Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG, HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.39 KB, 12 trang )

Tiểu Luận Lòch Sử Đảng
A/ Lời mở đầu :
Sinh ra trong đời, ai cũng có một quê hương, một dân tộc để được lớn lên và
để thành người. Tình yêu đất nước là vốn có trong mỗi con người. Đối với mỗi người
con được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất hình chữ S thân thương này thì tình yêu đó
càng nồng cháy và tự hào hơn. Đất nước chúng ta đã trãi qua hai cuộc chiến tranh tàn
khốc và đẫm máu chống lại bọn thực dân Pháp và đế quốc Mỉ hùng mạnh xâm lược .
Từ bóng đêm nô lệ tăm tối, nhân dân ta đã trở thành những con người tự do,làm chủ
nước nhà,đất nước ta được độc lập và phát triển, sánh vai cùng bạn bè năm châu.Có
được những thành quả đó là cả sự đấu tranh gian khổ,dũng cảm và đổ máu của cả dân
tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo kiệt xuất của một người anh hùng dân tộc lỗi lạc Nguyễn i Quốc. Người ta nói thời thế tạo anh hùng.Thời thế đen tối của đất nước ta
dưới ách thống trò của bọn thực dân , đế quốc cứơp nước đã tạo ra một lãnh tụ tài ba
Nguyễn i Quốc. Những gì Người đã làm cho dân tộc Việt Nam ta là quá to lớn, vỉ
đại và cao cả. Vai trò của người đối với việc thành lập Đảng là rất to lớn. Chính
người đã truyền bá chủ nghóa Mác Lê nin vào nước ta, tập hợp lực lượng , thống nhất
ba tổ chức cộng sản, để thành lập Đảng duy nhất là Đảng cộng sản Việt Nam. Nói về
Người , hẵn chẳng có giấy bút nào có thể viết hết . Cuộc đời của Bác là cả một bản
trường ca hùng vó để lại cho dân tộc và nhân loại trên thế giới. Từ những sinh hoạt
bình thường của cuộc sống hằng ngày , lối ứng xử , tấm lòng bao dung của người
giành cho đồng bào , cho đất nước , đến cả một trái tim rướm máu , ý chí sắt đá cho
vận mệnh nước nhà đã tạo dựng nên một nhân cách Hồ Chí Minh vỉ đại và cao đẹp
như ánh mặt trời giữa mùa đông lạnh lẽo.
B/ Phần nội dung chính:
1.Hoàn cảnh xuất thân và thời tuổi thơ:
Chủ tòch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890. Tên khai sinh của Người
là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt
động cách mạng trước đây lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Q ngoại ở làng Hồng Trù; q
nội ở làng Kim Liên, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn,tỉnh Nghệ An.Hồ Chủ
Tòch được sinh ra trong một gia đình trí thức giàu tinh thần yêu nước và quyết tâm
đánh giặc.Cụ thân sinh ra Người là Nguyễn Sinh Huy, tức là Nguyễn Sinh Sắc (1863 1929). Cụ đỗ phó bảng và sống bằng nghề dạy học. Sau khi đỗ phó bảng, bị bọn thống trị
thúc ép nhiều lần, cụ ra làm quan, nhưng thường tỏ thái độ khơng hợp tác với chúng. Cụ


thường chống đổi bọn quan trên và bọn thực dân Pháp, cho nên sau một thời gian rất
ngắn, cụ bị chúng cách chức. Cụ vào Miền Nam (Nam Bộ) làm nghề thầy thuốc, cho đến
lúc từ trần. Thân mẫu của Hồ Chủ tịch là cụ Hồng Thị Loan (1868 - 1901), là người phụ
nữ chòu thương chòu khó, trung hậu , đảm đang. Chị của Hồ Chủ tịch là Nguyễn Thị
Thanh, tức Bạch Liên (1884 – 1954) . Trong hồ sơ của mật thám Pháp, bản lý lịch của
Nguyễn Tất Thành khi xin vào xưởng Ba Son (1911), có ghi: " Nguyễn Thị Thanh tức
Bạch Liên sống độc thân có liên lạc với qn phiến loạn ở Nghệ Tĩnh, lấy trộm 3 khẩu
súng trong trại lính Vinh, đã bị kết án 9 năm khổ sai...". Anh của Người là Nguyễn Sinh

SV. Nguyễn Đình Hưng

1


Tiểu Luận Lòch Sử Đảng
Khiêm, tức Nguyễn Tất Đạt (1888- 1950), đều tham gia phong trào chống thực dân Pháp
và bị tù đày.Từ 1890 đến 1901 Bác sống ở q ngoại, cách làng Kim Liên q nội khơng
xa. Người thầy có ảnh hưởng nhất trong tuổi ấu thơ của Người là cử nhân Vương Thúc
Q. Cụ Q là bạn thân của cụ Phó bảng Sắc và là con thủ lĩnh Chung nghĩa binh
Vương Thúc Mậu thời Cần Vương. Đội nghĩa binh của Vương Thúc Q chiến đấu
quanh vùng núi Chung (Nam Đàn), khi bị Pháp vây bắt, cụ Vương Thúc Q đã nhảy
xuống ao hy sinh ngay ở làng Sen cạnh nhà Bác. Chính ở ngơi nhà nhỏ ở làng Sen, trước
khi bước vào mái trường Quốc học Huế (1905), cậu Cung đã được vị túc nho Vương
Thúc Q hết lòng giúp đỡ, tinh thơng tứ thư ngũ kinh... Nhưng điều quan trọng hơn cả
là cậu Cung được thầy học cho biết tường tận các địa điểm, biến diễn của các cuộc khởi
nghĩa ngay trên đất q nhà của Trần Tấn, Đặng Như Mai, của Phan Đình Phùng,
Nguyễn Xn Ơn, Vương Thúc Mậu và cả phong trào Đơng du của cụ Phan Bội Châu
đang diễn ra âm ỷ... Cậu Cung rất chú ý lắng nghe những cuộc đàm đạo của cha mình với
các đồng chí, bè bạn như Sào Nam Phan Bội Châu, Vương Thúc Q, đội Qun (Đại
Đấu)... Cậu Cung trở thành liên lạc cho các nhà nho u nước.. Người là một học trò

