Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

BÀI KIỂM TRA KẾT THÚC HỌC PHẦN ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN: MÔN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.55 KB, 32 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA VĂN – XÃ HỘI

BÀI KIỂM TRA KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÔNG
Câu hỏi:
1. Vì sao tài chính công chi phối, điều chỉnh được tài chính khu vực tư?
Tài chính công chi phối điều chỉnh tài chính khu vực tư như thế nào?
2. Hãy chứng minh bằng lý luận và thực tiễn vai trò quan trọng của ngân
sách nhà nước đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước?
3. Trình bày các nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân sách nhà nước
Họ và tên

: Đào Thị Mùi

Lớp

: KHQL K8

Mã sinh viên

: DTZ1056120072

Lớp học phần

: Tài chính công - LO2

Thái Nguyên ngày 10/5/2013



Câu hỏi 1:
Vì sao tài chính công chi phối, điều chỉnh được tài chính khu vực tư? Tài
chính công chi phối điều chỉnh tài chính khu vực tư như thế nào?
Bài làm
1. Hệ thống tài chính Việt Nam
Hệ thống tài chính là tổng thể của các bộ phận khác nhau trong một cơ cấu tài
chính mà ở đó các quan hệ tài chính hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau nhưng có
mối liên hệ tác động lẫn nhau theo những quy luật nhất định.
Hệ thống tài chính Việt Nam bao gồm 4 tụ điểm vốn và 1 bộ phận dẫn vốn:
Các tụ điểm vốn là bộ phận mà ở đó nguồn tài chính được tạo ra, là nơi thu hút
trở lại các nguồn vốn nhưng ở những phạm vi mức độ khác nhau bao gồm:
-

Tài chính doanh nghiệp

-

Ngân sách nhà nước

-

Tài chính dân cư (tài chính hộ gia đình) và các tổ chức xã hội khác

-

Tài chinh đối ngoại

Bộ phận dẫn vốn là bộ phận thực hiện chức năng truyền dẫn vốn giữa các tụ điểm
vốn trong hệ thống tài chính bao gồm thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung
gian.

Thị trường tài chính gồm có hai bộ phận là thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
Thị trường tiền tệ là thị trường tài chính ngắn hạn. Thị trường vốn là thị trường tài chính
dài hạn gồm có thị trường tín dụng trung và dài hạn, thị trường cho thuê tài chính và thị
trường chứng khoán.
Các tổ chức tài chính trung gian có nhiệm vụ tiết kiệm cho nền kinh tế các chi phí
giao dịch và chi phí thông tin, bao gồm các tổ chức tài chính chính thức và các tổ chức
tài chính không chính thức.
Các tổ chức tài chính chính thức bao gồm các ngân hàng thương mại, các công ty
tài chính và các quỹ tín dụng. Các tổ chức tài chính không chính thức tồn tại dưới nhiều
hình thức khác nhau mà trước hết và quan trọng nhất là các công ty bảo hiểm.


Sơ đồ hệ thống tài chính Việt Nam:

Các định chế
tài chính

Vố
n

Vốn

Vốn
Các định chế cung

Các đinh chế cần
vốn

vốn
-Tài chính công

-Tài chính doanh

Vốn

Thị trường
tài chính

nghiệp
-Tài chính cá nhân
hoặc hộ gia đình

-Tài chính công
Vốn

-Tài chính doanh
nghiệp
-Tài chính cá nhân
hoặc hộ gia đình

2. Hệ thống tài chính công Việt Nam
2.1. Khái niệm
Hệ thống Tài chính công là tổng thể các hoạt động tài chính gắn liền với việc tạo
lập hoặc sử dụng các quỹ công và cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước nhằm phục vụ
và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ về kinh tế - xã hội mà Nhà nước đảm nhận.


Sơ đồ tổ chức bộ máy tài chính công
Quốc hội

Chính phủ


Các bộ, ngành

Bộ tài chính

Tổng cục thuế

Cục thuế

Kho bạc nhà nước

Khoa bạc NN
tỉnh

Tổng cục QL vốn

Cục quản lý
vốn

T. cục Đ. tư
Ph.triển

Cục đầu tư

Tổng cục hải quan

Cục hải quan

Cục dự trữ quốc
gia


Chi cục dự trữ

Các đơn vị dự
toán ngân sách

HĐND, UBND cấp
tỉnh

HĐND, UBND
cấp huyện

HĐND, UBND
cấp xã


2.2. Các bộ phận cấu thành
Với việc xác định các tiêu chí đặc trưng của Tài chính công, có thể loại trừ khỏi
Tài chính công các mắt khâu của hệ thống tài chính tư, từ đó có thể đưa ra, tài chính
công gồm các bộ phận cấu thành là:
-

Ngân sách nhà nước

-

Tín dụng nhà nước

-


Các quỹ tài chính nhà nước ngoài NSNN

-

Tài chính các cơ quan hành chính nhà nước

-

Tài chính các đơn vị sự nghiệp nhà nước

Trong các bộ phận cấu thành hệ thống tài chính công thì Ngân sách nhà nước là
bộ phận quan trọng nhất, chi phối các thành tố khác.
Ở đây, cần đề cập đến 3 thành tố có quan hệ chặt chẽ với nhau và liên quan trực
tiếp tới tài chính công hiện nay. Đó là NSNN, các quỹ tài chính nhà nước và tài chính
các đơn vị hành chính sự nghiệp.
NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Như vậy, xét về khía cạnh kinh tế, hoạt động thu - chi của NSNN thể hiện quá
trình phân phối và phân phối lại một bộ phận giá trị tổng sản phẩm xã hội. Quy mô phân
phối lại phụ thuộc vào mức độ động viên của NSNN.
Về chức năng, NSNN có 3 chức năng cơ bản. Đó là: công cụ thực hiện việc phân
bổ nguồn lực trong xã hội; thực hiện chức năng tái phân phối thu nhập và chức năng
điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Với các chức năng đó, NSNN tác động trực tiếp
và gián tiếp tới hầu hết các chủ thể, các đơn vị và các tổ chức trong xã hội. Điều này
cũng giải thích tại sao NSNN lại là thành tố quan trọng nhất của tài chính công.
Các quỹ tài chính nhà nước, về nguyên tắc, NSNN phải được quản lý một cách
toàn diện, nhưng không có nghĩa là tất cả các khoản chi phải được quản lý theo quy
trình thống nhất. Vì vậy, ở nhiều nước, một số khoản chi của Chính phủ đã được quản lý
thông qua các quy trình đặc biệt, mà chủ đạo là các quỹ tài chính nhà nước, tạo nên sự

linh hoạt nhất định trong quyết định chi tiêu của Chính phủ.
Quỹ tài chính nhà nước có nhiều loại hình khác nhau. Nhưng xét về hình thức tổ
chức thường có 2 loại: là một tổ chức tài chính có bộ máy tổ chức, có tư cách pháp nhân


