Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Cảm hứng tự sự trong thơ hữu thỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (829.99 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ THANH TÂM

CẢM HỨNG THẾ SỰ
TRONG THƠ HỮU THỈNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM.

HÀ NỘI, năm 2015


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được sự
động viên giúp đỡ tận tình của các thầy giáo, cô giáo, của gia đình và bạn bè.
Tôi xin được ghi nhớ và gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả mọi người.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc nhất đến PGS.TS Lí
Hoài Thu, cô đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn của
mình.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Ngữ văn,
phòng Tư liệu Khoa Văn học, Thư viện Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Thư viện Trường ĐHSP Hà Nội 2, Thư viện Trường ĐHSP Hà Nội
1, đã quan tâm tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình
học tập và nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày 15 tháng 06 năm 2015
Tác giả
Nguyễn Thị Thanh Tâm



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi trình bày trong luận văn tốt
nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, có tham khảo ý kiến của
những người đi trước, dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của PGS.TS Lí
Hoài Thu- người hướng dẫn khoa học của tôi.
Tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của tôi trong luận văn
này.

Hà Nội, ngày 15 tháng 06 năm 2015
Người viết

Nguyễn Thị Thanh Tâm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề. ........................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu.................................................................................. 6
4. Đối tượng nghiên cứu. ............................................................................... 6
5. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................... 6
6. Phương pháp nghiên cứu. .......................................................................... 7
7. Đóng góp của luận văn. ............................................................................. 7
8. Cấu trúc luận văn. ...................................................................................... 7
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................... 8
Chương 1: Vấn đề cảm hứng, cảm hứng thế sự trong thơ và hành trình thơ
Hữu Thỉnh. ........................................................................................................ 8
1.1. Vấn đề cảm hứng và cảm hứng thế sự trong thơ ................................. 8
1.2. Cảm hứng thế sự trong thơ sau 1975 ................................................. 11

1.3. Hành trình thơ Hữu Thỉnh. ............................................................... 14
Chương 2: Những nguồn cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh................... 26
2.1. Cảm hứng trước những đổi thay của thời cuộc, quê hương, đất nước.
................................................................................................................... 26
2.2. Cảm hứng về đời sống nhân tình ....................................................... 36
2.3. Cảm hứng về thời gian. ...................................................................... 49
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh. ...... 61
3.1. Hệ thống hình ảnh, biểu tượng. ......................................................... 61
3.2. Ngôn từ thơ. ....................................... Error! Bookmark not defined.
3.3. Giọng điệu.......................................................................................... 83
PHẦN KẾT LUẬN ......................................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 97


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, ông cùng thời với Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, Nguyễn Duy,
Hoàng Nhuận Cầm, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh…Những nhà thơ đã làm
nên cả một dàn hợp xướng đa dạng và phong phú. Sau khi chiến tranh kết
thúc, họ đã tìm về với cảm hứng thế sự và lại tiếp tục đóng góp cho thơ ca đất
nước thời kỳ đổi mới những vần thơ giàu nhiệt huyết . Cùng với thời gian, thế
hệ các nhà thơ này trở nên già dặn trong cách nghĩ suy và khi nhận ra những
biến đổi của đời sống xã hội, họ đã đem vào trong sáng tác của mình những
suy tư, và nhiều khi cả nỗi cô đơn, hoài nghi,âu lo về cuộc đời, về con người.
Là nhà thơ tiêu biểu cho nền thơ chống Mỹ và thơ ca đương đại, sáng
tác của Hữu Thỉnh khá liền mạch, tiêu biểu cho quá trình vận động của thơ ca
cách mạng Việt Nam trong những thập niên gần đây và đã gây được tiếng

vang lớn trên thi đàn. Thơ Hữu Thỉnh vừa mang những đặc điểm chung của
thơ ca kháng chiến chống Mĩ, vừa có những nét độc đáo riêng về cảm hứng
và thi pháp. Ông đã tạo dựng được một tiếng thơ mới mẻ bằng một loạt những
tác phẩm thơ trữ tình và trường ca, có phong cách, tiếng nói riêng, không bị
khuất lẫn trong dàn đồng ca chung của thế hệ. Nhiều bài thơ của Hữu Thỉnh
đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường và được các nhạc sỹ phổ nhạc.
Thơ Hữu Thỉnh đã ghi lại cái hào khí của thời đại anh hùng, nhiệt tình khẳng
định lý tưởng, khí thế sục sôi, hào sảng qua giọng thơ khỏe khoắn, vui tươi
mà sâu sắc..
Là một trong những cây bút chủ lực của thơ ca chống Mỹ và thơ ca
đương đại, thơ Hữu Thỉnh có nhiều trăn trở, suy tư về đời sống và số phận
con người. Ông buồn đau khi chứng kiến những bất công ngang trái của cuộc
đời. Nhà thơ nói cái xót xa cũng là để thức tỉnh, để phát đi một tín hiệu cấp


2

thiết: “con người đừng tự biến mình thành một thế giới vô cảm, lạnh lùng, trái
tim đừng chai lì trước nỗi đau đồng loại”. Hữu Thỉnh thể hiện nó bằng một
tiếng thơ vừa đậm chất dân tộc, vừa hiện đại.
1.2. Thơ Hữu Thỉnh được coi như bản trường ca lịch sử ghi lại những
năm tháng đấu tranh ác liệt của dân tộc. Khi chiến tranh và bom đạn đã đi
qua, nhà thơ đã giã từ màu xanh áo lính trở về với cuộc sống thường ngày.
Ngòi bút của ông lại hướng vào cuộc hành trình trở về với biển. Cuộc hành
trình đó vang lên với âm hưởng như một khúc “trường ca biển” hào hùng, dữ
dội của người lính. Họ phải chịu đựng hy sinh, gian khổ trong cảm giác thiệt
thòi như “những dòng sông hóa thạch” cầm cụi và lặng lẽ. Hòa mình vào
công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh, ngòi bút của Hữu Thỉnh lại
hướng vào cuộc hành trình đi tìm những giá trị nhân bản mà cuộc sống xô bồ
trước mắt đã làm mờ nhạt đi. Hai tập thơ Thư mùa đông (1994) và Thương

lượng với thời gian (2005) phản ánh chân thực những suy tư, trăn trở của ông
về cuộc đời và con người hiện đại. Việc đi sâu tìm hiểu cảm hứng thế sự trong
hai tập thơ trên sẽ giúp người đọc hiểu rõ hơn về quan điểm sáng tác, đặc
điểm phong cách và cá tính sáng tạo của nhà thơ Hữu Thỉnh.Vì những lí do
trên, chúng tôi đã chọn đề tài Cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh (qua
Thư mùa đông và Thương lượng với thời gian) cho luận văn thạc sĩ của mình.

