Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh Về Vấn Đề Đoàn Kết Dân Tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.17 KB, 22 trang )

Tư tưởng Hồ Chí Minh Về Vấn Đề
Đoàn Kết Dân Tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc
16:10', 11/11/ 2003 (GMT+7)

Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tư tưởng
cơ bản, nhất quán và xuyên suốt, là chiến lược tập hợp lực lượng đấu tranh
với kẻ thù dân tộc và giai cấp trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người. Người đã sử dụng khoảng 2.000 lần cụm từ "đoàn kết", "đại đoàn kết"
trong các văn bản viết. Người luôn luôn nhận thức đại đoàn kết toàn dân tộc
là vấn đề sống còn, quyết định sự thành công của cách mạng.
Sau khi giành được độc lập dân tộc, tại nhiều hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn luôn nhấn mạnh sức mạnh của đoàn kết: "Đoàn kết là sức mạnh, đoàn
kết là thắng lợi".
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công!"
Năm 1951, Hồ Chí Minh thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc nhân
buổi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam: "Mục đích của Đảng Lao động Việt
Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc". Như
vậy, đoàn kết toàn dân là một đường lối lãnh đạo của Đảng. Không dừng lại ở
việc xác định đại đoàn kết là mục tiêu, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn khẳng định
nhiệm vụ của toàn Đảng là giữ gìn sự đoàn kết. Trong Di chúc, Người dặn lại
chúng ta "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân
ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết
nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình".
Dân tộc Việt Nam được hiểu là mỗi người dân Việt Nam đang sinh sống, làm
ăn ở Việt Nam và những người Việt sinh sống, làm ăn ở nước ngoài có gốc
gác là người Việt Nam, không phân biệt họ là dân tộc thiểu số hay đa số, họ
theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo, không phân biệt họ giàu hay
nghèo, họ là nam hay nữ, già hay trẻ. Đại đoàn kết toàn dân tộc có nghĩa là
phải tập hợp được mọi người dân vào một mục tiêu chung. Sinh thời Chủ tịch


Hồ Chí Minh nêu rõ: "Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của
Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có


sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ".
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân rộng rãi nhưng phải xác định lực lượng
nào là nền tảng của khối đại đoàn kết. Người chỉ rõ "Đại đoàn kết tức là trước
hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân,
nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn
kết".
Tổ chức thể hiện khối đoàn kết dân tộc chính là Mặt trận Dân tộc thống nhất.
Mặt trận là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người
dân nước Việt trong nước và ngoài nước phấn đấu vì mục tiêu chung là độc
lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn mọi người phải khắc phục đoàn
kết xuôi chiều, hình thức, đoàn kết thiếu đấu tranh với những mặt chưa tốt.
Người viết: "Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường
cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học
những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập
trường thân ái, vì nước, vì dân". Người cổ vũ mọi người vào Mặt trận Việt
Minh: Dân ta phải nhớ chữ đồng: "đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng
minh".
Là tổ chức chính trị to lớn nhất, cách mạng nhất, Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt
trận Dân tộc thống nhất đồng thời cũng là một thành viên của Mặt trận. Đảng
lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Đảng ta có chính sách Mặt trận dân tộc
đúng đắn, cho nên đã phát huy được truyền thống đoàn kết và yêu nước rất vẻ
vang của dân tộc ta".
Đại đoàn kết dân tộc phải đi đến đại đoàn kết quốc tế và là cơ sở cho việc
thực hiện đoàn kết quốc tế. Ngược lại, đại đoàn kết quốc tế là một nhân tố hết

sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam hoàn thành sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc theo tư tưởng
HCM
19:02' 15/05/2005 (GMT+7)

