việc thực hiện BHXH
tự nguyện ở Việt Nam trong thời gian tới, chưa đề cập đến chính sách và các nhân
tố ảnh hưởng đến việc tham gia BHXH tự nguyện.
(3) Đề tài của Ban Thu BHXH thuộc cơ quan BHXH Việt Nam (2004), với tiêu
đề: “Cơ sở khoa học quản lý và tổ chức thu bảo hiểm xã hội tự nguyện” do Nguyễn
Anh Vũ làm chủ nhiệm [42]. Đề tài nêu lên những cơ sở khoa học để nghiên cứu tình
hình thu BHXH tự nguyện, phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến việc quản lý và
thực hiện thu BHXH tự nguyện, thực trạng tham gia BHXH tự nguyện qua việc thực
hiện thí điểm ở Việt Nam, qua đó xây dựng mô hình quản lý thu BHXH tự nguyện và
đưa ra các giải pháp tổ chức thực hiện thu BHXH tự nguyện có hiệu quả. Đề tài dừng
lại ở việc đưa ra mô hình quản lý thu BHXH tự nguyện, chưa đánh giá được nhu cầu
tham gia và những bất cập khi tổ chức triển khai.
(4) Trung tâm nghiên cứu khoa học BHXH thuộc cơ quan BHXH Việt Nam
(2004), đã nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã
hội đối với người lao động tự tạo việc làm” do TS. Bùi Văn Hồng làm chủ nhiệm
[17]. Đề tài đã đưa ra khái niệm và đặc điểm của lao động tự tạo việc làm, đánh giá
thực trạng lao động tự tạo việc làm ở nước ta. Đề xuất loại hình BHXH thích hợp,
chế độ trợ cấp, cơ chế đóng và hưởng cho các đối tượng này. Nghiên cứu dừng lại ở
việc đưa ra các đề xuất để mở rộng đối tượng tham gia BHXH đối với người lao
động tự tạo việc làm, chưa mở rộng cho lao động là nông dân, lao động tự do tham
gia, phương pháp nghiên cứu chủ yếu mang tính mô tả, phân tích thực trạng bằng
những số liệu thứ cấp.
(5) Đề tài của Trung tâm nghiên cứu khoa học BHXH thuộc cơ quan BHXH
Việt Nam (2004), với tiêu đề: “Nghiên cứu xây dựng lộ trình thực hiện bảo hiểm xã
5
hội đối với mọi người lao động ở Việt Nam” do TS. Nguyễn Tiến Phú làm chủ
nhiệm [45]. Đề tài căn cứ vào tình hình thực tế xây dựng lộ trình thực hiện BHXH
đối với mọi người lao động ở Việt Nam. Đánh giá thực trạng tình hình lao động,
việc làm và thực hiện BHXH ở nước ta trong thời gian qua, đề xuất lộ trình thực
hiện BHXH đối với mọi người lao động. Đề tài chưa đi sâu vào những vấn đề lý
luận mà chỉ dừng lại ở việc mô tả thực tế, sau đó đưa ra lộ trình thực hiện BHXH
nói chung ở Việt Nam.
(6) Năm 2005, cơ quan BHXH tỉnh Hải Dương đã tổ chức nghiên cứu đề
tài: “Tổ chức thực hiện bảo hiểm xã hội trong các làng nghề ở Hải Dương - Thực
trạng và giải pháp” do Trần Đình Liệu làm chủ nhiệm [63]. Đề tài đã phân tích
thực trạng các làng nghề truyền thống của tỉnh, tình hình thực hiện công tác thu,
cấp sổ BHXH, đề xuất và kiến nghị về việc thực hiện chế độ BHXH cho lao
động làm nghề tại các làng nghề truyền thống của tỉnh, trong đó có phân tích và
đưa ra các đề xuất, kiến nghị về cơ sở pháp lý, cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội và
phương án tổ chức thực hiện BHXH đối với các làng nghề truyền thống ở Hải
Dương. Tác giả đề tài cũng đề xuất về đối tượng tham gia, điều kiện đóng, phạm
vi áp dụng và mức đóng, phương thức đóng, quyền lợi và điều kiện hưởng,
phương thức quản lý và tăng trưởng quỹ, phương hướng xử lý rủi ro. Kế hoạch
triển khai với các bước gồm: Tổ chức tuyên truyền giáo dục, xây dựng hệ thống
văn bản hướng dẫn, xây dựng hệ thống đại lý, tổ chức hướng dẫn triển khai thực
tế tại địa phương, thực hiện các nghiệp vụ chuyên môn bảo đảm quyền lợi cho
người lao động. Như vậy, đề tài dừng lại ở việc nghiên cứu để tổ chức thực hiện
BHXH trong các làng nghề ở phạm vi cấp tỉnh, chưa mở rộng phạm vi và đối
tượng lao động khác tham gia, phương pháp nghiên cứu đơn giản, chủ yếu là mô
tả thực trạng bằng những số liệu thứ cấp.
Như vậy, tất cả các công trình nghiên cứu trên đều được tiến hành trước khi có
Luật BHXH và đương nhiên, khi đó chưa tổ chức triển khai BHXH tự nguyện mà
chỉ tổ chức thí điểm BHXH cho nông dân ở tỉnh Nghệ An. Các giải pháp của một số
đề tài thường chỉ tập trung nhấn mạnh sự cần thiết phải ban hành chính sách BHXH
tự nguyện ở Việt Nam.
6
2.1.2. Các công trình khoa học có liên quan sau khi ban hành Luật Bảo hiểm
xã hội
Sau khi Luật BHXH được ban hành, trong đó có BHXH tự nguyện đã có nhiều
công trình và bài viết liên quan đến vấn đề này, cụ thể:
(7) Bài viết của Đồng Quốc Đạt, với tiêu đề: “Bảo hiểm xã hội khu vực phi
chính thức ở Việt Nam: Thực trạng và kiến nghị”, đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự
báo số 15 (431) (8/2008) [32]. Nội dung bài viết chỉ ra những nguyên nhân vì sao ít
người tham gia: Do thu nhập thấp và không ổn định, việc làm bấp bênh, thiếu hiểu
biết và không có thông tin về chính sách, chế độ BHXH, từ đó đưa ra những giải
pháp: Hình thành quỹ BHXH tự nguyện và có sự bảo hộ của Nhà nước, cải cách thủ
tục thanh toán nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia, phối hợp Chương
trình BHXH với Chương trình mục tiêu khác như: Chương trình việc làm, giảm
nghèo, phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường thông tin tuyên truyền để nâng cao
nhận thức cho người lao động ở khu vực PCT thông qua các phương tiện thông tin
đại chúng. Bài viết này có nội dung khá sâu sắc, song do giới hạn trong phạm vi bài
báo nên chưa thực sự đề cập đến công tác tổ chức triển khai BHXH ở khu vực PCT
của Việt Nam. Theo Luật BHXH hiện hành các giải pháp đưa ra còn chung chung,
chưa có sức thuyết phục.