2. Lịch sử vấn đề.
Hữu Thỉnh là nhà thơ đương đại nổi tiếng với sự nghiệp thi ca không
nhỏ. Những sáng tác của ông đã thu hút được sự quan tâm, chú ý của giới phê
bình văn học. Nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về thơ ông, đặc biệt là
những nghiên cứu liên quan tới Thư mùa đông và Thương lượng với thời gian
đã đề cập đến nhiều khía cạnh nổi bật của thơ Hữu Thỉnh.
Bài Thư mùa đông của Hữu Thỉnh của tác giả Trần Mạnh Hảo in trên
báo Văn nghệ Quân đội số 4/1996 đã khẳng định những đặc sắc của thơ Hữu


3

Thỉnh qua tập thơ Thư mùa đông như kiệm lời, hàm súc nhưng thể hiện sâu
sắc xúc cảm trong lòng người đọc. Điều đáng chú ý là bài viết đã nhận ra
được chất đồng quê, sự “ hồn nhiên” và cả nỗi cô đơn, đau buồn của thơ Hữu
Thỉnh. Đến tập thơ Thượng lượng với thời gian, thơ ông có một bước đột phá
mới bởi nó đặc biệt quan tâm tới vấn đề đời tư, thế sự, những trăn trở, suy tư
và đầy trải nghiệm của một hồn thơ nặng lòng với đời.
Trong bài viết Đọc “Đường tới thành phố” của Vũ Quần Phương in
trên tạp chí Văn nghệ Quân đội số 43 năm 1997 đã phát hiện “ Hữu Thỉnh
không xây dựng những tính cách hoàn chỉnh, anh chỉ dừng lại đi sâu vào một
vài tâm trạng, một vài mẫu người. Phần xúc động nhất và tạo nên tầm khái
quát của trường ca chính là những mẫu người đó…”. Thiều Mai cũng có

những nhận xét khá tinh tế về nhiều phương diện trong bài viết Đọc “Đường
tới thành phố” của Hữu Thỉnh: “Cảm xúc dạt dào, phong phú và mạnh mẽ là
chỗ mạnh của Hữu Thỉnh… Trong lòng cuộc chiến đấu chống Mỹ vĩ đại của
nhân dân, Hữu Thỉnh thường nghĩ về những vấn đề lớn lao của đất nước, của
thời đi đại. Anh khao khát thơ mình phản ánh và lí giải được những điều đó…
Thành công chủ yếu nhất của Hữu Thỉnh cũng chính là thể hiện vừa sâu, vừa
tỉnh, vừa khái quát, vừa tỉ mỉ, chí lí những tình cảm, những suy ngẫm của
người chiến sỹ trong cuộc chiến đấu chống Mỹ. Cái vững của ngòi bút Hữu
Thỉnh là miêu tả trực diện những tổn thất mà tác phẩm vẫn không chìm xuống
trong không khí bi đát, trái lại vẫn thấy được xu thế tiến lên của cuộc chiến
đấu…”.
Trong cuốn Văn chương cảm và luận in 1998 của Nguyễn Trọng Tạo
có bài Hữu Thỉnh- thành phố hồn quê cũng đã đánh giá cao yếu tố truyền
thống, yếu tố thôn quê dân dã trong những sáng tác của Hữu Thỉnh. Ông cho
rằng chính những yếu tố dân gian và truyền thống của dân tộc đã làm nên
phong cách và khẳng định vị thế của thơ Hữu Thỉnh trên thi đàn đương đại.


4

Năm 1999, trên tạp chí Văn học số 12, nhà nghiên cứu phê bình Lý
Hoài Thu có bài Thơ Hữu Thỉnh -một hướng tìm tòi và sáng tạo từ dân tộc
đến hiện đại. Bài viết đã đưa ra những minh chứng cho ý kiến “luôn biết đào
sâu, khai thác cái hay, cái đẹp của dân gian, dân tộc”,“cách tân”,“sáng tạo cái
mới” của Hữu Thỉnh. Điều đó, tạo nên một phong cách thơ kết hợp nhuần nhị
truyền thống và hiện đại, có sức cuốn hút. Khởi đầu từ cái nôi nghệ thuật của
Trường Sơn khói lửa, nhà thơ đã viết về cảm hứng về Tổ quốc, về nhân dân
anh hùng, về khát vọng độc lập. Dù viết về đề tài Tổ quốc hay những số phận
con người, thơ Hữu Thỉnh vẫn thấm đẫm sắc vị dân gian: “ Bỗng nhận ra
hương ổi/ Phả vào trong gió se/ Sương chùng chình qua ngõ/ Hình như thu đã

về… (Sang thu).
Về mảng thơ tình, Hữu Thỉnh viết không nhiều, nhưng những bài thơ
của ông đều cho người đọc thấy dư vị đắng, xót xa của những cảm xúc khi
yêu. Điều đặc biệt làm nên sức hấp dẫn của thơ Hữu Thỉnh là sự kết hợp giữa
yếu tố truyền thống và yếu tố hiện đại, thể hiện ý thức luôn biết chủ động
“khai thác cái hay, cái đẹp của dân gian, của dân tộc”, và “biết dồn tâm lực,
tài năng cho việc tìm kiếm, sáng tạo cái mới”.
Nhà phê bình Vũ Nho trong Vài cảm nhận về Thương lượng với thời
gian của Hữu Thỉnh đã chỉ ra một Hữu Thỉnh thể hiện được bản lĩnh của một
nhà thơ có tầm vóc, được nhiều bạn đọc yêu thích, ngưỡng mộ, những vần thơ
của ông đã làm say đắm biết bao thế hệ bạn đọc bởi những cảm nhận rất tinh
tế và tài hoa. Trong ông không còn cái bồng bột mạnh mẽ, tinh tế của buổi
đầu biết yêu, nhưng tình yêu ấy lại được cảm nhận theo những mùi vị riêng.
Bài viết Thơ Hữu Thỉnh của tác giả Vũ Nho in trong Đi giữa miền thơ
năm 2001 cũng đã nhận xét, đánh giá bao quát về thơ Hữu Thỉnh.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp có bài viết Hữu Thỉnh và quá trình
tự đổi mới thơ in trên tạp chí Văn học số 9/2003 đã đi sâu vào những quan