(VietNamNet) - Nhân kỷ niệm 115 Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày
14/5 tại Hà Nội, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ
chức hội thảo khoa học "Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,


xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo tư
tưởng Hồ Chí Minh".
Hơn một trăm cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ
Mặt trận, các đoàn thể ở trung ương, các nhân sĩ, trí
thức, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài tới dự.
Phát biểu tại hội thảo, Chủ tịch Ủy ban Trung ương
Bác Hồ tặng quà cho các cháu
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Phạm Thế Duyệt
thiếu nhi
khẳng định một trong những tài sản vô giá mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc và các thế hệ mai sau là tư tưởng của
Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh gồm hệ thống những quan điểm toàn diện,
nhất quán và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong
hệ thống những quan điểm đó, nổi bật lên tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết toàn dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất.
Ông Nguyễn Mạnh Cầm, nguyên Phó Thủ tướng, nhấn mạnh tư tưởng đoàn
kết, đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh luôn gắn kết chặt chẽ nhuần

nhuyễn với tinh thần đoàn kết quốc tế. Nó có tác dụng tập hợp lực lượng của
cả dân tộc kết hợp với lực lượng của bạn bè quốc tế, giúp Việt Nam có được
sức mạnh tổng hợp chiến thắng quân xâm lược, thống nhất đất nước, chiến
thắng nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng cuộc sống mới.
Nhiều đại biểu cho rằng sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước vì mục tiêu
"dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" đang đòi hỏi
toàn Ðảng, toàn quân và toàn dân thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân
tộc ở chiều sâu. Các đại biểu yêu cầu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần nâng
cao vai trò để tương xứng yêu cầu nhiệm vụ giai đoạn mới.
"Bác Hồ luôn tin yêu người công giáo..."
"Mặc dù nơi này, nơi kia đã có không ít người công
giáo bị lôi kéo, xúi giục chống lại cách mạng
nhưng Hồ Chủ tịch vẫn kiên định thái độ tin yêu
đối với người công giáo..."- Linh mục Nguyễn Tấn
Khoá, Chủ tịch UB Đoàn kết công giáo Việt Nam
xúc động ca ngợi tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại cuộc Hội thảo.


Theo Linh mục Nguyễn Tấn Khoá, điều đáng trân trọng và học tập nơi Hồ
Chủ tịch là Người luôn có thái độ bình tĩnh để phân tích từng sự kiện rất cụ
thể và đưa ra một giải pháp có lý có tình. Mặc dù nơi này nơi kia đã có không
ít người công giáo bị lôi kéo, xúi giục chống lại cách mạng nhưng Hồ Chủ
tịch vẫn kiên định thái độ tin yêu đối với người công giáo.
"Quan điểm trên của Hồ Chủ tịch đã thâu tóm toàn bộ vấn đề nhận thức,
phương pháp làm việc và cách thức hoạt động của công tác tôn giáo vận nói
chung và công giáo vận nói riêng. Thời gian qua, có những việc làm chúng ta
kế thừa và làm tốt quan điểm trên nhưng cũng còn một số nơi, một số lĩnh vực
chưa làm được như thế" - Linh mục Nguyễn Tấn Khoá nhận xét.
Linh mục Nguyễn Tấn Khoá ca ngợi cách ứng xử của Chủ tịch Hồ chí Minh:

từ việc Người luôn coi trọng công tác cán bộ làm tôn giáo vận và thường
xuyên uốn nắn những lời nói, việc làm không đúng của cán bộ khi tiếp xúc
với đồng bào các tôn giáo; việc Người thường giải quyết những vụ việc sai
trái, vi phạm pháp luật của đồng bào tôn giáo theo hướng tình cảm vị tha
nhiều hơn, mềm mỏng hơn là dụng luật...cho đến những quan tâm đặc biệt
của Người đối với nhu cầu chính đáng của người công giáo; luôn theo sát
những sự kiện, việc làm của giới công giáo để có những biểu dương khích lệ
hay chia sẻ kịp thời...
"Chính tình cảm xúc động và chân thành đó đã có sức lôi cuốn người công
giáo đi theo cách mạng, dù giai đoạn đó chưa có tinh thần canh tân đổi mới
của cộng đồng Vaticano 2, chưa có đường hướng đồng hành cùng dân tộc
của Giáo hội Việt Nam" - Linh mục Nguyễn Tấn Khoá cho biết.
Đáp lại tình cảm và sự quý mến đó của Hồ Chủ tịch, rất nhiều Giám mục, linh
mục và giáo dân đã có mặt trong đội ngũ những người kháng chiến. Ngay
ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập, cả 4 giám mục người
Việt lúc đó đã cùng ký tên vào bức điện văn gửi Toà thánh Vatican và những
người công giáo trên toàn thế giới đề nghị ủng hộ nền độc lập của Việt Nam
với những lời lẽ cháy bỏng tinh thần yêu nước. Bức thư có đoạn: "Nhân dân
Việt Nam yêu quý của chúng con muốn nhờ trung gian 4 vị Giám mục của họ
dâng lên Đức Thánh cha tôn kính sâu xa và xin Đức Thánh cha ban phúc
lành, tỏ lòng rộng lượng và cầu nguyện cho nền độc lập mà nhân dân chúng
con mới dành lại được và quyết tâm bảo vệ với mọi giá...".
Linh mục Nguyễn Tấn Khoá dẫn ví dụ trên và cho rằng, tuy mục tiêu, quyền