(8) Đề tài: “Đánh giá 3 năm triển khai thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội” do TS.
Đỗ Thị Xuân Phương làm chủ nhiệm (2010) [31]. Đề tài chỉ ra những bất cập về
chính sách và tổ chức thực hiện chính sách BHXH tự nguyện như: Điều kiện hưởng
chế độ hưu trí, tử tuất, chưa quy định về trích hoa hồng cho các đại lý thu, phương
thức đóng chưa linh hoạt... Do vậy, chính sách BHXH tự nguyện chưa thu hút được
nhiều người lao động tham gia. Nghiên cứu này mới dừng lại ở việc tổng kết, đánh
giá 3 năm triển khai thực hiện Luật BHXH nói chung. Những vấn đề về tổ chức
triển khai BHXH tự nguyện tuy có được đề cập song mới dừng lại ở việc đánh giá
ưu, nhược điểm và những vấn đề bất cập phát sinh.
(9) Bài viết của Mỹ Hoa, với tiêu đề: “Tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện:
Vì sao ít thu hút người dân tham gia”, đăng trên Báo Quảng Ngãi (10/2011) [41].
Nội dung bài viết nêu lên thực trạng tham gia BHXH tự nguyện của tỉnh trong thời
gian qua, chỉ ra những nguyên nhân vì sao ít thu hút người dân tham gia như: Công
7
tác thông tin tuyên truyền chưa sâu rộng, cơ chế chính sách chưa phù hợp, cần
thông thoáng hơn, tâm lý người dân “trẻ cậy cha, già cậy con”. Bài viết dừng lại
phạm vi cấp tỉnh và chỉ ra một vài nguyên nhân vì sao BHXH tự nguyện chưa thực
sự thu hút người dân Quảng Ngãi tham gia, chưa đưa ra những giải pháp và kiến
nghị để mở rộng đối tượng tham gia.
(10) Luận văn thạc sĩ Kinh tế: “Các giải pháp tăng cường bảo hiểm xã hội tự
nguyện cho nông dân ở tỉnh Quảng Nam” của Phạm Ngọc Hà (2011) [49]. Đề tài
nêu lên cơ sở lý luận về BHXH tự nguyện cho nông dân, đánh giá thực trạng BHXH
tự nguyện cho nông dân tỉnh Quảng Nam về nhu cầu tham gia, công tác quản lý đối
tượng, tổ chức thu phí, các chế độ mà nông dân mong muốn, công tác kiểm tra và
mạng lưới làm công tác BHXH, chỉ ra những tồn tại, nguyên nhân. Từ đó đề xuất
những giải pháp cơ bản về hoàn thiện cơ chế chính sách, tổ chức thực hiện và điều
kiện thực thi giải pháp. Đề tài nghiên cứu ở phạm vi cấp tỉnh và đối tượng tham gia
BHXH tự nguyện chỉ là nông dân, chưa đề cập đến các đối tượng khác như lao động
tự do, lâm nghiệp, ngư nghiệp... Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phân tích
những số liệu thứ cấp.
(11) Đề tài: “Cơ sở khoa học hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện
ở Việt Nam” do Ths. Lê Thị Quế làm chủ nhiệm (2012) [40]. Đề tài đánh giá thực
trạng chính sách BHXH tự nguyện, chỉ ra những bất cập về cơ chế chính sách của
loại hình bảo hiểm này, nêu lên những bài học kinh nghiệm về chính sách BHXH tự
nguyện hiện nay ở các nước trên thế giới như Pháp, các nước Đông Âu, Trung
Quốc, Indonesia. Từ đó đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện chính
sách BHXH tự nguyện giai đoạn 2010- 2020. Nghiên cứu mới dừng lại ở việc đánh
giá thực trạng chính sách BHXH tự nguyện, phương pháp nghiên cứu chủ yếu là
thống kê, mô tả bằng những số liệu thứ cấp, chưa điều tra, khảo sát thực tế.
(12) Bài viết của Ths. Nguyễn Bích Ngọc, với tiêu đề: “Một số kinh nghiệm
của Trung Quốc đối với vấn đề bảo hiểm xã hội ở khu vực phi chính thức”, đăng
trên Thông tin khoa học BHXH số 04/2012 [43]. Bài viết nêu lên các chế độ BHXH
ở khu vực PCT của Trung Quốc đang áp dụng đó là: Bảo hiểm tuổi già cơ bản, bảo
8
hiểm y tế cơ bản, bảo hiểm tai nạn lao động. Từ đó đưa ra bài học kinh nghiệm của
Trung Quốc cho Việt Nam khi triển khai BHXH ở khu vực PCT.
(13) Bài viết của Hoàng Bá, với tiêu đề: “Bảo hiểm xã hội tự nguyện: Người
dân chưa mặn mà”, đăng trên Thời báo Ngân hàng (5/2013) [35]. Trong đó, chỉ ra
những nguyên nhân mà người dân chưa mặn mà tham gia là do mức phí đóng cao,
chế độ được hưởng ít chỉ có 2 chế độ hưu trí và tử tuất, thời gian đóng kéo dài 20
năm, thu nhập của người lao động là thấp, biện pháp thông tin tuyên truyền chưa
sâu rộng. Bài viết đã chỉ ra những bất cập về chính sách và quá trình tổ chức thực
hiện nhưng còn chung chung chưa đưa ra những giải pháp cụ thể.