(như Quỹ hỗ trợ phát triển...) hoặc chỉ là nguồn tài chính dành riêng để sử dụng vào một
hoặc một số mục đích nhất định (như Quỹ bình ổn giá cả, Quỹ tích luỹ trả nợ...).
Các quỹ tài chính nhà nước thường có nguồn thu chủ yếu từ NSNN và huy động
đóng góp của các tổ chức, cá nhân. Việc sử dụng quỹ không được hạch toán vào ngân
sách mà được quản lý theo các quy định riêng. Tuy nhiên, cách làm này, bất kể mục
đích gì đều làm nảy sinh một số vấn đề trong việc phân bổ nguồn ngân sách. Thông
thường thì các giao dịch thực hiện từ các quỹ này không được phân loại theo các tiêu
chí như các khoản chi ngân sách, từ đó làm ảnh hưởng đến tính đầy đủ, chính xác của
việc phân tích các chương trình chi tiêu của Chính phủ. Hơn thế nữa, sự hiện diện của
quá nhiều các loại quỹ tài chính nhà nước trong nền kinh tế sẽ làm cho nguồn lực tài
chính nhà nước bị phân tán, tính minh bạch của ngân sách vì thế cũng sẽ bị hạn chế.
Tài chính các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp: các cơ quan hành chính, đơn vị sự
nghiệp thuộc bộ máy nhà nước là những đơn vị có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ công
cộng cho xã hội. Nguồn tài chính cho các đơn vị này hoạt động chủ yếu dựa vào những
khoản cấp phát theo chế độ từ NSNN. Ngoài ra, còn một số khoản thu khác có nguồn
gốc từ NSNN, các khoản thu do đơn vị tự khai thác, hoặc từ quyên góp, tặng, biếu
không phải nộp NSNN.
Giữa NSNN, các quỹ tài chính nhà nước và tài chính các cơ quan hành chính, đơn
vị sự nghiệp luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó NSNN có vai trò quan trọng và
chi phối các thành tố khác. Một bộ phận rất lớn của chi NSNN được các cơ quan hành
chính, đơn vị sự nghiệp sử dụng trực tiếp, do đó, hiệu quả tài chính của các khu vực này
có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả chi NSNN. Ngược lại, quy mô và hiệu quả của
NSNN cũng sẽ quyết định, chi phối tiềm lực và hiệu quả tài chính các đơn vị hành
chính, sự nghiệp.
3. Vai trò của Tài chính công

Trong thực tế, NSNN có vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính công. Nếu
không có NSNN, thì Tài chính công không thể đáp ứng các nhu cầu về nguồn lực để
Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ phát triển kinh tế, ổn định xã hội, an ninh
quốc phòng.
NSNN giúp Tài chính công đảm bảo duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy
Nhà nước.


Để duy trì sự tồn tại và hoạt động, bộ máy Nhà nước cần phải có nguồn tài
chính đảm bảo cho các nhu cầu chi tiêu. Các nhu cầu chi tiêu của bộ máy Nhà nước
được đáp ứng bởi NSNN. Vai trò kể trên được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
Một là, khai thác, động viên và tập trung các nguồn tài chính để đáp ứng đầy đủ,
kịp thời cho các nhu cầu chi tiêu đã được Nhà nước dự tính cho từng thời kỳ phát triển.
Hai là, phân phối các nguồn tài chính đã tập trung được vào tay Nhà nước cho các
nhu cầu chi tiêu của Nhà nước
Ba là, kiểm tra giám sát để đảm bảo cho các nguồn tài chính đã phân phối được
sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả nhất, đáp ứng tốt nhất các yêu cầu
của quản lý Nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội.
NSNN đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Thứ nhất, TCC có vai trò chi phối các hoạt động của khu vực phi Nhà nước
thông qua thu chi NSNN. Một mặt, doanh nghiệp có nhiệm vụ nộp thuế để tạo nguồn
thu NSNN, đóng góp cho việc thực hiện các nhu cầu chung của xã hội. Mặt khác,
với quy mô lớn NSNN, TCC có thể đầu tư cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội tạo thuận lợi cho kinh doanh sản xuất, đồng thời có thể thực hiện sự trợ giúp về
tài chính nhằm duy trì và đẩy mạnh hoạt động.
Thứ hai, TCC có vai trò hướng dẫn các hoạt động của khu vực phi Nhà nước.
Chẳng hạn, chính sách thuế có tác dụng hướng dẫn đầu tư, hướng dẫn tiêu dùng, đầu tư
của Nhà nước có tác dụng “châm ngòi” thu hút đầu tư và hướng dẫn đầu tư của khu vực
phi Nhà nước…
Thứ ba, TCC có vai trò điều chỉnh các hoạt động của khu vực phi Nhà nước. Vai
trò này được thể hiện, thông qua hoạt động kiểm tra NSNN có thể phát hiện những

điểm bất hợp lý, những sự chệch hướng của các hiện tượng thu, chi trong các hoạt động
tạo lập, phân phối và sử dụng NSNN, từ đó, đưa ra các biện pháp cứng rắn, cũng như
điều chỉnh Luật đảm bảo quản lý chặt chẽ việc thu chi NS và nâng cao hiệu quả của việc
sử dụng chúng.
NSNN hỗ trợ TCC trong việc thực hiện các mục tiêu của kinh tế vĩ mô
Thứ nhất, vai trò kinh tế của TCC: TCC đóng vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả của các hoạt động
kinh tế xã hội. Vai trò này được phát huy nhờ vào việc vận dụng chức năng phân bổ
nguồn lực của NSNN trong hoạt động thực tiễn.
Thông qua công cụ thuế với các mức thuế suất khác nhau và ưu đãi về thuế, NN
định hướng đầu tư; điều chỉnh cơ cấu của nền kinh tế , kích thích hoặc hạn chế sản
xuất kinh doanh theo ngành hoặc theo sản phẩm…


Thông qua hoạt động phân phối NSNN cho xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư vào
các ngành then chốt, các công trình mũi nhọn, hình thành các DNNN, hỗ trợ tài
chính cho các doanh nghiệp cần nâng đỡ khuyến khích (qua biện pháp trợ giá,
trợ cấp…), TCC góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh,
góp phần hình thành và hoàn thiện cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế - xã hội, thúc đẩy
kinh tế phát triển và tăng trưởng.
Thứ hai, vai trò xã hội của TCC: TCC đóng vai trò quan trọng trong việc thực
hiện công bằng xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội.
Vai trò này được thể hiện thông qua việc sử dụng các công cụ thu, chi của NSNN
để điều chỉnh thu nhập giữa các tầng lớp dân cư (giảm bớt các thu nhập cao và nâng
đỡ các thu nhập thấp), giảm bớt những bất hợp lý trong phân phối, đảm bảo công bằng
trong phân phối và góp phần giải quyết những vấn đề xã hội đáp ứng các mục tiêu xã
hội của kinh tế vĩ mô.
Để giảm bớt thu nhập cao, công cụ thuế được sử dụng với chức năng tái phân
phối thu nhập : Đánh thuế luỹ tiến vào thu nhập cao, đánh thuế tiêu thụ đặc biệt cao
vào hàng hóa xa xỉ. Giảm thuế cho những hàng hoá thiết yếu đồng thời sử dụng

công cụ chi NS vào việc trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu và trợ cấp xã hội cho
những người có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn.
Trong việc giải quyết các đề xã hội, NSNN được sử dụng để tài trợ cho phát triển
các dịch vụ công cộng như văn hoá, giáo dục, y tế, đặc biệt là dịch vụ nhà ở, tài trợ cho
việc thực hiện các chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình; hỗ trợ tài chính cho việc
thực hiện các biện pháp phòng chống các tệ nạn xã hội; hỗ trợ tài chính cho giải quyết
việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp...
Thứ ba, TCC đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu ổn định của
kinh tế vĩ mô.
Sự phát triển ổn định của một nền kinh tế được đánh giá trên nhiều tiêu chí như:
Đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý và bền vững; duy trì việc sử dụng lao động
ở tỷ lệ cao; thực hiện được cân đối cán cân thanh toán quốc tế; hạn chế sự tăng giá đột
ngột, đồng loạt và kéo dài tức là cầm giữ được lạm phát ở mức vừa phải…
Do đó, NSNN luôn là biện pháp để TCC can thiệp kịp thời vào thị trường bằng
cách : Tạo lập các quỹ dự trữ về hàng hoá và tài chính nhằm đề phòng và ứng phó với
những biến động của thị trường; tạo lập quỹ bình ổn giá; tạo lập và sử dụng quỹ quốc
gia hỗ trợ việc làm…