lợi chung và cơ sở nền tảng của mối dây liên kết nhiều người thành một khối
thống nhất nhưng sự liên kết đó không thể bền chặt nếu không có được thái
độ tin yêu, tôn trọng và quan tâm đến mỗi người công giáo của người lãnh
đạo đất nước.
"Hồ Chủ tịch đã làm được điều đó. Đây cũng là bài học sâu sắc nhất trong

việc xây dựng khối đại đoàn kết với đồng bào công giáo mà ngày nay chúng
ta còn phải dày công học tập và nâng lên một tầm cao mới" - Linh mục nhận
định

Hồ Chí Minh - nhà lý luận thiên tài, người thầy của
cách mạng Việt Nam
Tuesday, 10 June 2008

Hồ Chí Minh là nhà lý luận thiên tài, người thầy của cách mạng Việt Nam.
Người đã nêu một tấm gương sáng trong việc tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa
Mác- Lênin trên tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo.

Giữa lúc cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng bế tắc về đường
lối, Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc) là người Việt Nam yêu nước đầu tiên tìm
ra con đường cứu dân, cứu nước. Sau gần 10 năm tìm đường cứu nước, đặt chân lên
nhiều châu lục, tiến hành khảo sát chủ nghĩa thực dân, đế quốc ở các nước tư bản
chủ yếu và nhiều nước thuộc địa của chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận
thức được xu hướng phát triển của thời đại; từ một người yêu nước nồng nhiệt,
Người đã bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin và trở thành người Cộng sản. Từ đó Người
đã rút ra kết luận: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản. Đó là con đường cách mạng dân chủ tư sản kiểu
mới do Đảng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm đánh đổ đế quốc và
phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến
lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng
sản ở Việt Nam. Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân,


kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại nhằm đi tới mục tiêu cao cả là giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.

Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là điểm xuất phát của Tư tưởng Hồ
Chí Minh. Dưới ánh sáng Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
Lênin và tấm gương cách mạng Tháng Mười Nga, Người đã khẳng định: Chỉ có
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức
và giai cấp công nhân toàn thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi
phải thực hiện được sự liên minh chiến đấu giữa vô sản ở thuộc địa với vô sản ở
chính quốc nhịp nhàng như hai cánh của một con chim. Cách mạng ở thuộc địa
không chỉ trông chờ vào kết quả của cách mạng vô sản ở chính quốc mà phải tiến
hành song song với cách mạng ở chính quốc, hơn nữa nó cần phải chủ động và có
thể giành thắng lợi trước, và bằng thắng lợi của mình nó có thể đóng góp vào sự
nghiệp
giải
phóng
anh
em

sản

phương
Tây.
Đó là một luận điểm sáng tạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến vào sự phát
triển lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa. Người cũng đã cùng với Đảng đề ra và giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề về
chiến lược và sách lược, dẫn đến thắng lợi lịch sử của cách mạng Tháng Tám.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc gắn bó thống nhất với tư tưởng của
Người về chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định: Cách mạng giải phóng dân tộc phải
phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn
toàn.
Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tổng hợp những quan
điểm chiến lược có ý nghĩa chỉ đạo lớn về chính trị và lý luận, về nhận thức và hành