(14) Bài viết của Việt Anh, với tiêu đề: “Để bảo hiểm xã hội tự nguyện trở
thành chỗ dựa cho lao động tự do”, đăng trên Báo tỉnh Bắc Ninh (7/2013) [69]. Nội
dung bài viết đánh giá 5 năm triển khai, toàn tỉnh mới thu hút được 2.259 người
tham gia, nguyên nhân là người lao động tự do chưa hiểu chính sách, họ chỉ lo tới
lợi ích trước mắt, chưa có điều kiện lo cho tương lai xa hơn. Để thu hút người lao
động tham gia BHXH tự nguyện trong thời gian tới, tác giả đề xuất những giải pháp
như: Có sự quan tâm và phối hợp đồng bộ giữa các ngành chức năng trong công tác
vận động tuyên truyền; Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ một phần phí BHXH; điều
chỉnh chính sách cho phù hợp với thực tế như: Thời gian tham gia để được hưởng
BHXH quá dài khiến người lao động không đủ sức theo, số chế độ quá ít, mức đóng
cao; mở rộng mạng lưới các đại lý BHXH để tạo thuận lợi cho người dân tham gia.
Bài viết có nội dung sâu sắc, các giải pháp đưa ra có tính thuyết phục nhưng dừng lại
ở phạm vi cấp tỉnh và đối tượng tham gia còn hẹp chỉ là lao động tự do.
(15) Luận văn thạc sĩ Kinh tế: “Phát triển dịch vụ bảo hiểm xã hội tự nguyện
cho nông dân trên địa bàn tỉnh Bình Định” của Trần Yên Thái (2014) [66]. Đề tài
trình bày cơ sở lý luận phát triển dịch vụ BHXH tự nguyện cho nông dân, đánh giá
thực trạng về nhu cầu và khả năng tham gia dịch vụ này, thực trạng chính sách và
công tác tổ chức triển khai chính sách trên địa bàn tỉnh Bình Định, đưa ra những
kiến nghị và giải pháp tổ chức dịch vụ BHXH tự nguyện cho nông dân nhằm đáp
ứng ngày càng cao chất lượng dịch vụ BHXH của đối tượng tham gia BHXH ở tỉnh
Bình Định trong thời gian tới. Đề tài có đối tượng và phạm vi nghiên cứu hẹp chỉ là
9
nông dân và trên địa bàn cấp tỉnh, chưa đi sâu vào nghiên cứu nội dung tổ chức
triển khai chính sách BHXH tự nguyện ở Việt Nam.
(16) Luận văn thạc sĩ Luật học: “Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện Thực trạng và giải pháp” của Dương Thảo Phương (2014) [33]. Đề tài nghiên cứu
một số vấn đề lý luận chung về pháp luật BHXH tự nguyện, đánh giá thực trạng
pháp luật và tình hình thực hiện pháp luật BHXH tự nguyện, đề xuất một số giải
pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHXH tự nguyện ở Việt Nam trong
thời gian tới. Nội dung đề tài chưa đề cập đến tình hình tổ chức triển khai chính
sách BHXH tự nguyện ở Việt Nam.
(17) Luận án tiến sĩ: “Nghiên cứu phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện đối với
người lao động trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc” của Phạm Thị Lan Phương (2015)
[50]. Đề tài đã góp phần bổ sung và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan đến BHXH, phát triển BHXH tự nguyện đối với người lao động như: Khái
niệm về BHXH, BHXH tự nguyện, vai trò, bản chất, đặc điểm và nguyên tắc của
BHXH tự nguyện. Đánh giá thực trạng phát triển BHXH tự nguyện ở tỉnh Vĩnh
Phúc và xây dựng mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển BHXH tự
nguyện. Qua đó đề xuất các giải pháp phát triển BHXH tự nguyện đối với người lao
động. Đây là công trình nghiên cứu khá công phu, bài bản và khoa học. Tuy nhiên,
đối tượng nghiên cứu về phát triển BHXH tự nguyện cho người lao động ở phạm vi
cấp tỉnh.
2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết trên thế giới về BHXH tự nguyện.
Liên quan đến chủ đề này là những công trình sau:
(1) Nghiên cứu của Hiệp hội ASXH Quốc tế (ISSA), Văn phòng khu vực châu
Á Thái Bình Dương, New Delhi, Ấn Độ (1993), với đề tài: “Hệ thống bảo hiểm xã
hội nông dân trong các nước đang phát triển” [67]. Đề tài đề cập đến những vấn đề
cần được bảo hiểm như: Chăm sóc y tế và các dịch vụ thuốc men; kế hoạch hóa gia
đình, phúc lợi gia đình và chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh; bảo hiểm mùa vụ và gia
súc…Những khó khăn phải đối mặt khi triển khai là: Người lao động nông nghiệp
có thu nhập thấp, không ổn định và do đó khả năng tham gia đóng góp là hạn chế;
10
việc làm bấp bênh và thiếu việc làm; thiếu những cơ quan có chức năng quản lý về
đăng ký và thu các khoản đóng góp…Từ đó đề xuất các giải pháp để thực hiện và
đưa ra những bài học kinh nghiệm của các nước Indonesia, Malaysia, Thổ Nhĩ Kỳ
trong lĩnh vực bảo trợ ASXH đối với dân số nông thôn. Song nội dung đề tài còn sơ
sài, chưa làm rõ cơ sở lý luận, đối tượng và phạm vi nghiên cứu là nông dân trong
các nước đang phát triển, các đối tượng khác như lao động PCT và các nước phát
triển thì chưa được đề cập, không có số liệu điều tra, khảo sát thực tế.
(2) Nghiên cứu của Viện nghiên cứu Lao động (ILS) và Tổ chức Lao động
Quốc tế (ILO) (1995), với đề tài: “Bảo hiểm xã hội trong hợp tác xã” [68]. Đề tài đã
khái quát những dịch vụ bảo trợ xã hội và các khoản trợ cấp áp dụng cho các hợp
tác xã (HTX), đưa ra khuyến nghị về mặt thiết kế và thực hiện các chương trình bảo
trợ xã hội. Tuy nhiên, nội dung đề tài còn chung chung, phạm vi nghiên cứu hẹp
trong HTX, người lao động làm việc trong ngành nghề khác không được đề cập.
