Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Những đặc điểm của địa danh tỉnh tiền giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.22 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------

NGUYỄN THỊ KIỀU OANH

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỊA DANH
TỈNH TIỀN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------

NGUYỄN THỊ KIỀU OANH

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỊA DANH
TỈNH TIỀN GIANG
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số

: 66 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ TRUNG HOA



Thành phố Hồ Chí Minh – 2011


LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu địa danh là một lĩnh vực không mới với thế giới nhưng lại khá mới mẻ
với Việt Nam chúng ta. Những bí ẩn về ngành địa danh học cùng với niềm khao khát muốn
tìm hiểu, khám phá vẻ đẹp của quê hương dưới góc nhìn ngôn ngữ học thông qua hệ thống
địa danh của tỉnh khiến tôi mạnh dạn đăng ký đề tài luận văn: “Những đặc điểm của địa
danh tỉnh Tiền Giang”.
Qua đây, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến PGS.TS. Lê Trung Hoa – giảng viên
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh – đã tận tình chỉ dẫn tôi
từng tí một trong quá trình thực hiện luận văn và cung cấp cho tôi nhiều tài liệu khoa học
quý báu.
Và tôi cũng xin chân thành cảm ơn quý thầy cô ngành Ngôn ngữ học, trường Đại học
Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã giảng dạy, truyền cho tôi những kiến thức sâu sắc và hướng
dẫn nhiệt tình cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Xin cảm ơn phòng Sau đại học trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn.
Cảm ơn các cơ quan, ban ngành trong tỉnh Tiền Giang đã giúp đỡ tôi trong việc tìm
kiếm những tư liệu cần thiết để hoàn thành luận văn.
Chắc vẫn còn nhiều thiếu sót trong luận văn này, vì thế, kính mong quý thầy cô tiếp
tục chỉ dẫn để luận văn có thể hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tân Hòa, ngày 01 tháng 8 năm 2011
Nguyễn Thị Kiều Oanh


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN........................................................................................................... 3

0T

0T

MỤC LỤC ................................................................................................................ 4
0T

T
0

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 7
0T

T
0

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................................... 7
T
0

0T

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................................... 7
T
0

0T

1.1.Sơ lược vấn đề nghiên cứu địa danh trên thế giới.............................................................. 7
T

0

T
0

1.2.Nghiên cứu địa danh ở Việt Nam ..................................................................................... 8
T
0

T
0

1.3.Nghiên cứu địa danh ở Tiền Giang ................................................................................. 10
T
0

T
0

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ............................................................................................. 11
T
0

0T

5. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................................ 12
T
0

0T


6. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................................... 12
T
0

0T

6.1.Phương pháp thu thập và xử lý tư liệu ............................................................................ 12
T
0

T
0

6.2.Phương pháp thống kê, phân loại, miêu tả ...................................................................... 13
T
0

T
0

6.3.Phương pháp so sánh, đối chiếu...................................................................................... 13
T
0

0T

6.3.1.So sánh, đối chiếu đồng đại..................................................................................... 13
T
0


T
0

6.3.2.Phương pháp điền dã .............................................................................................. 13
T
0

0T

Chương 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .............................. 15
0T

T
0

1.1.Những tiền đề lý luận.......................................................................................................... 15
T
0

0T

1.1.1.Định nghĩa địa danh .................................................................................................... 15
T
0

0T

1.1.2. Đối tượng nghiên cứu của địa danh học ...................................................................... 17
T

0

T
0

1.1.3. Phân loại địa danh ...................................................................................................... 18
T
0

0T

1.2. Những tiền đề thực tiễn ...................................................................................................... 21
T
0

0T

1.2.1. Vài nét về lịch sử và địa giới hành chính tỉnh Tiền Giang ........................................... 21
T
0

T
0

1.2.2. Tổng quan về địa lí, kinh tế, xã hội ............................................................................. 27
T
0

T
0


1.2.2.1. Địa lí Tiền Giang ................................................................................................ 27
T
0

0T

1.2.2.2. Kinh tế - xã hội Tiền Giang ................................................................................. 30
T
0

T
0

1.2.3. Đặc điểm dân cư......................................................................................................... 32
T
0

0T

1.2.4. Đặc điểm ngôn ngữ .................................................................................................... 34
T
0

0T

1.2.5. Kết quả thu thập và phân loại địa danh ở tỉnh Tiền Giang ........................................... 35
T
0


T
0

1.2.5.1. Phân loại theo đối tượng ..................................................................................... 35
T
0

T
0

1.2.5.2. Phân loại theo nguồn gốc ngữ nguyên ................................................................. 36
T
0

T
0

1.2.5.3. Phân loại theo số lượng âm tiết ........................................................................... 36
T
0

T
0

Chương 2: CẤU TẠO VÀ CHUYỂN BIẾN CỦA ĐỊA DANH TỈNH TIỀN
GIANG .................................................................................................................... 39
0T

T
0



2.1. Cấu tạo của địa danh tỉnh Tiền Giang................................................................................. 39
T
0

T
0

2.1.1. Phương thức cấu tạo của địa danh tỉnh Tiền Giang ..................................................... 39
T
0

T
0

2.1.1.1. Phương thức tự tạo .............................................................................................. 40
T
0

0T

2.1.1.2. Phương thức chuyển hóa ..................................................................................... 53
T
0

T
0

2.1.2. Đặc điểm cấu tạo của địa danh tỉnh Tiền Giang .......................................................... 56

T
0

T
0

2.1.2.1. Danh từ chung và tên riêng ................................................................................. 56
T
0

T
0

2.1.2.2. Thành tố chung ................................................................................................... 59
T
0

0T

2.1.2.3. Giải thích một vài danh từ chung và thành tố chung trong địa danh ở tỉnh Tiền
Giang .............................................................................................................................. 60
T
0

0T

2.1.2.4. Về mặt cấu tạo địa danh tỉnh Tiền Giang ............................................................. 62
T
0


T
0

2.1.3. Tiểu kết ...................................................................................................................... 66
T
0

0T

2.2. Chuyển biến của địa danh tỉnh Tiền Giang ......................................................................... 67
T
0

T
0

2.2.1. Một số nguyên nhân làm biến đổi địa danh ................................................................. 67
T
0

T
0

2.2.1.1. Nguyên nhân bên ngoài ngôn ngữ ....................................................................... 67
T
0

T
0


2.2.1.2. Nguyên nhân bên trong địa danh ......................................................................... 70
T
0

T
0

2.2.2. Đặc điểm chuyển biến của địa danh tỉnh Tiền Giang .................................................. 72
T
0