động của toàn Đảng, toàn dân ta trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Đây
là một đóng góp về lý luận vào kho tàng của chủ nghĩa Mác-Lênin, vào lý luận
cách
mạng

hội
trong
thời
đại
ngày
nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam đang được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp đổi mới hiện nay,
nhằm ra sức phát triển kinh tế, văn hoá làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, giữ vững độc lập chủ quyền và tòan vẹn lãnh thổ, xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ

hội.
Để bảo đảm cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra
sức chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng. “ Trước hết phải có Đảng cách


mệnh...Đảng có vững cách mệnh mới thành công”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
Cộng sản lãnh đạo, đặc biệt trong điều kiện Đảng đã nắm chính quyền, là một đóng
góp mới vào lý luận xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Để xứng đáng
là Đảng lãnh đạo, Người nêu yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thành một đảng to lớn,
mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để. Người luôn luôn nhấn mạnh
đảng viên phải suốt đời làm người con trung thành của Đảng, người đầy tớ tận tuỵ
của nhân dân. Người đòi hỏi Đảng ta một mặt phải ra sức nâng cao trí tuệ cho

ngang tầm nhiệm vụ lịch sử, mặt khác phải trau dồi đạo đức cách mạng, không
ngừng tăng cường mối liên hệ máu thịt với nhân dân. Đảng chỉ có thể hoàn thành
sứ mệnh lịch sử của mình nếu biết tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong
một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống kẻ thù chung và xây dựng đất nước.
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” . Luận
điểm nổi tiếng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành tư tưởng chỉ đạo chiến
lược xuyên suốt cả quá trình cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ
Chí Minh cùng với đạo đức và nhân cách vô cùng cao thượng và trong sáng của
Người đã quy tụ được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đấu tranh vì thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng. Đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cơ bản, lâu dài, trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh mãi mãi là một sức mạnh làm nên thắng
lợi
của
cách
mạng
Việt
Nam.
Hồ Chí Minh là người sáng lập Đảng, Mặt trận, Quân đội, đồng thời cũng là người
sáng lập Nhà nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà, nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Người luôn luôn coi trọng bản chất giai cấp công nhân của nhà nước, và cũng luôn
nhấn mạnh tính dân tộc, tính nhân dân sâu sắc của nhà nước. Là nhà yêu nước vĩ
đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là nhà quốc tế chủ nghĩa trong sáng, hiện thân của
tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Người nói: Cách mệnh
Việt Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trên thế
giới
đều

đồng
chí

của
dân
Việt
Nam
cả.
Hồ Chí Minh bàn nhiều đến đạo đức và vai trò của đạo đức trong dấu tranh cách
mạng. Người chỉ rõ: Đạo đức là cái gốc của người cách mạng. Người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng
vẻ vang. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một thể thống nhất giữa đạo đức với
chính trị, đạo đức với tài năng, giữa nói và làm, giữa đạo đức cách mạng và đạo
đức đời thường. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một bộ phận rất quan trọng
trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, có sức sống mãnh liệt, đã sớm đi vào nhân dân, được
nhân dân tiếp nhận. Cùng với tư tưởng đạo đức, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là
một đóng góp có giá trị vào triết học về con người của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ
tịch Hồ Chí Minh nói: Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có


cơm

ăn,

áo

mặc,

ai

cũng


được

học

hành.