thơng minh, chăm chỉ học tập và sớm có tinh thần u nước. Các phong trào đấu tranh
của các sĩ phu u nước như Phan Chu Chinh, Phan Bội Châu, Hồng Hoa Thám...đã ảnh
hưởng sâu sắc đến Hồ Chủ tịch. Người nhận thấy các phong trào u nước chưa có được
đường lối đấu tranh đúng đắn. Người cần phải sang các nước phương Tây học tập vì ở đó
có tư tưởng tự do, dân chủ và có khoa học, kỹ thuật hiện đại. Sau này Hồ Chủ tịch đã kể
lại: "Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tơi đã được nghe những từ tiếng Pháp: tự do, bình
đằng, bác ái... Thế là tơi muốn làm quen với văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu
đằng sau những từ ấy". Con đường của Hồ Chủ tịch khác hẳn với con đường của các nhà
u nước tiền bối. Để đi tìm con đường cứu nước, Hồ Chủ tịch đã đi khắp năm châu bốn
biển, xem xét tình hình, nghiên cứu những lý luận và kinh nghiệm cách mạng mới nhất
của thời đại, hòa mình với quần chúng cơng nhân và nhân dân lao động đủ các màu da.
Năm 1908, sau khi tham gia phong trào chống thuế, bị đuổi học, Nguyễn Tất Thành bỏ
vào Nam. Người dừng lại ít lâu ở Phan Thiết, đạy học ở trường Dục Thanh do một số nhà
giáo u nước lập ra. Sau đó, Người và Sài Gòn rồi xuống tàu xuất dương để đi tìm
đường cứu nước.
2.Quá trình ra đi tìm đường cứu nước :
Sau một thời gian ngắn ở Sài gòn, giữa năm 1911 lấy tên là Ba, Hồ Chủ tịch làm
phụ bếp dưới tàu bn Đơ đốc La Tút Sơ Tơ Rê Vi Lơ (Amiral Latouche Tréville) thuộc
Hãng vận tải hợp nhất của Pháp. Từ đó Người ra đi, trước tiên là sang Pháp. Người
khơng chỉ dừng lại ở nước Pháp mà còn đi nhiều nước châu Âu, châu Phi và châu
Mỹ.Người đã làm nhiều việc để kiếm sống: làm trên tàu, nấu bếp, làm vườn khi ở La Ha
Vơ Rơ (Le Havre); qt tuyết, đốt lò và phục vụ khách sạn ở Ln Đơn (Anh). Tại đây,
Người tham gia Cơng đồn lao động hải ngoại, ủng hộ cuộc đấu tranh u nước của nhân
dân Ai Len, liên hệ với một số người Việt Nam u nước ở Pháp. Tại Mỹ, Hồ Chủ tịch đã
đi làm th ở phố Bơrútlin.Qua nhiều nơi, Người thấy rõ những cảnh bất cơng, tàn bạo
của xã hội tư bản và ở đâu giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động cũng bị áp bức, bóc
lột rất dã man, các dân tộc thuộc địa đều có một kẻ thù là bọn đế quốc thực dân. Do đó,
Người nhận rõ giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động các nước đều là bạn.
Năm 1917, giữa những ngày ác liệt của chiến tranh thế giới thứ nhất, từ Anh trở
lại Pháp, Người tham gia Đảng xã hội Pháp và lập ra Hội những người Việt Nam u


SV. Nguyễn Đình Hưng

2


Tiểu Luận Lòch Sử Đảng
nước để tun truyền và giác ngộ Việt kiều ở Pháp. Vừa hoạt động chính trị, vừa phải tự
kiếm sống một cách chật vật, khi thì làm cho một hiệu ảnh, khi thì vẽ th tại một xưởng
"đồ cổ mỹ nghệ Trung hoa". Người tập viết báo, phân phát truyền đơn tại các cuộc họp
đề tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở thuộc địa. Giữa những ngày hoạt động sơi nổi đó thì
cách mạng tháng Mười Nga bùng nổ làm chấn động tồn cầu. Cách mạng tháng mười
Nga đã có một ảnh hưởng quyết định trong đời hoạt động của Hồ Chủ lịch. Người quyết
tâm đi theo con đường của Cách mạng tháng Mười Nga. Năm 1918, chiến tranh thế giới
kết thúc. Năm sau, các nước đế quốc chủ nghĩa thắng trận họp hội nghị ở Véc xây
(Verseille, Pháp) nhằm chia lại thị trường thế giới. Thay mặt những người Việt Nam u
nước ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc, là tên của Hồ Chủ tịch lúc đó, gửi đến Hội nghị bản u
sách nổi tiếng gồm 8 điểm, đòi chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ
và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.Sau Cách mạng tháng Mười Nga, phong trào
cộng sản và cơng nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ. Đầu năm 1919, Lê nin và những
người theo chú nghĩa Mác họp Đại hội ở Maxcơva, thành lập Quốc tế thứ ba tức là Quốc
tế cộng sản. Đề cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê nin, được Đại hội lần
thứ hai của Quốc tế cộng sản năm 1920 thơng qua, đã vạch ra đường lối cơ bản cho
phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Tại Đại hội lần thứ mười tám của Đảng xã hội Pháp họp ở Tua (từ ngày 25 đến
ngày 30 tháng 12 năm 1920) Hồ Chủ tịch đã đọc tham luận tố cáo những tội ác của thực
dân Pháp ở Đơng Dương và kêu gọi nhân dân Pháp ủng hộ cuộc đấu tranh cách mạng của
nhân dân Việt Nam và nhân dân các thuộc địa khác. Hồ Chủ tịch đã trở thành một trong
những người sáng lập Đảng cộng sản Pháp .Năm 1921, Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ nhất của Đảng cộng sản Pháp họp từ ngày 25 đến ngày 30 tháng 12, tại thành phố