T
0

2.2.2.1. Đặc điểm chuyển biến của địa danh chỉ địa hình ................................................. 72
T
0

T
0

2.2.2.2. Đặc điểm chuyển biến của địa danh hành chính .................................................. 74
T
0

T
0

2.2.2.3. Đặc điểm chuyển biến của địa danh chỉ công trình xây dựng ............................... 81
T

0

T
0

Chương 3 : NGUỒN GỐC – Ý NGHĨA CỦA MỘT SỐ ĐỊA DANH TỈNH TIỀN
GIANG VÀ GIÁ TRỊ PHẢN ÁNH HIỆN THỰC ................................................ 87
0T

T
0

3.1. Nguồn gốc – ý nghĩa của một số địa danh tỉnh Tiền Giang ................................................. 87
T
0

T
0

3.1.1. Một số địa danh có nguồn gốc rõ ràng ........................................................................ 87
T
0

T
0

3.1.2. Một số địa danh có nguồn gốc, ý nghĩa còn đang tranh cãi.......................................... 90
T
0


T
0

3.1.3. Một số địa danh là truyền thuyết, sự tích .................................................................... 92
T
0

T
0

3.2. Giá trị phản ánh hiện thực .................................................................................................. 94
T
0

0T

3.2.1. Phản ánh về lịch sử ..................................................................................................... 95
T
0

0T

3.2.2. Phản ánh về địa lý ...................................................................................................... 96
T
0

0T

3.2.3. Phản ánh về ngôn ngữ ................................................................................................ 97
T

0

0T

3.2.3.1. Tiếng dân tộc ...................................................................................................... 97
T
0

0T

3.2.3.2. Từ ngữ địa phương.............................................................................................. 98
T
0

0T

3.2.3.3. Từ ngữ lịch sử ..................................................................................................... 98
T
0

0T

3.2.4. Phản ánh về văn hóa ................................................................................................. 100
T
0

0T

3.2.5. Phản ánh hoạt động kinh tế ....................................................................................... 103
T

0

0T

3.2.5.1. Tên chợ ............................................................................................................. 103
T
0

0T

3.2.5.2. Tên nghề nghiệp và sản phẩm ........................................................................... 107
T
0

T
0

3.2.6. Phản ánh hoạt động giao thông ................................................................................. 107
T
0

T
0


3.2.6.1. Địa danh phản ánh phương thức hoạt động giao thông ...................................... 107
T
0

T

0

3.2.6.2. Tên các công trình giao thông ........................................................................... 107
T
0

T
0

3.2.7. Phản ánh hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng .................................................................. 109
T
0

T
0

3.2.7.1. Địa danh gắn với hoạt động tôn giáo ................................................................. 109
T
0

T
0

3.2.7.2. Địa danh gắn với hoạt động tín ngưỡng ............................................................. 111
T
0

T
0


3.2.8. Phản ánh hoạt động quân sự ..................................................................................... 111
T
0

0T

3.2.9. Phản ánh hoạt động giáo dục và vui chơi giải trí ....................................................... 113
T
0

T
0

3.2.9.1. Địa danh phản ánh hoạt động giáo dục .............................................................. 113
T
0

T
0

3.2.9.2. Địa danh phản ánh hoạt động vui chơi giải trí ................................................... 114
T
0

T
0

3.2.10. Phản ánh văn học.................................................................................................... 114
T
0


0T

KẾT LUẬN........................................................................................................... 118
0T

0T

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 121
0T

0T

PHỤ LỤC ............................................................................................................. 128
0T

T
0


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Địa danh là một bộ phận đặc biệt của từ vựng nhưng có nguồn gốc và ý nghĩa riêng,
nằm trong đối tượng của bộ môn từ vựng học. Bên cạnh việc nhận biết, hiểu rõ những đặc
điểm ngôn ngữ trong các phương thức cấu tạo của hàng loạt tên gọi, địa danh còn cung cấp
nguồn tư liệu quý cho nhiều ngành khoa học khác như dân tộc học, địa lý học, lịch sử học,
khảo cổ học, văn hóa học…Vì vậy, việc nghiên cứu địa danh có ý nghĩa và giá trị rất lớn.
Nghiên cứu địa danh có thể phác thảo bức tranh toàn cảnh về sự ra đời của một tộc
người, một dân tộc; về sự giao thoa, tiếp xúc, bảo lưu những giá trị lịch sử, văn hóa của một
địa bàn trong những giai đoạn, thời kỳ khác nhau. Nghiên cứu địa danh không những góp

phần phản ánh đời sống ngôn ngữ mà còn phản ánh những biểu hiện của sự biến đổi và phát
triển tiếng Việt.
Địa danh Tiền Giang cũng mang những đặc điểm đó. Trong quá trình hình thành và
phát triển, vùng đất Tiền Giang đã sản sinh ra những tên đất, tên làng tạo thành một hệ
thống địa danh phản ánh những nét đặc trưng của vùng đất này. Theo quy luật tất yếu của
cuộc sống, nhiều tên gọi vẫn bền vững theo thời gian dẫu có bao thăng trầm nhưng cũng có
những địa danh dần dần ít được nhắc đến rồi đi vào quên lãng. Chúng tôi nghĩ rằng quá
trình khảo sát, sưu tầm, phân tích, giải thích địa danh tỉnh Tiền Giang sẽ giúp chúng ta hiểu
rõ hơn về lịch sử, văn hóa, địa hình, và những di tích…của địa phương. Bên cạnh đó, việc
nghiên cứu địa danh Tiền Giang còn bổ sung một phần tư liệu cho ngành địa danh học Việt
Nam, để từ đó có thể hoàn thành công trình nghiên cứu về toàn bộ địa danh cả nước.
Viết về địa danh Tiền Giang đã có vài người thực hiện qua một số công trình, bài viết
khác nhau nhưng hiện tại vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu địa danh ở Tiền Giang
dưới góc độ ngôn ngữ. Dẫu biết rằng đây là một đề tài không đơn giản vì còn nhiều vấn đề
lý luận phức tạp, nhiều ý kiến chưa thống nhất nhưng với mong muốn thỏa mãn những thắc
mắc về những cái tên rất đỗi gần gũi ấy nên tôi quyết định chọn đề tài “Những đặc điểm
của địa danh tỉnh Tiền Giang”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.Sơ lược vấn đề nghiên cứu địa danh trên thế giới
Trên thế giới, vấn đề nghiên cứu địa danh đã được đặt ra từ rất sớm. Nhiều sách lịch
sử, địa chí của Trung Quốc ghi chép tìm hiểu nguồn gốc, ý nghĩa cũng như diễn biến của địa


