Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Yếu tố tự sự trong thơ trữ tình của Nguyễn Nhược Pháp" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.62 KB, 5 trang )




Lê Trung Liệt YếU Tố Tự Sự TRONG THƠ TRữ TìNH , Tr. 40-44


40
YếU Tố Tự Sự TRONG THƠ TRữ TìNH CủA NGUYễN NHƯợC PHáP

Lê Trung Liệt
(a)


Tóm tắt. Nguyễn Nhợc Pháp là nhà thơ có vị trí riêng trong phong trào Thơ mới
1932- 1945. Thơ ông có những tìm tòi, cách tân về thi pháp rất đáng chú ý. Bài viết đi
sâu khảo sát yếu tố tự sự trong thơ Nguyễn Nhợc Pháp, chỉ ra những nét mới trong
nghệ thuật kể chuyện của ông, tức cũng là tập trung làm rõ những yếu tố cơ bản làm
nên một giọng thơ Nguyễn Nhợc Pháp vốn đợc độc giả mến mộ.

1. Nguyễn Nhợc Pháp là nhà thơ
có tên tuổi của phong trào Thơ mới ở
giai đoạn đầu 1932-1935, dù thơ in ra
rất ít mà đợc ngời ta mến rất nhiều
[5, 301]. Cảm tình mà ngời đọc dành
cho Nguyễn Nhợc Pháp xuất phát từ
phong cách thơ độc đáo của ông: Hình
thức tự sự gắn với trữ tình, độc thoại
xen lẫn với miêu tả, thực lẫn với mộng,
với khả năng tởng tợng phong phú,
sự phối hợp táo bạo hình ảnh, màu sắc,
âm thanh để tạo nên những hoạt cảnh


rất sống, nhất là tiếng cời đằm thắm
nh một vang hởng tơi mát trong
suốt tiến trình của câu chuyện kể [1,
1175].
2. Có thể chia loại thơ trữ tình giàu
yếu tố tự sự của Nguyễn Nhợc Pháp
thành hai mảng lớn: những bài mà sự
việc hay chi tiết của truyện dân gian
đợc kể bằng giọng hiện đại và những
bài mà câu chuyện đợc tạo dựng bằng
cốt truyện mới.
2.1. Sự việc hay chi tiết của truyện
dân gian đợc kể bằng giọng hiện đại
Tập thơ Ngày xa chỉ vỏn vẹn 10
bài, trong đó đã có 4 bài mợn cốt
truyện dân gian: Sơn Tinh Thuỷ Tinh,
Mỵ Châu, Mỵ Ê, Giếng Trọng Thuỷ.
Tuy nhiên chỉ có Sơn Tinh Thuỷ Tinh là
mợn cốt truyện hoàn toàn, 3 bài còn
lại chỉ mợn sự việc. Ngời đọc không
xa lạ với các nhân vật Sơn Tinh, Thuỷ
Tinh, Mỵ Châu, Mỵ Ê của truyện cổ,
nhng vẫn có cảm giác thú vị, bất ngờ
khi đợc gặp lại họ trong các bài thơ
của Nguyễn Nhợc Pháp. Giọng kể của
Nguyễn Nhợc Pháp không giống giọng
kể của dân gian, lại càng không giống
với thơ trung đại. Giọng kể ấy rất mới
mẻ, nó phá vỡ tính qui định về con
ngời trong thần thoại, bởi Con ngời

trong thần thoại thờng mang chức
năng của một vài hiện tợng tự nhiên
[4, 49]. Nhân vật thần thoại là nhân vật
chức năng. Nhng ta hãy đọc kĩ bài Sơn
Tinh Thuỷ Tinh, ngoài chức năng đợc
thực hiện thì các nhân vật ấy có những
nét cá tính của con ngời hiện đại.
Chuyện Thuỷ Tinh dâng nớc lên rồi
rút nớc xuống lúc này không gắn với
lời giải thích về một hiện tợng tự
nhiên, mà gắn với sự nhận thức về một
thứ tình cảm đặc biệt của con ngời là
tình yêu.
Thuỷ Tinh năm năm dng (dâng) nớc bể,
Đục núi hò reo đòi Mị Nơng
Trần gian đâu có ngời dai thế
Cũng bởi thần yêu nên khác thờng
(Sơn Tinh Thuỷ Tinh)
Nhân vật Trọng Thuỷ và nhân vật
Mỵ Châu vốn là nhân vật của sử thi,
mà con ngời sử thi có lý trí rất cao,
không hành động vì cảm giác hoặc tình
cảm ham muốn nhất thời [4, 51]. Thế

Nhận bài ngày 25/3/2008. Sửa chữa xong 31/3/2008.