(3) Bài viết của Castel P. (2005), Voluntary Defined Benefit Pension System
Willingness to Paticipate the Case of Vietnam [18]. Nội dung bài viết đã chỉ ra các
nhân tố quyết định đến sự sẵn sàng tham gia vào hệ thống hưu trí tự nguyện của
người lao động khu vực PCT ở Việt Nam, bao gồm: Thu nhập, trình độ học vấn,
khả năng tiết kiệm, nơi cư trú, tiếp cận tín dụng, kiến thức về BHXH, thái độ lập kế
hoạch lâu dài. Tuy nhiên, cơ chế chính sách cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự sẵn sàng
tham gia như thời gian đóng, mức đóng, quyền lợi được hưởng. Bài viết dừng lại
nghiên cứu về sự sẵn sàng tham gia hệ thống hưu trí tự nguyện cho khu vực PCT,
chưa nghiên cứu các đối tượng khác như lao động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và
chưa đề cập đến quá trình tổ chức triển khai BHXH tự nguyện.
(4) Bài viết của Landis MacKellar (2009), Pension Systems for the Informal
Sector in Asia [39]. Nội dung bài viết đã trình bày và phân tích những nội dung cụ
thể như: Bối cảnh châu Á, mở rộng diện bao phủ hệ thống hưu trí ở châu Á, chính
sách lương hưu ở châu Á và thách thức đối với người lao động khu vực PCT ở châu
Á. Từ đó nêu ra kinh nghiệm của các nước châu Á trong việc mở rộng diện bao phủ
của hệ thống hưu trí cho người lao động khu vực PCT như Ấn độ, Thái Lan, Sri
11
Lanka, Trung Quốc, Việt Nam, Philippines. Bài viết có nội dung sâu sắc, nhưng đối
tượng nghiên cứu trong phạm vi người lao động khu vực PCT và chưa đi sâu vào
nghiên cứu về tổ chức triển khai BHXH tự nguyện ở Việt Nam.
Như vậy, có thể thấy các đề tài nghiên cứu và các bài viết có liên quan đến
BHXH tự nguyện nói chung và BHXH tự nguyện ở Việt Nam nói riêng là khá
nhiều, song chưa có một nghiên cứu chuyên sâu về tổ chức triển khai BHXH tự
nguyện ở Việt Nam sau khi có Luật BHXH (2006). Liên quan đến vấn đề này, các
nghiên cứu trên còn một số hạn chế sau:
Thứ nhất, phạm vi nghiên cứu thường dừng lại ở cấp địa phương, đối tượng
nghiên cứu có phạm vi hẹp (đề tài: Các giải pháp thực hiện bảo hiểm xã hội tự
nguyện đối với lao động thuộc khu vực nông, ngư và diêm nghiệp…) hoặc dưới
dạng thăm dò, tìm hiểu về nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện (đề tài: Cơ sở lý luận
cho việc định hướng thực hiện loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam
trong thời gian tới).
Thứ hai, có những nghiên cứu chỉ mang tính tổng kết, đánh giá, chưa chuyên
sâu. Cơ sở lý luận chưa rõ, nội dung dàn trải (đề tài: Đánh giá 3 năm triển khai thực
hiện Luật Bảo hiểm xã hội).
Thứ ba, có một số nghiên cứu sau khi chính sách BHXH tự nguyện ở nước ta
được ban hành và tổ chức thực hiện, song nội dung còn mờ nhạt, chưa có tính thống
nhất cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Thứ tư, các nghiên cứu chủ yếu dùng số liệu thứ cấp để phân tích, mô tả thực
tiễn. Vì thế, hầu như các nghiên cứu này mới dừng lại ở các bản báo cáo.
Thứ năm, các bài viết chủ yếu đưa ra nguyên nhân vì sao người dân chưa
“mặn mà” tham gia BHXH tự nguyện, chỉ ra những bất cập về chính sách, quá trình
tổ chức triển khai và đề xuất giải pháp nhằm phát triển BHXH tự nguyện, song nội
dung còn chung chung, chưa sâu sắc.
2.3. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Qua việc tổng hợp và đánh giá các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước,
tác giả nhận thấy còn những khoảng trống nghiên cứu liên quan đến BHXH tự
nguyện và tổ chức triển khai BHXH tự nguyện, cụ thể:
12
- Khoảng trống về lý thuyết: Khái niệm, đặc điểm, vai trò và nguyên tắc của
BHXH tự nguyện, cơ sở lựa chọn chế độ và đối tượng tham gia BHXH tự nguyện;
hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả triển khai BHXH tự nguyện.
- Khoảng trống về phương pháp nghiên cứu: Do đối tượng thuộc diện tham
gia BHXH tự nguyện đa dạng, phức tạp, cho nên để đánh giá đúng hiện trạng tổ
chức triển khai, tìm ra nguyên nhân và giải pháp tổng thể phát triển BHXH tự
nguyện, luận án sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát bằng các bảng hỏi để thu
thập tài liệu sơ cấp, sau đó áp dụng các phương pháp phù hợp để phân tích nhằm
tìm ra nguyên nhân, từ đó đề xuất các giải pháp và kiến nghị cụ thể, khách quan
trong tổ chức triển khai BHXH tự nguyện ở nước ta.
- Khoảng trống về thực tế: Do chính sách BHXH tự nguyện lần đầu tiên được
triển khai ở nước ta, vì thế tổ chức triển khai trên phạm vi cả nước phải đảm bảo
tính thống nhất trong toàn hệ thống. Luận án tiến hành phân tích, đánh giá toàn diện
những vấn đề có liên quan đến công tác này, để có cơ sở thực tế đề xuất các giải
pháp và kiến nghị nhằm phát triển BHXH tự nguyện trong thời gian tới.
Tổ chức triển khai BHXH tự nguyện ở Việt Nam được nghiên cứu dưới góc
độ tổ chức quản lý có liên quan đến cả việc hoạch định chính sách và tổ chức triển
khai thực hiện chính sách. Vì vậy, các giải pháp và kiến nghị của luận án đều nhằm
hoàn thiện tổ chức triển khai chính sách BHXH tự nguyện và kỳ vọng chính sách
này sẽ thực sự đi vào cuộc sống.
3. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu tổng quát của luận án là đề xuất những giải pháp và kiến
nghị nhằm tổ chức triển khai có hiệu quả chính sách BHXH tự nguyện ở Việt Nam.
Các mục tiêu nghiên cứu cụ thể bao gồm:
- Hệ thống hóa và đóng góp bổ sung làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về
BHXH tự nguyện và tổ chức triển khai chính sách BHXH tự nguyện.