Trong trường hợp nền kinh tế có lạm phát, biện pháp đưa ra là: Cắt giảm chi
tiêu Ngân sách, tăng thuế tiêu dùng, giảm thuế đối với đầu tư; …
Tóm lại, vai trò của TCC là rất quan trọng đối với nền kinh tế - xã hội của mỗi
nước. Để phát huy hết vai trò của TCC, thì NSNN chính là nội dụng quan trọng hàng
đầu đảm bảo cho TCC thực hiện tốt các chức năng nhiệm vụ của NN, giúp phát triển
kinh tế, ổn định xã hội, chăm lo đời sống nhân dân, đảm bảo an ninh quốc phòng.
4.
Tính quyền lực của tài chính công
Tài chính công là các hoạt động thu và chi bằng tiền của nhà nước phản ánh các
mối quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ
tiền tệ của nhà nước nhằm phục vụ thực hiện các chức năng vốn có của nhà nước đối

với xã hội.
Xuất phát từ khái niệm trên, ta có thể thấy đặc trưng của tài chính công là:
Tài chính công luôn gắn với quyền lực chính trị của nhà nước, thể hiện tính
cưỡng chế bằng luật lệ do nhà nước quy định và mang tính không hoàn trả là chủ yếu.
Tài chính công thuộc sở hữu nhà nước, do đó, nhà nước là chủ thể duy nhất quyết
đinh việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ của mình. Ở Việt Nam, Quốc hội - cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất – là chủ thể duy nhất quyết định cơ cấu, nội dung, mức độ
các khoản chi của ngân sách nhà nước tương ứng với những nhiệm vụ đã đề ra.
Nguồn thu của tài chính công bao gồm thuế, phí, lệ phí, tín dụng nhà nước. Việc
chi tiêu quỹ tiền tệ này gắn với việc duy trì và phát huy hiệu lực của bộ máy nhà nước
cũng như thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội mà nhà nước đảm nhận.
Từ những đặc trưng trên của tài chính công ta có thể thấy tính quyền lực của tài
chính công.
5. Những khuyết tật của cơ chế thị trường và sự can thiệp của Chính phủ
Cơ chế thị trường là tổng thể các yếu tố cung, cầu, giá cả và thị trường cùng các
mối quan hệ cơ bản vận động dưới sự điểu tiết của các quy luật thị trường trong môi
trường cạnh tranh nhằm mục tiêu duy nhất là lợi nhuận.
Cơ chế thị trường có ưu điểm là tự do kinh doanh, khuyến khích cạnh tranh,
thông qua thị trường mà phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả nhất, phát huy đến
mức cao nhất các tài năng sáng tạo...
Tuy nhiên, cơ chế thị trường cũng bộc lộ những khuyết điểm cần khắc phục như:
Cơ chế thị trường chỉ phát huy tác dụng khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn
hảo, khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường sẽ bị
giảm. Chẳng hạn khi xuất hiện độc quyền, các nhà độc quyền có thể giảm sản lượng,
tăng giá để thu lợi nhuận cao, mặt khác, khi xuất hiện độc quyền, thì không có sứ ép của
cạnh tranh đối với việc đổi mới kỹ thuật.


Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ có thể
lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó

hiệu quả kinh tế - xã hội không được đảm bảo.
Phân phối thu nhập không công bằng. Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ dẫn
đến sự phân hóa giàu nghèo, sự phân cực về của cải, tác động xấu đến đạo đức và tình
người.
Một nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết thuần túy khó tránh khỏi những
thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chất chu kỳ và thất nghiệp.
Nguyên nhân dẫn đến những thất bại, khuyết tật của thị trường là do: Sức mạnh
thị trường; Thông tin không hoàn hảo; Ngoại ứng; Cung cấp hàng hóa công cộng; Phân
phối thu nhập không công bằng…
Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vận
hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, trong đó, Chính phủ đóng vai
trò đặc biệt quan trọng.
Chính phủ là tổ chức mang tính giai cấp được thiết lập để thực thi những quyền
lực nhất định, điều tiết hành vi của các tổ chức cá nhân sống trong xã hội, nhằm phục vụ
lợi ích chung của xã hội đó và tài trợ cho việc cung cáp những hàng hoá dịch vụ thiết
yếu mà xã hội có nhu cầu.
Chính phủ thể hiện vai trò điều tiết, khắc phục những khuyết tật của thị trường
trong việc can thiệp vào những nội dung như: Đánh thuế vào từng đơn vị sản phẩm; Qui
định chuẩn ô nhiễm; Thu phí gây ô nhiễm; Cấp giấy phép xả chất thải, có thể mua, bán,
chuyển nhượng được.
Ví dụ như vụ Công ty Vedan Việt Nam vi phạm các quy định của pháp luật về
bảo vệ môi trường xả nước thải ra sông Thị Vải gây ô nhiễm môi trường. Và ngày 6
tháng 10, Chánh Thanh tra Bộ Tài nguyên Môi trường ra quyết định xử phạt vi phạm
hành chính về bảo vệ môi trường đối với Vedan với tổng số tiền phạt là 267,5 triệu
đồng, buộc truy nộp phí bảo vệ môi trường hơn 127 tỉ đồng.
Ngoài ra, Chính phủ còn thực hiện các giải phát khác can thiệp vào vấn đề môi
trường như xây dựng ý thức bảo vệ môi trường, xây dựng khu công nghiệp xa khu dân
cư, xây dựng kỹ thuật xử lý rác thải…
Một vai trò quan trọng của Chính phủ trong việc can thiệp vào vấn đề bảo vệ môi
trường đó là việc đánh thuế về môi trường. Tác động của thuế là đánh vào ý thức bảo vệ

môi trường của mỗi cá nhân trong xã hội. Số tiền thuế sẽ sử dụng để khắc phục những
hậu quả của ô nhiễm môi trường cũng như bảo vệ lợi ích cho những người dân sống gần
khu bị ô nhiễm.


Chính phủ thể hiện vai trò can thiệp vào đời sống kinh tế - xã hội bằng việc cung
cấp hiệu quả hàng hóa công cộng hay đảm bảo phân phối thu nhập công bằng nhằm
giảm sự bất công trong xã hội.
Các giải pháp Chính phủ thực hiện nhằm đảm bảo phân phối thu nhập công bằng
như đánh thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao, đánh thuế tiêu thụ đặc
biệt đối với những hàng hóa trong danh mục hàng hóa bị đánh thuế tiêu thụ đặc biệt.
Đồng thời, thực hiện chính sách trợ cấp cho người nghèo, người có thu nhập thấp, điều
chỉnh thu nhập thông qua mức lương tối thiểu…