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 1B-2008




41
nhng trong bài thơ của Nguyễn Nhợc
Pháp, cách chọn chi tiết, hình ảnh đã
phá vỡ khung quy định nói trên. Dù
Trọng Thuỷ là con ngời có lý trí rất cao
thì cũng:
Thiêm thiếp ai bên đờng, hỡi ôi!
Chàng ôm khóc nghẹn chẳng ra lời,
- Đầu non mây bạc êm đềm phủ,
Phơn phớt hồn em bay, ngậm cời.
Rõ ràng, cảm xúc của nhân vật
Trọng Thuỷ gần với cảm xúc của con
ngời hiện đại. Sáng tác của nhà Thơ
mới Nguyễn Nhợc Pháp quả đã giúp
độc giả cảm thấy câu chuyện gần hơn,
thật hơn so với truyện dân gian.
Kể và tả đợc xem là một thế mạnh
của tự sự trong việc tái hiện một cách
cụ thể và sống động đời sống khách
quan. Nguyễn Nhợc Pháp có một kiểu
tả, kể rất riêng, có thể bớt nhiều chi tiết
có sẵn trong truyện cổ mà vẫn đảm bảo
đợc cho câu chuyện của mình tính
chỉnh thể và sự cân đối, hài hoà. Đọc
bài thơ Sơn Tinh Thuỷ Tinh, độc giả
vẫn hình dung đợc hoàn toàn cốt
truyện nh truyện thần thoại Sơn Tinh
Thuỷ Tinh. Nhng ở đây, lối dẫn

chuyện, cách chọn chi tiết, sự việc rất
hiện đại. Chỉ bằng vài nét tả đơn sơ, tác
giả cũng có thể giúp ngời đọc hình
dung ngay trớc mắt không gian thành
Phong Châu trong ngày kén rể Đặc
biệt mỗi nhân vật đều đợc khắc hoạ
với nhiều chi tiết thể hiện cá tính riêng
biệt. Mỵ Châu có nét ngây thơ, nhí
nhảnh dễ thơng, và nhất là có một vẻ
đẹp hết sức quyến rũ:
Tóc xanh viền má hây hây đỏ
Miệng nàng bé thắm nh san hô
Tay ngà trắng nõn hai chn (chân) nhỏ
Mê nàng bao nhiêu ngời làm thơ.
Còn Sơn Tinh, Thuỷ Tinh có vẻ
khác phàm, mỗi ngời một nét vừa uy
nghi lại vừa dữ tợn.
Sơn Tinh có một mắt ở trán,
Thuỷ Tinh râu ria quăn xanh rì.
Một thần phi bạch hổ trên cạn,
Một thần cỡi lng rồng uy nghi.
Đến với thơ Nguyễn Nhợc Pháp,
ngời đọc thấy ở đó một thế giới khác
lạ, thế giới ngày xa nhng lại thoáng
bóng một ngời đang khúc khích cời
[5, 303]. Chính nơi đó, cái tôi cá nhân
của Thơ mới mới cảm thấy dịu vơi đi
mặc cảm lạc loài.
Trong các bài thơ có câu chuyện
đợc mợn từ cốt truyện, sự việc, chi