5

niệm và ý thức đổi mới thơ ca của Hữu Thỉnh. Những vần thơ của ông thật
gần gũi, bình dị và chân thật, gần với đời sống thường nhật, chú trọng phản
ánh đời sống với những suy tư, trăn trở… Chính điều đó làm nên sức lôi cuốn
kì diệu của thơ Hữu Thỉnh.
Năm 2005, tác giả Lưu Khánh Thơ có bài viết Hữu Thỉnh một phong
cách thơ sáng tạo đăng trên tạp chí văn học, sau này được tập hợp vào cuốn
Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại đã khẳng định phẩm chất thơ
Hữu Thỉnh là “đằm thắm, đôn hậu, nghiêng về phía rợp mát” và “chìm lắng
yêu thương”. Đồng thời tác giả nhấn mạnh khả năng tiếp thu truyền thống dân

tộc trong cách ví, cách nói, đặc biệt là cách tư duy, liên tưởng độc đáo của nhà
thơ.
Năm 2011, nhà phê bình Vũ Nho có bài Sức bền của một ngòi bút, in
trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam đã cho rằng: Thơ Hữu Thỉnh đẹp
một vẻ đẹp đa dạng. Ban đầu là sự hồn nhiên, tươi tắn, tinh tế của một người
lính trẻ. Sau là những chiêm nghiệm, suy tư, trăn trở của người lính từng trải.
Rồi từ một niềm tin tuyệt đối đến chỗ có lúc phân vân, hoang mang nhưng
vẫn kiên trì “…tin, sau cay đắng vẫn tin” (Thưa thầy). Bên cạnh vẻ đẹp của
những người lính trong chiến tranh là vẻ đẹp của quê hương, đất nước, vẻ đẹp
bình dị của làng quê với những cỏ hội hè, cau ấp bẹ, cây rơm gầy, cuốc kêu
ngoài bến xa, bầu trời trên giàn mướp…
Năm 2014, nhà nghiên cứu phê bình văn học Lí Hoài Thu lại có bài
“Cây như là sinh mệnh thứ hai của thơ Hữu Thỉnh” đăng trên tạp chí Nghiên
cứu văn học số 12 đã khẳng định: “Trong thế giới nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh,
“hình cây bóng lá” là một kiểu nhân vật trữ tình chứa đựng nhiều cung bậc
tình cảm, những vui buồn riêng tư và nỗi niềm nhân thế”. “Cây và hệ thống
các thủ pháp miêu tả và biểu hiện, so sánh, ví von, nhân hóa và lạ hóa…cũng
không là ngoại lệ. Cây trong thơ Hữu Thỉnh là dấu ấn thi pháp, là gương mặt


6

và số phận con người, là kí ức dân tộc và tín hiệu văn hóa…Một cách khái
quát: Cây là sinh mệnh thứ hai có sức sống và độ ám ảnh, là yếu tố nổi bật lập
nên một phong cách thơ độc đáo và dồi dào tiềm lực sáng tạo”.
Ngoài những bài viết tiêu biểu trên, thơ Hữu Thỉnh còn trở thành đề tài
nghiên cứu của nhiều chuyên luận, luận văn, luận án, khóa luận…Chuyên
luận Thi pháp thơ Hữu Thỉnh của tác giả Nguyễn Nguyên Tản do Nhà xuất
bản Hội nhà văn Hà Nội xuất bản năm 2005 đã khảo cứu khá toàn diện những
sáng tác của Hữu Thỉnh nhìn từ góc độ thi pháp. Những chặng đường thơ

Hữu Thỉnh ( Nguyễn Minh Phương); Thế giới nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh qua
hai tập thơ Thư mùa đông và Thương lượng với thời gian của Nguyễn Thị
Ngọc Linh…
Tiếp nối những công trình đã có, luận văn đi vào nghiên cứu, tìm hiểu
Cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh để có cái nhìn toàn diện, khái quát
hơn về tư duy nghệ thuật, cảm hứng sáng tạo và phong cách thơ Hữu Thỉnh.

3. Mục đích nghiên cứu.
Luận văn nghiên cứu Cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh nhằm
nhận diện được chân dung thơ Hữu Thỉnh, từ đó khái quát được những vấn đề
về tài năng, cá tính nghệ thuật của nhà thơ.

4. Đối tượng nghiên cứu.
Trong luận văn, chúng tôi đi sâu nghiên cứu những biểu hiện và đặc
điểm của cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh.

5. Phạm vi nghiên cứu.
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu, khảo sát hai tập thơ Thư mùa
đông (1994) và Thương lượng với thời gian (2005) của Hữu Thỉnh. Ngoài ra,
chúng tôi còn tham khảo thêm một số bài thơ và hai trường ca Biển và Đường
tới thành phố.


7

6. Phương pháp nghiên cứu.
Đế thực hiện đề tài ,chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
chính sau đây:
- Phương pháp loại hình.
- Phương pháp cấu trúc- hệ thống

- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp tiểu sử.

7. Đóng góp của luận văn.
Thông qua việc khám phá Cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh,
luận văn đưa đến một cái nhìn toàn diện, cái nhìn vào bên trong, từ đó khắc
họa nên chân dung nhà thơ Hữu Thỉnh.

8. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng I: Vấn đề cảm hứng,cảm hứng thế sự trong thơ và hành trình
thơ Hữu Thỉnh.
Chƣơng II: Những nguồn cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh.
Chƣơng III: Nghệ thuật biểu hiện cảm hứng thế sự trong thơ Hữu
Thỉnh


8

PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1: Vấn đề cảm hứng, cảm hứng thế sự trong thơ và
hành trình thơ Hữu Thỉnh.
1.1. Vấn đề cảm hứng và cảm hứng thế sự trong thơ
Cảm hứng là một thuật ngữ từ lâu đã được các triết gia cổ Hi Lạp và
sau này là Hêghen và Bêlinxki sử dụng để chỉ trạng thái hưng phấn cao độ
của nhà văn do việc chiếm lĩnh được bản chất của cuộc sống mà họ miêu tả.
Sự chiếm lĩnh ấy bao giờ cũng bắt nguồn từ lý tưởng xã hội của nhà văn nhằm
phát triển và cải tạo thực tại. Bêlinxki coi: “Cảm hứng là điều kiện không thể