Mác xây, Hồ Chủ tịch được cử vào Đồn chủ tịch. Tại Đại hội này. Hồ Chủ tịch đã u
cầu Đại hội nghiên cứu và xây dựng một chính sách đối với thuộc địa theo đúng tư tưởng
cộng sản chủ nghĩa. Người đề nghị thành lập Ban nghiên cứu của Đảng về vấn đề thuộc
địa. Ban này sẽ khởi thảo chính sách đối với thuộc địa và báo cáo cho Đại hội năm sau
(1922) xem xét và thơng qua. Năm 1922, Hồ Chủ tịch là một ủy viên Ban nghiên cứu về
thuộc địa của Phân bộ Pháp của Quốc tế cộng sản. Đến Đại hội lần thứ hai (tháng 101922) của Đảng cộng sản Pháp, trong phiên họp thứ 23, Hồ Chủ tịch lại được cử tham gia
Đồn Chủ tịch Đại hội. Hồ Chủ tịch là một trong những đảng viên đầu tiên của Đảng
cộng sản Pháp, và cũng là người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Năm 1921, được sự giúp
đỡ của Đảng cộng sản Pháp, cùng với một số ngươi u nước của nhiều nước thuộc địa
Pháp, Người sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa. Là đại biểu của nhân dân Đơng Dương,
Người được bầu vào Ban chấp hành trung ương hội, làm ủy viên thường trực. Năm 1922,
Hội liên hiệp thuộc địa cho xuất bản tờ báo Người cùng khổ (Le Paria). Hồ Chủ tịch là
chủ nhiệm kiêm chủ bút và quản lý tờ báo ấy. Báo Người cùng khổ vạch trần chính sách
đàn áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc nói chung và của đế quốc Pháp nói riêng,
thức tỉnh các dân tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh cách mạng. Nó được sự đồng tình và
ủng hộ của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động Pháp. Báo Người cùng khổ được bí
mật chuyền về nước cho nhân dân ta. Nhờ tờ báo ấy, nhiều người Việt Nam u nước
thấy rõ hơn những tội ác của thực dân Pháp và bước đầu hiểu được Cách mạng tháng
Mười Nga và Lê nin. Ngồi báo Người cùng khổ, Hồ Chủ tịch còn sáng lập báo Việt Nam
hồn, viết bằng tiếng Việt, là cơ quan tun truyền, giác ngộ lòng u nước, ý thức dân tộc
cho cơng nhân, nhân dân lao động nước ta và những Việt kiều lúc ấy đang sống ở Pháp.

SV. Nguyễn Đình Hưng

3


Tiểu Luận Lòch Sử Đảng
3- Cuộc khủng hoảng đường lối giải phóng dân tộc, nhiều Đảng phái xuất
hiện .

Lịch sử nước ta từ khi đđế quốc Pháp xâm lược đđến những nǎm hai mươi của
thế kỷ này chứng kiến hơn 300 cuộc đđấu tranh hết sức anh dũng của dân tộc ta chống
đđế quốc Pháp xâm lược. Nhưng cuối cùng đđều không giành đđược thắng lợi vì không
có mộtđđường lối cứu nước đúng đđắn.
Thất bại của phong trào Cần Vương do thiếu đđường lối, thiếu một tổ chức cách
mạng có khả nǎng dẫn dắt dâân tộc đđến thắng lợi. Thất bại của phong trào này đánh dấu
sự chấm dứt thời kỳ dấu tranh chống ngoại xâm trong khuôn khổ hệ tư tưởng phong
kiến. Thất bại của cuộc khởi nghĩa Yêên Thế dưới sự lãnh đạo của cụ Hồng Hoa Thám
cũng chứngtỏ đó không phải là con đường dành thắng lợi Khi các phong trào trên chấm
dứt thì cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước ở nước ta bộc lộ sâu sắc.
Sau khi từng bước ly khai con đường giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong
kiến, nhiều người yêu nước Việt Nam hướng ra nước ngoài, tìm đđến nhưng con đđường
mới đđể mưu sự nghiệp giải phóng dân tộc như: con đđường Duy Tâân của Nhật Bản
(1860), con đđường cách mạng tư sản Pháp(1789), con đđường cách mạng Tâân Hợi của
Trung Quốc(1911)...vào thế kỉ này, nước Nhật từ sau cuộc vận đđộng Duy Tâân đđã trở
thành nước đđế quốc chủ nghĩa,đánh bại Nga Hồng trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật
(1905).cách mạng 1905 ở Nga nổ ra nhưng không thắng lợi. Cách mạng Tâân Hợi ở
Trung Quốc (nǎm 1911) đánhđđổ triều đđình Mãn Thanh, lập ra nước Trung Hoa dân
quốc. Những sự kiện trên đã ảnh hưởng đđến phong trào yêu nước ở Việt Nam.
Ý thức hệ tư sản phương Tâây thâm nhập vào Việt Nam. Một số sĩ phu tiến bộ
tiếp thu trào lưu tư tưởng này, mong muốn nước mạnh, dân giàu theo con đđường tư
bản chủ nghĩa. Họ muốn noi theo con đđường phát triển của Nhật Bản, dựa vào Nhật để
đánh Pháp. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là hội Duy Tâân do cụ Phan Bội Châu
sáng lập, với mục đđích cổ đđộng phong trào, tổ chức lực lượng chống Pháp theo tôn chỉ
"mở mang dân trí, chấn hưng dân khí, vun trồng nhân tài". Số khác như các cụ: Lương
Vǎn Can, Nguyễn Quyền... mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội nhằm cổ đđộng
tinh thần yêu nước, bài xích chính sách cai trị của thực dân Pháp, khuyến khích cải
cách, chế diễu lũ phong kiến, cường hào v.v…Là một nhà yêu nước nhiệt thành, nhưng
chủ trương của cụ Phan Chu Trinh khác hẳn với cụ Phan Bội Châu. Cụ Phan Chu Trinh
tiêu biểu cho xu hướng cải cách dân chủ tư sản (1789), phản đđối việc vũ trang bạo