- Đánh giá thực trạng tổ chức triển khai chính sách BHXH tự nguyện ở Việt
Nam trong thời gian qua, từ đó tìm ra những mặt còn hạn chế, bất cập và nguyên
nhân sâu xa ảnh hưởng đến quá trình tổ chức triển khai.
13
- Đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm tổ chức triển khai có hiệu quả
chính sách BHXH tự nguyện ở Việt Nam.
3.2. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu cụ thể nêu trên, nội dung của luận án
phải trả lời được các câu hỏi nghiên cứu sau đây:
(1) Vì sao phải tổ chức triển khai BHXH tự nguyện ở Việt Nam?
(2) Chính sách BHXH tự nguyện ở Việt Nam hiện nay còn những điểm hạn
chế gì ảnh hưởng đến việc tổ chức triển khai BHXH tự nguyện? Nguyên nhân của
những hạn chế?
(3) Tổ chức triển khai chính sách BHXH tự nguyện ở Việt Nam hiện nay còn
những điểm bất cập gì chưa phù hợp với thực tế ? Nguyên nhân còn bất cập?
(4) Để tổ chức triển khai có hiệu quả chính sách BHXH tự nguyện ở Việt Nam
thì cần những giải pháp nào?
Mô hình nghiên cứu:
Câu hỏi nghiên cứu và tổng quan tài liệu là cơ sở để xây dựng mô hình nghiên
cứu. Theo đó mô hình nghiên cứu dự kiến được đưa ra như sau:
14
Chính sách BHXH
tự nguyện
MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Tổ chức thực hiện
Về đối tượng
Chế độ BHXH tự
nguyện
Tổ chức bộ
máy triển khai
Đối tượng
tham gia BHXH
tự nguyện
Công tác
tuyên truyền
TỔ CHỨC
Đối tượng và
điều kiện hưởng
TRIỂN KHAI BHXH
Thủ tục đăng ký
tham gia, hưởng
TỰ NGUYỆN
Ở VIỆT NAM
Thanh tra, kiểm
tra và giám sát
Mức đóng và
phương thức
đóng
Sự bảo trợ của
Nhà nước về quỹ
BHXH tự nguyện
Điều kiện
kinh tế, văn
hóa, xã hội
Sự phối hợp giữa
ngành BHXH với
các ngành, các cấp
15
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề liên quan đến tổ chức triển
khai chính sách BHXH tự nguyện ở Việt Nam theo Luật BHXH năm 2006. Nội
dung này bao gồm: Tổ chức bộ máy triển khai; công tác tuyên truyền, phổ biến
chính sách, pháp luật về BHXH tự nguyện; quy trình, thủ tục đăng ký tham gia và
hưởng; quản lý đối tượng tham gia và hưởng; tổ chức thu - chi và đầu tư tăng
trưởng quỹ; thanh tra, kiểm tra và giám sát; sự phối hợp giữa ngành BHXH với các
ngành, các cấp. Đối tượng áp dụng là tất cả những người lao động thuộc diện tham
gia BHXH tự nguyện (bao gồm lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư, diêm
nghiệp và lao động khu vực PCT).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian:
Nghiên cứu thực trạng tổ chức triển khai chính sách BHXH tự nguyện ở Việt
Nam tại cơ quan BHXH Việt Nam.
- Phạm vi thời gian:
Nghiên cứu thực trạng tổ chức triển khai chính sách BHXH tự nguyện ở Việt
Nam được tập trung trong giai đoạn từ năm 2008 đến 2014. Các giải pháp đề xuất
và kiến nghị nhằm tổ chức triển khai có hiệu quả chính sách BHXH tự nguyện ở
Việt Nam trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề đặt ra trong các câu hỏi nghiên cứu, tác giả sử
dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng, nội dung cụ thể
như sau:
5.1. Phương pháp tổng quan tài liệu
Tác giả tra cứu, tổng hợp và đánh giá các bài báo, các công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài luận án để khái quát lại những mặt đạt
được, những vấn đề còn hạn chế để tìm ra khoảng trống trong nghiên cứu. Đồng
thời chứng minh đề tài luận án không có sự trùng lắp và đây là nghiên cứu mới của
tác giả.
16
5.2. Phương pháp thu thập thông tin
- Nghiên cứu định tính: Tiến hành thu thập thông tin từ một số nhóm đối tượng
khác nhau, bao gồm:
+ Lấy ý kiến chuyên gia : Được thực hiện thông qua các chuyên gia có trình
độ chuyên môn sâu về mặt lý luận (các nhà nghiên cứu về chính sách BHXH của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, các
giảng viên chuyên ngành về BHXH của các học viện và các trường đại học trong
nước) để hình thành cơ sở lý luận về BHXH tự nguyện. Về mặt thực tiễn, tác giả lấy
ý kiến của các nhà hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực BHXH của cơ quan BHXH
Việt Nam để đánh giá thực trạng triển khai chính sách BHXH tự nguyện ở Việt
Nam, những bất cập về cơ chế chính sách và tổ chức thực hiện.
+ Lấy ý kiến từ bản thân những người lao động làm việc ở những địa bàn,
ngành nghề khác nhau như: Lao động nông nghiệp, lao động ở khu vực PCT để
đánh giá về nhu cầu và khả năng tham gia BHXH tự nguyện, những nguyên nhân
mà người lao động chưa tham gia BHXH tự nguyện.
Các ý kiến trên thực hiện thông qua việc tổ chức phỏng vấn trực tiếp, phỏng
vấn sâu và thảo luận nhóm.
- Nghiên cứu định lượng: Để đảm bảo tính đại diện, đáp ứng được mục tiêu
nghiên cứu, tác giả lựa chọn 4 nhóm đối tượng để khảo sát, gồm: Lao động là nông
dân, lao động PCT, cán bộ xã phường và cán bộ ngành BHXH. Số lượng mẫu khảo
sát là 600 người, khảo sát ở Thành phố Hà Nội và tỉnh Thái Bình, cụ thể như sau:
+ Nhóm lao động là nông dân và lao động PCT: Mỗi nhóm khảo sát 200 người
(trong đó có 100 người đã tham gia BHXH tự nguyện). Lao động nông dân khảo sát
ở tỉnh Thái Bình, vì đây là tỉnh thuần nông, đại diện cho các tỉnh đồng bằng sông
Hồng. Lao động khu vực PCT khảo sát ở Thành phố Hà Nội, vì đây là thành phố
lớn nên tập trung nhiều lao động PCT sinh sống. Bảng hỏi cho nhóm lao động này
gồm 18 câu hỏi, nội dung đều giống nhau, hỏi sự hiểu biết về chính sách, đánh giá
nhu cầu tham gia, nguyên nhân chưa tham gia BHXH tự nguyện và điều tra thu
nhập bình quân của người lao động.
