Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

ĐỀ CƯƠNG ôn THI lớp TRUNG cấp CHÍNH TRỊ môn kĩ NĂNG LÃNH đạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.74 KB, 36 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ
MÔN KĨ NĂNG LÃNH ĐẠO


BÀI 1: HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
Khái quát về hoạt động lãnh đạo, quản lý và vai trò hoạt động lãnh đạo,
quản lý ở cơ sở.? Sự giống và khác nhau giữa hoạt động lãnh đạo và quản

- Khái niệm hoat động lãnh đạo:
+ Hoạt động lãnh đạo là hoạt động mang tính định hướng, gây ảnh hưởng, tạo
dựng niềm tin, thuyết phục người khác để họ đồng lòng với người lãnh đạo thực
hiện đường lối, chủ trương hoặc hệ thống mục tiêu nào đó. Lãnh đạo tạo hiệu
ứng điều khiển, dẫn dắt người khác dựa trên cơ chế nhận thức, niềm tin, tiêu
chuẩn đạo đức, lý tưởng ... mà không mang tính cưỡng bức đối với người khác.
- Khái niệm hoat động quản lý:
+ Hoạt động Quản lý mang tính kỹ thuật, quy trình, được quy định rõ trong
khuân khổ các thể chế xác định.
- Mối quan hệ giữa hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý.
+Lãnh đạo và quản lý có mối quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau. Điểm chung
của 2 loại hoạt động này là đều đạt đến mục đích mong muốn thông qua hành
động của người khác. Nói cách khác hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý là
hoạt động điều khiển con người.
+ Điểm khác biệt giữa hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý là ở chỗ lãnh
đạo sử dụng uy tín và sự thuyết phục nhiều hơn, sử dụng quyền lực ít hơn; quản
lý sử dụng quyền lực nhiều hơn, sử dụng uy tín và sự thuyết phục ít hơn. Hoạt
động quản lý thường được thực hiện theo một quy chế , chuẩn mực, nguyên tắc
rõ ràng. Lãnh đạo ko dựa nhiều vào quy chế mà dựa vào sự thuyết phục và cảm
hóa mang tính nhận thức, tình cảm. Cán bộ nào cũng đồng thời thực hiện cả vai
trò lãnh đạo và vai trò quản lý. Vì thế người ta thường gọi chung là hoạt động
lãnh đạo, quản lý.
- Lãnh đạo và quản lý có mối quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau Trong thực tế


thường khó tách bạch 2 hoạt động này trong con người cán bộ. Cán bộ nào cũng
đồng thời thực hiện cả vai trò lãnh đạo lẫn vai trò quản lý. Vì thế người ta
thường gọi chung là hoạt động lãnh đạo, quản lý
1.2: Vai trò của hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cấp cơ sở.
- Hoạt động lãnh đạo quản lý tạo nên sức mạnh tập thể trên cơ sở thống nhất ý
trí và hành động. Cộng đồng dân cư trên địa bàn xã phường, thị trần dù khác biệt
nhau nhiều phương diện nhưng mỗi cộng đồng cũng có những lợi ích chung như
bảo vệ môi trường sống chung có lợi cho sức khỏe, giữ gìn trật tự trị an, giữ gìn
vệ sinh chung, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, y tế, trường học ... Nếu không
có cấp quản lý cơ sở sẽ không thể thống nhất ý chí và hành động của người dân
để tất cả đều có cuộc sống tốt hơn. Hơn nữa cấp cơ sở còn là nơi hỗ trợ trực tiếp
cho dân cư khi họ gặp khó khăn, cũng như tạo điều kiện cho dân cư tham gia
vào hệ thống chính trị quốc gia.
- Hoạt động lãnh đạo, quản lý tạo ra môi trường vừa cho phép mỗi người dân
được tự do sáng tạo, vừa định hướng hoạt động của mọi người theo mục tiêu


chung. Các xã, phường, thị trấn đều nằm trong một huyện, một tỉnh nào đó và
nằm trong nước ta, do đó vừa được hưởng lợi chung của sự quản lý của huyện,
của tỉnh, của quốc gia vừa phải thực thi nghĩa vụ của mình với tập thể lớn hơn. Cơ
quan quản lý cấp cơ sở là đầu mối để triển khai chính sách chung một cách hiệu
quả trên địa bàn cơ sở, vừa phản ánh nguyện vọng, nhu cầu của cơ sở cho cấp trên
để được hỗ trợ giải quyết kịp thời, hiệu quả.
- Hoạt động lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở tạo nên sự phối hợp nhịp nhàng giữa các
bộ phận khác nhau của đơn vị thành một hệ thống nhất. Giữa các bộ phận dân cư,
ngành nghề hoạt động trên địa bàn xã, phường, thị trấn đôi khi cũng xảy ra xung
đột. Cấp cơ sở là nơi trực tiếp đứng ra hòa giải hoặc phân xử nhằm tạo ra bầu
không khí đoàn kết, thông cảm, tương trợ lẫn nhau. Chức năng xét xử có thể chỉ
phân quyền ở phạm vi hẹp cho cấp cơ sở, nhưng chức năng hòa giải của hệ thống
chính trị chủ yếu do cấp cơ sở đảm nhiệm.

- Hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cơ sở góp phần tạo dựng sức mạnh bền vững
của hệ thống chính trị. Nhờ có sự quản lý ở cấp cơ sở mà hoạt động của dân cư
và các tổ chức trên địa bàn đi vào nề nếp, kỷ cương, giảm nhẹ vai trò quản lý,
giám sát của cấp trên. Hơn nữa, sự chuyên nghiệp, linh hoạt và tận tâm của cán
bộ quản lý cấp cơ sở làm tăng uy tín của hệ thống chính trị. Ngược lại sự yếu
kém của cấp cơ sở, nhất là việc xử lý quan liêu, thiếu chuyên nghiệp của đội ngũ
cán bộ cơ sở không những làm cho hệ thống chính trị thiếu bền vững, mà còn
làm phai nhạt niềm tin của quần chúng vào hệ thống chính trị.
2: Nội dung hoạt động lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở:
* Có 3 nội dung.
Nội dung thứ nhất: Xây dựng mục tiêu, phương hướng, kế hoạch hoạt động
ở cơ sở.
- Dự báo
+ Dự báo là phán đoán một cách có căn cứ khoa học xu hướng phát triển
của xã, huyện, tỉnh, cả nước trong thời gian trước mắt và lâu dài nhằm cung cấp
luận cứ cho việc xây dựng chủ trương, chính sách, kế hoạch, hành động của cơ
sở.
+ Nội dung của dự báo: bao gồm những biến động bên trong, bên ngoài
cấp cơ sở theo chiều hướng có lợi và không có lợi. Cụ thể là phải dự báo về sự
thay đổi của môi trường tự nhiên, kinh tế, xã, hội, chính trị ảnh hưởn đến cơ sở
như thế nào; dự báo về sự thay đổi của cơ sở về các phương diện, thẩm quyền,
nguồn lực, nhiệm vụ khó khăn, thuận lợi khi thực thi nhiệm vụ để có kiến nghị
đối phó thích hợp; dự báo về sự thay đổi mục tiêu của cơ sở do sự biến động
chung và riêng ...
+ Để có thể dự báo khoa học, cơ sở phải tổ chức điều tra, thu thập dữ liệu
và xử lý thông tin một cách hệ thống, theo các phương pháp khoa học. Phương
pháp dự báo khoa học là dựa trên các lý thuyết khoa học tiên tiến và cơ sở dữ
liệu thông tin đầy đủ. Cấp cơ sở cần sử dụng các dự báo của các tổ chức cung
cấp thông tin quốc gia như thông tin của các bộ chuyên ngành, thông tin của cấp
trên, thông tin của các tổ chức quốc tế. Cũng cần phải có cán bộ đảm trách công

việc dự báo để làm cho hoạt động dự báo ở cấp cơ sở mang tính chuyên nghiệp.