đđộng chống Pháp. Cụ nói: "Bất bạo đđộng, bạo đđộng tắc tử, bất vọng ngoại, ngoại vọng
tất vọng.Đó là lời tuyên bố của cụ Phan Chu Trinh sau khi đđi Nhật về (15-8-1906).
Sau này trong thư "thất trảm" gửi vua Khải Định khi y sang Pháp (1922), cụ Phan Chu
Trinh viết: "Mau mau quay lại mà thái vị đi, đđem chính quyền trả lại cho quốc dân đđể
quốc dân đđược trực tiếp với chính phủ Pháp mà làm việc đặng mưu lợi ích sau này".
Phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, chống đđi phu, nộp thuế ở Trung Kỳ kết
quả của khuynh hướng tư tưởng tư sản. Tính chất phong trào dân tộc ở thời kỳ này có

SV. Nguyễn Đình Hưng

4


Tiểu Luận Lòch Sử Đảng
chuyển biến khác trước Một số tổ chức yêu nước ra đmới như hội Duy Tân (1904),
trường Đông Kinh Nghĩa Thục (1907), hội Đông Á đđồng minh (1908), Việt Nam
quang phục Hội (1912-1924) v.v.. Song, vì đđường lối chính trị của các tổ chức này
không dựa vào lực lượng quần chúng lao đđộng, mà dựa vào uy tín cánhân, nên không
tạo ra được sự thống nhất trong những người đề xướng phong trào. Vì vậy, khi những
người thủ lĩnh bị đế quốc Pháp bắt thì phong trào cũng tan rã theo. Cách mạng tháng
Mười Nga thành công (1917) đánh dấu bước phát triển mới trong lịch sử nhân loại.
Quốc tế cộng sản, bộ tham mưu của giai cấp vô sản và các dân tộc bò áp bức toàn thế
giới đđược thành lập. ở Trung Quốc, sau phong trào Ngũ Tứ, Đảng cộng sản Trung
Quốc ra đđời (1921). ở Pháp, Đảng cộng sản Pháp được thành lập (1920), sự kiện lịch
sử này không chỉ là thắng lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động pháp , mà
còn là thắng lợi của các dân tộc thuộc đđịa Pháp.Đồng thời, với những chuyển biến trên
thế giới, cách mạng Việt Nam lúc này cũng bắt đầu có những chuyển biến mới.
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt tổ chức những người Việt Nam yêu nước ở
Pháp đđưa bản "yêu sách 8 điểm" đđến Hội nghị các nước đđế quốc thắng trận ở thành
phố Vắcxây (6-1919); đđồng chí Nguyễn i Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế

cộng sản tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội pháp ỡ Tua và tham gia thành lập
Đảng cộng sản Pháp (1920).Nguyễn i Quốc đđược bầu vào đoàn chủ tịch Hội nông
dân Quốc tế (l0-1923), và dự Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản (1924). Tiếng bom
Phạm Hồng Thái mưu sát toàn quyền Méclanh (6-1924) ở Quảng Châu (Trung Quốc)
v.v.. Tất cả như sự báo hiệu bước chuyển biến mới về chất của phong trào cách mạng
Việt Nam.
Tháng 4 nǎm 1921, trên Tạp chí Cộng sản của Đảng cộng sản Pháp, đđồng chí
Nguyễn Ái Quốc viết: "Người Đông Dương giấu một cái gì đđang sôi sục, đang gào
thét và sẽ bùng nổ một cách ghêê gớm, khi thời cơ đđến".
Đúng như nhận xét của đđồng chí Nguyễn Ái Quốc, từ những nǎm 1920 trở đđi,
phong trào cách mạng Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ. Bên cạnh những
đĐảng cách mạng theo xu hướng tư tưởng tư sản, đã xuất hiện những tổ chức yêu nước
tiếp thu tư tưởng tiến bộ mới. Đặc biệt là chủ nghĩa Mác-Lênin- hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân ngày càng có nhữngtác động mạnh mẽ vàophong trào yêu nước và
phong trào công nhân ở Việt Nam, giai cấp tư sản dân tộc chưa bao giờ giương đđược
ngọn cờ giải phóng dân tộc. Đảng lập hiến của Bùi Quang Chiêu (1919) về cǎn bản là
một tập đoàn đòa chủ "tư sản hoá".
Nǎm 1926, họ đưa ra thuyết "Pháp Việt đđề huề" thì mặt nạ làm tay sai cho đđế
quốc Pháp lộ rõ. "Thuyết trực trị" của Nguyễn Vǎn Vĩnh, "Thuyết bảo hồng lập hiến"
của Phạm Quỳnh bộc lộ chân tướng ôm chân đđế quốc Pháp. Xu hướng quốc gia cải
lương của nhóm Huỳnh Thúc Kháng cũng ít tiến vang.
Phong trào đđấu tranh trong những nǎm 1923-1927, đòi tự do, dân chủ theo kiểu
cách mạng tư sản, nhưng đđộng lực của những người tiểu tư sản chứ không phải do