6. Vai trò của tài chính công trong hệ thống tài chính Việt Nam
Hệ thống tài chính của nước ta bao gồm các khoản sau đây:
* Ngân sách Nhà nước (NSNN)
Là kế hoạch tài chính cơ bản của quốc gia, NSNN bao gồm NSNN trung ương
và NSNN địa phương, phương thức huy động của ngân sách nhà nước thể hiện các
khoản thu phần lớn là mang tính chất cấp phát không hoàn lại trực tiếp. Mọi hoạt động
của NSNN đều là hoạt động phân phối các nguồn tài chính nhằm không ngừng tái sản
xuất mở rộng, thường xuyên nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân và đảm
bảo an ninh, quốc phòng
* Các định chế tài chính trung gian
Các tổ chức tín dụng, các Công ty tài chính, các quỹ đầu tư... các tổ chức này
đứng ra huy động các nguồn tài chính nhàn rỗi theo nguyên tắc hoàn trả có thời hạn và
có lợi tức. Hoạt động của các định chế tài chính trung gian góp phần tạo ra các nguồn
tài chính đáp ứng yeu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác, giữa doanh
nghiệp với NSNN, với các tầng lớp dân cư và tổ chức xã hội tạo nên thị trường tài chính

đa dạng trong nền kinh tế.
* Tài chính của các tổ chức xã hội dân cư
Bao gồm tài chính của các tổ chức chính trị, xã hội các đoàn thể xã hội được
NSNN Nhà nước đảm bảo, còn kinh phí của các tổ chức khác, các hội nghề nghiệp sẽ
hoạt động bằng nguồn đóng góp hội phí, quyên góp ủng hộ của dân cư, các tổ chức xã
hội và các tổ chức trong hộ gia đình, các quỹ tiền tệ hình thành từ thu nhập tiền lương
của các thành viên trong gia đình do lao động sản xuất kinh doanh hoặc do thừa kế tài
sản.
Đặc trưng của khâu tài chính này kà các quỹ tiền tệ chủ yếu chi cho tiêu dùng.
Khi nhàn rỗi có thể tham gia thị trường tài chính qua các định chế tài chính trung gian
hoặc có thể góp cổ phần, mua cổ phiếu, trái phiếu
* Tài chính các doanh nghiệp
Bao gồm: tài chính các đơn vị, các tổ chức sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
thuộc mọi thành phần kinh tế
Trong hệ thống tài chính nước ta, ngân sách giữ vai trò chủ đạo. Các định chế tài
chính trung gian có vai trò hỗ trợ. Tài chính đôi với các tổ chức xã hội và hộ dân cư bổ


sung nhằm tăng nguồn lực tài chính cho nền kinh tế, còn tài chính doanh nghiệp là khâu
cơ sở của cả hệ thống. Sự hoạt động có hiệu quả của tài chính doanh nghiệp có tác dụng
củng cố hệ thống tài chính quốc gia.
Trong hệ thống tài chính quốc gia, tài chính công giữ vai trò trung tâm điều tiết
chung nền kinh tế - xã hội. Tài chính công có thể tác động tích cực kích thích hoặc tác
động tiêu cực kìm hãm sự phát triển của tài chính khu vực tư trong đó có tài chính các
doanh nghiệp và tài chính các tổ chức xã hội dân cư.
Cụ thể, Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của Chính phủ về những giải pháp
chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội đã
đưa ra chủ trương “thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ…”. Trong quá trình thực hiện
chủ trương này, bên cạnh những mặt tích cực, mặt trái của chính sách này là tình trạng
khát vốn của nền kinh tế đã đẩy nhiều doanh nghiệp vào tình cảnh khó khăn.

Một là, nhiều DN không tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng ngân hàng: Theo
điều tra của Tổng cục Thống kê, đến đầu tháng 5/2012 có hơn 42% số DN không vay
vốn trong hoạt động kinh doanh. Trong số 58% DN có vay vốn, thì hơn 50% trong số họ
vay vốn từ ngân hàng thương mại nhà nước, gần 30% có vay vốn từ ngân hàng thương
mại cổ phần, số còn lại phải vay vốn từ bạn bè, người thân...
Có khá nhiều rào cản đối với DN trong tiếp cận vốn vay ngân hàng. Đầu tiên và
lớn nhất là lãi suất cao; gần 40% số DN gặp phải rào cản này. Tiếp sau là thủ tục phiền
hà (28,5% DN), không có thế chấp (gần 19% DN), phải trả thêm phụ phí (gần 10% DN)
và cuối cùng là không có vốn đối ứng (khoảng 7% DN).
Về lãi suất tín dụng, kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê cho thấy, phần lớn
DN đã vay vốn với lãi suất rất cao trong nửa đầu năm 2012, cụ thể: 78,5% số DN đã
phải trả mức lãi suất từ 16% trở lên; hơn một nửa số DN phải trả mức lãi suất từ 18%
trở lên. Ngoài ra, việc khống chế dư nợ phi sản xuất khoảng 16% theo chính sách thắt
chặt tiền tệ của NHNN nhằm hướng dòng vốn vào khu vực trực tiếp làm ra của cải vật
chất… là điều cần thiết, song do tính chất cào bằng nên những dự án cần ưu tiên đầu tư
như phân khúc nhà ở xã hội, nhà ở cho tái định cư, nhà ở cho người thu nhập thấp theo
tinh thần Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ về đảm bảo an sinh xã hội cũng bị ảnh
hưởng nghiêm trọng trong nửa đầu năm 2012.
Hai là, lãi vay phải trả đã đẩy chi phí vốn của DN tăng cao, dẫn đến hiệu quả hoạt
động kinh doanh suy giảm: Cuối năm 2012, đầu năm 2013, lãi suất tăng góp phần làm


cho chi phí đầu vào của DN tăng theo. Trong khi đó, tình hình kinh doanh của các DN
lại hết sức khó khăn, thị trường đầu ra bị thu hẹp, hàng tồn kho tăng nhanh, hiệu quả sử
dụng vốn của hầu hết các DN ở mức rất thấp.
Không những kinh doanh thua lỗ, nhiều DN thậm chí phải ngừng hoạt động.
Chưa khi nào con số các DN đóng cửa cao như hai năm qua. Số DN phá sản và đóng
cửa tăng vọt. Năm 2011, có khoảng 53.000 DN, năm 2012 có khoảng 58.000 DN.
Ba là, tình trạng không trả được nợ của các DN đã dẫn đến việc chiếm dụng vốn
lẫn nhau ngày càng trầm trọng, nợ xấu ngân hàng tăng nhanh: Có thể nói, cơ cấu vốn

của các DN Việt Nam hai năm qua rất rủi ro. Theo báo cáo tại hội nghị đầu tư 2012 do
báo Nhịp cầu Đầu tư tổ chức ngày 16/8/2012, tại TP. Hồ Chí Minh, tỷ lệ nợ phải trả trên
vốn chủ sở hữu bình quân quý II/2012 của 647 công ty phi tài chính niêm yết, lên tới
1,53 lần, ngành xây dựng và bất động sản tổng nợ phải trả gấp hơn 2 lần vốn chủ sở hữu
(207%) và thấp nhất là ngành hàng tiêu dùng với 80%.
Cũng theo báo cáo khảo sát của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cho
thấy 16% trong số 70 DN khảo sát đang nằm trong tình trạng phải gia hạn nợ gốc và lãi
vay. Điều này dẫn đến nợ xấu của các NHTM gia tăng.
Theo số liệu của NHNN, nợ xấu năm 2009 của Việt Nam vào khoảng 45.000 tỷ
đồng, chiếm tỷ lệ 2,5% tổng dư nợ, năm 2010 khoảng 38.000 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 2,1%,
năm 2011 khoảng 78.000 tỷ đồng, chiếm 3,2%, đến tháng 3/2012 là 202.000 tỷ đồng,
chiếm 8,6% tổng dư nợ (số liệu công bố ngày 12/7/2012 của NHNN). Nợ xấu là nguyên
nhân cơ bản làm các luồng vốn trong nền kinh tế bị tắc nghẽn, dòng tiền không luân
chuyển được càng làm cho trình trạng khó khăn thêm trầm trọng.
Một ví dụ khác về chính sách tăng giá điện trong năm 2011 của Chính phủ. Đó là
lần đầu tiên, giá điện tăng tới 2 lần trong một năm, tổng tăng 20,28%. Lần thứ nhất, mức
tăng là 15,28% vào ngày 1/3, cao nhất kể từ năm 2006 so với suốt 4 năm qua.
Sau đó, Chính phủ đã giao quyền cho EVN được tự được tăng giá điện trong
phạm vi 5%, 3 tháng mỗi. Và EVN đã thực thị điều đó một cách rất hiệu quả. Ngày
19/12, EVN bất ngờ thông cáo tăng 5% và áp dụng ngày vào hôm sau 20/12/2011. Cú
tăng giá này khiến người dân, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội không còn cơ hội bày tỏ
ý kiến như những lần trước. Điều này đã gay khó khăn đến đời sống sinh hoạt của người
dân đặc biệt là đối với các doanh nghiệp sản xuất cần sủ dụng nhiều điện năng.