Tránh tình trạng cấp cơ sở ỷ lại hoàn toàn vào cấp trên dẫn đến kế hoạch nhận
được không đáp ứng yêu cầu của dân cư sở tại.
+ Dự báo có vai trò quan trọng trong việc cung cấp căn cứ để lập kế
hoạch hoạt động của cơ sở. Chất lượng dự báo tốt, diện dự báo rộng cho phép
cán bộ lập kế hoạch của cơ sở đề xuất được các phương án và mục tiêu sát thực
và khả thi hơn. Ngược lại nếu dự báo không tốt dễ dẫn đến hành động cảm tính,
duy ý chí, quan liêu trong việc đề ra mục tiêu và kế hoạch hành động của cơ sở.
- Xác định mục tiêu:
+ Mục tiêu là kết quả hành động hoặc trạng thái của cơ sở trong tương lai.
Khác với mục đích, mục tiêu vừa có tính chất định hướng hành động, vừa xác
định rõ các tiêu chí đo lường kết quả của hành động sao cho ở thời điểm cần
hoàn thành mục tiêu chúng ta có thể biết được mục tiêu đã được hoàn thành ở
mức độ nào. Ngoài ra, mục tiêu còn mang tính thời hạn với điểm bắt đầu và kết
thúc theo thời gian cụ thể.
+ Xác định mục tiêu đúng là một công việc rất quan trọng và không dễ
dàng trong công việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Xác định đúng mục tiêu của
cơ sở, tức là mục tiêu đó phù hợp với điều kiện thực tế, khả thi và sử dụng hiệu
quả nguồn lực hiện có để thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của dân cư, thì tự người dân
sẽ tích cực hoạt động nhằm thực hiện hiện mục tiêu. Ngược lại, mục tiêu không
đúng, ko những gây mất mãn trong dân cư, mà còn sử dụng lãng phí nguồn lực
khan hiếm của cơ sở và tăng thêm chi phí quản lý do phải khắc phục kết quả sai
lầm của việc thực hiện mục tiêu không đúng.
+ Mỗi cơ sở có một hệ thống mục tiêu đa dạng theo các mối quan hệ khác
nhau. Nếu phân loại mục tiêu theo thời gian thực hiện mục tiêu thì có mục tiêu
ngắn hạn, mục tiêu trung hạn và mục tiêu dài hạn. Nếu phân loại theo tầm quan
trọng của mục tiêu thì có mục tiêu cơ bản, chủ yếu; mục tiêu không cơ bản, thứ
yếu; Nếu phân loại theo phạm vi, tính chất của mục tiêu thì có mục tiêu kinh tế,

mục tiêu chính trị, mục tiêu xã hội, mục tiêu văn hóa, mục tiêu an ninh quốc
phòng... Nếu xét theo chủ thể thực hiện mục tiêu thì còn có mục tiêu của UBND
xã, phường, thị trấn, mục tiêu của Đảng ủy xã, phường, thị trấn mục tiêu của
đoàn thanh niên xã , phường, thị trấn, mục tiêu Hội Phụ nữ, Hội nông dân xã,
phường, thị trấn...
- Lập kế hoạch, chương trình hành động thực hiện các mục tiêu:
+ Thứ nhất: xây dựng các chương trình hành động để thực hiện mục tiêu:
Chương trình hành động là tổng thể các nỗ lực của cấp cơ sở đi đôi với tổng
nguồn lực và phương thức sử dụng nguồn lực tương ứng để đạt đến mục tiêu.
Thông thường cấp cơ sở có các loại chương trình hành động theo lĩnh vực
(chương trình phát triển kinh tế, chương trình xây dựng trường học, trạm xá ...);
chương trình theo mục tiêu phân bổ (như chương trình xóa đói, giảm nghèo,
chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc, chương trình nước sạch ....); chương
trình giải quyết vấn đề cấp bách của địa phương ...
+ Thứ hai, lập kế hoạch hành động cho từng mục tiêu, từng bộ phận, cá nhân và
theo thời gian.
Có hai loại kế hoạch cần phải xây dựng: một là, kế hoạch hoạt động
thường kỳ của cơ sỏ và hai là, kế hoạch thực hiện các chương trình mục tiêu.


Kế hoạch thường kỳ là lịch trình thực hiện các chức năng ổn định của cơ
sở như kế hoạch 1 năm, kế hoạch 5 năm, chiến lược cho từng giai đoạn. Đây là
dạng kế hoạch sắp xếp hoạt động của cơ sở theo một tiến trình thời gian đi đôi
với sự phân bổ hợp lý nguồn kinh phí và biên chế đủ để hoàn thành nhiệm vụ
được giao. Nội dung của các kế hoạch này bao gồm 3 phương diện:
Hành động: các hoạt động cần hoàn thành trong kỳ kế hoạch được phân
bổ theo tiến độ thời gian cụ thể.
Kinh phí: là kế hoạch phân bổ kinh phí cho các hoạt động đi cùng chế độ
chi tiêu, quản lý rõ ràng.
Con người: mỗi hoạt động và kinh phí tương ứng phải giao cho tổ chức và

cá nhân cụ thể phụ trách.
Kế hoạch thực hiện chương trình mục tiêu là các kế hoạch soạn thảo riêng
cho từng chương trình cụ thể. Sau khi các chương trình hành động đã được phê
duyệt thì cán bộ quản lý, căn cứ trên những nhiệm vụ cụ thể do chương trình đạt
ra và sự phân bổ kinh phí tương ứng, sắp xếp nhân sự và thời gian cho từng hoạt
động và từng giai đoạn cụ thể của việc thực hiện chương trình. Vì các chương
trình đều được tổ chức theo kiểu bộ máy bán chuyên trách nên trong kế hoạch
cần quy định rõ trách nhiệm và cơ chế phôi hợp giữa các bộ phận và cá nhân
tham gia thực hiên chương trình. Ngoài ra kế hoạch chương trình, nếu có thể cần
cụ thể hóa trong kế hoạch thường kỳ của đơn vị hoặc phải phối hợp với kế
hoạch thường kỳ của đơn vị.
Kế hoạch của cấp cơ sở phải được truyền tải cho các bộ phận chức năng
và cụ thể hóa thành nhiệm vụ, chỉ tiêu của các bộ phận đó. Kế hoạch của cấp cơ
sở là một bộ phận của kế hoạch cáp trên nên phải phù hợp với kế hoạch, chương
trình hành động của cấp trên và phải được cấp trên phê chuẩn.
Ngoài các kế hoạch chính, cơ sở còn phải lập các kế hoạch dự phòng để
đối phó với rủi ro khi xảy ra.
Căn cứ để lập kế hoạch là các thông tin từ tình hình thực hiện kế hoạch
thời kỳ trước, nhiệm vụ bổ xung trong thời kỳ tới; chế độ chính sách theo quy
định của nhà nước và các đoàn thể chính trị; những biến động đã được dự báo và
những biến động dưới dạng rủi ro… Phương pháp lập kế hoạch thường được sử
dụng là sắp xếp công việc theo tiến độ thời gian, theo sự phân công trong cơ cấu
tổ chức của cơ sở, theo các yêu cầu công việc. Có thể xử dụng một số kỹ thuật
trình bày kế hoạch như xây dựng mạng lưới công việc, lập sơ đồ, đồ thị tiến
độ ...
Nội dung thứ hai: Tổ chức thực hiện mục tiêu, phương hướng, kế hoạch của
cơ sở
- Huy động, bố trí, sử dụng nguồn lực
+ Huy động, bố trí, sử dụng nguồn lực:
Thông thường nguồn tài chính của cấp cơ sở do ngân sách cấp trên hoặc

do một tổ chức nào đó tài trợ. Cán bộ quản lý, căn cứ dự toán đã được phê duyệt
để phân bổ kinh phi cho các lĩnh vực và hoạt động liên quan đúng với chế độ,
chính sách và định mức của nhà nước.; Khi phân bổ kinh phí cần chú ý đến tiến
độ giải ngân sao cho phù hợp với yêu cầu thực tế về kỹ thuật, kinh tế, xã hội, tự
nhiện của từng hoạt động. Tiến độ cấp kinh phí phải phục vụ tốt cho việc hoàn


thành công việc được giao. Để tránh hai xu hướng ko tốt trong phân bổ kinh phí
( cố tình làm chậm quá trình cấp kinh phí để vụ lợi và khoán trắng cho cán bộ
phụ trách công việc), cần kiểm tra giám sát việc thực hiện kinh phí, thậm chí cần
điều chỉnh nếu thấy cần thiết. Đồng thời cần phối hợp chặt chẽ với kho bạc nhà
nước về thông tin kế hoạch, về tiến độ thực hiện để giảm thiểu những trở ngại
trong khâu giải ngân.
+Huy động, bố trí sử dụng vật tư, thiết bị.
Việc sử dụng tài sản đã đầu tư thường theo chế độ chính sách của nhà
nước và việc huy động các nguồn lực này phải theo nguyên tắc tiết kiệm, hiệu
quả với chế độ duy tu, bảo dưỡng và thay thế hợp lý.
Lĩnh vực cần chú ý là đầu tư mới và mua vật tư, thiết bị bổ sung, về
nguyên tắc các khoản đầu tư và mua lớn phải thông qua đấu thầu theo quy định
của nhà nước. Tuy nhiên do năng lực thực hiện dự án của các cấp cơ sở thấp
nên tốt nhất là sử dụng dịch vụ tư vấn và quản lý đầu tư.
Các khoản mua sắm khác cần được giám sát nhằm phòng tránh hiện
tượng chuyển giá.
- Thiết lập và củng cố, đổi mới bộ máy tổ chức, quản lý
+ Thiết lập mới bộ máy lãnh đạo, quản lý.
Bộ máy quản lý là một chính thể các bộ phận quản lý có chức năng,
nhiệm vụ khác nhau nhưng cùng chung nhau mục tiêu là lãnh đạo, quản lý đơn
vị hoàn thành nhiệm vụ. Các bộ phận cấu thành bộ máy quản lý gồm cấp và
khâu quản lý.
Cấp quản lý là các nấc thang khác nhau trong hệ thống phân cấp quản lý.