thiếu của việc tạo ra những tác phẩm đích thực”. Cảm hứng được bắt nguồn
từ cuộc sống thực tại. “Cuộc sống sẽ nuôi dưỡng và bồi đắp cảm xúc người
nghệ sỹ luôn tươi mát càng thêm phong phú”. “Đó là trạng thái tình cảm
mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật”.
Cảm hứng biểu thị sự tác động qua lại giữa tình cảm người nghệ sĩ và
thế giới khách quan. Không thể có một cảm hứng chung chung, trừu tượng,
mà cảm hứng phải cụ thể. Nghĩa là cảm hứng phải xuất phát từ một đối tượng
cụ thể bên ngoài tinh thần người nghệ sĩ, nhưng nếu thiếu đi thế giới tinh thần
nhạy cảm của người nghệ sĩ thì chưa thể có cảm hứng, nghĩa là cảm hứng
phải gắn liền với tư tưởng. Không có cảm hứng sẽ không có tác phẩm nghệ
thuật. Cảm hứng xuất hiện khi hội tụ đủ hai yếu tố khách quan và chủ quan.
Cảm hứng nghệ thuật là trạng thái tâm lí, tình cảm bao trùm lên toàn bộ
quá trình sáng tác của nhà văn nói riêng và nghệ sĩ nói chung. Đó là sự kết
tinh, tập trung cao độ của trí tuệ, cảm xúc dồi dào và trạng thái hưng phấn để
tạo thành sự kích thích, là tiền đề của tâm lý.
E.G.Ruđneva trong Dẫn luận nghiên cứu văn học quan niệm rằng: “Sự
lí giải, đánh giá sâu sắc và chân thực- lịch sử đối với các tính cách được miêu


9

tả vốn nảy sinh từ ý nghĩa dân tộc khách quan của các tính cách ấy là cảm
hứng tư tưởng sáng tạo của nhà văn và tác phẩm của nhà văn” [110,141]
Bêlinxki lại quan niệm về cảm hứng một cách cụ thể hơn: “Trong
những tác phẩm thơ đích thực, tư tưởng không phải là một khái niệm trừu
tượng, được diễn tả một cách giáo điều, mà nó tạo thành linh hồn tỏa vào
trong tác phẩm, giống như ánh sáng chiếu vào pha lê. Tư tưởng trong sáng tác
thi ca, đó chính là cảm hứng. Cảm hứng là sự thiết tha và nhiệt thành nồng
cháy gợi lên bởi một tư tưởng nào đó”. Bên cạnh đó, Bêlinxki còn đề cao vai
trò của việc nghiên cứu cảm hứng chủ đạo của nhà văn trong tác phẩm để tìm

hiểu đặc điểm sáng tác của họ.
Ở Việt Nam, vai trò của cảm hứng nghệ thuật trong sáng tạo thơ văn
nói chung cũng đã được chú ý từ rất lâu. Trong Từ điển thuật ngữ văn học,
các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi cho rằng: “Cảm hứng
chủ đạo là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ
thuật gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác
động đến những người tiếp xúc tác phẩm”[43,39]. Cảm hứng thống nhất với
đề tài, tư tưởng tác phẩm sẽ đem đến cho tác phẩm “một không khí cảm xúc
tinh thần nhất định, thống nhất tất cả các cấp độ và yếu tố của tác phẩm”, là
“cái mức căng thẳng cảm xúc mà nhờ đó nghệ sĩ khẳng định các nguyên tắc
thế giới quan của mình trong tác phẩm”[43,39]
Khi bàn luận về làm thơ, Lê Quý Đôn xem khái niệm cảm hứng như
một trạng thái đong đầy của cảm xúc: “Trong lòng có cảm xúc thực sự, rung
cảm nên lời”[39,93]. Còn Nguyễn Quýnh đã đề cao vai trò của cảm hứng
trong thơ: “Người như sông biển, chữ như nước, hứng thì như gió, gió thổi từ
sông biển cho nên nước lay động làm thành gợn, thành sóng, thành ba đào.
Hứng chạm vào người ta cho nên chữ nổi dạy, không thể nín được mà sinh ra
ở trong lòng, ngâm vịnh ở ngoài miệng, viết nên ở bút nghiên, giấy mực. Gió


10

không bám nổi vào chỗ nào nhất định, hứng cũng biến động, không ở yên,
mỗi cái tuy ở phương Đông, Tây, Nam, Bắc mà buột ra rất nhanh. Người làm
thơ không thể không có gió vậy”[39,103]
Theo cách hiểu của Phùng Quý Nhâm thì cảm hứng là: “nhiệt hứng,
niềm say mê, là sự trào dâng của tư tưởng- tình cảm cao độ của người nghệ sĩ
khi họ chiếm lĩnh bản chất của cuộc sống, của con người, nó được thể hiện và
biểu hiện một cách nghệ thuật trong tác phẩm”[105,81]
Trong Lí luận văn học- vấn đề và suy nghĩ, Huỳnh Như Phương và

Nguyễn Văn Hạnh cũng đã nhấn mạnh vai trò quyết định của cảm hứng chủ
đạo đối với sự thành công của tác phẩm: “Bộc lộ khuynh hướng tư tưởng của
tác phẩm, cảm hứng chủ đạo thấm nhuần vào toàn bộ cấu trúc của tác phẩm,
vào thế giới hình tượng bao gồm không gian, thời gian, tính cách nhân vật,
vào xung đột và cốt truyện, vào ngôn từ và giọng điệu của một bài thơ, một
truyện ngắn, một thiên tùy bút hay một cuốn tiểu thuyết”[51,210]
Vũ Tuấn Anh từng nhìn nhận: “Nhìn chung, cái tôi hiện thực -thế sự
biểu hiện thái độ tích cực- xã hội của nhà thơ: sự phẫn nộ trước những cái phi
lí, nỗi lo âu về sự xuống cấp của nhân cách và những giá trị tinh thần. Đọng
lại trong thơ là nỗi buồn, nỗi đau thế sự”[2,132]
Trong công trình Cái tôi trữ tình trong thơ, Lê Lưu Oanh đã chỉ ra một
số biểu hiện cụ thể, đặc trưng nhất của khía cạnh cái tôi thế sự- đời tư. Thứ
nhất: “Tôn trọng sự thật là mô-típ phổ biến”[108]. Thứ hai: “Trách nhiệm
công dân, đạo đức nghệ sĩ được đặt ra âm thầm nhưng lại khá quyết
liệt”[108,80]. Thứ ba: “Xuất hiện giọng nói ngược, những cái nhìn giả cổ tích
với một kiểu nhận thức lại” trước những “sự phức tạp của đời sống với sự đảo
lộn của các giá trị, những quan hệ chuẩn mực cũ ”[108,81]. Thứ 4: “Cảm
nhận về trạng thái xã hội hiện tại với những khiếm khuyết, băng hoại về môi


11

trường và nhân cách, chứa đầy những thông tin nhức nhối về số phận của con
người”[108,83]