Một chính sách về thuế khác trong năm 2011 đã khiến nhiều doanh nghiệp oto
định rời bỏ Việt Nam. Đó là việc giữa năm 2011, cơ quan hải quan phát lệnh truy thu
thuế nhập khẩu linh kiện ô tô tới hàng loạt hãng xe liên doanh trong nước. Theo đó,
hãng xe ô tô Honda Việt Nam sẽ bị truy thu tới 3.340 tỷ đồng, Ford Việt Nam khoảng
32 tỷ đồng, Toyota khoảng 2,7 tỷ đồng... Hãng bị "nặng" nhất là Honda bắt đầu lên

tiếng dọa rời khỏi Việt Nam.
Đây là khoảng chênh lệch giữa thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc là 82% với mức
thuế nhập khẩu từng linh kiện chi tiết ô tô chỉ trong khoảng từ 0-27%. Nguyên nhân là
do trong suốt 5 năm gần đây, các hãng xe trên đã gian lận, nhập linh kiện không đảm
bảo đủ độ rời rạc, đáng lẽ phải bị áp thuế theo thuế suất xe nguyên chiếc.
Và hệ quả là ngay sau đó, hàng loạt đơn thư của các hãng ô tô gửi đi. Phía các
doanh nghiệp FDI trên đều dẫn chiếu, việc thông tư hướng dẫn chính sách thuế áp dụng
tiêu chuẩn rời rạc ban hành từ năm 2005 đã quá lỗi thời và cần sửa đổi. Các đại sứ quán
như sứ quán Nhật Bản đều vào cuộc.
Bốn bộ quản lý gồm bộ Tài chính - KH&CN - GTVT - Công Thương phải họp
khẩn để giải quyết. Và theo sự đồng ý của Thủ tướng, sự việc đã đi hồi kết với giải pháp
tình thế bằng việc đưa ra cách tính thuế mới: áp thuế suất ưu đãi nếu tổng giá trị của các
linh kiện nhập khẩu chưa đảm bảo mức độ rời rạc không vượt quá 10% trên tổng giá trị
của tất cả linh kiện phụ tùng cấu tạo lên một chiếc xe hoàn chỉnh. Các hãng xe cũng
thoát tội truy thu thuế.
Như vậy, ngoài vai trò tích cực vốn có của tài chính công trong việc điều tiết kinh
tế vĩ mô, đảm bảo công bằng xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế thì cần phải chú ý đến
tác động của việc áp dụng các chính sách kinh tế đến các các thành phần kinh tế khác
trong xã hội. Trong đó, các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội dân cư, các cá nhân, hộ
gia đình để đảm bảo hài hòa lợi ích của mỗi người dân trong toàn xã hội.


Câu hỏi 2:
Hãy chứng minh bằng lý luận và thực tiễn vai trò quan trọng của ngân sách
nhà nước đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước?
Bài làm:
1. Khái niệm ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước (Theo Luật ngân sách nhà nước Việt Nam

năm 2002).
2. Vai trò của ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng không thể thiếu đối với nền kinh tế
mỗi quốc gia. Ngân sách nhà nước là công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo các
nhu cầu chi tiêu của nhà nước, là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội, thúc đẩy
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Vai trò thứ nhất: ngân sách nhà nước là công cụ huy động nguồn tài chính để đảm
bảo các nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
Đây là vai trò lịch sử mà trong bất kỳ cơ chế nào, thời đại nào ngân sách nhà
nước cũng cần thực hiện. Vai trò này được xác định trên cơ sở bản chất kinh tế của ngân
sách nhà nước do mọi hoạt động trong mọi lĩnh vực của nhà nước để thực hiện mục tiêu
xác định đều cần đến nguồn tài chính từ việc thu thuế và các hình thức thu ngoài thuế.
Tuy nhiên, việc huy động nguồn tài chính này cần phải quan tâm đến ba vấn đề
cơ bản. Đó là:
Một, mức động viên vào ngân sách nhà nước đối với các thành viên trong xã hội
bằng hình thức thu thuế và ngoài thuế cần phải hợp lý. Mức thu cao hay thấp đều có tác
động tiêu cực.
Hai, tỷ lệ động viên vào ngân sách nhà nước đối với GDP vừa đảm bảo hợp lý với
tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, vừa đảm bảo cho đơn vị cơ sở có điều kiện tích tụ
vốn để mở rộng, tái sản xuất.
Ba, các công cụ kinh tế được sử dụng để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước
và thực hiện các khoản chi tiêu của ngân sách nhà nước.
Vai trò thứ hai: Ngân sách nhà nước là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã
hội, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.


Vai trò này xuất hiện trước nhu cầu cần khắc phục những khuyết điểm của kinh tế
thị trường, giúp cho nền kinh tế phát triển cân đối và hợp lý. Nhà nước thực hiện vai trò
này trong hoạt động thu, chi ngân sách. Cụ thể trong những lĩnh vực kinh tế - xã hội
sau:

Về mặt kinh tế: định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích sản xuất
kinh doanh phát triển và chống độc quyền.
Ngân sách nhà nước cung cấp kinh phí để nhà nước đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng cơ sở, hình thành các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực then chốt từ đó tạo môi trường,
điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế khác phát triển.
Nhà nước sử dụng một nguồn vốn không nhỏ để hình thành các doanh nghiệp nhà
nước là biện pháp để chống độc quyền và giữ cho thị trường tránh rơi vào tình trạng
cạnh tranh không hoàn hảo.
Trong những trường hợp cần thiết, sử dụng một số vốn trong ngân sách để hỗ trợ
cho các doanh nghiệp ổn định về cơ cấu, vượt qua thời kỳ khó khăn hoặc chuẩn bị
chuyển sang một cơ cấu mới cao hơn.
Thông qua các khoản thuế và chính sách thuế sẽ đảm bảo thực hiện vai trò định
hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh.
Vay nợ nước ngoài và trong nước sẽ tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước
nhưng cần phải thận trọng trong các chính sách điều khoản, mức vay và thời hạn vay và
đảm bảo sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả nguồn vốn vay này.
Về mặt xã hội: ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện
công bằng xã hội.
Ngân sách nhà nước đầu tư thực hiện các chính sách xã hội như chi cho Giáo dục
– đào tạo, y tế, kế hoạch hóa gia đình, văn hóa, thể thao, truyền thanh, chi bảo đảm xã
hội, trợ giá hàng hóa...
Thông qua hình thức thu thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp
nhằm điều tiết thu nhập, phân phối lại cho những đối tượng có thu nhập thấp.
Thông qua thuế gián thu nhằm hướng dẫn tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm.
Tuy nhiên, vấn đề sử dụng công cụ ngân sách nhà nước để điều chỉnh các vấn đề
xã hội cần chú ý thống nhất giữa chính sách và biện pháp thực hiện để nhóm đối tượng
hưởng lợi từ chính sách phù hợp với mục tiêu của chính sách.