Cấp quản lý là kết quả sự phân chia hệ thống công việc quản lý theo chiều dọc,
theo đó cấp trên phụ trách cấp dưới, cấp dưới phụ thuộc cấp trên. Cấp cơ sở
thường chỉ có một cấp dưới là nhân viên hoặc người dân, doanh nghiệp…
Khâu quản lý là các bộ phận khác nhau trong một cấp quản lý. Mỗi khâu
quản lý chỉ thực hiện một hoặc một số công việc quản lý. Mối quan hệ giữa các
khâu quản lý trong một cấp là quan hệ phối hợp công tác cùng cấp. Số khâu
trong một cấp phụ thuộc vào mức độ phức tạp của các chức năng mà cấp đó phải
đảm nhiệm cũng như quy mô của đối tượng quản lý mà cấp đó phụ trách.
Quan hệ giữa các cấp quản lý gọi là quan hệ dọc. Quan hệ giữa các khâu
quản lý gọi là quan hệ ngang.
Khi xây dựng bộ máy quản lý cấp cơ sở cần tuân thủ các yêu cầu sau đây:
Xác định rõ số lượng các khâu quản lý sao cho vừa đủ để thực hiện các
chức năng lãnh đạo, quản lý.
Xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm cho từng khâu quản lý, trong đó
đặc biệt chú ý xác định rõ mỗi quan hệ qua lại giữa các bộ phận.
Các bộ phận quản lý không được đảm nhiệm các nhiệm vụ chồng chéo
lẫn nhau.
Cơ cấu các bộ phận và mối quan hệ giữa chúng vừa phải đảm bảo tính ổn
định tương đối, vừa phải có tính thích nghi khi điều kiện thay đổi.
Cơ cấu tổ chức quản lý phải đáp ứng yêu cầu, hiệu lực, hiệu quả.
* Khi xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý mới người ta thường làm theo 3
phương pháp:


Một là, dựa vào cơ cấu mẫu đã có sẵn, chỉnh lý, bổ sung cho phù hợp với đợn
vị. Ưu điểm của phương pháp này là chi phí xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý
thấp , độ tin cậy cao, dễ áp dụng. Nhược điểm của nó là cứng nhắc, hạn chế sự
sáng tạo của người xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý, ko áp dụng được nếu ko có
sẵn cơ cấu chuẩn.
Hai là, thuê các chuyên gia xây dựng và thẩm định cơ cấu tổ chức quản lý mới.

Ưu điểm của phương pháp này là vừa tận dụng được kinh nghiệm đã tích lũy
trong quá khứ, vừa phát huy tính sáng tạo của các chuyên gia từ đó lựa chọn
được cơ cấu tổ chức quản lý tối ưu. Nhược điểm là tốn kém, khó áp dụng nếu
thiếu chuyên gia giỏi, chuyên nghiệp.
Ba là, Xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý mới dựa trên kỹ thuật phân tích công
việc, định mức lao động và hệ thống các chức danh phù hợp với đơn vị. Đây là
phương pháp hiện đại , thích hợp với việc xây dựng mọi loại hình cơ cấu tổ chức
quản lý . Tuy nhiên nó đòi hỏi khoa học tổ chức lao động đã khá phát triển, đã
hình thành được hệ thống định mức công việc bao trùm hết các chức danh của
cơ cấu tổ chức quản lý mà điều này ko phải ở địa phương nào cũng có.
- Củng cố, đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy cũ
Quy trình củng cố, đổi mới cơ cấu tổ chức quản lý của cơ sở thường trải
qua 3 bước:
Bước 1, Phân tích: Nếu muốn sửa chữa một cơ cấu cũ thì trong bước phân
tích người ta phải tìm ra được điểm yếu, điểm mạnh, điểm phù hợp và chưa phù
hợp của cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý cũ với yêu cầu của chức năng , nhiệm
vụ mới.
Bước 2,Thiết kế: Xác định cụ thể số cấp, khâu quản lý với quyền hạn và
trách nhiệm từng cấp, từng khâu rõ ràng. Xây dựng quy chế vận hành đơn vị.
Xác định biên chế và tiêu chuẩn cán bộ cho từng chức danh.
Bước 3: Vận hành cơ cấu tổ chức quản lý mới. Tuyển chọn, đào tạo và bổ
nhiệm cán bộ vào các chức danh. Ban hành quy chế. Vận hành thử, điều chỉnh
sái sót và chính thức công nhận cơ cấu tổ chức quản lý mới (phê chuẩn của cấp
có thẩm quyền).
- Hoạt động đối ngoại.
Đối ngoại được hiểu ở đây là thiết lập các mối quan hệ với các cơ quan, tổ
chức ngoài đơn vị. Cấp cơ sở có 2 luồng quan hệ đối ngoại cần chú trọng điều
chỉnh.
Thứ nhất, quan hệ công tác với cấp trên. Đây là mối quan hệ chủ đạo. Cán
bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở không những phải cập nhật thông tin từ cấp trên

để có thể triển khai hoạt động phù hợp với kế hoạch của cấp trên một cách
nhanh chóng và đứng đắn, mà còn phải tăng cường cung cấp thông tin cho cấp
trên để cấp trên hiểu đúng, đánh giá đúng đơn vị cơ sở. Hết sức tránh tình trạng
bưng bít thông tin với cấp trên dẫn đến hiện tượng chậm xử lý của cấp trên,
khiến các vụ việc tồn đọng gây hậu quả nghiêm trọng. Nguy hại hơn, nếu cơ sở
tự o bế thông tin thì sẽ tự cô lập mình dẫn đến lạc hậu so với tình trạng chung,
hoặc mất định hướng trong hoạt động.
Thứ hai, quan hệ với đối tác. Đối tác ở đây được hiểu là các cơ quan, tổ
chức có quan hệ với cơ sở nhưng không theo hệ thống dọc. Cơ sở phải tranh thủ


quan hệ này để duy trì các mối quan hệ phối hợp hiệu quả trong công việc cũng
như quảng bá cho đơn vị mình.
- Điều hành và điều chỉnh hoạt động của cấp cơ sở: (có 2 hoạt động: hàng
ngày và khi cần thiết)
+ Điều hành công việc hàng ngày.
Hoạt động điều hành hàng ngày phải tuân thủ theo lịch làm việc đã được
cân nhắc kỹ lưỡng khi soạn thảo và phải được thông báo cho các bên có liên
quan. Lịch làm việc phải có sự cụ thể hóa theo thời gian tiến độ thực hiện các kế
hoạch đã được vạch ra. Khi điều hành theo lịch biểu tiến độ, cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp cơ sở cần chú trọng thực thi quy trình kiểm tra chất lượng công việc
do đơn vị đảm nhiệm. Có 2 phương pháp quản lý chất lượng công việc là
phương pháp KCS và phương phát ISO. Ngày nay phương pháp ISO được sử
dụng phổ biến và được tín nhiệm hơn do ưu điểm của phương pháp này là quản
lý chất lượng theo quy trình cho phép giảm thiểu phế phẩm và tăng cường trách
nhiệm của mỗi người tham gia.
Quá trình điều hành còn bao gồm việc ra các quyết định cần thiết. Yêu
cầu của một quyết định quản lý là phải rõ ràng có địa chỉ người thi hành và các
điều kiện cần thiết cho việc thực hiện. Cán bộ cấp cơ sở có thể ra quyết định
theo thẩm quyền cá nhân hoặc biểu quyết tập thể.