1.2. Cảm hứng thế sự trong thơ sau 1975
Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện tâm
trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và
nhất là có nhịp điệu. Chính những cảm xúc đó đã tạo niềm cảm hứng cho các
nhà thơ sáng tác nên những vần thơ đủ sức lay động lòng người. Cảm hứng

như một sức mạnh vô hình làm biến đổi thế giới tâm tình, khơi gợi những tình
cảm mạnh mẽ, thúc đẩy nghệ sỹ sáng tạo và tạo lập những thế giới nghệ thuật
độc đáo.
Xuyên suốt hành trình sáng tác văn chương của dân tộc ta là cảm hứng
yêu nước, cảm hứng nhân đạo và cảm hứng thế sự. Theo Từ điển tiếng Việt (
Nxb Đà Nẵng 2006) thì “thế sự” tức là việc đời (gồm thời thế và thế thái nhân
tình). Nói đến cảm hứng thế sự là nói đến cảm hứng về cuộc sống đời
thường, về con người của thực tại. Những tác phẩm mang cảm hứng thế sự
thường hướng đến sinh hoạt hàng ngày của con người, khám phá mọi phức
tạp, éo le và cả cái cao quý trên hành trình đi tìm sự sống và hạnh phúc của
con người.
Cảm hứng thế sự đã xuất hiện trong thơ từ thế kỉ XV. Kế thừa cảm
hứng yêu nước và âm hưởng còn sót lại của hào khí Đông A, văn chương giai
đoạn này chuyển dần sang cảm hứng thế sự, đi vào chuyện đời tư, chuyện
người, phê phán các tệ nạn xã hội, sự suy thoái về đạo đức con người. Cảm
hứng ấy xuất hiện trong thơ Nguyễn Trãi, thơ Lê Thánh Tông, thơ Nguyễn
Bỉnh Khiêm…Cảm hứng thế sự còn tồn tại và phát triển theo tiến trình lịch sử
dân tộc. Sau hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ, đất nước ta hoàn toàn
độc lập, thống nhất, lịch sử sang một trang mới tươi sáng hơn. Đến thập kỉ 80,
đặc biệt sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), không khí đổi mới- dân chủ tác


12

động mạnh mẽ đến đời sống văn học nghệ thuật. Văn nghệ sĩ được “cởi trói”,
được tự do sáng tác. Họ có nhiều trăn trở về trách nhiệm của người cầm bút
trong sự nghiệp đổi mới nền văn học nước nhà. Khuynh hướng sử thi và cảm
hứng lãng mạn trong văn học 1945-1975 được thay thế bằng cảm hứng thế sự.
Con người sử thi được thay thế bằng con người nếm trải. Đề tài, chủ đề không
còn bó hẹp, thiên về khai thác các vấn đề liên quan đến những nhiệm vụ chính

trị trước mắt mà được mở rộng đến các đề tài về gia đình, thân phận, tình yêu,
số phận con người…Nếu như trước đây, các nhà thơ thường e ngại, né tránh,
ngại ngùng khi khai thác những mặt trái, góc khuất, phần chìm của hiện thực
cuộc sống thì trong thơ sau 1975, nhiều nhà thơ đã công khai khai thác những
khía cạnh ấy. Đó là những nỗi buồn vì cuộc sống mưu sinh làm cho con người
chỉ chú ý đến chuyện tồn tại và có những trắc ẩn về riêng tư, lừa dối: Em chết
trong nỗi buồn/ Chết như từng giọt sương/ Rơi không thành tiếng” (Lâm Thị
Mĩ Dạ)
Cảm hứng sử thi vẫn được tiếp nối như một quán tính nghệ thuật.
Không phải ngẫu nhiên mà giai đoạn này xuất hiện hàng loạt trường ca có ý
nghĩa như những bức tranh hoành tráng tổng kết cuộc kháng chiến vĩ đại của
dân tộc. Sự thay đổi trong cái nhìn nghệ thuật trong các trường ca này so với
thơ ca thời chống Mỹ là ở chỗ, tuy vẫn mang chủ âm hào hùng, nhưng các
nhà thơ đã bắt đầu chú ý nhiều hơn đến bi kịch của con người. Nói khác đi,
trong khi cố gắng miêu tả sự lớn lao, kỳ vĩ của Tổ quốc, các nhà thơ đã quan
tâm trực diện đến số phận của cá nhân, thậm chí nhiều khi số phận của đất
nước được đo ướm bằng nỗi đau của cá nhân: Một mình một mâm cơm/ Ngồi
bên nào cũng lệch/ Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền. (Hữu Thỉnh Đường tới thành phố)
Trong những trường ca này, mặc dù cái bi chỉ là yếu tố để làm nổi bật
cái tráng nhưng rõ ràng, cái nhìn về chiến tranh đã sâu hơn, gắn nhiều hơn với


13

những suy tư cá nhân về số phận dân tộc và số phận con người. Thứ hai, trong
những năm cuối thập kỷ 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ XX, “thơ đời
thường” xuất hiện nhiều. Chưa bao giờ các nhà thơ thấy nhiều bi kịch đến thế.
Thậm chí, cảm giác bế tắc và chán nản là cảm giác khá nổi bật trong tâm
trạng nhiều người: Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi/ Câu trả lời thật chẳng
dễ dàng chi (Nguyễn Trọng Tạo -Tản mạn thời tôi sống)

“ Từ xa” nhìn về Tổ Quốc, Nguyễn Duy đã thật lòng nói lên nỗi cay
đắng của mình khi nhìn thấy sự khổ nghèo và bất hạnh của con người trong
cuộc sống đầy khốn khó. Lưu Quang Vũ cũng cay đắng nghẹn ngào khi nghĩ
về Tổ quốc. Các hình tượng nghệ thuật mang tính huyền thoại hóa về một
hiện thực kỳ vĩ và cảm hứng sử thi không còn xuất hiện như là hiện tượng nổi
bật của thơ ca giai đoạn này. Trái lại, bằng cái nhìn tỉnh táo và giàu màu sắc
chiêm nghiệm, nhiều thi phẩm sau chiến tranh đã thể hiện một cách khá riết
róng những mặt trái của đời sống, những thay đổi các thang bậc giá trị và
không né tránh việc nói đến những bất công xã hội. Đây là những cảm hứng
hiếm khi xuất hiện trong thơ 1945- 1975, khi mà số phận dân tộc và số phận
cá nhân hòa làm một, cái tôi và cái ta hoàn toàn thống nhất. Cái nhìn nghệ
thuật trong thơ sau 1975 là cái nhìn với cự ly gần, “suồng sã”, đối tượng hiện
lên như một sự thật không mang màu lý tưởng hóa. Theo đó, thể tài thế sự,
đời tư trở nên nổi bật và gắn liền với nó là chất giọng “tự thú” và chất giọng
giễu nhại. Ở đây chất giọng giễu nhại mang trong mình nó ít nhất hai chức
năng nghệ thuật cơ bản: làm cho thơ bớt đi sự nghiêm trang thái quá, ngôn
ngữ thơ bớt đi sự “trong suốt” mà tăng thêm phù sa của “cây đời”; cho phép
người đọc hình dung cuộc sống như một thực thể đa trị, bên cạnh cái trong
veo, thuần khiết là những thứ “tèm nhem tâm hồn”. Cả hai đều tồn tại bình
đẳng trong một thế giới không phải lúc nào cũng được cắt nghĩa theo logic
nhân quả. Bởi thế, gắn liền với giọng điệu tự thú là chất giọng hoài nghi. Chỉ