Về mặt thị trường: ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng trong việc thực hiện

chính sách bình ổn giá cả thị trường, chống lạm phát.
Nhà nước sử dụng những công cụ về chính sách chi ngân sách, thuế, phí, lệ phí,
vay để có thể chủ động điều chỉnh giá cả và thị trường.
Những chính sách đó có thể thắt chặt hay nới lỏng tùy thuộc vào mục đích và
mức độ tác động đến cung – cầu thị trường mà nhà nước mong muốn điều chỉnh.
Việc huy động của ngân sách nhà nước từ các hình thức thuế, phí, lệ phí, vay, bảo
hiểm xã hội trên GDP và GNP chiếm tỷ trọng cao thì sự cung ứng vốn đầu tư dài hạn,
vốn tiền tệ ngắn hạn của các nhà đầu tư và đầu tư của dân sẽ giảm, vốn tự đầu tư sẽ
khan hiếm hơn. Mặt khác, nó sẽ làm cho cầu về hàng hóa, dịch vụ của dân cư giảm
xuống nhưng ngân sách nhà nước lại có điều kiện tăng cầu với quy mô lớn và chi cho
đầu tư lớn sẽ kích thích tăng cung.
Ngược lại, nếu ngân sách nhà nước huy động trên GDP và GNP chiếm tỷ trọng
thấp thì nguồn tự đầu tư tăng lên, thúc đẩy tăng cung, đồng thời kích thích tăng cầu về
hàng hóa, dịch vụ nhưng ngân sách lại không có điều kiện để tăng cầu và chi cho đầu tư.
Trên thị trường tài chính, nhà nước vay vốn với lãi suất cao sẽ tác động tăng cung
ứng vốn từ các nhà đầu tư và tiết kiệm tiêu dùng cho tương lai và làm giảm lượng cầu
về vốn đầu tư của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Khi lãi suất các khoản vay của nhà nước giảm xuống dưới mức lợi tức bình quân
toàn xã hội, các nhà đầu tư sẽ tìm môi trường đầu tư vào sản xuất kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ mà không muốn cho nhà nước vay.
Mặt khác, lãi suất các khoản vay của nhà nước có vị trí quan trọng trên thị trường
chứng khoán có thể tham gia điều tiết quan hệ cung – cầu trên thị trường chứng khoán.
Dự trữ nhà nước đóng vai trò không thể thiếu nhất là trong cơ chế thị trường. Giá
cả do thị trường quyết định, phụ thuộc và quan hệ cung – cầu và các yếu tố khác. Để
bảo vệ lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng, kích thích sản xuất phát triển nhà
nước cần theo dõi biến động giá cả trên thị trường và phải có nguồn dự trữ hàng hóa, tài
chính để điều chỉnh kịp thời.
Chống lạm phát là nội dung quan trọng trong việc điểu chỉnh thị trường. Có nhiều
nguyên nhân gây ra lạm phát trong đó có nguyên nhân xuất phát từ lĩnh vực thu chi
ngân sách nhà nước. Nếu đồng vốn ngân sách được sử dụng hợp lý, hiệu quả thì sẽ có

tác động tích cưc, ngượi lại sẽ gay ra bất ổn trên thị trường, thúc đẩy lạm phát tăng.


Việc phát hành thêm tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước là nguyên nhân trực
tiếp khiến lạm phát tăng. Và sự cân bằng của ngân sách nhà nước sẽ có tác động đến sự
cân bằng của cán cân thanh toán quốc tế do sự cân bằng của ngân sách tác động trực
tiếp đến sự cân bằng của cán cân thương mại; mức độ thực hiện cân bằng ngân sách nhà
nước nói lên khả năng chi trả các khoản nợ nước ngoài đến hạn.
3. Thực tế vai trò của ngân sách nhà nước
Nhìn chung, ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng không thể thiếu đối với
bất kỳ một nhà nước trong bất kỳ thời đại nào. Đối với Việt Nam cũng vậy, ngân sách
nhà nước thể hiện rõ nét vai trò đó trong suốt quá trình xây dựng đất nước, đặc biệt là
trong giai đoạn từ trước đổi mới và sau đổi mới, quá trình sử dụng ngân sách nhà nước
đã có sự tác động tích cực và cả tiêu cực đối với nền kinh tế nhất là quá trình chuyển đổi
nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
Sơ đồ tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước:
Hệ thống NSNN CHXHCN Việt Nam

Ngân sách Trung ương

Ngân sách địa phương

Ngân sách tỉnh, TP trực thuộc TW

KHTC
Bộ&CQ
ngang
bộ

DTKP

Bộ &
CQ
ngang
Bộ

Ngân sách huyện & cấp tương đươc

Ngân sách xã & cấp tương đương


Trước đổi mới, xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu lại bị chiến
tranh tàn phá nặng nề, hầu hết các khoản tích lũy cho đầu tư đều phải dựa vào các nước
xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng, thu chi ngân sách mất cân đối
lại dựa vào phát hành tiền để bù đắp thâm hụt nên gây ra tình trạng lạm phát và nền kinh
tế khủng hoảng trầm trọng.
Thu chi ngân sách của Chính phủ trong thời kỳ này mang nặng tính bao cấp,
nguồn thu eo hẹp, quy mô nhỏ nhưng phải chịu gánh nặng từ hầu hết các nhu cầu chi
tiêu của nền kinh tế - xã hội. Do phải chi tiêu phục vụ khôi phục và xây dựng hạ tầng cơ
sở kinh tế và đẩy mạnh năng lực sản xuất của doanh nghiệp nhà nước nên tổng chi ngân
sách nhà nước so với thu nhập quốc dân luôn ở mức cao, lớn hơn tổng thu rất nhiều.
Ngân sách nhà nước thâm hụt nặng nề, tổng thu ngân sách luôn thấp hơn rất nhiều so
với nhu cầu chi tiêu.
Toàn bộ nguồn vốn chi đầu tư phát triển đều phải dựa vào nguồn vốn viện trợ và
vay nợ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũng như từ nguồn phát hành tiền của
ngân hàng nhà nước.
Nhu cầu chi NSNN rất lớn trong khi nguồn thu hạn hẹp dẫn đến thâm hụt trầm
trọng NSNN. Thâm hụt NSNN giai đoạn 1976-1980 là 28%, giai đoạn 1981-1985 là
14%. Việc phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách đã dẫn đến lạm phát phi mã vào
giữa những năm 80 buộc Nhà nước phải tiến hành cải cách. Nhưng cuộc cải cách giálương-tiền năm 1985 không những không cải thiện được tình hình mà còn làm cho nền
kinh tế lâm vào khủng hoảng trầm trọng hơn.

Chính sách thu NSNN trong thời kỳ này có đặc trưng chủ yếu:
Chính sách thuế không thực hiện đồng bộ nền kinh tế mà chỉ áp dụng đối với bộ
phận kinh tế ngoài quốc doanh, kinh doanh tiểu thủ công nghiệp và buôn bán nhỏ.
Chính sách thu đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước là cơ chế thực thanh thực
chi, thu đủ chi đủ, không phân biệt hiệu quả đầu tư kinh doanh, cũng không có tác dụng
khuyễn khích đổi mới công nghệ, tăng năng suất chất lượng sản phẩm, giảm chi phí,
tăng lợi nhuận.
Chi tiêu dùng trong thời kỳ này chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng tăng. Giai
đoạn 1976-1980 chi tiêu dùng chiếm bình quân 60,8% tổng chi NSNN. Do bao cấp tràn
nan và nặng nề nên nhu cầu chi tiêu NSNN ngày càng tăng.


Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI cuối năm 1986 đã mở ra một thời kỳ mới với
những chương trình cải cách kinh tế sâu rộng và toàn diện. Nền kinh tế đã chuyển dần
từ mô hình tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường phù hợp với đặc điểm của Việt
Nam.
Sau 10 năm đổi mới, vị thế và tiềm lực tài chính công đã được củng cố và tăng
cường, dự trữ tài chính nhà nước và dự trữ ngoại tệ tăng khá, cán cân thanh toán được
cải thiện. Về quy mô, thu ngân sách nhà nước đã tăng từ mức 13,4% GDP giai đoạn
1986-1990 lên mức 20,2% giai đoạn 1991-2000. Điều này đã tạo nguồn lực cho nhà
nước thực hiện các nhiệm vụ chiến lược, đưa nền tài chính ngân hàng thoát khỏi tình
trạng phụ thuộc, có tích lũy vốn để đầu tư phát triển kinh tế, cải thiện cơ sở hạ tầng, giải
quyết các vấn đề xã hội.
Thực hiện cải cách lại cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa đã góp phần
làm giảm đáng kể các khoản chi cho các doanh nghiệp nhà nước.
Chi đầu tư phát triển trong thời kỳ này được coi là nội dung ưu tiên hàng đầu
trong cơ cấu chi NSNN.
Chi đầu tư phát triển của NSNN là quá trình phân phổi và sử dụng một phần vốn
tiền tệ từ quỹ NSNN để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển sản
xuất và dự trữ vật tư hàng hóa của đất nước, nhằm thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ

mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Giai đoạn này nguồn vốn chi đầu tư phát triển từ NSNN tuy còn hạn hẹp nhưng
vốn đàu tư của toàn xã hội đã tăng nhanh đáng kể. Ngoài nguồn vốn chi từ NSNN còn
huy động được nguồn vốn từ nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Bên cạnh đó, đầu tư
gián tiếp của Nhà nước thông qua cơ chế để lại khấu hao cơ bản cho các doanh nghiệp
nhà nước, cấp lại một số tiền thuế, để lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, miễn thuế cho các
doanh nghiệp mới thành lập đi vào hoạt động. Đồng thời với chính sách huy động vốn
đầu tư nước ngoài đã góp phần tăng mức đầu tư xã hội lên cao.
NSNN được sử dụng để kích thích nền kinh tế phát triển hoặc hình thành cơ cấu
kinh tế mới, hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ đạo mà chính
phủ đã hoạch định thông qua các hoạt động như:
Dùng vốn NSNN để đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội như giao thông, điện,
nước thuỷ lợi… Đây là những lĩnh vực rất cần cho sự phát triển kinh tế xã hội nhưng tư


nhân không muốn đầu tư (do tỷ suất lợi nhuận thấp, thời gian hoàn vốn chậm) hoặc
không đủ khả năng (về vốn và trình độ) để đầu tư.
Ví dụ : Nhà máy lọc dầu Dung Quất (Quảng Ngãi) là công trình trọng điểm quốc
gia, nhằm hình thành ngành công nghiệp lọc hóa dầu của Việt Nam, tạo điều kiện cho
phát triển nhanh các ngành công nghiệp, dịch vụ liên quan. Công trình còn góp phần
thúc đẩy phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của miền Trung, từng bước tạo ra sự
phát triển kinh tế cân đối giữa các vùng, miền trong cả nước. Điều này đáp ứng mục tiêu
vừa phát triển kinh tế vừa ổn định xã hội của Chính phủ. Hơn nữa, Công trình trọng
điểm quốc gia về dầu khí này cho phép chúng ta chế biến và gia tăng giá trị dầu thô khai
thác trong nước, hạn chế nhập siêu và giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn cung cấp xăng
dầu từ nước ngoài, đảm bảo từng bước về an ninh năng lượng. Năm 2010, tính từ khi
bàn giao, NMLD Dung Quất đạt doanh thu 60.000 tỷ đồng, nộp ngân sách 10.000 tỷ
đồng, sản phẩm đáp ứng 30% nhu cầu xăng dầu của cả nước.
Hay cụm công trình công nghiệp khí-điện-đạm Cà Mau có tổng giá trị hơn 1,2 tỷ
USD cung cấp điện năng cho đất nước. Đây là công trình trọng điểm có ý nghĩa cả về

kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng.
Cấp vốn hình thành các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp
căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh
không hoàn hảo.
Thực hiện những ưu đãi về tín dụng hoặc thuế nhằm khuyến khích phát triển
những ngành nghề hoặc vùng cần phát triển, ví dụ các ngành kinh tế mới (công nghệ
sinh học, tin học), các ngành trọng điểm (sản xuất hàng xuất khẩu), các vùng kinh tế ở
vùng sâu vùng xa cần hỗ trợ phát triển để đảm bảo đời sống người dân ở đó. Ví dụ gói
kích cầu năm 2009 (bao gồm cả hỗ trợ lãi suất, miễn giảm thuế...) trị giá khoảng 8 tỷ
USD.
Thông qua việc áp dụng thuế suất cao đối với những mặt hàng xa xỉ có tác dụng
định hướng tiêu dùng, định hướng đầu tư nhằm tiết kiệm nguồn vốn có hạn của xã hội
để phát triển kinh tế.
Ví dụ, để hạn chế nhập khẩu hàng xa xỉ Nhà nước đánh thuế nhập khẩu cao kèm
theo thuế tiêu thụ đặc biệt như ở mặt hàng ô tô, máy bay…
Khi nền kinh tế suy thoái, nhà nước có thể tăng chi ngân sách cho đầu tư, cắt
giảm thuế nhằm kích cầu, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi sớm.


Thông qua các khoản chi đầu tư từ vốn ngân sách và ưu đãi thuế để thúc đẩy hình
thành cơ cấu kinh tế mới, hợp lý hơn, qua đó phát huy các nguồn lực trong xã hội một
cách có hiệu quả.
Vai trò ổn định kinh tế xã hội của NSNN được thể hiện qua những hoạt động
như:
Lập quỹ dự trữ nhà nước về hàng hoá, vật tư thiết yếu, các quỹ dự phòng tài chính
(kể cả bằng vàng và ngoại tệ) để ổn định kinh tế xã hội khi có sự biến động do thiên tai,
tai hoạ lớn mà Nhà nước cần can thiệp.
Ví dụ như tính đến tháng 11/2012 Tổng cục Dự trữ Nhà nước đã chỉ đạo các đơn
vị nhập đủ 191.550 tấn gạo và 80.000 tấn thóc, hoàn thành 100% kế hoạch được giao;
về kết quả xuất đổi hàng, thóc được 68.019 tấn (đạt 81,2%), gạo được 86.477 tấn, đạt