SV. Nguyễn Đình Hưng

5


Tiểu Luận Lòch Sử Đảng

đĐảng của giai cấp tư sản lãnh đđạo. Biểu hiện của phong trào này là nhiều hội, đĐảng
yêu nước của thanh niên trí thức kế tiếp nhau ra đđời: Tâân Việt thanh niêên đđoàn - tức
Tâm Tâm Xã (1923-1925), hội Phục Việt (1925), Đảng thanh niên của Trần Huy Liệu
(1926), Thanh niêên cao vọng Đảng của Nguyễn An Ninh (1926-1929), Tâân Việt cách
mạng đĐảng (1926-1930), Việt Nam thanh niêên cách mạng đĐồng chí Hội (1925-1929),
Việt Nam quốc dân đĐảng (1925-1930) v.v... Những tổ chức yêu nước cách mạng nói
trên đã có tác dụng nhất đđịnh trong việc truyền bá tư tưởng mới, giáo duc lòng yêu
nước và tập hợp số quần chúng thanh niên trí thức, tiểu tư sản. Nhưng, họ chưa vạch ra
đđược một đđường lối cách mạng phùù hợp với yêu cầu của dân tộc. Tâm Tâm Xã nêu
cao quyết tâm "khơi phục quyền làm người của người Việt Nam", nhưng "chưa bàn
đến chính thể". Tâân Việt cách mạng đđang nhận rõ mục đích giải phóng dân tộc, nhưng
chưa thấy vị trí lịch sử của giai cấp công nhân, Việt Nam quốc dân đĐảng chủ trương
chống đĐế quốc, chống phong kiến, nhưng lại sao chép rập khuôn chủ nghĩa Tam Dân
của Tôn Dật Tiên (Trung Quốc).
Nhìn chung, các hội và Đảng yêu nước nói trên có tinh thần chống đđế quốc,
nhưng chưa nhận thức đđược xu thế phát triển khách quan của thời đđại sau cách mạng
tháng Mười Nga nên không thấy đđược giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng
nhân dân lao đđộng, giải phóng xã hội, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền
với chủ nghĩa quốc tế vô sản, chưa thấy đđộc lập dân tộc phải gắn liền với chế đđộ mới
đđể đđi đđến xá bỏ mọi sự bất công và áp bức bóc lột. Những người trong các tổ chức
này cũng không thấy hết bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đđế quốc, không nhận
thức đđược vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, vai trí của quần chúng nhân dân,
trước hết là nông dân trong cách mạng. Bởi những hạn chế đđó, những người yêu nước
trong các tổ chức này chưa thể xác đđịnh đđược một đđường lối cách mạng đúng đắn.
Riêêng Việt Nam thanh niêên cách mạng đđồng chí Hội do đđồng chí Nguyễn Ái
Quốc sáng lập, là một tổ chức cách mạng, phần lớn gồm những người trí thức, tiểu tư
sản, sớm tiếp thu chủ nghĩaMác Lênin, sớm có khuynh hướng cộng sản chủ nghĩa.
Đảng Tâân Việt, sau những nǎm 1926-1927 đã chịu ảnh hưởng về đđường lối của Việt
Nam thanh niêên cách mạng đđồng chí hội.
Cuộc đđấu tranh về ý thức hệ về đđường lối cứu nước giữa Việt Nam thanh niên

cách mạng đđồng chí Hội và các tổ chức yêu nước nói trên diễn ra từ những ngày đầu
đđồng chí Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc
thành lập đĐảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam, từng bước khắc phục sự khủng hoảng về
đĐường lối cứu nước.
3.Quá trình truyền bá CN Mác – Lênin vào Việt Nam và chuẩn bò về chính
trò – tư tưởng – tổ chức cho việc thành lập Đảng :
Hồ Chủ tịch là người đầu tiên trong lịch sử cách mạng nước ta nhận rõ và tin
tưởng tuyệt đối vào lực lượng cách mạng vơ địch của quần chúng nhân dân sẽ lật đổ
ách thống trị của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai. Muốn giải phóng dân tộc,

SV. Nguyễn Đình Hưng

6


Tiểu Luận Lòch Sử Đảng
Người chủ trương trở về nước, đi vào quần chúng, tổ chức, huấn luyện, đồn kết và
lãnh đạo họ đấu tranh, giành độc lập, tự do.
Hồ Chủ tịch về Quảng Châu (Trung Quốc) vào giữa tháng 12 năm 1924. Ở đây,
Người lấy tên là Lý Thụy. Người đi bán báo, bán thuốc lá để có tiền sinh sống và hoạt
động cách mạng. Tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam, Người xúc tiến việc
chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập một đảng kiểu mới của giai cấp
cơng nhân Việt Nam. Đồng thời, với danh nghĩa cơng khai, Hồ Chủ tịch cơng tác
trong phái đồn Bơ Rơ Đin, cố vấn của Liên Xơ, bên cạnh chính phủ Quốc Dân Đảng
Trung Quốc. Hồ Chủ tịch chọn một số thanh niên u nước mở các lớp huấn luyện
chính trị đề đào tạo họ thành những cán bộ cách mạng, rồi cho về nước truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lê nin trong giai cấp cơng nhân và nhân dân ta. Người sáng lập Việt
Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, một tổ chức tiền thân của Đảng; xuất bản
tờ tuần báo Thanh niên, cơ quan của Tổng bộ thanh niên. Hồ Chủ tịch đã tham gia
sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đơng, trong đó có chi hội Việt Nam,