17
+ Cán bộ xã phường khảo sát 100 người, khảo sát ở tỉnh Thái Bình. Bảng hỏi
của nhóm này gồm 22 câu hỏi, nội dung hỏi sự hiểu biết về chính sách, thực trạng tổ
chức triển khai chính sách BHXH tự nguyện tại địa phương, chỉ ra những bất cập
khi triển khai và đề xuất giải pháp phù hợp.
+ Cán bộ ngành BHXH khảo sát 100 người (trong đó cơ quan BHXH Việt
Nam là 50 người và cơ quan BHXH Thành phố Hà Nội là 50 người). Phiếu khảo sát
gồm 30 câu hỏi, nội dung hỏi về đánh giá chính sách và quá trình triển khai chính
sách, chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến phát triển đối tượng tham gia BHXH tự
nguyện ở Việt Nam trong thời gian qua còn rất chậm và đề xuất những giải pháp
nhằm phát triển BHXH tự nguyện ở Việt Nam.
Đối với nhóm lao động là nông dân và lao động PCT được khảo sát trực tiếp
đến từng người lao động. Còn cán bộ xã phường và cán bộ ngành BHXH được khảo
sát gián tiếp, thông qua việc gửi phiếu khảo sát đến các cơ quan, đơn vị. Sau khi
khảo sát, số phiếu được thu về là 600 phiếu. Thông tin chung về người được khảo
sát như sau:
Người được khảo sát phân bố ở mọi độ tuổi từ 15 đến ngoài 60 tuổi. Trong đó,
hướng vào người lao động ở độ tuổi 30-44 tuổi, chiếm tỷ lệ cao ở các nhóm lao
động nông dân và lao động PCT, cán bộ xã phường và cán bộ ngành BHXH tương
ứng là 38,5%, 44%, 60%. Tỷ lệ giới tính cả 3 nhóm tương ứng 48,5%, 74%, 34% là
nam giới và 51,5%, 26%, 66% là nữ giới. Trình độ học vấn của các nhóm tương đối
cao, trong đó lao động nông dân và lao động PCT có trình độ học vấn thấp nhất,
tiếp đến là cán bộ xã phường và nhóm có trình độ học vấn cao nhất là cán bộ ngành
BHXH với tỷ lệ đại học, trên đại học chiếm 99%.
Theo kết quả khảo sát 200 lao động là nông dân và PCT chưa tham gia BHXH
tự nguyện, thì nhu cầu tham gia của họ cũng rất khác nhau theo các tiêu chí về giới
tính, độ tuổi, nghề nghiệp, thu nhập, cụ thể như sau:
- Giới tính: Nữ giới có nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện cao hơn nam giới,
tương ứng là 52,5% và 47,5%.
18
- Độ tuổi: Người trong độ tuổi 30-44 tuổi có nhu cầu tham gia BHXH tự
nguyện lớn nhất (chiếm 42,4%) vì có công việc ổn định hơn, có khả năng tích lũy
tài chính để tham gia; người trong độ tuổi 45-60 tuổi và dưới 30 tuổi có nhu cầu
tham gia BHXH tự nguyện thấp hơn (tương ứng là 28,8% và 27,1%).
- Nghề nghiệp: Những người lao động tự do có nhu cầu tham gia BHXH tự
nguyện lớn nhất (chiếm 45,8%); lao động nông dân và tiểu thương có nhu cầu tham
gia thấp hơn (tương ứng là 22,0% và 20,3%); những lao động khác có nhu cầu tham
gia thấp nhất là 11,9%.
- Thu nhập: Người lao động có mức thu nhập từ trung bình trở lên (từ
1.150.000 – 3.000.000 đồng/người/tháng) có nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện
cao hơn những người có thu nhập bình quân (trên 3.000.000 đồng/người/tháng)
hoặc những người có mức thu nhập bình quân (dưới 1.150.000 đồng/người/tháng)
với tỷ lệ tương ứng là 42,4%, 30,5% và 27,1%. Và họ chủ yếu là nông dân và lao
động tự do.
5.3. Nguồn thu thập số liệu
- Nguồn số liệu thứ cấp: Được thu thập các kết quả nghiên cứu trước đây về
vấn đề có liên quan đến đề tài, được đăng tải trên tạp chí trong và ngoài nước, các
bài viết đăng trên internet. Ngoài ra, còn thu thập và phân tích thông qua Niên giám
Thống kê, các báo cáo, tài liệu của cơ quan BHXH Việt Nam.
- Nguồn số liệu sơ cấp: Được thu thập thông qua kết quả phát phiếu khảo sát
người lao động nông nghiệp và lao động ở khu vực PCT; cán bộ xã phường và cán
bộ ngành BHXH. Ngoài ra, còn thu thập thông qua các cuộc phỏng vấn, phỏng vấn
sâu và thảo luận nhóm của các chuyên gia về BHXH và những người lao động làm
việc trong những ngành nghề và địa bàn khác nhau.
5.4. Phương pháp phân tích và xử lý dữ liệu
Đề tài sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp với
sự trợ giúp của phần mềm SPSS.
19
6. Đóng góp mới của luận án
Luận án khi thực hiện được các mục tiêu nghiên cứu cụ thể đặt ra sẽ có những
đóng góp cả về mặt lý luận và thực tiễn, cụ thể là:
Về mặt lý luận:
- Hệ thống hóa và đóng góp bổ sung làm rõ những vấn đề lý luận về BHXH tự
nguyện. Xác định nội dung chính sách và tổ chức triển khai chính sách BHXH tự
nguyện.
- Đề xuất hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả tổ chức triển khai chính sách
BHXH tự nguyện.
Về mặt thực tiễn:
- Đánh giá thực trạng tổ chức triển khai chính sách BHXH tự nguyện ở Việt
Nam từ khi có Luật BHXH (2006).
- Xác định các nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình tổ chức triển khai chính
sách BHXH tự nguyện ở Việt Nam.