tiết của truyện dân gian, Nguyễn
Nhợc Pháp đã vận dụng đủ các yếu tố
để miêu tả: quan sát, liên tởng và
tởng tợng. Chúng phối hợp với nhau
để tạo nên sự lung linh của một thế giới
nghệ thuật. Không phải ai cũng tạo nên
đợc trong thơ của mình một thế giới
nh thế! Riêng đối với ông, chỉ bằng
một vài điểm nhấn khi miêu tả, nhân
vật sẽ có một thế giới nội tâm mà
truyện dân gian không hề có. Chúng ta
hãy đến với nhân vật Mỵ Châu để thấy
Nguyễn Nhợc Pháp có cách miêu tả tài
tình nh thế nào:
Chn (chân) nàng hoa lả nhuốm
màu sơng
Vừng trăng lạnh lẽo, chim kêu buồn
Thân ngà tóc rủ vờn man mác
Thiêm thiếp em chờ ai bên đờng?
Nguyễn Nhợc Pháp đã miêu tả Mỵ
Châu với nét đợm buồn trong giờ chờ
đợi, giữa một cảnh vật cũng đợm buồn.
Hay bài Giếng Trọng Thuỷ là cả một
không gian buồn. Âm thanh, cảnh vật
và con ngời hoà vào nhau trong một
cảm xúc mà hồn ngời toàn là tiếng
sóng:
Đêm khuya, gió lốc, mây đen vần,
Cỏ lớt gieo mình vực giếng thâm;
Trọng Thuỷ nằm trên làn nớc sủi,

Tiếng mõ cầm canh xa âm thầm.



Lê Trung Liệt YếU Tố Tự Sự TRONG THƠ TRữ TìNH , Tr. 40-44


42
Phơn phớt hồn ma đóm lập loè.
Cú rúc. Đàn dơi bay tứ bề.
Răng rắc kêu nh tiếng xơng đập,
Gió rền, quỷ khóc, lay cành tre.
Nhấp nhoáng xiên giời chớp toé xanh.
Gầm ran sấm chuyển, mây bùng phanh.
Ma đập - Tù và rên văng vẳng.
Hiệu lính tuần kêu trên mặt thành.
Ngôn ngữ hội thoại trong thơ
Nguyễn Nhợc Pháp là thứ ngôn ngữ
bình dân. Ngời đọc thấy ở đó sự gần
gũi thân quen. Có điều trong cách kể
chuyện của ông, số lợng lời thoại rất ít.
Trong toàn bộ các bài thơ có câu chuyện
mợn từ cốt truyện hoặc sự việc, chi tiết
của truyện dân gian chỉ có 4 lời thoại (3
lần của Mỵ Nơng và 1 lần của Trọng
Thuỷ - và tất cả tập trung ở bài Sơn
Tinh Thuỷ Tinh):
- Con đây phận đào tơ bé mọn
Nhân duyên cúi để quyền mẹ cha.(1)
- Nàng kêu: Phụ vơng ôi! Phong

Châu! (2)
- Giọng kiêu hay buồn không ai
hiểu,
Nhng thật dễ thơng Ô! Vì ta! (3)
- Giết, giết Sơn Tinh hả hờn ta. (4)
Trong lời thoại (1), Mỵ Nơng đã
thể hiện lòng hiếu thảo một cách rất
khôn ngoan. Lời nàng rành rẽ và đúng
là lời nói lễ phép đối với ngời đã sinh
thành dỡng dục mình Nhng đến
(2), lời Mỵ Nơng trở nên ngắn gọn, chỉ
còn lại 5 tiếng mà lợng thông tin rất
lớn. Sau khi lên kiệu của Sơn Tinh, Mỵ
Nơng ngoái lại tạm biệt: Phụ vơng ôi!
Phong Châu! Tạm biệt phụ vơng tức là
vừa tạm biệt một quân vơng, lại vừa
tạm biệt cha - ngời thân yêu nhất. Kế
đến là tạm biệt Phong Châu tức là nơi
nàng đã sinh ra và lớn lên. Biết bao
nhiêu điều muốn nói mà nghẹn lời
không nói đợc. Lần (3), Mỵ Nơng nói
còn ngắn gọn hơn: Ô! Vì ta!

n chứa
đằng sau lời nói ấy vừa là một nỗi tự
hào, sung sớng, vừa là một nỗi buồn và
niềm thơng khó tả, không nhất thiết
chỉ dành cho riêng một ngời là Sơn
Tinh. Ai có thể đoán chắc Mỵ Nơng
không có cảm tình với Thuỷ Tinh? Mỵ