+ Điều chỉnh kế hoạch, chương trình hành động khi cần thiết là hoạt động
ko thường kỳ, nhưng khá quan trọng của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở. Do kế
hoạch được xây dựng trên cơ sở.
Do kế hoạch được xây dựng trên cơ sở dự báo với nhiều tham số chưa thể
kiểm soát nên kế hoạch có thể không hoàn toàn trùng khớp với diễn biến thực tế.
Khi những thay đổi trong thực tế vượt quá mức dự phòng của kế hoạch thì cán
bộ lãnh đạo, quản lý phải điều chỉnh kế hoạch. Hoặc cũng có thể điều chỉnh thay
thế một số chi tiết nào đó nếu dự báo là không chính xác. Trong điều hành hết
sức tránh tư tưởng trì trệ, ko thích sự thay đổi cho dù thay đổi là sự cần thiết.
Ngược lại cũng nên tránh hành động thay đổi tùy tiện, thay đổi theo ý thích chủ
quan của cán bộ lãnh đạo, quản lý mà ko thật sự cần thiết đối với cơ sở.
Các dấu hiệu nhận biết cần điều chỉnh thường là tình trạng quá tải của đơn
vị; Tình trạng lãng phí trong đơn vị; Nhiệm vụ, yêu cầu có sự thay đổi lớn;
nguồn lực được phát hiện thêm hoặc bị rút bớt đi, môi trường hoạt động chịu
biến động lớn ...
Phương pháp điều chỉnh phổ biến là sử dụng kế hoạch dự phòng, kỹ thuật
phòng tránh rủi do, bảo hiểm. Trong trường hợp các kỹ thuật trên không đáp ứng
thì cần phát huy sức sáng tạo của cá nhân và tập thể trong đơn vị để tìm phương
thức ứng phó.
Nguyên tắc điều chỉnh là luôn luôn hướng tới mục tiêu cơ bản, lâu dài của
tổ chức để cân đối lại các hoạt động. Trong trường hợp điều chỉnh dẫn đến mâu
thuẫn giữa các mục tiêu đã định trước, cần ưu tiên mục tiêu có ý nghĩa quyết
định đối với đơn vị cơ sở.
Nội dung thứ 3:Thực hiện kiểm tra, đánh giá, và xây dựng môi trường làm
việc ở cơ sở
- Xây dựng và điều hành chế độ kiểm tra


Kiểm tra là đo lường và trấn chỉnh hoạt động của đơn vị nhằm đảm bảo
rằng mọi việc, mọi con người trong tổ chức đang thực hiện theo đúng kế hoạch

đã vạch ra để hoàn thành mục tiêu.
Để kiểm tra có kết quả cán bộ lãnh đạo, quản lý phải thực hiện 3 công
đoạn:
+ Xây dựng các tiêu chuẩn kiểm tra. Đó là các chỉ tiêu đo lường các công
việc, các nhiệm vụ cụ thể trong kế hoạch của đơn vị.
+ Đo lường việc thực hiện theo các tiêu chuẩn đã vạch ra: là giám sát, đo
lường hoạt động thực tế trong so sánh với các tiêu chuẩn đã đặt ra để phát hiện
sự sai lệch nhằm có hành động điều chỉnh kịp thời.
+ Điều chỉnh sự khác biệt giữa các tiêu chuẩn và kế hoạch. Thông quan
hoạt động đo lường, cán bộ lãnh đạo quản lý phát hiện các sai lệch và tiến hành
điều chỉnh chúng một cách hợp lý.
Có 2 đối tượng cần kiểm tra là công việc và nhân viên. Kiểm tra công việc
là xem xét công việc có được hoàn thành đúng quy trình, tiêu chuẩn, định mức
kinh tế kỹ thuật, số lượng, chất lượng và tiến độ thời gian hay không. Kiểm tra
nhân viên là xem xét nhân viên có hoàn thành nhiệm vụ được giao hay không,
hoàn thành đến mức nào, nguyên nhân không hoàn thành, thái độ đối với công
việc, ý thức tổ chức, kỷ luật ...
Có nhiều hình thức kiểm tra như kiểm tra phòng ngừa, kiểm tra theo dấu
hiệu sai phạm, kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất, kiểm tra trực tiếp, kiểm tra
gián tiếp
Để kiểm tra có kết quả tốt, quá trình kiểm tra phải tuân thủ các yêu cầu
sau:
+ Kiểm tra phải dựa vào kế hoạch hành động của đơn vị và theo yêu cầu
công việc.
+ Quá trình kiểm tra phải đảm bảo cung cấp thông tin trung thực, khách
quan và theo các tiêu chí đo lường thống nhất.
+ Kiểm tra cần chú trọng những khâu, công đoạn trọng tâm.
+ Kiểm tra phải linh hoạt, phù hợp với bầu không khí của đơn vị và tiết
kiệm.
- Xây dựng và điều hành chế độ đánh giá

Đánh giá là đưa ra phán xét tốt, xấu về một công việc nào đó, về một bộ
phận hay con người nào đó. Cơ sở của đánh giá là yêu cầu đối với công việc,
chức năng, nhiệm vụ của bộ phận hay cá nhân.
Nội dung đánh giá bao gồm:
+ Đánh giá công việc: dựa trên các tiêu chuẩn định sẵn cho từng công việc
cụ thể như số lượng, chất lượng, tiến độ, chi phi, định mức ... để đưa ra các kết luận
cụ thể.
+ Đánh giá con người: thường đánh giá theo chức danh và theo tiêu chuẩn
hành nghề với các tiêu chí hoàn thành hay không hoàn thành công việc được
giao; thái độ đối với công việc; Cống hiến cho đơn vị; ảnh hưởng đến người
khác...
Phương pháp đánh giá thường theo tiêu chuẩn, theo thang điểm hoặc theo
nhận xét của số đông đồng nghiệp.


Thẩm quyền đánh giá thường được giao cho cán bộ quản lý cấp trên trực
tiếp hoặc tập thể nơi cá nhân công tác. Cũng có thể sử dụng đánh giá của khách
hàng, đối tác.
Việc xây dựng và điều chỉnh chế độ kiểm tra, đánh giá góp phần nâng cao
chất lượng và hiệu quả công việc, gắn liền với việc thực hiện chế độ động viên,
khuyến khích ( khen thưởng, phê bình, kỷ luật).
- Xây dựng môi trường làm việc hiệu quả ở cơ sở.
Môi trường làm việc ảnh hưởng lớn đến tinh thần và qua đó ảnh hưởng
đến hiệu suất công tác của cán bộ, nhân viên. Cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở có
trách nhiệm xây dựng môi trường làm việc hiệu quả cho phép không chỉ thu hút
và giữ chân người tài, mà quan trọng hơn là cung cấp môi trường cho họ cống
hiến hế năng lực của họ. Môi trường hoạt động hiệu quả thường phải có các tính
chất: đoàn kết, chia sẻ, thân thiện, cảm thông và hỗ trợ lẫn nhau.
Đồng thời cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở phải quan tâm xây dựng truyền
thống tốt đẹp của đơn vị nhằm tạo dựng niềm tự hào chính đáng cho những người

làm việc trong đơn vị cũng như tạo dựng uy tín với đối tác và quần chúng. Muốn
vậy cán bộ lãnh đạo quản lý phải chú trọng củng cố các hoạt động thế mạnh của
đơn vị, giáo dục tinh thần vì tập thể của nhân viên, giữ gìn uy tín của cá nhân và
đơn vị ...
Cán bộ lãnh đạo quản lý cần quan tâm, nhân ái thương yêu nhân viên và
quần chúng. Chỉ có nhân cách tốt, cán bộ lãnh đạo quản lý ở cơ sở mới có đủ uy
tín để hoàn thành nhiệm vụ được giao.


Bài 2
PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO
CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở CƠ SỞ
1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO CỦA NGƯỜI
CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
1.1.Khái niệm phong cách lãnh đạo
1.1.1. Một số quan niệm về phong cách lãnh đạo
Các nhà khoa học phương Tây chủ yếu nghiên cứu phong cách lãnh
đạo ở cấp độ cá nhân người lãnh đạo.
Các nhà khoa học Liên Xô (trước đây), Trung Quốc, Việiị Nam tập
trung nghiên cứu phong cách lãnh đạo chung, phong cách lãnh đạo của Đảng
Cộng sản cầm quyền (phong cách lãnh đạo Lêninnít).
Tuy cấp độ, phạm vi nghiên cứu khác nhau song khi đề cập đến phong
cách của cá nhân người lãnh đạo dù ở phương Tây hay phương Đông vẫn có
nhiều điểm thống nhất.
Là kiểu hoạt động lãnh đạo đặc thù của người lãnh đạo được hình
thành trên cơ sở kết họp chặt chẽ và tác động qua lại biện chứng giữa yếu tố tâm
lý chủ quan của người lãnh đạo và yếu tố môi trường xã hội trong hệ thống quản
lý.
Phong cách lãnh đạo là kết quả của mối quan hệ tác động qua lại giữa
cá tính và môi trường.

Yếu tố cá tính là những đặc điểm tâm lý của người lãnh đạo (tính cách,
khí chất, trí tuệ, xu hướng, trình độ, V.V.). Đây là những yếu tố có tính ổn định
tưomg đối.
Yếu tố môi trường bao gồm trạng thái hiện tại của tổ chức, đặc điểm
tâm sinh lý của cấp trên, người ngang cấp, cấp dưới, thói quen, truyền thống,
bầu không khí tâm lý, trình độ nguồn nhân lực trong tổ chức, những điều kiện
kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước, hệ thống giá trị đạo đức, hệ tư tưởng, v.v.
những yếu tố trên luôn chi phối phong cách của người lãnh đạo.
Phong cách lãnh đạo không chỉ thể hiện một khoa học và tổ chức của
công tác lãnh đạo, quản lý mà còn thể hiện chí hướng, tài năng, tính độc đáo,
nghệ thuật tác động, ảnh hưởng của người lãnh đạo đến người khác trong hệ
thống quản lý.
Phong cách lãnh đạo là phong cách cá nhân, song nó luôn gắn liền với
tính lịch sử, tính giai cấp, hệ tư tưởng, giá trị đạo đức, tâm lý xã hội, truyền
thống của cộng đồng dân tộc.