- Đề xuất hệ thống giải pháp hoàn thiện tổ chức triển khai BHXH tự nguyện ở
Việt Nam.
- Điều kiện để thực hiện các giải pháp tổ chức triển khai chính sách BHXH tự
nguyện.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án được chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức triển khai bảo hiểm xã hội tự
nguyện.
Chương 2: Thực trạng tổ chức triển khai chính sách bảo hiểm xã hội tự
nguyện ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện tổ chức triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện
ở Việt Nam.
20
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỔ CHỨC TRIỂN KHAI
BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
1.1. Khái quát về bảo hiểm xã hội
1.1.1. Khái niệm
Trong mọi nền sản xuất xã hội, con người luôn là động lực chính, là trung tâm
của sự phát triển kinh tế - xã hội. Con người muốn tồn tại và phát triển, trước hết
phải có ăn, mặc, ở, đi lại…Để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu đó, họ phải lao
động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều thì
đời sống con người càng đầy đủ và xã hội càng văn minh hơn. Như vậy, họ là
những người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và dịch vụ cho xã hội, đồng thời
cũng là người trực tiếp tiêu dùng những sản phẩm dịch vụ đó. Nhưng thực tế không
phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và điều kiện sinh
sống bình thường, mà trái lại có rất nhiều trường hợp khó khăn, bất lợi, ít nhiều
ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập và các điều kiện
sinh sống khác. Chẳng hạn, người lao động bất ngờ bị ốm đau hay tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp làm họ mất khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn; lúc về
già không còn thu nhập từ lao động để đảm bảo cuộc sống; hoặc người lao động bị
chết, con cái mất nơi nương tựa…Lúc này các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống
không vì thế mà mất đi, thậm chí còn tăng lên và xuất hiện một số nhu cầu mới như:
Cần được khám bệnh và điều trị khi ốm đau; tai nạn thương tật cần có người chăm
sóc, nuôi dưỡng…Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội
phải tìm ra nhiều biện pháp khác nhau như san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong cộng
đồng, đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước…Rõ ràng những cách đó
hoàn toàn bị động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ
biến, lúc đầu người sử dụng lao động chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau
đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định
21
để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu, khi không may bị ốm đau, thai sản, tai nạn
lao động…Trong thực tế, các trường hợp trên có thể không xảy ra và người chủ
không phải chi một khoản tiền nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ một
lúc phải bỏ ra một khoản tiền lớn dù không muốn. Điều này tất yếu dẫn đến mâu
thuẫn giữa chủ và thợ, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết.
Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng gay gắt trên quy mô rộng và có tác động xấu
đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
Để khắc phục tình trạng trên, Nhà nước đứng ra đóng vai trò trung gian
trong việc điều hòa mâu thuẫn bằng cách huy động sự đóng góp cả từ phía chủ
và thợ, bản thân Nhà nước cũng tham gia hỗ trợ một phần để hình thành nên một
quỹ tài chính với mục đích bảo vệ quyền lợi của cả giới chủ và thợ, lúc này
BHXH đã được hình thành.
Như vậy, BHXH là một loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm. Năm 1850, Thủ
tướng Bismack của nước Phổ (nay là Cộng hòa Liên bang Đức) đã thiết lập hệ
thống BHXH ở nước này và đây là quốc gia được triển khai BHXH sớm nhất trên
thế giới, đến năm 1883 Luật Bảo hiểm y tế cũng được ban hành tại nước này.
Đầu thế kỷ XX, BHXH đã được triển khai ở hầu hết các nước châu Âu, sau đó
là các nước Mỹ La tinh và Bắc Mỹ. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, BHXH đã lan
rộng sang các nước giành được độc lập ở châu Á, châu Phi và vùng Caribe. Đến
nay, BHXH đã được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới.
Tuy có lịch sử phát triển lâu dài nhưng đến nay vẫn chưa có một khái niệm
thống nhất về BHXH, vì tùy từng góc độ tiếp cận khác nhau mà BHXH được hiểu
theo những cách khác nhau:
- Theo Giáo sư Henri Kliler thuộc trường Đại học tổng hợp tự do Bruxelles
của Bỉ đã đưa ra khái niệm về BHXH và các nội dung của BHXH như sau:
BHXH là toàn bộ các luật và quy định nhằm bảo đảm cho người lao động
hưởng lương (và người lao động tự do với một số hạn chế) cũng như gia
đình họ (những người có quyền theo quy định) được hưởng trợ cấp khi họ
ở trong hoàn cảnh hoặc mất toàn bộ hay một phần thu nhập từ lao động
hoặc phát sinh những chi phí cần được hỗ trợ (như việc học hành của con
cái và chăm sóc y tế) [46, tr.12].
22
Theo khái niệm này, BHXH sẽ bao gồm: Bảo hiểm y tế, bảo hiểm tàn tật, trợ
cấp gia đình, thai sản, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, bảo hiểm hưu
trí và tử tuất, trợ cấp thất nghiệp.
- Theo Tổ chức Lao động Quốc tế: “BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các
thành viên của mình thông qua các biện pháp công cộng nhằm chống lại các khó
khăn về kinh tế, xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già, chết; đồng thời đảm bảo các
chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con” [38].
- Theo Luật BHXH Việt Nam năm 2006:
BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người
lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên
cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH [53, tr.3].
Ngoài những khái niệm nêu trên, khi nghiên cứu về vấn đề này, từ điển và một
số nhà khoa học còn đưa ra những khái niệm khác nhau về BHXH, chẳng hạn:
- Theo tập 1 Từ điển Bách khoa Việt Nam:
BHXH là sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động
khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc
bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất. Dựa trên cơ sở một
quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của
Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống của người lao
động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội”[46, tr.12].
- Từ góc độ pháp luật:
BHXH là một chế định bảo vệ người lao động sử dụng nguồn đóng góp
của mình, của người sử dụng lao động và được sự tài trợ, bảo hộ của
Nhà nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người lao động được bảo hiểm và
gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, tai
nạn lao động, hết tuổi lao động hoặc chết theo quy định của pháp luật
[48, tr.49].
- Từ góc độ tài chính: “BHXH là quá trình san sẻ rủi ro và san sẻ tài chính
giữa những người tham gia BHXH theo quy định của pháp luật” [48, tr.49].