Nơng không còn lựa chọn nào khác vì
yêu cầu sính lễ mà vua ban ra hoàn
toàn có lợi cho Sơn Tinh (Gần đây, Hoà
Vang đã chộp đợc tình huống này để
phát triển thành nội dung truyện ngắn
Sự tích ngày đẹp trời). Đặc biệt là lời
thoại của Thuỷ Tinh (4): Giết, giết Sơn
Tinh hả hờn ta. Thuỷ Tinh hờn ghen vì
không rớc đợc Mỵ Nơng về làm vợ
nên muốn giết ngời tranh đoạt với
mình.
2.2. Câu chuyện đợc tạo dựng bằng
cốt truyện mới
Trong tập thơ Ngày xa, có 6 bài
mà câu chuyện ở đó đợc tạo dựng bằng
cốt truyện mới. Thời gian ở đây vẫn là
thời gian quá khứ, có điều nó không gắn
với các thời điểm lịch sử tơng đối xác
định nh với các bài thuộc mảng thơ đã
đợc trình bày ở trên.
Có quá khứ xa mà cũng có quá khứ
gần. Nếu xa thì cũng không giống ngày
xửa, ngày xa của truyện dân gian.
Ngời kể đứng ở thời gian gần với thời
gian xảy ra câu chuyện, nhng thời
gian đó vẫn là của quá vãng. Tác giả đã
h cấu, tạo dựng câu chuyện mới trên
nền tảng của một bối cảnh mập mờ, khó
xác định niên đại:
Hôm đó buổi chiều xuân

Trông mây hồng bay vân,
Liền gặp pho lịch sử,
Lững thững khỏi lầu văn
Phu khiêng kiệu ngẩn ngơ
Thầy lại và thầy thơ
Ngồi xổm cời bên lọng
Trớc cửa toà dinh cơ
(Một buổi chiều xuân)



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 1B-2008



43
Thời gian ở các bài Đi cống, Căn gác
nhỏ, Tay ngà, Mây chính là kiểu thời
gian nh thế. Cái mà ta biết đợc là
một thế giới ngày xa bao trùm lên cả
thế giới ngày nay. Dù không phải là
một thế giới huy hoàng nhng nó cũng
còn hơn xã hội cụ thể mà tác giả đang
sống lúc bấy giờ.
Không gian trong các bài thơ kể
chuyện xa này luôn gắn liền với những
hình ảnh quen thuộc của thiên nhiên
nh mây, trăng, núi, sông và của con
ngời nh thầy thơ, binh lính, thầy lại,
thầy nho Tất cả đợc vẽ nên bằng

những nét bút ngộ nghĩnh, thấm đợm
ý bỡn đùa của ngời kể chuyện.
Bên cạnh quá khứ xa là quá khứ
gần quá khứ của sự việc vừa mới xảy
ra. Tức là trong câu chuyện đợc
Nguyễn Nhợc Pháp kể lại, sự việc diễn
ra còn nóng, nó thuộc phạm trù cái
hôm nay.
Do kể chuyện hôm nay, Nguyễn
Nhợc Pháp chú ý nhiều đến những chi
tiết nhỏ. Cử chỉ và động tác của nhân
vật cũng đợc quan tâm miêu tả nhiều
hơn. ở mảng này, cốt truyện không có
những thử thách gay cấn, những tình
cảm lâm ly mà hấp dẫn ngời đọc bằng
vẻ bình dị, trong lành tự nhiên nh một
dòng suối ngọt [2, 117]. Trong tập thơ
Ngày xa, duy nhất có một bài Chùa
Hơng là đợc viết theo dạng này. So
với những bài tự sự khác của Nguyễn
Nhợc Pháp, bài Chùa Hơng đợc kể
gần với truyện ngắn hiện đại nhất. Câu
chuyện đợc kể một cách tự nhiên.
Ngời kể là nhân vật em, một cô gái đi
chùa. Đó là một tâm trạng náo nức
trớc giờ chuẩn bị lên chùa. Trên đờng
đi là sự gặp gỡ tình cờ với văn nhân
trong phong cảnh hữu tình, nàng rất
chú ý đến mình và chú ý đến đối tợng
đi theo sau mình. Tâm trạng nàng thực