để thống nhất hành động phòng kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Những bài giảng
của Hồ Chủ tịch tại các lớp huấn luyện ở Quảng châu được tập hợp lại, in thành cuốn
sách với tên là Đường cách mạng, do Bộ tun truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị
áp bức ở Á Đơng xuất bản. Tháng 4 năm 1927, sau vụ phản biến của bọn Tưởng Giới
Thạch ở Quảng Châu, Hồ Chủ tịch đi Liên Xơ, rồi đi dự Hội nghị chống chiến tranh
đế quốc họp ở Bơ Rúc Xen (Brucxelle, Bỉ); sau đó, Người qua các nước Đức, Thụy sĩ,
Ý, Thái Lan.Từ mùa thu năm 1928, Người hoạt động ở Thái Lan, đào tạo cán bộ,
tun truyền, giáo dục, tổ chức Việt kiều, cho xuất bản tờ báo Thân ái, dùng làm cơ
quan tun truyền cách mạng trong kiều bào và gửi về nước. Ngồi những cơng việc
nói trên, Hồ Chủ tịch còn học tiếng Thái Lan, dịch sách và nhất là tham gia với kiều
bào trong hội Hợp Đồng thời, Người cũng viết nhiều bài cho các báo Nhân đạo, cơ
quan trung ương của Đảng cộng sản Pháp, Đời sống cơng nhân, cơ quan trung ương
của Tổng liên đồn lao động Pháp v.v..., và viết cuốn sách nổi tiếng Bản án chế độ
thực dân Pháp. Bản án chế độ thực dân Pháp là một đòn tiến cơng quyết liệt vào chủ
nghĩa đế quốc và bước đầu vạch ra con đường đấu tranh cách mạng đúng đắn cho
nhân dân ta và các dân tộc bị áp bức khác. Vào nửa sau của năm 1923, Hồ Chủ tịch từ
Pháp đi Liên Xơ. Với tư cách là đại biểu của nơng dân các nước thuộc địa, Người dự
hội nghị Quốc tế nơng dân họp từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 10 năm 1923 và được
bầu vào Ban chấp hành Quốc tế nơng dân. Ngày 21 tháng 1 năm 1924, Lê nin mất, Hồ
Chú tịch đi viếng Lê nin và viết bài Lê nin và các dân tộc thuộc địa.Hồ Chủ tịch ở lại
Liên Xơ một thời gian, làm việc ở Quốc tế cộng sản và viết nhiều bài cho báo Sự thật
của Đảng cộng sản Liên Xơ, tạp chí Thư tín quốc tế của Quốc tế cộng sản để tiếp tục
trình bày những ý kiến của mình về cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa. Là đại biểu chính thức của Đảng cộng sản Pháp, Hồ Chủ tịch dự Đại hội lần thứ
năm của Quốc tế cộng sản (từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1924 tại
Maxcơva). Tại Đại hội lần thứ năm của Quốc tế cộng sản, Người đọc một bản tham
luận quan trọng, trình bày đầy đủ lập trường, quan điểm của mình, thẳng thắn và thân
ái phê bình một số đảng cộng sản lúc ấy chưa quan tâm đúng mức đến cách mạng
thuộc địa, đề ra những biện pháp tích cực đề đầy mạnh phong trào cách mạng ở các
nước thuộc địa và đặc biệt nhấn mạnh vấn đề giải phóng nơng dân ở các nước đó.

Năm 1924, Hồ Chủ tịch nói: "Vận mệnh của giai cấp vơ sản thế giới phụ thuộc phần
lớn vào các thuộc địa, nơi cung cấp lương thực và binh lính cho các nước lớn đế quốc

SV. Nguyễn Đình Hưng

7


Tiểu Luận Lòch Sử Đảng
chủ nghĩa. Nếu chúng ta muốn đánh bại các nước này, thì chúng ta trước hết phải tước
hếtthuộc địa của chúng đi".
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam đã chứng minh quan
điểm cách mạng của Hồ Chủ tịch là hồn tồn đúng. Người khẩn thiết đề nghị Quốc tế
cộng sản đến phong trào giải phóng dân tộc, cần tuyển lựa đảng viên và đào tạo cán bộ
cách mạng là người thuộc địa, bằng cách gửi họ sang học ở trường Đại học phương Đơng
tại Maxcơva, tăng cường cơng tác tun truyền cách mạng ở các nước thuộc địa v.v…
Từ năm 1920, Hồ Chủ tịch đã thấy rõ cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành
được thắng lợi thì phải đi theo con đường cách mạng vơ sản. Người vạch rõ kẻ thù chủ
yếu của nhân dân các nước thuộc địa là chủ nghĩa đế quốc và bọn phong kiến tay sai.Khi
tên vua Khải Định sang Pháp dự triển lãm thuộc địa (1922), Người viết vở kịch Con rồng
tre và nhiều bài báo đả kích tên vua bù nhìn ấy. Hồ Chủ tịch sớm nhận rõ sứ mệnh lịch sử
của giai cấp cơng nhân quốc tế là giai cấp duy nhất có đủ khả năng lãnh đạo cơng cuộc
giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng lồi người thốt khỏi ách thống trị
của chủ nghĩa tư bản.
Năm 1921, Người đã nêu rõ: "Ở các nước thuộc địa, vấn đề giải phóng dân tộc,
thực chất là giải phóng nơng dân, đánh đổ chủ nghĩa đế quốc giành độc lập dân tộc phải
đi đơi với đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến, mang lại ruộng đất cho nơng dân". Hồ
Chủ tịch đã sớm nhận rõ vai trò và sức mạnh của giai cấp nơng dân trong cách mạng giải
phóng dân tộc.Người đề nghị với những người cộng sản ở các nước nửa thuộc địa tiến
hành mạnh mẽ một cuộc vận động khẩn trương đề giáo dục quần chúng, làm cho quần

chúng thấy thật rõ sức mạnh của mình, quyền lợi của mình và có đủ khả năng thực hiện
được khẩu hiệu "Tất cả ruộng đất về tay nơng dân".Với kinh nghiệm của mình, Người đã
áp dụng chủ nghĩa Mác - Lê nin một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đề
ra đường lối cách mạng đúng đắn và tun truyền rộng rãi đường lối ấy bằng cuốn
Đường cách mạng và báoThanh Niên
Sau thời gian học tập nghiên cứu ổ Liên Xô, cuối năm 1924 về đến Quảng
Châu (Trung Quốc) tiếp xúc với những nhà Cách Mạng vô sản, đồng chí đã tổ chức
một nhóm cách mạng đầu tiên gồm 9 người, làm nòng cốt cho tổ chức Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí hội sau này.
Tháng 6/1925, người thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội,
mở các lớp huấn luyện để tạo cán bộ cách mạng Việt Nam. Những bài giảng trong
các lớp huấn luyện ở Quảng Châu của đồng chí Nguyễn i Quốc được tập hợp thành
tác phẩm đường cách mạng. Tác phẩm này đã góp phần chuẩn bò cho chính trò, tư
tưởng cho sự ra đời của ĐCS Việt Nam.
Được chuẩn bò chính trò về tư tưởng ở Quảng Châu, những người yêu nước
chân chính của Việt Nam trở về nước tập hợp lực lượng, hướng dẫn phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đi vào quỹ đạo Cách Mạng Vô
Sản.
Từ cuối năm 1929, phong trào cơng nhân Việt Nam đã có tính chất độc lập rõ
rệt, trở thành lực lượng nòng cốt của phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta. Phong
trào CM trong nước những năm 1928-1929 phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có