danh. Chẳng hạn, đầu thời Đông Hán (25 – 220 SCN), Ban Cố đã ghi chép hơn 4000 địa
danh trong Hán thư, một số trong đó được thuyết minh lý do gọi tên và quá trình diễn biến,
trong Thủy kinh chú của Lệ Đạo Nguyên thời Bắc Ngụy (420 – 589) có ghi chép hơn 2 vạn
địa danh và có khoảng 2.300 địa danh đã được giải thích.
Ở phương Tây, vào thế kỷ XVII, ở Ý đã xuất hiện quyển từ điển địa danh đầu tiên
(Poyares dicionario de nomes proprios de regions, Rome, 1667), nhưng địa danh học
(toponymie) thì đến thế kỷ XIX mới ra đời. T.J. Egli, người Thụy Sĩ có tác phẩm Địa danh

học, công bố 1872. J.W. Nagl, người Áo, cũng công bố công trình nghiên cứu Địa danh học
(1903). Thời kỳ đầu, các tác phẩm địa danh học chú trọng khảo chứng nguồn gốc địa danh,
mãi đến thế kỷ XX, việc nghiên cứu địa danh mới mang tính chất tổng hợp, liên quan đến
nhiều ngành khác nhau như ngôn ngữ học, lịch sử học, địa lý học…Trong đó, có việc
nghiên cứu địa danh theo hướng địa lý học của Gillienon, nghiên cứu các lớp niên đại của
địa danh theo phương pháp văn hóa địa lý của A. Dauzat (người Pháp)…Từ những năm 60
của thế kỷ XX, việc xây dựng hệ thống lý luận của ngành địa danh học bước đầu hoàn thiện,
hàng loạt các công trình về lĩnh vực này đã được ra đời, trong đó có những tác phẩm tiêu
biểu: Những nguyên tắc của địa danh học (1964), công trình tập hợp bài viết của nhiều tác
giả theo nhiều hướng nghiên cứu khác nhau, Địa danh học là gì? (1985), tác phẩm giới
thiệu những lý luận chủ yếu về địa danh học như những phương thức cơ bản đặt địa danh,
cấu tạo địa danh…Ngoài ra, còn phải kể đến các chuyên luận nghiên cứu địa danh ở Pháp,
Anh, Mỹ, Trung Quốc…trong đó đáng chú ý là các công trình nghiên cứu của Superanskaja,
A. Dauzat và Rostaing…
1.2.Nghiên cứu địa danh ở Việt Nam
Cũng như địa danh học thế giới, địa danh Việt Nam cũng đã có một quá trình sưu tập
khá lâu đời nhưng phát triển rất chậm và chưa đạt tới trình độ hiện đại. Để phục vụ cho công
cuộc xâm lược và thống trị nhân dân ta, phong kiến phương Bắc đã nghiên cứu địa danh
Việt Nam trong các sử sách và tài liệu như: Tiền Hán thư, địa lý chí; Hậu Hán thư, địa lý
chí; Tấn thư, địa lý chí; Thủy kinh chú của Tang Khâm (đời Hán); Thông điển của Đỗ Hựu
(đời Đường)…Cũng với mục đích xâm lược, thực dân Pháp cũng đưa nhiều chuyên gia có
khi dưới hình thức giáo sĩ truyền giáo để nghiên cứu về đất nước và con người Việt Nam,
trong đó có Lịch sử vương quốc Đông Kinh của giáo sĩ A.de Rhodes (1951),…
Từ thời kỳ độc lập tự chủ, ở đời Lê, các nhà nghiên cứu trong nước cũng bắt đầu
nghiên cứu địa danh và có một số tác phẩm quan trọng như: Dư địa chí (1435) của Nguyễn


Trãi, Đại Việt sử ký toàn thư (thế kỷ XV) của Ngô Sĩ Liên, Phủ biên tạp lục (1776) của Lê
Quý Đôn, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (1806) của Lê Quang Định, Lịch triều hiến
chương loại chí (1809 – 1819) của Phan Huy Chú, Gia Định thành thông chí (1820) của

Trịnh Hoài Đức, Đại Nam nhất thống chí (1882) của Quốc sử quán triều Nguyễn…Các tác
phẩm đều có ghi chép nhiều về địa danh và có giải thích một số địa danh nhưng chưa quan
tâm đến vấn đề địa danh một cách đúng mức.
Đầu thế kỷ XIX, có tập sưu tầm 10.994 địa danh tên làng xã Việt Nam (thuộc các
tỉnh từ Nghệ An trở ra), sau này Dương Thị The và Phạm Thị Thoa dịch và cho xuất bản
(1981). Đầu thế kỷ XX, đã có một số công trình tổng hợp, khảo cứu địa danh nhưng tất cả
chỉ dừng lại ở góc độ địa lý, lịch sử nhằm tìm hiểu đất nước, con người từ một góc độ nào
đó. Từ những năm 1960, các khía cạnh vấn đề có liên quan đến địa danh Việt Nam đã được
đề cập, nghiên cứu mang tính lý luận cao hơn so với những công trình chuyên khảo trước
đó. Tác giả Đào Duy Anh với tác phẩm Đất nước Việt Nam qua các đời (1964) đã làm rõ
quá trình xác lập, phân định lãnh thổ từng khu vực, trong đó địa danh được xem là chứng cứ
quan trọng. Với công trình Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên
sông (1964), tác giả Hoàng Thị Châu là người đầu tiên đã sử dụng phương pháp ngôn ngữ
học để khảo sát đối tượng, và trong các công trình tiếp theo như Tiếng Việt trên các miền
đất nước, Địa danh Tây nguyên trên bản đồ…, tác giả cũng nghiên cứu theo hướng này
nhưng đi sâu vào phương ngữ nhiều hơn. Công trình Thử bàn về địa danh Việt Nam (1976)
của Trần Thanh Tâm đã tập trung ý kiến vào phần lý luận của địa danh học, nêu một số vấn
đề cơ bản về địa danh và địa danh học Việt Nam. Năm 1990, sau khi bảo vệ luận án Những
đặc điểm chính của địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh, tác giả Lê Trung Hoa in thành sách
Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1991. Với công trình này, tác giả đã đưa ra
những vấn đề lý thuyết làm cơ sở cho sự phân tích và chỉ ra các đặc điểm cấu tạo, nguồn
gốc, ý nghĩa và sự chuyển biến của địa danh một thành phố lớn ở miền Nam. Năm 1996,
Nguyễn Kiên Trường với luận án Những đặc điểm chính của địa danh Hải Phòng đã bổ
sung thêm những vấn đề lý thuyết định danh mà tác giả Lê Trung Hoa đã dẫn ra trước đó.
Đặc biệt, luận án đã khái quát được những đặc điểm về cấu tạo, ý nghĩa, nguồn gốc và sự
biến đổi của địa danh Hải Phòng trong sự đối sánh với địa danh các vùng khác ở Việt Nam.
Tiếp theo là hai luận án tiến sĩ về địa danh đã được bảo vệ: Nghiên cứu địa danh Quảng Trị
(2003) của Từ Thu Mai và Những đặc điểm chính của địa danh Daklak (2005) của Trần
Văn Dũng.