Trong xã hội xã hội chủ nghĩa tồn tại phong cách lãnh đạo chung và
phong cách lãnh đạo cá nhân. Phong cách lãnh đạo chung là phong cách của
Đảng Cộng sản cầm quyền, nó định hướng, chỉ đạo cho phong cách lãnh đạo của
từng cá nhân người lãnh đạo.
Mỗi người lãnh đạo trong quá trình tác động, gây ảnh hưởng đến
người khác luôn có ý thức về hướng ưu tiên nhất định khi lựa chọn mục tiêu,
cách thức hay biện pháp, lối ứng xử trong quá trình thu nhập thông tin, ra quyết
sách hay xử lý một tình huống nhất định.
Sự định hướng về mục tiêu, lề lối ứng xử, cách thức hay phương pháp
ra quyết sách, v.v. được lặp đi lặp lại trở nên ổn định sẽ tạo nên một mẫu hành vi
hay một phong cách hoạt động. Vì thế, nói đến phong cách lãnh đạo trong việc
sử dụng những loại quyền lực, tri thức, trí tuệ và trách nhiệm được giao.
Việc lựa chọn phong cách của người lãnh đạo như thế nào sẽ liên quan

đến sự thành công hay thất bại của người đó và của cả tập thể.
Thành công của nhà lãnh đạo phụ thuộc vào sự phù hợp giữa phong
cách của người lãnh đạo với các thành viên của nhóm và tình huống cụ thể.
1.1.2. Khái niệm phong cách lãnh đạo
Tuy cấp độ, phạm vi nghiên cứu khác nhau song khi đề cập đến phong
cách của cá nhân người lãnh đạo vốn có nhiều điểm chung, thống nhất.
Cho đến nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về phong cách lãnh đạo;
có thể phân chia thành một số hướng tiếp cận sau:
- Cách tiếp cận các phong cách lãnh đạo là tác phong lãnh đạo.
Các nhà nghiên cứu theo cách tiếp cận này cho rằng: phong cách lãnh
đạo là tác phong làm việc của người lãnh đạo, là “tổng thể những phương pháp
đặc thù nhất và ổn định nhất nhằm giải quyết những nhiệm vụ tiêu biểu và
những vấn đề này sinh trong quá trình thực hiện chức năng lãnh đạo”.
Tác phong được xem là sự biểu hiện cụ thể của phong cách, song giữa
tác phong lãnh đạo và phong cách lãnh đạo khác nhau ở chỗ tác phong chỉ là
một bộ phận của phong cách, nó mang tính cá nhân nhiều hơn; còn phong cách
có tính xã hội rộng hơn. Trong thực tiễn chúng ta có thể nhận diện phong cách
lãnh đạo thông qua những tác phong cụ thể của người lãnh đạo - tác phong làm
việc.
- Cách tiếp cận phong cách lãnh đạo là cách thức lãnh đạo.
Phong cách lãnh đạo được hiểu là hình thức diễn ra một hànhđộng của
người lãnh đạo. Cách hiểu này không thấy được nội dung bên trong của phong
cách, lãnh đạo (những yếu tố thuộc về chủ thể lãnh đạo).


- Cách tiếp cận đồng nhất phong cách lãnh đạo với biện pháp, phương
pháp lãnh đạo.
Phong cách lãnh đạo là hệ thống những biện pháp, phương pháp tác
động của người lãnh đạo tới tập thể nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng của
công tác lãnh đạo.

Phong cách làm việc của người lãnh đạo được thể hiện thông qua biện
pháp, phương pháp. Biện pháp hay phương pháp là một phần không thể thiếu
được của phong cách, song trong phong cách còn chứa đựng những nội dung
tâm lý của chủ thể có liên quan đến việc sử dụng biện pháp, phương pháp.
- Cách tiếp cận phong cách từ hành vi.
- Cách tiếp cận này coi phong cách lãnh đạo là một dạng (mẫu) hành
vi là cách tiếp cận được nhiều người thừa nhận và có giá trị thực tiễn.
- Cách tiếp cận khái quát về phong cách lãnh đạo
Theo cách tiếp cận này chúng ta có thể nhìn nhận phong cách lãnh
đạo dựa trên những đặc trưng bản chất như:
Phong cách lãnh đạo được coi là nhân tố quan trọng trong lãnh đạo,
quản lý; nó gắn liền với kiểu người lãnh đạo, nghệ thuật lãnh đạo.
Phong cách lãnh đạo không chỉ thể hiện chí hướng, tài năng tính độc
đáo mà còn thể hiện nghệ thuật tác động, ảnh hưởng của người lãnh đạo đến
người khác trong hệ thống quản lý.
Nhìn chung, đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau phong cách
lãnh đạo. Tuy nhiên, các ý kiến trên đều có điểm chung là nói đến hoạt động
lãnh đạo, quản lý là nói đến chủ thể của lao động, người lãnh đạo trong quá trình
thực hiện thẩm quyền của mình, luôn có ý thức lựa chọn mục tiêu, cách thức hay
biện pháp lề lối ứng xử. Sự định hướng về mục tiêu, lề lối ứng xử, cách thức hay
phương pháp ra quyết sách v.v. được lặp đi lặp lại trở nên ổn định sẽ tạo nên
một mẫu hành vi hay phong cách hoạt động. Vì nói đến phong cách lãnh đạo là
nói đến hệ thống các mẫu hành của người lãnh đạo trong sử dụng những loại
quyền lực, tri thức, trí tuệ và trách nhiệm được giao. Trong quá trình thu thập
thông tin, ra quyết sách hay xử lý mọi tình huống nhất định việc lựa chọn hành
vi (phong cách) của người lãnh đạo như thế nào sẽ liên quan đến sự thành công
hay thất bại của người đó và của cả tập thể.
Trên cơ sở kế thừa quan niệm của các nhà tâm lý học, các nhà tâm lý
học Việt Nam đưa ra khái niệm phong cách như sau:
Phong cách lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo, quản lý là mẫu hành vi mà

người lãnh đạo, quản lý lựa chọn nhằm tác động một cách có hiệu quả đến đối


tượng lãnh đạo, quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ lãnh đạo,
quản lý đã đề ra.
1.2. Phân loại phong cách lãnh đạo
1.2.1 Phong cách lãnh đạo độc đoán
Người lãnh đạo sử dụng phong cách này tập trung quyền lực, nắm bắt
tất cả các quan hệ và thông tin. Các quyết định, mệnh lệnh đưa ra chỉ dựa trên cơ
sở kiến thức, khả năng, kinh nghiệm của người lãnh đạo, không quan tâm ý kiến
người dưới quyền, buộc cấp dưới phải thực hiện một cách tập trung, chính xác,
nghiêm ngặt. Bản thân người lãnh đạo trực tiếp kiểm tra việc thi hành của cấp
dưới. Dòng thông tin trong tổ chức chỉ có một chiều từ trên xuống dưới.
Phong cách độc đoán có ưu điểm ở chỗ giải quyết nhanh chóng các
nhiệm vụ và có thể phù hợp với những tổ chức mới thành lập, song lại có hạn
chế là thiếu dân chủ, không tranh thủ được trí tuệ, kinh nghiệm của cấp dưới dễ
tạo nên trạng thái bất bình, căng thẳng.
1.2.2 Phong cách lãnh đạo dân chủ
Người lãnh đạo có phong cách này không quyết theo chủ quan của
mình mà luôn mở rộng dân chủ, tranh thủ, động viên mọi người tham gia vào
các quyết định quản lý và giải quyết các nhiệm vụ của đơn vị. Bản thân người
lãnh đạo cũng biết phân quyền phù hợp, không ôm đồm. Công việc được phân
công, giải quyết, đánh giá đều có sự tham gia của tập thể. Dòng thông tin trong
tổ chức tồn tại cả hai chiều: từ trên xuống và từ dưới lên.
Phong cách lãnh đạo dân chủ có ưu điểm là phát huy được trí tuệ, khả
năng sáng tạo của cấp dưới, động viên được tính tích cực của mọi người khi tiến
hành vì cấp dưới luôn nhận thấy rằng trong quyết định hay công việc đó có sự
tham gia ý kiến của mình. Phong cách này có hạn chế là dễ mất nhiều thời gian
và nếu người lãnh đạo không nhanh chóng lựa chọn phương án tốt nhất sẽ dẫn
đến bàn bạc kéo dài.