14

có điều cái nhìn hoài nghi cần được nhìn nhận trong mối quan hệ biện chứng,
khi ta hoài nghi một giá trị có nghĩa là bắt đầu ta đã nghiêng về một giá trị
khác (hoặc ít nhất ta không còn ràng buộc mình trong giá trị cũ). Đó là lý do
ta hiểu vì sao cái tôi trong thơ sau 1975 là cái tôi đa diện, nhiều bất an, giằng
xé, hướng nội.

Bước vào những năm 80, khi cái tôi sử thi trong thơ mờ dần, thay vào
đó là cái tôi thế sự với những cảm xúc khác, những nỗi buồn, sự lo âu, tâm
trạng xót xa, day dứt trước hiện trạng xã hội, nhân thế. Sự chuyển hướng ấy
có thể thấy rõ ở những nhà thơ thời kỳ kháng chiến chống Mĩ như Hữu
Thỉnh. Là một người nặng suy tư, trăn trở về những vấn đề cuộc sống, Hữu
Thỉnh luôn gửi vào trang thơ của mình một nỗi niềm riêng: Mới một lát làm
người, Cây bỗng đòi bóng lại; Người sống với người thế nào?

1.3. Hành trình thơ Hữu Thỉnh.
Hữu Thỉnh sinh ngày 15 tháng 2 năm 1942, tên thật là Nguyễn Hữu
Thỉnh, bút danh là Vũ Hữu. Ông quê ở làng Phú Vinh, xã Duy Phiên, huyện
Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Hữu Thỉnh sinh ra trong một gia đình có truyền
thống Nho học. Năm 1963, ông nhập ngũ và tham gia chiến đấu ở binh chủng
Tăng Thiết giáp rồi trở thành cán bộ văn hóa, tuyên huấn trong quân đội và
bắt đầu sáng tác thơ.
Sau khi chiến tranh kết thúc, năm 1975 Hữu Thỉnh học Đại học Văn
hóa và thuộc lớp sinh viên khóa đầu trường viết văn Nguyễn Du. Từ 1982
Hữu Thỉnh về Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Tại đây ông đảm nhiệm các chức
danh: trưởng ban thơ, phó Tổng biên tập. Từ 1990, ông chuyển sang công tác
tại Hội nhà văn Việt Nam, trở thành Tổng biên tập báo Văn nghệ. Hữu Thỉnh
tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa III, IV, V. Năm
2000, tại Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam khóa V, ông được bầu làm Tổng thư
ký Hội Nhà văn Việt Nam. Tại Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VII,


15

Hữu Thỉnh tiếp tục được bầu là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam nhiệm kỳ
2010-2015, đây là nhiệm kỳ thứ 3 liên tiếp ông được bầu là người đứng đầu
Hội Nhà văn Việt Nam.

Thơ Hữu Thỉnh luôn đằm thắm thiết tha và gắn bó với đất nước, quê
hương, với cuộc đời bằng bút pháp thơ tài hoa, đặc sắc. Thơ Hữu Thỉnh là sự
vận động phát triển từ cái tôi trữ tình lãng mạn, đằm thắm đến cái tôi trữ tình
đầy suy tư, trăn trở với những suy ngẫm và triết lý sâu xa trước nhân tình thế
thái.

1.3.1. Thơ Hữu Thỉnh trong kháng chiến chống Mỹ và thời hậu
chiến.
Năm 1964, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, cuộc
kháng chiến chống Mỹ bước vào thời kỳ mới, gay go, căng thẳng, khốc liệt và
dữ dội. Thời kỳ này, thơ được coi là một mũi nhọn, có tính xung kích nhất,
thơ luôn bám sát hiện thực cuộc sống và phản ánh trung thành những sự kiện
lớn lao của đất nước, phản ánh tinh thần chiến đấu dũng cảm, hy sinh quên
mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Thơ không chỉ có mặt khắp mọi nơi,
hòa theo dòng người, theo những đoàn quân “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu
nước” mà thơ còn nối liền tình cảm, suy nghĩ của mỗi người thành tiếng nói
cảm thông, trở thành nhịp đập chung của trái tim toàn nhân loại. Thơ đã ghi
lại nhiều hình ảnh về con người, đất nước trong những năm tháng lịch sử
không thể nào quên. Nối tiếp truyền thống thơ của những anh vệ quốc quân
trong kháng chiến chống Pháp, những người lính chống Mĩ “lại viết thơ trên
báng súng” (Hoàng Trung Thông). Bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến
anh dũng của dân tộc sẽ khuyết đi một mảng nếu thiếu vắng tiếng thơ của
những nhà thơ trực tiếp cầm súng, xông vào trong lửa đạn, từng giờ, từng
phút đối mặt với cái chết để nói về chiến tranh, để tự nói về đồng đội của


16

mình. Chính hoàn cảnh lịch sử cụ thể đó dẫn tới sự hình thành, xuất hiện một
lớp nhà thơ trẻ chống Mĩ.