Ngoài các luận án trên còn có một số sách, từ điển viết về địa danh như: Một số vấn
đề về địa danh học Việt Nam (2000) của Nguyễn Văn Âu đã nêu khái quát về đặc điểm cũng
như phân loại và phân vùng địa danh Việt Nam. Các công trình Lược sử nguồn gốc địa danh
Nam Bộ của Bùi Đức Tịnh (1999); Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ và tiếng Việt văn
học của Lê Trung Hoa (2002); Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ qua chuyện tích và giả
thuyết của Nguyễn Hữu Hiếu (2004)…Đặc biệt, có bốn cuốn từ điển địa danh đáng chú ý
như: Sổ tay địa danh Việt Nam (1995) của Đinh Xuân Vịnh; Sổ tay địa danh Việt Nam
(1998) của Nguyễn Dược – Trung Hải đã tập trung giải thích một cách cụ thể một số địa
danh tiêu biểu ở Việt Nam; Từ điển bách khoa địa danh Hải Phòng (1998) do Ngô Đăng
Lợi chủ biên. Năm 2003, cuốn Từ điển địa danh thành phố Sài Gòn – Hồ Chí Minh do Lê
Trung Hoa (chủ biên) – Nguyễn Đình Tư được xuất bản, trong đó các tác giả rất chú ý tới
nguồn gốc và ý nghĩa ban đầu của địa danh. Năm 2006, Lê Trung Hoa cho xuất bản cuốn
sách lý luận đầu tiên về địa danh: Địa danh học Việt Nam.
Tính đến thời điểm hiện nay, các công trình về địa danh học ở nước ta đã xác lập
được cơ sở lý luận, cũng như đối tượng và phương pháp nghiên cứu địa danh.
1.3.Nghiên cứu địa danh ở Tiền Giang
Nhìn chung, các công trình viết về địa danh ở Tiền Giang cũng không nhiều. Có thể
kể ra một số tác phẩm sau đây:
Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn có nói đến địa danh Chợ Gạo, cho đây là
một trung tâm mua bán gạo…
Gia Định thành thông chí (1820) của Trịnh Hoài Đức khi viết về trấn Định Tường có
đề cập đến một số địa danh của Tiền Giang hiện nay như Mỹ Tho, Gò Công, Cái Bè…
Năm 1994, hai công trình Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn – Định Tường, Tổng kết
nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu đã nghiên cứu về
vùng đất Định Tường xưa với nhiều giai đoạn thay đổi địa bàn khác nhau, trong đó ông nói
đến rất nhiều địa danh của tỉnh Tiền Giang hiện nay với danh mục các xã, phường, thị
trấn…
Tác giả Huỳnh Minh với tác phẩm Gò Công xưa và nay xuất bản năm 1969, đã miêu
tả sinh động mọi mặt đời sống của vùng đất Gò Công (Tiền Giang) về lịch sử địa lý, huyền

sử giai thoại danh nhân, văn hóa, phong tục tập quán…Năm 2001, tác giả Huỳnh Minh còn
xuất bản sách “Loại sách sưu khảo các tỉnh thành năm xưa” trong đó có Định Tường (Mỹ


Tho) xưa, ông miêu tả vùng đất Định Tường trải qua các thời đại, các nhân vật, anh hùng
liệt sĩ kháng Pháp, các di tích lịch sử, lăng mộ nhân vật, huyền thoại, giai thoại…
Năm 1999, sách Gò Công cảnh cũ người xưa của hai tác giả Việt Cúc – Sơn Nam
được xuất bản, miêu tả vùng đất Gò Công xưa với nhiều địa danh gắn liền với các sự kiện
lịch sử. Non nước Việt Nam của Tổng cục du lịch, xuất bản vào năm 2000 cũng nói đến một
số địa danh của tỉnh Tiền Giang.
Từ năm 2005 – 2007, bộ sách Địa chí Tiền Giang đã được xuất bản. Bộ sách gồm 2
tập: Địa chí Tiền Giang, tập I (2005) và Địa chí Tiền Giang, tập II (2007), đề cập nhiều vấn
đề cốt yếu về các lĩnh vực như địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa xã hội của vùng đất Tiền
Giang từ thuở khai hoang lập ấp cho đến những năm đầu thế kỷ XXI. Công trình đề cập một
cách có hệ thống theo trình tự thời gian bằng nhiều nguồn tư liệu và bằng các phương pháp
khoa học.
Năm 2006, Sở văn hóa thông tin Tiền Giang xuất bản tác phẩm Các di tích lịch sử
văn hóa quốc gia tại Tiền Giang. Tác phẩm cung cấp thêm tư liệu về 20 di tích được nhà
nước xếp hạng là di tích lịch sử, văn hóa quốc gia trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.
Ngoài ra, còn có bài viết Một số địa danh ở Tiền Giang của tác giả Trương Ngọc
Tường trong Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật Tiền Giang tháng 11/2000, miêu tả và giải thích
nguồn gốc một số địa danh như Mỹ Tho, Ba Giồng, Chợ Gạo, Cai Lậy, Cái Bè…
Như vậy, cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống
về khía cạnh ngôn ngữ của địa danh tỉnh Tiền Giang. Hiện tại chỉ có công trình nghiên cứu
địa danh Tiền Giang về mặt văn hóa của Nguyễn Văn Diệp (luận văn Thạc sĩ, 2010). Vì thế,
nghiên cứu địa danh tỉnh Tiền Giang về mặt ngôn ngữ hiện nay là cần thiết.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là toàn bộ hệ thống địa danh tỉnh Tiền Giang.
Luận văn sẽ tập trung khảo sát tên gọi các đối tượng địa lý tồn tại trên địa bàn. Cụ thể là địa
danh chỉ các đối tượng tự nhiên hay còn gọi là địa danh chỉ địa hình (kinh, sông, rạch…),