1.2.3 Phong cách lãnh đạo tự do
Người lãnh đạo có phong cách này thường tham gia ít nhất vào công
việc của tập thể, hầu như giao hết quyền hạn, trách nhiệm cho mọi người. Thông
tin trong tổ chức được cung cấp cho mọi người và cho phép mọi người tự do
hành động theo suy nghĩ, theo cách thức mà mình cho là tốt nhất.
Ưu điểm của phong cách này là phát huy tối đa khả năng củ cấp dưới
song dễ dẫn đến tình trạng người lãnh đạo thiếu trách nhiệm; tình trạng hỗn
loạn, vô chính phủ.
1.2.4 Phong cách lãnh đạo định hướng mục tiêu


Trong loại phong cách lãnh đạo này, có thể chia nhỏ thành cáx phong
cách lãnh đạo như sau:
Phong cách chỉ đạo trực tiếp: Giải thích cho cấp dưới về những gì mà
người lãnh đạo mong đợi ở họ. Người lãnh đạo đưa ra những chỉ dẫn, luật lệ, kế
hoạch và tiêu chuẩn cụ thể.
Phong cách hỗ trợ: Đối xử công bằng và thân thiện với những người
cấp dưới trong khi theo đuổi sự hoàn thiện các hoạt động của họ. Quan tâm tới
nhu cầu khuyến khích họ tạo ra bầu không khí hợp tác và thân thiện.
Phong cách tham gia: Tham vấn với những người dưới quyền, theo
đuổi những đề nghị của họ, quan tâm đặc biệt tới những đề nghị đó khi ra quyết
định.
Phong cách lãnh đạo theo kết quả đạt được: Đặt ra các mục tiêu, thách
thức và khuyến khích cấp dưới làm việc tốt và thể hiện sự tin tưởng và năng lực
của nhóm.
1.2.5 Phong cách lãnh đạo Lêninnít
V.I.Lênin đã đề xuất một cách toàn diện những luận điểm quan trọng
nhất về phong cách lãnh đạo xã hội chủ nghĩa và được gọi là phong cách
lêninnít. Cơ sở của phong cách lãnh đạo này là phương pháp biện chứng mácxít,
là quan điểm cách mạng phê phán.

Theo V.I.Lênin, trong chủ nghĩa xã hội cần có những thủ thuật và
phương pháp lãnh đạo mới, phù hợp với những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản.
Phong cách lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền được hình thành
dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, trong đó theo
V.I.Lênin, “đường lối chính trị đúng nguyên tắc là đường lối duy nhất, có hiệu
lực” là những yếu tố có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến phong cách lãnh đạo của
Đảng và cá nhân người lãnh đạo.
Phong cách lãnh đạo Lêninnít gắn với tư tường - chính trị; đạo đức tâm lý; nghiệp vụ - tổ chức của người lãnh đạo. V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh
đến tinh thần trách nhiệm đối với công việc được giao, sự lịch thiệp, tế nhị trong
xử thế, thái độ tôn trọng, ân cần của người lãnh đạo đối với cấp dưới.
1.3. Các dấu hiệu nhận biết phong cách lãnh đạo
- Việc người lãnh đạo phân bố quyền hạn trong quá trình quản lý, lãnh đạo.
- Những phương pháp lãnh đạo chủ yếu của người đó.
- Quá trình hình thành và thông qua quyết định của người đó.
- Cách thức người đó tiếp xúc với những người dưới quyền.


- Hiệu suất lãnh đạo của tập thể khi vắng mặt người đó.
- Thái độ của người đó trước đề xuất hoặc phản ứng của quần chúng.
- Cách người đó giải quyết mối tương quan giữa nhiệm vụ chính trị với

những nhiệm vụ về tâm lý xã hội.
- Hành vi của người đó khi thiếu tri thức khoa học.
- Tinh thần trách nhiệm thường xuyên của người đó.
- Tác động qua lại giữa người đó và những người dưới quyền.
- Phưcmg pháp duy trì kỷ luật lãnh đạo của người đó trong tập thể.
- Tính hợp tác, tưomg trợ trong tập thể.
- Tính độc lập, chủ động tự quản của người dưới quyền trong tập thể.
- Tính nghiêm khắc của các yêu cầu do người lãnh đạo đề ra.

- Thái độ của người lãnh đạo đối với những sáng kiến, sáng tạo của người
dưới quyền.
- Thái độ nghiêm khắc của người lãnh đạo đối vói chính mình.
2. NHỮNG YÊU CẦU VÀ BIỂU HIỆN ĐẶC TRƯNG CỦA PHONG
CÁCH LÃNH ĐẠO CỦA NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ.
2.1. Những yêu cầu của phong cách lãnh đạo của người lãnh đạo, quản lý cơ
sở
Cấp cơ sở là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng
và chính sách, pháp luật của nhà nước.
Để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được giao, người lãnh đạo các tổ chức
trong hệ thống chính trị cấp cơ sở phải gần gũi, sâu sát và am hiểu quần chúng,
có khả năng tuyên truyền, vận động, tập hợp, thu hút quần chúng.
Công tác lãnh đạo, quản lý ở cấp cơ sở là công tác có tính tổng hợp và rất
phức tạp. Mục tiêu, hiệu quả mà lãnh đạo cấp cơsở hướng tới là sự phát triển
kinh tế - xã hội, văn hóa, an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội ở địa
phương, đó là sự đồng thuận, đoàn kết, là niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo
của Đảng. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, môi trường lãnh đạo ở xã, phường, thị ừấn liên
quan đến phạm vi cả nước, thậm chí cả khu vực và thế giới.
Cấp cơ sở cũng là cấp đang diễn ra sự thay đổi nhanh chóng về nhiều lĩnh
vực và ngày càng gia tăng tính phức tạp. Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển
các khu công nghiệp, v.v. đã làm cho bộ mặt xã, phường thay đổi từng ngày theo
hướng hiện đại, song cũng xuất hiện hàng loạt những vấn đề khó khăn, bức xúc
này sinh như: vấn đề đất đai của người nông dân, chuyển đổi việc làm, tệ nạn xã
hội, môi trường sống, v.v..


Người lãnh đạo Đảng, quản lý nhà nước, lãnh đạo các đoàn thể quần chúng
cần mở rộng dân chủ, bàn bạc, hợp tác, tạo điều kiện cho người dân cùng tham
gia vào việc ra quyết định, giải quyết những vấn đề bức xúc nảy sinh thì mới có

thể có được hiệu quả, mới có thể đưa chủ trương, đường lối của Đáng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống.
Quán triệt quan điểm phục vụ nhân dân, nâng cao tinh thần trách nhiệm, hợp
tác, chú trọng mở rộng quy chế dân chủ, thực sự gần dân, đi sâu, đi sát dân
chúng, khiêm tốn học hỏi, cầu thị, nâng cao tính khoa học, tính thiết thực và tính
hiệu quả, v.v..
Đây chính là những yêu cầu về mặt tác phong lãnh đạo (biểu hiện của phong
cách lãnh đạo) của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở ở nước ta hiện nay.
2.2. Khái niệm và những biểu hiện đặc trưng của phong cá lãnh đạo của
người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở
2.2.1. Khái niệm phong cách lãnh đạo của cản bộ lãnh đạ quản lý ở cơ sở
Phong cách lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở 1 mẫu hành vi
mà người lãnh đạo, quản lý lựa chọn nhằm tác động và ảnh hưởng có hiệu quả
đến cấp dưới và quần chúng nhân dân tại cơ sở. Nó được biểu hiện qua các tác
phong làm việc dân chủ khoa học, hiệu quả và thiết thực, đi sâu đi sát quần
chúng, tô trọng và lắng nghe quần chúng, khiêm tốn học hỏi và thực sự cầu thị,
năng động và sáng tạo, gương mẫu và tiên phong.
2.2.2. Những biểu hiện đặc trưng của phong cách lãnh đạo của cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở cơ sở
2.2.2.1. Tác phong làm việc dân chủ
Tác phong làm việc dân chủ là đặc trưng cơ bản của phong cách lãnh đạo ở
cấp xã, nó sẽ khơi dậy được mọi sự tham gia nhiệt tình và những đóng góp sáng
tạo của quần chúng trong việc tạo ra các quyết định, chỉ thị, trong việc tổ chức
thực hiện những đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước ở cơ sở có hiệu quả.
2.2.2.2. Tác phong làm việc khoa học
Tác phong làm việc khoa học thể hiện đặc điểm nghiệp vụ tổ chức của
phong cách lãnh đạo cấp cơ sở. Lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở hiện nay khác hẳn
với thời kỳ bao cấp. Người lãnh đạo, quản lý không chỉ có nhiệt tình cách mạng,
có đạo đức mà cần thiết phải có trình độ chuyên môn, trí tuệ.

Cấp cơ sở là cấp tổ chức thực hiện nên đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý phải
có năng lực tổ chức, kỹ năng giao tiếp, am hiểu con người và sử dụng con người
đúng việc, đúng chỗ.