SV. Nguyễn Đình Hưng

8


Tiểu Luận Lòch Sử Đảng
chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Do nhận thức không đồng đều trong
nội bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, đã dẫn đến việc xuất hiện ra

tổ chức cộng sản Việt Nam trong thời gian từ tháng 6/1929 đến tháng 1/1930. Phong
trào cơng nhân và phong trào u nước của nhân dân ta đang đòi hỏi sự lãnh đạo của
một đảng của giai cấp cơng nhân. Do đó Đơng Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Bộ và An
nam Cộng sản Đảng ở Nam Bộ ra đời. Trong tình hình ấy, Tân việt Cách mạng Đảng đã
được cải tổ thành ĐơngDương Cộng sản Liên đồn.Tuy nhiên cả ba tổ chức trên đã
khơng đồn kết trong việc tun truyền vận động quần chúng. Để chấm dức tình trạng
chia rẽ trong nội bộ những người cộng sản ở Việt Nam, nhằm tăng cường sức mạnh
lãnh đạo cách mạng, được ủy quyền của quốc tế cộng sản. Mùa thu năm 1929, Hồ
Chủ tịch đã từ Thái Lan về Hương Cảng (Hồng Kơng), triệu tập hội nghị thành lập
Đảng họp vào ngày 3 tháng 2 năm 1930 ở Cửu Long, gần Hương Cảng (Trung Quốc).
Dưới sự chủ tọa của Người, Hội nghị quyết định thống nhất ba tổ chức cộng sản ở Việt
Nam thành một đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thơng qua Chính cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt và điều lệ đảng do Hồ Chủ tịch thảo ra.
4/Thống nhất các tổ chức cộng sản và sự thành lập Đảng cộng sản Việt
Nam.
Trước tình hình xuất hiện ba tổ chức cộng sản trong một nước. Quốc tế cộng sản
gửi thư cho những người cộng sản ở Đông Dương nêu rõ "nhiệm vụ quan trọng hơn hết
và tuyệt đđối cần thiết của tất cả những người cộng sản Đông Dương là sớm lập một
đảng cách mạng của giai cấp vô sản, nghĩa là một đảng cộng sản quần chúng. Đảng ấy
phải là một đảng duy nhất và ở Đông Dương chỉ là đảng ấy là tổ chức cộng sản mà
thôi.
Quốc tế cộng sản chỉ thị cho đđồng chí Nguyễn Ái Quốc chịu trách nhiệm "hợp
nhất các phần tử cộng sản chân chính lại, đđể thành lập một đđảng duy nhất". Nhận chỉ
thị nầy, mùa thu nǎm 1929, đđồng chí Nguyễn Ái Quốc từ Tháii Lan trở lại Hương
Cảng chuẩn bị kế hoạch thực hiện nhiệm vụ lịch sử trọng đđại nêu trên.Từ ngày 3 đđến 7
tháng 2 nǎm 1930, Hội nghị hợp nhất đđược tiến hành tại nhàmột công nhân ở xóm thợ
đđường Cửu Long gần Hương Cảng (Trung Quốc). Tham dự Hội nghị có các đđồng chí
Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh, đđại biểu của Đông Dương cộng sản đđảng;
Nguyễên Thiệu và Châu Vǎn Liêêm, đđại biểu của An Nam cộng sản đđảng. Hội nghị tiến
hành dưới sự chủ trì của đđồng chí Nguyễn Ái Quốc, đđại biểu của Quốc tế cộng sản.

Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, các đđại biểu hoàn toàn nhất trí tán thành ý
kiến của đđồng chí Nguyễn Ái Quốc và thống nhất các tổ chức cộng sản thành một
đđảng lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam.Hội nghò thông qua Chính cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng cộng sản Việt Nam. Những vǎn kiện quan
trọng này đều do đđồng chí Nguyễn Ái Quốc dự thảo. Hội nghị cũng thông qua Lời kêu
gọi của đđồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế cộng sản và Đảng cộng sản Việt
Nam gửi đđến quần chúng công, nông, binh, đồng bào và đồng chí trong cả nước nhân
dịp thành lập Đảng.

SV. Nguyễn Đình Hưng

9


Tiểu Luận Lòch Sử Đảng
Hội nghị nhất trí về việc hợp nhất và tổ chức các đoàn thể quần chúng; thông
qua Điều lệ tóm tắt của Công hội, Nông hội, Đoàn thanh niên cộng sản, Hội phụ nữ,
Hội cứu tế, Hội phản đđế (tức Mặt trận dân tộc thống nhất chống đđế quốc)v.v…Hội nghị
cũng quyết đđịnh kế hoạch thống nhất các cơ sở Đảng trong cả nước, thể thức cử Ban
chấp hành trung ương lâm thời và bàn việc liên hệ đđể thu nạp Đông Dương cộng sản
liêên đoàn. Hội nghị cũng nhất trí rằng, khi về nước các đại biểu lấy danh nghĩa thay
mặt đđại biểu quốc tế (tức là đđồng chí Nguyễn Ái Quốc) mà tiến hành công việc của
Hội nghị hợp nhất
Nói về nỗi vui sướng của ngươi cộng sản trước sự kiện lịch sử này, về sau đđồng
chí Nguyễn Thiệu, đđại biểu của An Nam cộng sản đđảng dự Hội nghị hợp nhất viết:
"Tôi vô cùng cảm ơn đđồng chí Vương (tức đđồng chí Nguyễn Ái Quốc) làm cho tôi
được thoả lòng. Đảng mới, tên mới, tất cả đđều thống nhất theo tinh thần mới. có thể
nói rằng , mỗi người đều được mà chẳng ai mất gì. Đồng chí Vương đđem lại cho
chúng tôi nhiều quá , nhiều gấp mấy lần những đđiều mà chúng tôi mong ước. Đêm ấy
về nhà, chúng tôi không ngủ được vì quá vui mừng.