địa danh chỉ công trình xây dựng (cầu, đường, bến đò, chợ…), địa danh hành chính hay còn
gọi là địa danh chỉ đơn vị dân cư (thành phố, thị trấn, thị xã, phường, xã, ấp…) và địa danh
vùng.
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn chủ yếu sưu tầm, miêu tả, khảo sát các loại địa
danh trên phạm vi hành chính hiện hành của tỉnh Tiền Giang tính đến tháng 3/2007. Tư liệu


khảo cứu chủ yếu trên diện đồng đại và sẽ tìm hiểu nguồn gốc, ý nghĩa một số địa danh trên
địa bàn Tiền Giang.
5. Mục đích nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi tập trung tìm hiểu về phương thức đặt địa danh,
phương thức cấu tạo, những chuyển biến về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa cũng như một số nguồn
gốc, ý nghĩa của địa danh tỉnh Tiền Giang. Nội dung được trình bày một mặt miêu tả những
địa danh thuần Việt, Hán Việt, địa danh ngoại lai và địa danh dân tộc thiểu số nhằm minh
họa thêm một số vấn đề có tính chất lý luận về địa danh học; một mặt làm sáng rõ những giá
trị phản ánh hiện thực của địa danh. Từ đó, thấy được mối quan hệ giữa địa danh học với
các ngành khoa học khác như địa lý học, văn hóa học, lịch sử học, xã hội học…
6. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng 4 phương pháp sau đây:
6.1.Phương pháp thu thập và xử lý tư liệu
Thu thập tư liệu là công việc đầu tiên của người nghiên cứu địa danh. Tư liệu chúng
tôi có được bao gồm nhiều nguồn tư liệu khác nhau.
- Các sách lý luận về địa danh học và ngôn ngữ học cũng như nguồn tư liệu từ các
loại từ điển khác nhau rất cần thiết cho việc nghiên cứu địa danh. Sách viết về ngôn ngữ học
và địa danh học trong và ngoài nước là những nguồn tư liệu cơ bản và cần thiết giúp người
nghiên cứu xác định đúng hướng. Còn các từ điển viết về địa danh, từ điển từ cổ, từ điển
phương ngữ…giúp xác định được thời điểm và thời gian ra đời của các địa danh.
- Bộ sách gồm 2 tập: Địa chí Tiền Giang, tập I (2005) và Địa chí Tiền Giang, tập II
(2007) là tư liệu lưu trữ hành chính từ trước đến nay của tỉnh, thành phố, huyện, xã,
ấp…Đây là nguồn tư liệu quý giá có tính pháp lý và tính chính xác cao.

- Bản đồ các loại của tỉnh Tiền Giang và các huyện thị trong tỉnh qua các thời kỳ là
tư liệu quý giá giúp cho việc xác định tọa độ, vị trí địa điểm của từng địa danh, sự ra đời,
biến đổi và mất đi của chúng.
- Các báo địa phương, sách viết về địa bàn và một số tác phẩm văn học viết về địa
phương…giúp người nghiên cứu địa danh tiết kiệm được thời gian khi tìm hiểu về địa danh.
Đây là những nguồn tư liệu đáng tin cậy do chính người địa phương viết hay người am hiểu
về địa phương thực hiện.


- Tư liệu điền dã được người nghiên cứu quan sát, thu thập, ghi chép và chọn lọc
trong quá trình đi thực tế. Những tư liệu này phục vụ cho việc giải thích nguồn gốc, ý nghĩa,
thời điểm ra đời cũng như những biến đổi của địa danh một cách chính xác.
6.2.Phương pháp thống kê, phân loại, miêu tả
Đây là phương pháp bắt buộc phải có khi bắt tay vào nghiên cứu địa danh và cũng là
phương pháp chủ yếu được vận dụng trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Dựa vào nguồn
tư liệu thu thập được, chúng tôi tiến hành thống kê, phân loại và miêu tả để thấy rõ số lượng
từng loại. Từ đó có thể rút ra đặc điểm riêng của từng loại và đặc điểm chung của địa danh
toàn vùng. Cụ thể là sau khi phân loại, chúng tôi chia địa danh thành các loại như địa danh
chỉ địa hình tự nhiên, địa danh hành chính, địa danh chỉ công trình xây dựng và địa danh
vùng. Về từ nguyên, địa danh Tiền Giang có thể chia làm ba loại: địa danh thuần Việt, địa
danh Hán Việt, địa danh gốc Khmer…Trên kết quả phân loại, tiếp theo là việc miêu tả
những phương thức tạo địa danh, cách cấu tạo địa danh và những chuyển biến của nó.
6.3.Phương pháp so sánh, đối chiếu
6.3.1.So sánh, đối chiếu đồng đại
Phương pháp so sánh, đối chiếu đồng đại là phương pháp tìm ra những nét tương
đồng và dị biệt của địa danh Tiền Giang so với địa danh tỉnh khác.
1.1.1. So sánh, đối chiếu lịch đại
Dùng phương pháp này để xác định nguồn gốc và ý nghĩa ban đầu của địa danh, tức
quan tâm đến mặt ngữ âm của tiếng Việt và quy luật biến đổi của nó trong lịch sử. Tuy
nhiên, ở phương pháp này, chúng tôi chỉ chú ý đối với một số đối tượng nhất định nếu có cứ

liệu cụ thể.
6.3.2.Phương pháp điền dã
Chúng tôi đi về một số địa phương để xác định hoặc cải chính nguồn gốc và ý nghĩa
của một số địa danh nghi ngờ hoặc còn có nhiều ý kiến, chưa nhất trí và để tìm thêm cách lý
giải một số địa danh mới.
Địa danh vốn mang trong mình những đặc điểm về ngôn ngữ, văn hóa, lịch sử…Vì
vậy, nghiên cứu địa danh cần áp dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp, liên ngành, đa
ngành. Có như vậy, kết quả nghiên cứu mới đầy đủ, rõ ràng và mang tính khoa học.
2. Bố cục của luận văn


Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần chính của luận văn
gồm có ba chương:
Chương 1: Những tiền đề lý luận và thực tiễn
Chương 2: Cấu tạo và chuyển biến của địa danh tỉnh Tiền Giang
Chương 3: Nguồn gốc – ý nghĩa của một số địa danh tỉnh Tiền Giang và giá trị phản
ánh hiện thực.