2.2.2.3. Tác phong làm việc hiệu quả, thiết thực
Tính hiệu quả thiết thực là tiêu chí đánh giá tài - đức của cán bộ lãnh đạo,
đánh giá sự phù hợp hay không của phong cách lãnh đạo.
Cấp cơ sở là nơi hiện thực hóa, đưa đường lối chủ trương, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống, vì vậy đòi hỏi tác phong làm việc của
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải đảm bảo tính hiệu quả và thiết thực khi
đưa ra các quyết định quản lý và tổ chức thực hiện.
2.2.2.4. Tác phong đi sâu đi sát quần chúng
Tác phong đi sâu đi sát quần chúng là đặc trưng riêng biệt của phong cách
lãnh đạo cấp cơ sở. Có đi sâu đi sát quần chúng mới có được tác phong khoa
học, dân chủ, tác phong hiệu quả và thiết thực.
2.2.2.5. Tác phong tôn trọng và lắng nghe ý kiến quần chúng
Dân là gốc nước, dân là chủ, mọi nguồn sức mạnh, trí tuệ, sáng tạo đều từ
nhân dân mà ra. Chính vì thế tác phong tôn trọng và lắng nghe quần chúng
không chỉ là đặc trưng cơ bản của phong cách lãnh đạo cấp cơ sở mà còn là
nguyên tắc làm việc, nguyên tắc ứng xử của người lãnh đạo.
2.2.2.6. Tác phong khiêm tốn học hỏi và thực sự cầu thị
Khiêm tốn học hỏi sẽ giúp cho cản bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở tiến bộ, có
thêm kinh nghiệm, tri thức, kỹ năng để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Người lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở có phong cách khiêm tốn học hỏi và thực
sự cầu thị sẽ dễ gần được quần chúng, chiếm được sự cảm tình, tôn trọng của
quần chúng.
2.2.2.7. Tác phong làm việc năng động và sáng tạo
Người lãnh đạo năng động, sáng tạo phải là người nhạy bén trong việc phát
hiện cái mới, ủng hộ những cái mới tích cực, nh5 nỏ lên thành diện rộng, thành

phong ưào để đời sống vật chất, tir thần của nhân dân ở cơ sở ngày càng được
cải thiện, đổi mới, Vs minh hơn.
2.2.2.6. Tác phong làm việc gương mẫu và tiên phong
Tính gương mẫu, tiên phong của cán bộ, đảng viên là yếu tố đảm bào vai
trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, tạo được sự tín nhiệm, niềm tin của nhân
dân. Để tạo ra một bước chuyển biến mới trong đời sống chính trị, kinh tế, văn
hóa, v.v. rất cần đến phong cách, tác phong gương mẫu, tiên phong của những
người cán bộ lãnh đạo, quản lý để qua đó người dân mến phục, noi theo và tin
tưởng.
3. MỘT SỐ YÊU TỐ HÌNH THÀNH VÀ PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG,
RÈN LUYỆN PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO,


QUẢN LÝ Ở CƠ SỞ
3.1. Một số yếu tố hình thành phong cách lãnh đạo của người cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở cơsở
Khí chất.
Tri thức.
Phẩm chất chính trị, đạo đức.
Cơ chế, chính sách.
3.2. Phương hướng xây dựng, rèn luyện phong cách lãnh đạo cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở
3.2.1. Rèn luyện phong cách lãnh đạo lêninnit
Phong cách lãnh đạo lêninnít là phong cách lãnh đạo của Đảng Cộng sản
cầm quyền. Người cán bộ lãnh đạo cơ sở cần rèn
luyện phong cách lãnh đạo lêninnít là thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; tính
tư tưởng cao, tính nguyên tắc Đảng; mối liên hệ thường xuyên với quần chúng;
chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tính thiết thực, hiệu quả, thông thạo
công việc.
3.2.2. Khắc phục phong cách lãnh đạo quan liêu

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nhiều lần
nhấn mạnh: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; đảng viên, lãnh đạo đều
“từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”. Người lãnh đạo theo quan
điểm Hồ Chí Minh là “công bộc của dân”, là “đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Chính vì thế trong công tác lãnh đạo phải xuất phát từ quan điểm: Dân là gốc.
Nếu xa dân, tách rời dân chúng sẽ dẫn đến phong cách quan liêu.
Phong cách lãnh đạo không tự nhiên mà có. Xây dựng và hoàn thiện phong
cách lãnh đạo của người cán bộ cơ sở là một quá trình có chủ đích, có định
hướng, đòi hỏi mỗi người lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải tự rèn luyện bồi
dưỡng mới có được, đặc biệt là kỹ năng áp dụng linh hoạt, hợp lý các phong
cách, thủ thuật lãnh đạo với một đối tượng cụ thể trong một tình huống cụ thể.
Muốn khắc phục phong cách lãnh đạo quan liêu cần:
- Chú trọng tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, hình thành ý
thức và tâm lý xã hội về chống phong cách quan liêu không chỉ trong đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý mà trong toàn xã hội.
- Xây dựng cơ sở pháp lý chống phong cách lãnh đạo quan liêu.
- Hoàn thiện thể chế lãnh đạo, quản lý trong đó quy định rõ chức năng,
nhiệm vụ của từng vị trí chức danh, quy định sự tương ứng giữa chức vụ, thẩm
quyền và trách nhiệm.


Chú trọng sử dụng thông tin đại chúng, dư luận xã hội đểkhắc phục
phong cách quan liêu. Tăng cường vai trò kiểm của nhân dân.
- Xây dựng văn hóa lãnh đạo, tăng cường thực hiện pháp và trật tự pháp
luật cho mỗi cán bộ, công chức.
Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, những giải pháp nêu cần được tiến hành
đồng bộ, gắn liền với những nội dung cải cách hành chính, nhất là cải cách cơ
cấu tổ chức bộ máy và quá trình chuyên nghiệp hóa đội ngũ cán bộ, công chức
nói chung và cấp cơ sở nói riêng, khắc phục phong cách quan liêu cần chú trọng
thểhiện đồng bộ các giải pháp khác.

3.2.3. Tăng cường rèn luyện, nâng cao lập trường tư tưởng - chính trị của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở
Những phẩm chất tư tưởng - chính trị là linh hồn sống củ người lãnh đạo, có
vai trò định hướng cho hoạt động của người lãnh đạo, là cơ sở của phong cách
lãnh đạo có tính nguyên tắc đảng, định hướng xã hội chủ nghĩa, thống nhất giữa
lời nói với việc làm, lý luận với thực tiễn, liên hệ mật thiết vói quần chúng.
Xây dựng, rèn luyện, đổi mới phong cách lãnh đạo cấp cơ sở theo hướng dân
chủ, khoa học và thiết thực.
Thực hiện liên hệ mật thiết với quần chúng còn là cơ sở để thực hiện nguyên
tắc dân chủ trong lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở. Thực hiện yêu cầu chính trị và tư
tưởng quan trọng để đảm bảo cho quần chúng thực sự tham gia công tác lãnh
đạo, quản lý cấp cơ sở biết kết hợp linh hoạt giữa chế độ dân chủ với chế độ thủ
trưởng trong công tác của mình.
3.2.4. Rèn luyện những phẩm chất tâm lý - đạo đức của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp cơ sở
Những phẩm chất tâm lý - đạo đức là cơ sở tạo nên cái riêngtrong phong
cách lãnh đạo, quản lý. Phong cách của người lãnh đạo bao gồm tính trung thực,
độc lập, kiên quyết, cương nghị và linh hoạt, đòi hỏi cao, thái độ ân cần, lịch
thiệp, sự nhạy bén, sáng tạo. Những phẩm chất này được biểu hiện hàng ngày
trong hoạt động, trong phong cách làm việc của người lãnh đạo và gắn liền với
hiệu quả làm việc.
Người cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở cần chú ý rèn luyện tính dân chủ trong
công tác, quan hệ của người lãnh đạo, tính đòi hỏi cao và giữ nguyên tắc; sự tế
nhị, lịch thiệp và tự chủ trong giao tiếp; sự khiêm tốn và chân thành, thường
xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng - cần, kiệm, liêm, chính. Biểu hiện cao nhất
của đạo đức cách mạng mà xã hội trông chờ ở người lãnh đạo là trong hành
động luôn lấy sự nghiệp chung, lợi ích chung làm trọng.
-