sự phấn chấn khi nghe thầy me bảo
ngày sau vào chùa trong, nghĩa là nàng
sẽ thêm một ngày nữa đợc đi với
chàng! Cuối cùng là tình thân mật giữa
chàng với nàng và gia đình nàng.
Nét độc đáo ở đây là lời kể tái hiện
từng chi tiết đi đứng của nhân vật:
Em đi, chàng theo sau
Em không dám đi mau
Ngại chàng chê hấp tấp
Số gian nan không giàu.
Bên cạnh đó là sự miêu tả khá cụ
thể thế giới nội tâm của cô bé:
Đêm hôm ấy em mừng!
Mùi trầm hơng bay lừng
Em nằm nghe tiếng mõ
Rồi chim kêu trong rừng.
Đây là cảm giác của một thiếu nữ
bắt đầu yêu - cảm giác khó ngủ. Cho
nên âm thanh vạn vật thổi vào hồn cô
không một chút muộn phiền. Hai âm
thanh trái ngợc nhau là tiếng mõ buồn
và tiếng chim kêu rộn rã cũng hoà vào
trong một cõi lòng buồn vui lẫn lộn. Với
lối miêu tả ấy, Nguyễn Nhợc Pháp đã
cho thấy thơ trữ tình cũng có khả năng
tạo hình ngoại giới hết sức tỉ mỉ, sinh
động, đúng nh điều mà có nhà lý luận
đã phát biểu: Trữ tình miêu tả thờng
tái hiện các sự vật xung quanh con

ngời, những nét bề ngoài con ngời, nó
khám phá diện mạo bên trong con ngời
nhng đồng thời cũng phác hoạ thiên
nhiên [3, 335].
Khác với các bài thơ có câu chuyện
mợn từ cốt truyện dân gian, ở các bài
thơ thuộc mảng này (kể câu chuyện
thuộc về một quá khứ gần), lời thoại
đợc sử dụng nhiều hơn. Lời thoại xuất
hiện với t cách là một yếu tố tạo nên
tính cách nhân vật. Do đó, cấu trúc ngữ
pháp của lời thoại tròn trịa hơn, và



Lê Trung Liệt YếU Tố Tự Sự TRONG THƠ TRữ TìNH , Tr. 40-44


44
loại câu tỉnh lợc cũng ít đợc tác giả sử
dụng:
Me cời: thầy nó trông!
Chn (chân) đi đôi dép cong,
Con tôi xinh xinh quá!
Bao giờ cô lấy chồng?
Thật vậy, ai đọc xong Chùa Hơng
nh cũng đều cảm thấy mình vừa thoát
ra khỏi thế giới nghệ thuật của một
truyện ngắn. Sức cuốn hút mà nó có
đợc chính là sự hoàn hảo của mọi

phơng diện nghệ thuật.
3. Nhìn chung các bài thơ trong tập
Ngày xa là một ví dụ điển hình của lối
thơ trữ tình giàu yếu tố tự sự. Nguyễn
Nhợc Pháp, với tập Ngày xa, đã có
những đóng góp đáng kể cho việc khai
mở một lối thơ trữ tình hiện đại bám
chắc đời sống, biết khai thác cái hay từ
những câu chuyện đời bình dị mà sống
động, giàu ý nghĩa tồn tại ở quanh ta.



TàI LIệU THAM KHảO

[1] Nguyễn Huệ Chi, Từ điển văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984.
[2] Lê Bá Hán (chủ biên) - Lê Quang Hng - Chu Văn Sơn, Tinh hoa thơ mới thẩm
bình và suy ngẫm, NXB Giáo dục, 2003.
[3] G. N. Pospelov (chủ biên), Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, 1998.
[4] Trần Đình Sử, Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, 1998.
[5] Hoài Thanh - Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 1988.


SUMMARY

The narrative factor in nguyen nhuoc phapS lyric poems

Nguyen Nhuoc Phap was a poet who had a specific position of Tho moi 1932-
1945. His poetic had many remarkable findings, innovations of poetics. This article
surveyed the narrative factor of his works, showed the new features of his art,

means indicated the basic aspects which created Nguyen Nhuoc Phaps tone that the
readers admired much.

(a)
Cao học 13 Lý luận văn học, trờng Đại học Vinh.



×