Chương 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1.Những tiền đề lý luận
1.1.1.Định nghĩa địa danh
Định nghĩa địa danh tuy đã có rất nhiều nhưng cho đến nay vẫn còn chưa thống nhất.
Theo tác giả An Chi thì Toponymie là một danh từ của tiếng Pháp hiện đại, có nghĩa
là địa danh học. Đây là một từ phái sinh bằng hậu tố “-ie” từ danh từ Toponyme, có nghĩa là
địa danh. Toponymie gồm hai hình vị căn tố (top(o) và onymie) bắt nguồn từ hai danh từ Hy
Lạp cổ là topos (có nghĩa là nơi chốn) và onoma (có nghĩa là tên) [2002]. Vậy địa danh là
gì? Có phải chỉ đơn giản được hiểu là tên nơi chốn, hay tên các đối tượng địa lý hoặc tên
đất?
A.V.Superanskaja định nghĩa “Địa danh là tên gọi các địa điểm được biểu thị bằng

những từ riêng. Đó là các tên gọi địa lý, địa danh hay toponyme” [Đinh Lan Hương dịch,
2002: 1] và chỉ ra một cách cụ thể “Những địa điểm, mục tiêu địa lý đó là những vật thể tự
nhiên hay nhân tạo với sự định vị xác định trên bề mặt trái đất, từ những vật thể lớn nhất
(các lục địa và đại dương) cho đến những vật thể nhỏ nhất (những ngôi nhà, vườn cây đứng
riêng lẻ) đều có tên gọi” [2002: 13]. Như vậy, theo cách hiểu của tác giả thì địa danh là
những từ ngữ biểu thị tên gọi các địa điểm, đối tượng địa lý (vật thể tự nhiên hay nhân tạo)
có vị trí xác định trên bề mặt trái đất.
Nhìn chung, các tác giả nước ngoài chỉ mô tả một cách khái quát địa danh và xem địa
danh là tên gọi các đối tượng địa lý.
Riêng ở nước ta, một số nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra định nghĩa về địa danh theo
cách hiểu của mình.
Tác giả Đào Duy Anh trong Hán Việt từ điển thì cho rằng “Địa danh là tên các miền
đất” [1932]. Trong Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê cũng định nghĩa: “Địa danh là tên đất,
tên địa phương” [2002]. Từ điển bách khoa Việt Nam giải thích: “Địa danh là tên gọi các
lãnh thổ, các điểm quần cư (làng, xã, huyện, thành phố), các điểm kinh tế (vùng nông thôn,
khu công nghiệp), các quốc gia, các châu lục, các núi, đèo, cao nguyên, thung lũng, đồng
bằng, châu thổ, sông, hồ, vịnh, biển, eo biển, đại dương có tọa độ địa lý nhất định ghi lại
trên bản đồ. Địa danh có thể phản ánh quá trình hình thành, đặc biệt của các yếu tố địa lý
tự nhiên và lịch sử với những nét đặc sắc về kinh tế, xã hội của các lãnh thổ” [1995]. Các
dịch giả của tác phẩm Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX cho rằng: “Địa danh của một


vùng hay của một nước là tổng thể các tên riêng đặt ra để gọi tên các đơn vị địa lý tự nhiên
hay nhân văn của vùng đất ấy hay nước ấy. Đồng thời đó còn là những chứng tích về ngôn
ngữ và có thể cả về văn tự mà các cộng đồng có thể đã đặt, đã dùng và lưu lại trên địa bàn
cư trú và phát triển của mình”. [Dương Thị The - Phạm Thị Thoa, 1981: 1].
Tác giả Bùi Đức Tịnh trong Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ định nghĩa địa
danh như sau: “Địa danh là một danh từ có nghĩa tổng quát để chỉ tên gọi các loại vật thể tự
nhiên được phân biệt về phương diện địa lý, các vị trí cần phân biệt trong sinh hoạt xã hội
và các đơn vị được xác định trong tổ chức hành chính hay quân sự” [1999: 10]. Như vậy,

bên cạnh những địa danh gắn với yếu tố địa lý, tác giả còn đề cập đến những địa danh gắn
với hành chính quân sự.
Tác giả Nguyễn Hữu Hiếu trong công trình Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ
qua chuyện tích và giả thuyết thì cho rằng: “Địa danh là danh từ riêng, không những chỉ để
gọi tên một vùng đất, mà còn là tên để gọi tên nhiều đối tượng khác nhau như địa hình tự
nhiên (sông, rạch, núi, đồi…), công trình xây dựng (cầu, đường,…), các đơn vị hành chính
(tỉnh, huyện, quận, tổng, làng, xã,…), các vùng, xóm, xứ…” [2004: 11].
Tiếp cận địa danh theo góc độ địa lý – văn hóa, tác giả Nguyễn Văn Âu quan niệm:
“Địa danh học (toponymie) là một môn khoa học chuyên nghiên cứu về tên địa lý các địa
phương” [2000], “Địa danh là tên đất, gồm tên sông, núi, làng mạc…hay là tên các địa
phương, các dân tộc” [1993: 5].
Tiếp cận từ góc độ ngôn ngữ học, có các tác giả sau:
Hoàng Thị Châu định nghĩa: “Địa danh hay là tên địa lý (toponym, geographical
name) là tên vùng, tên sông, tên núi, là tên gọi các địa hình khác nhau, tên nơi cư trú, tên
hành chính,…được con người đặt ra” [2007].
Sau khi phân loại địa danh theo các đối tượng địa lý (theo tiêu chí tự nhiên và không
tự nhiên) và theo nguồn gốc ngữ nguyên của địa danh, tác giả Lê Trung Hoa đã đưa ra định
nghĩa: “Địa danh là những từ hoặc ngữ, được dùng làm tên riêng của các địa hình tự nhiên,
các đơn vị hành chánh, các vùng lãnh thổ và các công trình xây dựng thiên về không gian
hai chiều. Trước địa danh, ta có thể đặt một danh từ chung chỉ tiểu loại địa danh đó: sông
Hương, huyện Mộ Đức, vùng Ba Vì, thành phố Cần Thơ, đường Nguyễn Du…” [2006: 28].
Trong luận án phó tiến sĩ khoa học ngữ văn Những đặc điểm chính của địa danh Hải
Phòng năm 1996, Nguyễn Kiên Trường viết: “Địa danh là tên riêng chỉ các đối tượng địa lý
tự nhiên và nhân văn có vị trí xác định trên bề mặt trái đất” [1996: 16].