3.2.5. Chú trọng bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao năng lực tổ chức cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở để rèn luyện, đổi mới phong cách lãnh
đạo
Trong phong cách lãnh đạo những đặc điểm về mặt nghiệp vụ - tổ chức có
vị trí hết sức quan trọng vì nó phản ánh hoạt động của người lãnh đạo, quản lý.
Để xây dựng, đổi mới phong cách lãnh đạo theo hướng dân chủ, khoa học,
thiết thực đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải chú trọng rèn luyện để
có được quan điểm khoa học, tính tổng hợp, tầm nhìn xa, kỹ năng tổ chức, kiểm
tra và giám sát.
Một yêu cầu không thể thiếu đối với người lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện
nay trong công tác cần phải chú trọng rèn luyện kỹ năng đánh giá và sử dụng
cán bộ, kỹ năng đổi mới kỹ thuật và đổi mới tổ chức, cần biết tiếp thu và vận
dụng linh hoạt, sáng tạonhững thành tựu của khoa học lãnh đạo hiện đại, hình
thành nhí kỹ năng lãnh đạo hiện đại; đảm bảo tính hiệu quà trong công tác phải
tháo vát, nhạy bén, có kỹ năng cập nhật những thay đổi trong quá trình phát triển
về kinh tế, văn hóa, xã hội, v.v..
3.2.6. Rèn luyện, đổi mới phong cách lãnh đạo thông qua thực tiễn sự nghiệp
đổi mới, hội nhập khu vực và quốc tế
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Muốn lãnh đạo được tin, dân yêu, đội
ngũ cán bộ cấp cơ sở phải học tập, rèn luyện thực tiễn. Chính thực tiễn sôi động
của sự nghiệp đổi mới, hội nhập khu vực và quốc tế giúp cho người cán bộ cơ sở
tự ý thức được sự hạn chế, thiếu hụt của bản thân để có kế hoạch học tập rèn
luyện. Đồng thời, giúp cán bộ cấp cơ sở bổ sung, hoàn thiện thêm những thiếu
hụt về kiến thức, năng lực, kinh nghiệm và năng công tác, vận động quần chúng
đáp ứng với yêu cầu của sựnghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.
Thực tiễn là môi trường rèn luyện tài - đức của cán bộ lãr đạo. Lãnh đạo ở
cấp trung gian và cấp cơ sở là nơi hiện thực hóa đưa đường lối, chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống. Vì thế đòi hỏi tác
phong làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải được rèn luyện
trong thực tiễn sựnghiệp đổi mới và hội nhập kinh tế sâu rộng, đảm bảo các

quyế định quản lý khi đưa ra phải phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn, tránh xa rời
thực tiễn. Muốn vậy, người cán bộ cấp cơ sở phải học tập chính ngay từ thực
tiễn công việc hàng ngày, học từ người dân; học từ đồng chí, đồng nghiệp, học
từ việc tổng kết thực tiễn, tổng kết những mô hình mới, những cách làm hay.
Trong giai đoạn hiện nay người lãnh đạo, quản lý không chỉ lãnh đạo hành chính
đơn thuần mà còn thực hiện vai trò lãnh đạo kinh tế. Sự nghiệp đổi mới và hội


nhập kinh tế đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ thụ động chờ hướng
dẫn, chỉ đạo của cấp trên mà phải chủ động, nắm bắt thực tiễn, tìm ra hướng đi,
hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp cho địa phương mình. Thực tiễn
chính là trường học lớn giúp người cán bộ cơ sở phải vừa lăn lộn chỉ đạo thực
tiễn vừa đúc rút những kinh nghiệm quý cho chính mình, thực tiễn là người thầy
nghiêm khắc nhất để người cán bộ cấp cơ sở rèn luyện phong cách lãnh đạo,
quản lý.
Sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục, công tác xóa đói, giảm
nghèo, đền ơn đáp nghĩa, chuyển đổi vật nuôi, cây trồng v.v. đòi hỏi các cán bộ
lãnh đạo cấp cơ sở phải tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng
và Nhà nước sát đòi hỏi thực tiễn, hiệu quả, thiết thực, tránh phô trương, hình
thức, qua loa, đại khải, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân.
Chính vì vậy đổi mới phong cách lãnh đạo thông qua thực tiễn sự nghiệp đổi mới, hội nhập
khu vực và quốc tế cũng là một yêu cầu cơ bản trong xây dựng phong cách người
lãnh đạo ở nước ta hiện nay.


BÀI 7: KỸ NĂNG ĐÁNH GIÁ, SỬ DỤNG CÁN BỘ
1. KỸ NĂNG ĐÁNH GIÁ CÁN BỘ Ở CƠ SỞ
1.1. Vai trò, ý nghĩa của đánh giá cán bộ
* Khái niệm cơ bản về cán bộ, công chức
- Theo Luật cán bộ, công chức 2010 quy định về cán bộ, công chức:

+ Cán bộ là những người được hình thành qua con đường bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ.
+ Công chức là những người được hình thành qua con đường tuyển dụng,
bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh.
+ Cán bộ, công chức cấp xã:
Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt
Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức
chính trị - xã hội;
(Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 về chức danh, số
lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị
trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã)
+ Cán bộ chuyên trách giữ chức vụ bầu cử theo nhiệm kỳ ở cấp xã (sau đây
gọi chung là cán bộ cấp xã), gồm:
Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân;
Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có
hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam);
Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức


danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
+ Công chức cấp xã có các chức danh sau đây:
Trưởng Công an;

Chỉ huy trưởng Quân sự;
Văn phòng – thống kê;
Địa chính – xây dựng – đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc
địa chính – nông nghiệp – xây dựng và môi trường (đối với xã);
Tài chính – kế toán;
Tư pháp – hộ tịch;
Văn hóa – xã hội.
* Khái niệm đánh giá cán bộ
Đánh giá cán bộ là phân tích, xem xét ưu, khuyết điểm của cán bộ từ đó rút
ra kết luận về phẩm chất và năng lực và đưa ra những định hướng phát triển, sử
dụng.
* Vai trò, ý nghĩa của đánh giá cán bộ
- Nhận xét, đánh giá cán bộ là việc hệ trọng, là khâu mở đầu (khâu tiền đề)
có ý nghĩa quyết định trong công tác cán bộ, là cơ sở để lựa chọn, bố trí sử dụng,
đề bạt, bổ nhiệm và thực hiện chính sách cán bộ.
- Đánh giá đúng cán bộ sẽ phát huy được tiềm năng của từng cán bộ và của
cả đội ngũ cán bộ. Đánh giá không đúng cán bộ sẽ dẫn đến lựa chọn nhầm
những cán bộ không đủ phẩm chất năng lực để giao những cương vị có trọng
trách, gây ảnh hưởng không tốt cho địa phương.
- Đánh giá cán bộ là công việc hết sức phức tạp vì những nguyên nhân sau:
+ Tác động của thời kỳ CNH, HĐH, xây dựng nền kinh tế thị trường, hội
nhập quốc tế làm cho các quan hệ và ý thức xã hội có sự thay đổi sâu sắc (quan
hệ xã hội - kinh tế - chính trị). Đặc biệt là những tác động tiêu cực của Kinh tế
thị trường
+ Âm mưu chống phá của các thế lực thù địch với Đảng và chế độ.


-Do những tác động như vậy nên đánh giá cán bộ càng trở nên quan trọng.
Đánh giá cán bộ góp phần xây dựng một đội ngũ cán bộ phát triển vững mạnh
toàn diện và ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, làm thất bại âm

mưu phá hoại từ bên trong của các thế lực thù địch.
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến đánh giá cán bộ:
Theo Người, ''cán bộ là gốc của công việc'', Người cho rằng để nhận xét
được cán bộ tốt thì Đảng phải thường xuyên đánh giá cán bộ và có phương pháp
đánh giá đúng. Đánh giá đúng cán bộ tức là xác định chính xác ai tốt, ai xấu, ai
mạnh chỗ nào, yếu chỗ nào, khả năng hoàn thành công việc đến đâu, quan hệ
với quần chúng ra sao để từ đó ''tìm thấy những nhân tài mới... những người hủ
hoá cũng lòi ra''
Thực tiễn cho thấy,Đánh giá cán bộ là công việc cực kỳ khó khăn nhưng rất
hệ trọng, vì vậy việc đánh giá phải có nguyên tắc, quy trình, quy chế chặt chẽ,
thống nhất trong toàn Đảng, mọi cấp, mọi ngành, bảo đảm cho công tác cán bộ
có hiệu quả.
1.2. Các kỹ năng đánh giá cán bộ ở cơ sở
1.2.1.Nguyên tắc đánh giá cán bộ ở cơ sở
Một là, Cấp uỷ Đảng mà thường xuyên và trực tiếp là ban thường vụ Đảng
uỷ cấp cơ sở thống nhất quản lý công tác đánh giá trong phạm vi trách nhiệm
được phân công
- Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc chung tối cao: Đảng trực tiếp và
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ.
Nguyên tắc này chỉ rõ: Trách nhiệm đánh giá cán bộ thuộc về cấp uỷ, tổ
chức đảng và lãnh đạo cơ quan, đơn vị nơi cán bộ công tác; cơ quan quản lý cấp
trên trực tiếp của cán bộ và bản thân cán bộ tự đánh giá.
Tập thể lãnh đạo cấp trên trực tiếp quản lý cán bộ phân tích, đánh giá ưu
điểm, khuyết điểm của cán bộ trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao để kết
luận: Hoàn thành tốt nhiệm vụ, hoàn thành ở mức thấp, không hoàn thành, hoặc
có nhiều thiếu sót, khuyết điểm.


×