Nhờ sự hoạt đđộng tích cực của các đđồng chí đđại biểu thay mặt đđồng chí
Nguyễn Ái Quốc, chỉ trong một thời gian ngắn, các đđảng bộ ở cơ sở đđược hợp nhất.
Cáac tổ chức quần chúng cũng thống nhất theo đđiều lệ mới. Lâm thời chấp uỷ của Đảng
ở các xứ đđược chỉ đđịnh và Ban chấp hành trung ương lâm thời đđược thành lập. Các
đđồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Hới, Trần Vâên Lan, Nguyễn Phong Sắc,Lê Mao,
Phan Hữu Lầu, Hồng Quốc Việt đđược các đđảng bộ cử vào Ban chấp hành trung ương
lâm thời do đđồng chí Trịnh Đình Cửu đđứng đđầu.Đảng bộ Hoa kiều ở Chợ Lớn cũng cử
đđồng chí Lưu Lập Đạo tham gia Ban chấp hành trung ương lâm thời của Đảng cộng
sản Việt Nam. Ngày 24 tháng 2 nǎm 1930, hai đđồng chí Châau Vǎn Liêm, Nguyễn
Thiệu thay mặt đđại biểu quốc tế, các đđồng chí Phan Hữu Lầu, Hồng Quốc việt thay
mặt Ban chấp hành trung ương lâm thời cùng với đđồng chí Ngô Gia Tự, Bí thư lâm
thời chấp uỷ của Đảng bộ Nam Kỳ họp và quyết đđịnh chấp nhận Đông Dương cộng sản
liêên đoàn gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam.
Như vậy, chỉ nửa tháng sau, kể từ ngày hội nghị hợp nhất bế mạc, ba tổ chức
cộng sản ở Đông Dương hoàn toàn thống nhất trong một đĐảng duy nhất - Đảng cộng
sản Việt Nam. Thay mặt Quốc tế cộng sản, từ ngày 03-07/02/1930, Nguyễn Quốc
chủ trì hội nghò và thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một Đảng duy nhất lấy
tên là Đảng cộng sản Việt Nam , thông qua chính cương vắn tắt , sách lược vắn tắt ,
điều lệ vắn tắt của Đảng và lời kêu gọi nhân dòp thành lập Đảng do Nguyễn Quốc
soạn thảo .
Cương lónh chính trò đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam do Nguyễn
Quốc soạn thảo là một cương lónh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo
, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn .Độc
lập dân tộc và tự do là tư tưởng cốt lõi của của cương lónh này .

SV. Nguyễn Đình Hưng

10



Tiểu Luận Lòch Sử Đảng

Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam tháng 2 nǎm 1930 có ý
nghĩa như Đại hội thành lập Đảng. Hội nghị vạch ra một đđường lối cách mạng và
đđường lối xây dựng Đảng đúng đắng,sáng tạo, phù hợp với đđiều kiện một nước thuộc
đđịa, nửa phong kiến. Đường lối đúng đắn là điều kiện quan trọng nhất đđể ba tổ chức
cộng sản nhanh chống thống nhất ý chí và hành động, gánh vác sứ mệnh lịch sử giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội.
C/ Kết Luận
Đảng cộng sản Việt Nam (từ tháng 10-1930) lấy tên là Đảng cộng sản Đông
Dương ra đời năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp ở
việt nam trong thời đại mới .
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vó đại trong phong trào cách
mạng Việt Nam, chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành .
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời chấm dứt được cuộc khủng hoảng về đường
lối cứu nước của dân tộc ta mà Nguyễn Quốc là vò anh hùng của dân tộc sau nhiều
năm bôn ba ở hải ngoại đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam : đó là tư
tưởng của chủ nghóa Chủ Nghóa Mác- LêNin , tinh thần của cách mạng vô sản .Sau
khi tìm được con đường cứu nước Nguyễn Quốc đã ra sức truyền bá tư tưởng đường
lối cứu nước của mình về Việt Nam , chuẩn bò về mặt tư tưởng và lực lượng cho phong
trào cách mạng trong nước .
Đảng ra đời thì kể từ đây nhân dân Việt Nam đã tham gia vào sự nghiệp đấu
tranh giải phóng giai cấp, giải phóng loài người một cách tự giác và có tổ chức .
Đảng ra đời đã trở thành hạt nhân đoàn kết các yếu tố dân tộc và giai cấp, dân tộc và
quốc tế, giai cấp và quốc tế .Mà người có khả năng đoàn kết, tranh thủ sự đồng tình
ủng hộ của thế giới đối với cách mạng Việt Nam là Nguyễn Quốc , một nhà ngoại
giao đại tài .
Tóm lại, việc thành lập Đảng là bước ngoặt vó đại trong lòch sử của giai cấp
công nhân và của cách mạng Việt Nam .” Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã
trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng, hoàn cảnh lòch sử đã xuất hiện cá nhân

kiệt xuất Nguyễn Quốc, người góp phần to lớn trong sự thành lập Đảng và sự
nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam .
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là một sự chuẩn bò tất yếu đầu tiên có tính
chất quyết đònh cho những bước phát triển nhảy vọt về sau của dân tộc Việt Nam.
Với sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam cho ta thấy vai trò rất to lớn của
Nguyễn i Quốc trong việc truyền bá chủ nghóa Mác Lê nin giáo dục tư tưởng chính
trò cách mạng cho cho giai cấp công nhân và giai cấp nông dân Việt Nam.Tập hợp
quần chú chuẩn bò hệ tư tưởng chính trò cho việc thành lập Đảng… Đảng cộng sản Việt

SV. Nguyễn Đình Hưng

11


Tiểu Luận Lòch Sử Đảng
Nam ra đđời với đđường lối chiến lược đúng đắng là sự cổ vũ to lớn đđối với phong trào
cách mạng đđang ở thời kỳ phát triển sôi sục. Đường lối của Đảng đđược công bố trở
thành tiếng kèn tập hợp lực lượng quần chúng, chuẩn bị cho cuộc đđấu tranh giải phóng
dân tộc.

SV. Nguyễn Đình Hưng

12



×