Trần Văn Dũng quan niệm: “Địa danh là tên gọi những đối tượng địa lý tự nhiên và
địa lý do con người kiến tạo” và “Các đối tượng do con người kiến tạo (có thể gọi là địa lý
nhân văn) bao gồm: địa lý nơi cư trú, địa lý chỉ các công trình xây dựng” [2004].
Có thể thấy khái niệm địa danh tuy đã có nhiều ý kiến, song các tác giả đều hiểu địa

danh là tên gọi các đối tượng địa lý (trong tự nhiên và nhân tạo) hay cụ thể hơn là tên đất
như là chấp nhận một điều hiển nhiên. Các định nghĩa trên đều nêu được các nét đặc trưng
cơ bản của địa danh, nhưng vẫn còn một số vấn đề cần bàn thêm. Chẳng hạn, định nghĩa của
Nguyễn Văn Âu đã nêu được những nét khái quát nhất về địa danh. Tuy nhiên, tác giả chưa
đề cập đến những đối tượng do con người kiến tạo mà chủ yếu chỉ đề cập đến những đối
tượng tự nhiên. Một số tác giả đặt vấn đề các đối tượng địa lý của địa danh phải “có vị trí
xác định trên bề mặt trái đất”. Về đối tượng, sự vật được gọi tên, cần lưu ý đến một đặc
điểm tuy rất hiển nhiên là chúng có một vị trí cố định hay xác định nhưng không ở ngoài trái
đất, theo A.V. Superanskaja thì “tính định vị của địa danh nói lên rằng, lãnh thổ là chu
cảnh thực tế của chúng”. Đặc điểm này giúp chúng ta loại trừ những tên gọi không phải địa
danh, tuy nhiên cũng cần xem xét lại vấn đề này vì trong thực tế, nhiều nơi trên trái đất có
cùng một địa danh.
Theo chúng tôi, địa danh dù xem xét ở góc độ nào thì cũng là một sản phẩm do con
người tạo ra như Trần Ngọc Thêm đã cho rằng: “các đối tượng tự nhiên hay nhân tạo đều
mang dấu ấn của con người. Sự tác động của con người đối với tự nhiên có thể mang tính
vật chất (như việc luyện quặng để chế tạo đồ dùng, đẽo tạc tượng) hoặc mang tính tinh thần
(như việc đặt tên tạo truyền thuyết cho các cảnh quan thiên nhiên: vịnh Hạ Long, núi Ngũ
Hành, hòn Vọng Phu…)” [2001a: 23].
Như vậy, có thể hiểu địa danh là tên gọi các đối tượng địa lý tự nhiên hay nhân tạo
do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Đây là đối tượng khảo cứu của chúng tôi
trong luận văn này.
1.1.2. Đối tượng nghiên cứu của địa danh học
Địa danh học là một ngành của ngôn ngữ học, chuyên nghiên cứu ý nghĩa, nguồn gốc
và những biến đổi của địa danh. Bên cạnh đó, nghiên cứu địa danh học còn cần phải chỉ ra
được các phương thức đặt địa danh và phân tích cách cấu tạo địa danh, phát hiện những
nguyên nhân chi phối sự ra đời, hành chức và tiêu vong của địa danh. Như vậy, đối tượng
của địa danh học chính là địa danh.


Như đã trình bày ở trên, địa danh bao gồm các đối tượng tự nhiên và các đối tượng

nhân tạo.
Tuy nhiên, có một điểm cần lưu ý là đối với những tên đình, chùa, miếu, miễu, nhà
thờ, nhà hát, công ty, trường học, cơ quan, viện, khách sạn…chúng ta có nên xem là địa
danh hay không? Một số tác giả cho là có (như các tác giả trong Từ điển bách khoa địa danh
Hải Phòng, Từ điển Hà Nội – Địa danh) nhưng phần lớn, nhiều nhà nghiên cứu lại không
đồng tình với quan điểm này.
Thực ra, ngành từ vựng học có một ngành nhỏ là danh xưng học (onomasiologie)
chuyên nghiên cứu tên riêng chia ra ba nhánh nhỏ là nhân danh học, hiệu danh học và địa
danh học. Trong đó, nhân danh học chuyên nghiên cứu tên riêng của con người gồm họ, tên
chính, tên đệm, tự, hiệu, bút danh…Còn hiệu danh học chuyên nghiên cứu các thiên thể,
nhãn hiệu, biển hiệu, tổ chức…Địa danh học cũng nghiên cứu tên riêng nhưng liên quan đến
một vùng lãnh thổ nhất định và có tính bền vững. Như đã nói ở trên, địa danh học chuyên
nghiên cứu về nguồn gốc, ý nghĩa và những chuyển biến của địa danh; tức là lấy những từ,
ngữ được dùng để đặt tên riêng của địa hình thiên nhiên, các đơn vị hành chính, các công
trình xây dựng, các vùng lãnh thổ về không gian hai chiều làm đối tượng nghiên cứu. Điều
này có nghĩa là giữa địa danh học và hiệu danh học có đối tượng nghiên cứu khác nhau. Vì
vậy, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả Lê Trung Hoa rằng “Tên các công trình
thiên về không gian hai chiều là địa danh (như tên cầu, đường, công viên…), còn tên các
công trình thiên về không gian ba chiều (như tên chùa, nhà thờ, trường học, cơ quan…) là
hiệu danh” [2000a: 14-15].
1.1.3. Phân loại địa danh
Phân loại địa danh là vấn đề phức tạp. Hiện nay, vẫn chưa có mô hình phân loại khái
quát tối ưu nào để có thể dùng chung, phổ biến cho mọi công trình nghiên cứu với những
cách tiếp cận, những quan điểm nghiên cứu khác nhau mà người ta thường chỉ quan tâm đến
một loại đối tượng cụ thể theo hướng khai thác của từng cá nhân. Do đó, việc hệ thống hóa
các cách phân loại đã có sẽ đưa đến cho người nghiên cứu địa danh có được cách phân loại
phù hợp với nội dung và phương pháp làm việc. Mặc dù mỗi nhà nghiên cứu đều tìm cho
mình một hướng đi riêng, song chung quy lại có những cách phân loại sau:
Theo Lê Trung Hoa và Nguyễn Kiên Trường thì các nhà địa danh học người Pháp
thường trình bày địa danh theo lớp ngữ nguyên hoặc đối tượng phản ánh. A. Dauzat trong

La toponymie franscaise nghiên cứu địa danh theo 4 nhóm ngữ nguyên: 1.Vấn đề cơ sở tiền