Hữu Thỉnh là nhà thơ thuộc thế hệ nhà thơ trẻ chống Mĩ, cùng với
nhiều tên tuổi khác như: Thanh Thảo, Trần Mạnh Hảo, Anh Ngọc…Cũng như
nhiều nhà thơ khác, Hữu Thỉnh luôn ý thức sâu sắc về vị trí, vai trò của thế hệ
mình:
“Không có sách chúng tôi làm ra sách
Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình”
( Đường tới thành phố)
Hữu Thỉnh, một nhà thơ- chiến sỹ đã thực sự hòa nhập vào cuộc chiến
đấu. Bởi vậy, bằng con mắt của một người nhập cuộc, Hữu Thỉnh đã đưa vào
thơ mình hiện thực của thời chiến tranh. Những sự kiện ấy luôn mang sức
nặng biểu cảm và có giá trị thuyết phục bởi tính chân thực của nó qua những
trải nghiệm của người lính. Hữu Thỉnh bộc bạch: “ Tôi và bạn bè trong lớp
những nhà văn chống Mĩ chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những nhà thơ cách
mạng lớp đầu và các nhà thơ kháng chiến chống Pháp. Như là sự sắp đặt lịch
sử, về sau này hành trình thơ của chúng tôi cũng giống như các anh. Bối cảnh
thì khác, quy mô và tính chất ác liệt cũng khác nhưng tinh thần dấn thân và
nhập cuộc vẫn là một. Một cuộc dấn thân để tìm thấy sự kết hợp hài hòa giữa
chủ thể sáng tạo và khách thể thẩm mỹ. Nói gọn trong một anh bộ đội có một
thi nhân(…) Nhập cuộc và hành động có đòi hỏi hy sinh không? Có. Đó là có
vụn vặt, quẩn quanh, lạc điệu và nguy cơ cạn kiệt tâm hồn (…) Nhập cuộc và
hành động được gì? Rất nhiều: Cả một đời thơ. Cuộc sống cho anh bao nhiêu
thứ, kể cả sự đào luyện nghiêm khắc để anh có thể trở thành “Con của vạn
nhà” đã là cái lớn, chiến lược cho cả đời thơ” [90,5]


17

Cuộc sống khốc liệt của chiến trường đã được phản ánh trong thơ ông
bằng những vần thơ giàu nhiệt huyết, với những thanh âm sôi nổi, trẻ trung.
Ông tự thấy “Lòng tôi mắc nợ chiến khu một đời”. Mảng thơ viết về chiến

tranh gồm tập thơ Tiếng hát trong rừng, chủ yếu ghi lại cảm xúc của nhà thơ
khi chiến đấu ở Trường Sơn. Trường ca Sức bền của đất là bước trung chuyển
từ những bài thơ ngắn sang trường ca. Với quy mô nhỏ, trường ca Sức bền
của đất ghi lại tâm tình của người lính cách mạng đang giữ chốt. Ở nơi hàng
ngày giáp mặt với quân thù, ông suy tư về nguồn gốc sức mạnh của bản thân
và đồng đội- sức mạnh nhận từ lòng mẹ, từ đất đai. Cảm hứng chủ đạo của
mảng thơ này là cảm hứng về đất nước, nhân dân, về cuộc chiến đấu chống
Mĩ cứu nước. Một đất nước, nhân dân với khát vọng tự do, thống nhất, đoàn
tụ và chính vì khát vọng cao đẹp ấy mà chấp nhận bao thử thách, hy sinh.
Bước ra khỏi cuộc chiến, Hữu Thỉnh vẫn tiếp tục hành trình sáng tạo
nghệ thuật của mình. Năm 1977, ông viết trường ca Đường tới thành phố, đây
là cột mốc đánh dấu sự chín muồi trong ý thức về thể loại, là bản tổng kết
chiến tranh bằng thơ, giúp ta hình dung những chặng đường cuối cùng trong
cuộc chiến chống Mĩ ngụy. Đây là bản trường ca dài nhất của Hữu Thỉnh,gồm
5 chương và 1539 câu thơ. Từ “cái nôi nghệ thuật” dữ dội, khốc liệt và thơ
mộng là Trường Sơn, hồn thơ Hữu Thỉnh tìm đến những nguồn cảm hứng lớn
về Tổ quốc, nhân dân, về thế hệ những người cầm súng thời chống Mỹ giản dị
và trung thực:
Còn ao ước nào hơn
Tự do và đoàn tụ
Vào rừng lấy mật và đẵn gỗ
Thương mẹ và yêu em
Còn hạnh phúc nào hơn Tổ quốc
( Đường tới thành phố)


18

Mang đặc điểm của một hồn thơ hồn hậu, ham giãi bày, giàu suy tư,
thơ viết về chiến tranh của Hữu Thỉnh có sự kết hợp nhuần nhị giữa giọng

chính luận với giọng trữ tình đằm thắm trên dòng chảy ào ạt của sự kiện. Hữu
Thỉnh luôn lấy tiêu chí giản dị và trung thực nên khi thể hiện tình cảm của
mình với dân tộc, với đất nước, nhà thơ đã tìm về với những sự vật quen
thuộc, gần gũi, rất đỗi bình thường. Hình ảnh Tổ quốc là quê hương, nơi có
những dòng sông êm đềm chảy, có một sức sống trường tồn. Sức sống của Tổ
quốc được khẳng định bởi có những con người quên mình hi sinh cho dân tộc.
Khi anh hiểu nhân dân, nhân dân đang chia cắt
Yêu Tổ quốc mình, Tổ quốc mình chia đôi
Nỗi đau ấy, góp đời mình để xóa
( Đường tới thành phố)
Thơ Hữu Thỉnh luôn biểu hiện một cách tự nhiên về cuộc sống, điều
này tạo nên sức sống cho hồn thơ ông. Trong thơ ông luôn hòa quện giữa
hiện thực và lãng mạn qua hình ảnh người lính nơi chiến trường:
Nhạc làm trong rừng em hát giữa Trường Sơn
Người sốt rét hát cho người sốt rét.
( Tiếng hát trong rừng)
Họ đã hát với tất cả tâm hồn của tuổi trẻ, đầy nhiệt huyết và ngập tràn
yêu thương. Họ hát để truyền cho nhau niềm vui trong cuộc sống, để cùng
nhau vượt lên mọi khó khăn gian khổ. Những năm tháng đó khiến nhà thơ
phải thốt lên rằng Những năm Trường Sơn bạn bè trong trẻo quá. Tâm hồn họ
luôn nhạy cảm với thế giới xung quanh. Đó là những gian khổ trở thành kí ức.
Đó là tình quê hương, xóm làng, tình quân dân, đó là hình ảnh người mẹ,
người vợ, người chị…tất cả đều hiện lên rất đỗi thân quen và vô cùng xúc
động.


19

Là một hồn thơ hồn hậu, giàu suy tư, thơ viết về chiến tranh của Hữu
Thỉnh có sự kết hợp nhuần nhị giữa giọng chính luận với giọng trữ tình đằm

thắm. Chính điều này đã tạo nên sự thành công của Hữu Thỉnh. Trước những
đóng góp đó của ông, Trần Mạnh Hảo đã đánh giá cao vị trí và vai trò của
Hữu Thỉnh trên thi đàn văn học Việt Nam: “ Hữu Thỉnh và Thanh Thảo là cái
gạch nối của nền thơ ca chống Mĩ sang thời bình. Sau 1975, cùng với Nguyễn
Duy, họ đưa thơ tiến về phía trước với những bước tiến ngoạn mục, đa dạng
và phong phú ”.