23
- Theo Luật BHXH Việt Nam năm 2014: “BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc
bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết,
trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH” [54, tr.2].
Như vậy, có rất nhiều khái niệm khác nhau về BHXH, mỗi khái niệm đưa ra
đều đứng trên một góc độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, những điểm chung giống
nhau là: BHXH là một chính sách xã hội được luật hóa tùy theo điều kiện cụ thể của
từng nước; người lao động tham gia BHXH và gia đình họ là những đối tượng trực
tiếp được hưởng lợi từ chính sách BHXH, khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra, như:
Bị giảm hoặc bị mất thu nhập từ lao động do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động…Để
tổ chức và thực hiện được chính sách BHXH phải dựa vào một quỹ tiền tệ do người
lao động, người sử dụng lao động đóng góp và có sự bảo trợ của Nhà nước; mục
đích của BHXH là đảm bảo đời sống cho những người lao động tham gia BHXH và
gia đình họ, từ đó góp phần đảm bảo ASXH.
Trên cơ sở phân tích và kế thừa, tác giả cho rằng: “ BHXH là sự bảo đảm thay
thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu
nhập từ nghề nghiệp do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hết
tuổi lao động hoặc chết, thông qua việc hình thành một quỹ tài chính do sự đóng góp
của người lao động, người sử dụng lao động và sự bảo trợ của Nhà nước, nhằm ổn
định đời sống cho người lao động và gia đình họ, từ đó góp phần đảm bảo ASXH”.
1.1.2. Bản chất của bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội ra đời, tồn tại và phát triển là tất yếu khách quan cùng với sự
phát triển của xã hội loài người, bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội
dung chủ yếu sau:
- Bảo hiểm xã hội là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội,
nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê
mướn lao động phát triển đến một mức độ nhất định. Kinh tế càng phát triển thì
BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Có thề nói, kinh tế là nền tảng của BHXH hay
BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước.
24
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao
động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH.
Bên tham gia BHXH là bên có trách nhiệm đóng phí BHXH theo quy định của pháp
luật và chỉ có thể là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao
động. Bên BHXH là bên nhận phí BHXH từ những người tham gia và thường là
một số tổ chức như cơ quan, công ty…do Nhà nước lập ra (ở một số nước có thể do
tư nhân, tổ chức kinh tế - xã hội lập ra) và được Nhà nước bảo trợ. Bên được BHXH
là bên được nhận các loại trợ cấp khi xảy ra rủi ro được bảo hiểm. Bên được BHXH
là người lao động tham gia BHXH và thân nhân của họ khi có đủ các điều kiện ràng
buộc cần thiết. Bên được BHXH chính là đối tượng phục vụ của BHXH.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong
BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên, như: Ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp…hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên,
như: Tuổi già, thai sản…Đồng thời, những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và
ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi do gặp phải những
rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích
lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn có sự hỗ
trợ của Nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người
lao động trong trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn
lao động, mất việc làm. Mục tiêu này đã được ILO cụ thể hóa như sau: Đền bù cho
người lao động những khoản thu nhập bị mất để bảo đảm nhu cầu sinh sống thiết
yếu của họ, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình họ và nâng
cao chất lượng chính sách ASXH; giúp người lao động nhanh chóng phục hồi sức
khỏe, tái sản xuất sức lao động cho xã hội. Ngoài ra, còn động viên, khuyến khích
người lao động yên tâm làm việc để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả
công việc. Vì vậy, thu nhập của người lao động cũng được tăng lên và làm tăng
tổng sản phẩm quốc nội; xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư
và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
25
Với mục tiêu trên và qua thực tiễn triển khai BHXH ở các nước trên thế giới
cho thấy, vai trò của BHXH là rất lớn, cả đối với người lao động, người sử dụng lao
động và xã hội: Đối với người lao động, mà trước hết là những người làm công ăn
lương ổn định thu nhập, ổn định cuộc sống của bản thân và gia đình khi gặp phải
những rủi ro hay sự kiện bảo hiểm. Đối với người sử dụng lao động, BHXH góp
phần điều hòa và giải quyết được một số mâu thuẫn giữa họ với những người làm
thuê. Từ đó góp phần ổn định và phát triển sản xuất. Đối với xã hội, BHXH giúp tạo
ra một cơ chế chia sẻ rủi ro, nâng cao tính cộng đồng, củng cố tinh thần đoàn kết,
gắn bó lợi ích giữa các bên tham gia. Đồng thời chính sách BHXH còn là một trong
những trụ cột chính trong hệ thống chính sách ASXH của mỗi quốc gia.
1.1.3. Bảo hiểm xã hội trong hệ thống chính sách an sinh xã hội
Bảo hiểm xã hội ra đời đầu tiên ở Cộng hòa Liên bang Đức cách đây hơn một
thế kỷ và ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều có chính sách BHXH. Đặc
điểm chủ yếu của chính sách này là: Luôn được luật hóa và có liên quan đến cả
người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước; đối tượng tham gia ngày
càng được mở rộng (từ những người làm công ăn lương đến những lao động không
có quan hệ lao động); nội dung và phạm vi điều chỉnh của chính sách này phụ thuộc
chủ yếu vào điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ. Bảo hiểm
xã hội là chính sách chủ yếu trong hệ thống chính sách ASXH và có vai trò đặc biệt
quan trọng được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, BHXH được coi là lưới đầu tiên và quan trọng nhất của hệ thống
ASXH. BHXH là trụ cột chính trong hệ thống ASXH. Do vậy, sự vững chắc của hệ
thống ASXH của một quốc gia được phản ánh qua chính sách BHXH của quốc gia
đó. Vì BHXH có đối tượng người lao động tham gia rất lớn, đây là những người trực
tiếp tạo ra của cải vật chất và dịch vụ cho xã hội. Khi rủi ro ốm đau, tai nạn, mất việc
làm…xảy ra sẽ đe dọa đến cuộc sống của bản thân người lao động và gia đình họ,
làm ảnh hưởng xấu tới tâm lý của người lao động, từ đó ảnh hưởng tới xã hội.
Thứ hai, BHXH điều tiết các chính sách trong hệ thống ASXH. BHXH, cứu
trợ xã hội và ưu đãi xã hội là những bộ phận của chính sách ASXH, do đó đều là