62,1%; triển khai việc xuất 5.000 tấn gạo quà tặng đến nhân dân Triều Tiên; xuất 4.000
tấn gạo viện trợ cho các tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An khắc phục hậu quả thiên tai; mua
vật tư, thiết bị, đã nhập được 185.000 chiếc phao tròn tại các đơn vị; thương thảo hợp
đồng với các nhà thầu trúng thầu cung cấp thiết bị chữa cháy rừng, nhà bạt nhẹ theo kết
quả đấu thầu được Bộ phê duyệt.
Tính đến ngày 25/3/2013, Tổng cục dự trữ quốc gia đã hoàn thành việc xuất cấp
29.092 tấn gạo hỗ trợ cho các địa phương, trong dịp Tết Nguyên đán và giáp hạt năm
2013 và 750 tấn gạo (đợt 1) cho Dự án Đầu tư và phát triển rừng, tại 4 huyện vùng cao
núi đá tỉnh Hà Giang.
Bình ổn giá cả hàng hoá để ổn định thị trường. Nhà nước chỉ điều tiết những mặt
hàng quan trọng, mang tính chất chiến lược. Cơ chế điều tiết thông qua trợ giá, điều
chỉnh thuế suất thuế xuất nhập khẩu, dự trữ quốc gia
Ví dụ: Bộ Công Thương ban hành văn bản số 3705/BCT-CNNg triển khai
thực hiện các biện pháp bình ổn giá cả mặt hàng thép, góp phần kiềm chế lạm phát
trong năm 2010.
Bình ổn giá xăng trong cuối năm 2010 để tránh việc giá cả các mặt hàng
khác tăng nhanh trong dịp tết, tranh nguy cơ lạm phát trong đầu năm 2011.
Cấp tín dụng ưu đãi hoặc mua lại các doanh nghiệp có vị trí quan trọng đang gặp
khó khăn, có nguy cơ giải thể hoặc phá sản.
Kinh tế Việt Nam đang ở trong thời kỳ cuối của giai đoạn suy thoái kinh tế.
Chính phủ đã buộc phải tung ra các gói cứu trợ để kích thích nền kinh tế đang suy


yếu.Trong vòng 5 năm trở lại đây, chính phủ Việt Nam đã hai lần tung ra các gói cứu
trợ để kích thích nền kinh tế sau khi thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ để chống
lạm phát.
Nhà nước đã tung ra các gói kích cầu kinh tế như gói hỗ trợ lãi suất 160.000 tỷ
đồng đẩy nhanh tăng trưởng tín dụng năm 2009 và gói kích cầu miễn giảm thuế cho
doanh nghiệp 29.000 tỷ đồng năm 2012.
Gần đây nhất, ngày 7/01/2013 Chính phủ ra Nghị quyết số 02/NQ-CP về một số

giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xâu
nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, không phải lúc nào các gói kích cầu cũng mang lại hiệu quả và đôi khi
những sai lầm trong quản lý điều hành doanh nghiệp đã dẫn đến doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ và gây thất thoát tiền bạc của nhà nước. Đó là trường hợp của Tập đoàn kinh tế
Vinashin (Vinashin Business Group) đã làm thất thoát hàng chục nghìn tỷ VNĐ của nhà
nước. Các thống kê ban đầu cho thấy với hơn 4 tỷ USD thất thoát của Vinashin đã gấp 4
lần gói kích cầu của Chính phủ trong nỗ lực phục hồi kinh tế trong cơn khủng hoảng suy
thoái năm 2008, gấp 3 lần tổng mức đầu tư cho chương trình xóa đói giảm nghèo cả
nước.
Lập quỹ dự trữ ngoại tệ để ổn định tỷ giá.
Dự trữ ngoại hối của Việt Nam .
Năm 2008 dự trữ ngoại hối của Việt Nam là 23,9 tỷ USD, năm 2009 giảm xuống
còn 14,1 tỷ USD, năm 2010 chỉ còn 12,4 tỷ USD.
Tuy nhiên, Quỹ dự trữ ngoại tệ của Việt Nam hiện tương ứng khoảng 14-16 tuần
nhập khẩu. Nếu tính theo số liệu Hải quan về kim ngạch nhập tháng 1/2013 thì khối
lượng ngoại tệ đang dự trữ của Việt Nam có thể lên tới gần 43 tỷ USD.
Sử dụng các chính sách tài khoá thắt chặt hoặc mở rộng nhằm điều tiết kinh tế vĩ
mô (giảm nhiệt nền kinh tế, chống lạm phát, phục hồi tổng cầu).
Ngoài ra, các hoạt động nhằm cân bằng ngân sách cũng có ảnh hưởng lớn tới các
cân bằng vĩ mô của nền kinh tế như cán cân thanh toán…
Vai trò NSNN về mặt thực hiện công bằng xã hội thể hiện ở những hoạt động
như:
Chi phúc lợi công cộng như giáo dục, y tế, văn hoá… nhằm tạo điều kiện nâng
cao mặt bằng xã hội.


Chi trợ cấp trực tiếp đối với những người có hoàn cảnh khó khăn như trẻ em mồ
côi, người già không nơi nương tựa, những gia đình có công với đất nước. Chi trợ cấp
thất nghiệp, người có thu nhập thấp nhằm giúp ổn định xã hội.

Chi trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu,các khoản
chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, chống mù chữ,…
Chi hỗ trợ việc làm cho người nghèo, người tàn tật qua tín dụng ưu đãi.
Thông qua thuế thu nhập, thuế lợi tức nhằm điều tiết thu nhập cao để phân phối
lại cho các đối tượng có thu nhập thấp, góp phần giảm bớt khoảng cách giàu nghèo.
Về nội dung và cơ cấu chi đầu tư phát triển đã từng bước thay đổi theo hướng phù
hợp với yêu cầu đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành
phần. Một xu hướng mới đang hình thành: chi đầu tư phát triển từ nguồn vốn tập trung
của nhà nước được dành chủ yếu để xây dựng cơ sở hạ tầng và những khu vực đặc biệt
khó khăn hoặc không thu hồi được vốn. Trong thời kỳ 1991-1995 tỷ trọng chi đầu tư
xây dựng cơ bản bình quân là 85,2% chi đầu tư phát triển, đến năm 1996 tỷ lệ này đã
tăng lên 92,1%, năm 1999 tăng lên 93,2%.
Hiệu quả và tác động của chi đầu tư phát triển từ nguồn vốn NSNN đến kinh tế xã hội được thể hiện ở những mặt sau đây:
Về hiệu quả kinh tế:
Đầu tư phát triển từ nguồn vốn NSNN có tác động vào phát triển GDP kinh tế nhà
nước. Giai đoạn 2006-2008 và 2009-2010 hiệu quả đầu tư phát triển từ nguồn vốn
NSNN đối với việc phát triển GDP kinh tế nhà nước có xu hướng tăng. Giai đoạn 20052006 và 2008-2009 hiệu quả giảm, đặc biệt giai đoạn 2008-2009 hiệu quả giảm rõ rệt.
Nhìn chung cả giai đoạn 2005-2010 hiệu quả tăng, giảm thiếu ổn định và ngày càng có
xu hướng giảm dần với tốc độ lớn trong việc đóng góp vào phát triển GDP kinh tế nhà
nước.
Đối với đầu tư phát triển từ nguồn vốn NSNN theo số liệu Niên giám thống kê
Việt Nam giai đoạn 2005-2010, kết quả cho thấy ICOR kinh tế nhà nước đã tăng rất
nhanh và tăng liên tục từ 6,81 năm 2005 lên 10,24 năm 2010, có năm tăng đến 12, 37
(năm 2009). ICOR khu vực vốn đầu tư phát triển từ NSNN tăng nhanh và cao như vậy,
giai đoạn 2005-2010 đầu tư phát triển từ vốn NSNN kém hiệu quả.
Chi đầu tư phát triển tới hiệu quả xã hội trong giai đoạn 2006-2008 và 2009-2010
có tác động làm tăng mức sống của người dân còn giai đoạn 2005-2006 và 2008-2009



×