1.3.2. Thơ Hữu Thỉnh từ sau đổi mới
Khi đất nước chuyển mình sang một giai đoạn mới thì Hữu Thỉnh cũng
nhanh chóng nhập cuộc và mang đến những tiếng thơ mới mẻ. Trong gần 15
năm, Hữu Thỉnh đã cho ra mắt hai tập thơ: Trường ca Biển và Thư mùa đông
vào năm 1994. Đến năm 2005, ông lại tiếp tục cho ra đời tập thơ Thương
lượng với thời gian. Sự ra đời của các tập thơ này đã cho thấy sức sáng tạo
nghệ thuật mạnh mẽ của nhà thơ sau đổi mới.
Thương lượng với thời gian gồm những bài thơ ông viết từ cuối thập kỉ
80 đến những năm đầu thế kỉ XXI. Tập thơ gồm 56 bài, chủ yếu là những bài
thơ ngắn được tác giả chia làm 3 phần: phần 1, có 21 bài thơ; phần 2, có 21
bài; phần 3, có 14 bài.
Ở giai đoạn trước 1980, ý thức cộng đồng chiếm ưu thế, con người toàn
tâm, toàn ý vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, số phận cá nhân luôn đặt trong
số phận đất nước. Hòa trong dòng thác sục sôi của dân tộc, người người hăng
hái lên đường mang sứ mệnh thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc như những dòng
suối trong trẻo, mát lành đổ vào dòng sông của tình yêu quê hương. Trước khí
thế của thời đại, Hữu Thỉnh say sưa, nhiệt tình khẳng định lý tưởng, lẽ sống
lớn. Cảm hứng chủ đạo trong thơ viết về chiến tranh là cảm hứng sử thi, cảm
hứng ngợi ca cái cao cả. Khi chiến tranh đã lùi xa, bước vào thời bình, diện


20


mạo đất nước đã khác xưa rất nhiều. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân, sự quan tâm
nhiều hơn đến con người trong tính cụ thể, cá biệt với nhu cầu trong thời bình
là bước chuyển tất yếu của xã hội. Con người được miêu tả trong tất cả tính
đa dạng của nó tạo thành nét chính trong sự định hướng về giá trị văn học của
công chúng hôm nay. Nói khác đi, tinh thần dân chủ và cảm hứng nhân văn là
đặc điểm nổi bật của thời kỳ đổi mới.
Sau khi kết thúc chiến tranh, tình hình kinh tế xã hội của đất nước gặp
nhiều khó khăn và rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Nền văn học cũng chững
lại và không ít nhà văn lâm vào tình trạng bối rối, không tìm thấy phương
hướng sáng tác. Ý thức nghệ thuật của số đông người viết và công chúng
chưa chuyển biến kịp với thực tiễn xã hội, những quan niệm và cách tiếp cận
hiện thực vốn quen thuộc trong thời kỳ trước đã tỏ ra bất cập trước hiện thực
mới và đòi hỏi của bạn đọc. Trước thực trạng đó, một số nhà văn có trách
nhiệm cao về ngòi bút của mình cũng như sự mẫn cảm với đòi hỏi của cuộc
sống đã có những đổi mới trong cảm hứng sáng tác và tiếp cận hiện thực. Họ
là những người đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học, người “mở
đường tài năng và tinh anh ” là Nguyễn Minh Châu với những truyện ngắn
hướng vào các vấn đề đạo đức- thế sự trong đời sống hằng ngày của con
người. Góp phần tạo nên những chuyển động theo hướng mới của văn học
trong thời gian này cũng phải kể đến những sáng tác của Nguyễn Khải, Ma
Văn Kháng, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy…
Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) đã xác định đường lối đổi mới toàn
diện, mở ra một thời kỳ mới cho đất nước vượt qua thời kỳ khủng hoảng để
bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Đây là thời kỳ đổi mới về tư duy và
dám nhìn thẳng vào sự thật. Tư duy văn học mới đã dần hình thành, làm thay
đổi các quan niệm về chức năng của văn học, về mối quan hệ giữa văn học và
đời sống, nhà văn và bạn đọc, về sự tiếp nhận văn học.


21


Từ năm 1993 đến nay, trong xu thế đi tới sự ổn định của xã hội, văn
học về cơ bản cũng trở lại với những quy luật mang tính bình thường, nhưng
không xa rời định hướng đổi mới đã hình thành từ những năm 80.
Trong hoàn cảnh đất nước đã hoàn toàn độc lập, nhân dân được tự do,
đời sống con người được quan tâm nhiều hơn. Con người với những lo toan,
bộn bề của cuộc sống và những suy tư cá nhân là nguồn cảm hứng cho văn
học. Do đó, nhà văn phải nhìn thẳng vào đời sống hiện thực của con người. Vì
vậy, cảm hứng thế sự, đời tư đã trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo của thơ
Việt Nam sau 1975 và được thể hiện rõ nét trong sáng tác của nhiều tác giả
như : Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Nguyễn Trọng Tạo…
Cũng như nhiều nhà thơ chống Mĩ khác, Hữu Thỉnh đã từng trải qua
những năm tháng chiến tranh ác liệt nên ông nhận ra được giá trị của cuộc
sống hòa bình. Vì vậy, trước những đổi thay của con người và cuộc sống, ông
luôn suy nghĩ, trăn trở…và gửi gắm vào thơ. Cùng với Thanh Thảo và
Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh và một số nhà thơ khác là những gương mặt tiêu
biểu trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Đó là thế hệ mà tuổi trẻ của
họ được tôi luyện ngay trong khói lửa chiến tranh nên họ ý thức rất rõ: “chiến
tranh ra bài thi nhập môn cũng là nơi thử thách lâu dài của mỗi người” (Hữu
Thỉnh). Ý thức đó được thể hiện qua suy nghĩ và việc làm cụ thể. Với Hữu
Thỉnh là “chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình”, với Thanh Thảo là hát
vang Bài ca ống cóng:
Bài hát của hôm nay
Thô sơ và hực sáng
Mang lẽ đời đơn giản
Nói được tới ngày mai
Còn Nguyễn Duy, ngay từ khi 20 tuổi, nhà thơ đã tự ý thức: “Anh phải
là nét vẽ dẫu đơn sơ”. Đó là quan niệm hòa mình vào nhân dân, tan biến vào



×