Ấn – Âu; 2.Các danh từ tiền Latinh về nước trong thủy danh học; 3.Các từ nguyên Gôloa –
La Mã; 4.Địa danh học Gôloa – La Mã của vùng Auvergne và Velay. Ch. Rostaing trong
Les noms de lieux lại lấy tiêu chí của sự kết hợp giữa nguồn gốc ngôn ngữ và đối tượng địa
lý để nghiên cứu, bao gồm các vấn đề: 1.Những cơ sở tiền đề Ấn – Âu; 2.Các lớp tiền Xên
tích; 3.Lớp Gôloa; 4.Những phạm vi Gôloa – La Mã; 5.Các sự hình thành La Mã; 6.Những
đóng góp của tiếng Giéc-manh; 7.Các hình thức của thời phong kiến; 8.Những danh từ có
nguồn gốc tôn giáo; 9.Những hình thái hiện đại; 10.Các địa danh và tên đường phố; 11.Tên
sông và tên núi. Có thể thấy cách phân chia thành 11 vấn đề trên còn thiếu tính hệ thống, bởi
chưa xác định rõ ràng về tiêu chí phân loại.
Một số nhà nghiên cứu địa danh Xô Viết lại đưa ra cách phân loại địa danh theo nội
dung biểu thị. G.P Smolisnaja và M. V Gorbanevskij chia địa danh thành 4 loại: 1.Phương
danh (tên địa phương); 2.Sơn danh (tên núi, đồi, gò…); 3.Phố danh (tên các đối tượng trong
phố); 4.Thủy danh (tên các dòng chảy, ao, vũng…). A.V.Superanskaja lại chia địa danh
thành 7 loại: 1.Phương danh; 2.Thủy danh; 3.Sơn danh; 4.Phố danh; 5.Viên danh (tên các
quảng trường công viên); 6.Lộ danh (tên các đường phố); 7.Đạo danh (tên các đường giao
thông trên đất, dưới đất, trên nước, trên không). Hai cách phân loại của tác giả trên đã đưa
ra được những nhóm địa danh cơ bản nhất nhưng vẫn thiếu tính khái quát. Khi quan sát hai
bảng phân loại trên đây, Lê Trung Hoa cho rằng “chưa bao trùm được tên các công trình
xây dựng ở nông thôn (như cầu, cống, sân vận động…) và trong phương danh chưa tách
bạch giữa địa danh hành chính và địa danh chỉ một vùng lãnh thổ không có ranh giới rõ
ràng” [2003a: 23].
Ở Việt Nam, nhà nghiên cứu Trần Thanh Tâm trong công trình Thử bàn về địa danh
Việt Nam chia địa danh Việt Nam thành 6 loại: 1.Loại đặt theo địa hình và đặc điểm; 2.Loại
đặt theo vị trí không gian và thời gian; 3.Loại đặt theo tín ngưỡng, tôn giáo, lịch sử; 4.Loại
đặt theo hình thái, đất đai, khí hậu; 5.Loại đặt theo đặc sản, nghề nghiệp và tổ chức kinh tế;
6.Loại đặt theo sinh hoạt xã hội.
Nguyễn Văn Âu, trong tác phẩm Một số vấn đề về địa danh Việt Nam [2000: 38-40],

đã phân loại địa danh theo 3 cấp: loại, kiểu và dạng. Theo đó, loại địa danh bao gồm 2 loại
là: địa danh tự nhiên và địa danh kinh tế - xã hội. Kiểu địa danh gồm 7 kiểu: 1.Thủy danh;
2.Sơn danh; 3.Lâm danh; 4.Làng xã; 5.Huyện thị; 6.Tỉnh, thành phố; 7.Quốc gia. Dạng địa
danh gồm 12 dạng: 1.Sông ngòi; 2.Hồ đầm; 3.Đồi núi; 4.Hải đảo; 5.Rừng rú; 6.Truông,
trảng; 7.Làng, xã; 8.Huyện, quận; 9.Thị trấn; 10.Tỉnh; 11.Thành phố; 12.Quốc gia.


Nhìn chung, cách phân loại của hai tác giả trên khá phức tạp và còn hạn chế.
Trong tác phẩm Nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu địa danh (Địa danh thành
phố Hồ Chí Minh), tác giả Lê Trung Hoa đã nêu ra hai tiêu chí để phân loại:
Theo đối tượng, căn cứ vào tiêu chí tự nhiên và không tự nhiên, tác giả chia địa danh
thành 2 nhóm lớn: Địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên; Địa danh chỉ các đối tượng nhân
tạo.
* Địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên bao gồm tên các địa hình núi, đồi, gò, sông,
rạch. Thí dụ: sông Tiền, rạch Ba Rài…
* Địa danh chỉ các đối tượng nhân tạo có thể chia làm 3 loại nhỏ:
- Địa danh chỉ các công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều như tên cầu,
cống, chợ, đường phố, công viên…Thí dụ: cầu Quay, cống Huế, chợ Giữa…
- Địa danh chỉ các đơn vị hành chính như tên ấp, xã, phường, huyện, quận…Thí dụ:
ấp Bắc, xã Tân Phú (CL), huyện Cai Lậy…
- Địa danh chỉ các vùng lãnh thổ không có ranh giới rõ ràng như xóm Dừa (GCT)…
Theo ngữ nguyên, tác giả chia địa danh Việt Nam thành 4 nhóm lớn:
- Địa danh thuần Việt
- Địa danh Hán Việt
- Địa danh bằng các ngôn ngữ dân tộc thiểu số như Chăm, Khơme, Ba Na, Ê Đê, Gia
Rai, Tày, Thái, Mường…
- Địa danh bằng các ngoại ngữ chủ yếu là địa danh gốc Pháp, một số là địa danh
Inđônesia, Malaysia…[2003: 17-21].
Nguyễn Kiên Trường trong luận án Những đặc điểm chính của địa danh Hải Phòng
đã đưa ra ba tiêu chí và phân loại địa danh như sau:

- Tiêu chí 1: Dựa vào thuộc tính đối tượng, tác giả chia làm 2 nhóm:
+ Nhóm địa danh chỉ đối tượng tự nhiên
+ Nhóm địa danh chỉ đối tượng địa lý nhân văn
- Tiêu chí 2: Căn cứ vào nguồn gốc ngữ nguyên, có thể phân chia thành 7 nhóm:
+ Địa danh Hán Việt
+ Địa danh thuần Việt
+ Địa danh có nguồn gốc tiếng Pháp
+ Địa danh có nguồn gốc Tày-Thái, Việt-Mường, Môn-Khơme, Chăm
+ Đại danh có nguồn gốc hỗn hợp



×