Tính khoa học và tính cách mạng sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được lịch
sử kiểm chứng. Trải qua những biến động của thời cuộc, Tư tưởng Hồ Chí Minh
càng chứng tỏ giá trị và sức sống mãnh liệt của nó. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tinh
hoa của dân tộc Việt Nam, là niềm tự hào của Đảng ta và nhân dân ta. Dưới ánh
sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân
càng vững tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo.
Ngày nay, khi sự nghiệp đổi mới ở nước ta ngày càng đi vào chiều sâu, những biến
chuyển trên thế giới ngày càng lớn, những vấn đề mới đặt ra trong đời sống xã hội
ngày càng nhiều, đòi hỏi phải làm sáng tỏ, thì việc nghiên cứu, học tập, bảo vệ, vận
dụng và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tế cuộc sống, trở thành nhiệm
vụ quan trọng, cấp bách trong công tác chính trị, tư tưởng, lý luận của toàn Đảng,
toàn dân ta

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
(ĐCSVN)- Thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, của
Đảng Cộng sản do chính Người sáng lập trong hơn 75 năm đã qua cho phép chúng
ta có thể khẳng định rằng: Trong một quốc gia dân tộc, bao giờ cũng có các giai
cấp, tầng lớp xã hội, các tộc người, các tôn giáo khác nhau, song bao giờ cũng có
lợi ích chung và cao cả của cả dân tộc. Dân tộc Việt Nam dù có nhiều giai cấp xã
hội, tộc người và tôn giáo khác nhau song người Việt Nam đều là con Hồng, cháu
Lạc có lịch sử hình thành dân tộc lâu đời, có một cội nguồn văn hoá chung, có chủ
nghĩa dân tộc truyền thống vững bền, có lợi ích cao cả là độc lập, tự do.
Việt Nam là một quốc gia dân tộc đã hình thành sớm trong quá trình dựng nước và
giữ nước. Nhân dân Việt Nam có ý thức sâu bền về quyền tự chủ quốc gia dân tộc.

Quá trình dựng nước và giữ nước đã tạo dựng và phát triển cho dân tộc Việt Nam
một nền văn hoá tư tưởng rực rỡ, trong đó chủ nghĩa dân tộc, ý chí độc lập và khát
vọng tự do là dòng chứ lưu của lịch sử. Đó là nền tảng văn hoá tư tưởng của sự hội
tụ và đoàn kết dân tộc, là động lực vĩ đại và duy nhất của nhân dân Việt Nam trong
lịch sử xây dựng và bảo vệ tổ quốc.


Trên cơ sở giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh đã khảo sát,
nghiên cứu, tiếp biến, tổng hoà và phát triển biện chứng tinh hoá văn hoá của
phương Đông và cuộc cách mạng ở các nước phương Tây thế kỷ XVII, XVIII, đặc
biệt là thế giới quan và phương pháp duy vật biện chứng của học thuyết Mác-Lênin
và kinh nghiệm của cuộc cách mạng vô sản trên thế giới thế kỷ XX để xây dựng
một hệ thống quan điểm toàn diện và sáng tạo về tư tưởng giải phóng và phát triển
dân tộc, trong đó cốt lõi là tư tưởng độc lập tự do làm kim chỉ nam cho cuộc đấu
tranh của nhân dân Việt Nam vì nhu cầu phát triển của đất nước theo xu thế tiến bộ
của thời đại mới. Hệ thống quan điểm cách mạng của Hồ Chí Minh là cơ sở của tư
tưởng và chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Người trong cuộc đấu tranh giải
phóng và phát triển đất nước trong thế kỷ XX.
Độc lập, tự do và tư tưởng cách mạng vĩ đại của Hồ Chí Minh là chìa khoá để mở
đường hội tụ thắng lợi của chiến lược: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành
công, thành công, đại thành công''.
1. Để thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc, trước hết phải có cương lĩnh đúng
đắn phù hợp với thực tiễn của đất nước qua các thời kỳ cách mạng khác nhau.
Ngay từ ngày đầu mới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã soạn
thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, được hội nghị thành lập Đảng đầu
năm 1930 thông qua, trong đó đã nêu cao khẩu hiệu ''Việt Nam độc lập'', Việt Nam
tự do và chính sách đoàn kết dân tộc rộng rãi, uyển chuyển. Cương lĩnh nêu rõ:
trên cơ sở coi công nông là gốc cách mạng, Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư
sản, trí thức, trung nông, tập hợp, lôi kéo phú nông, tư sản, trung và tiểu địa chủ về
phía cách mạng. Thực tiễn cao trào cách mạng 1930-1931 ở Nghệ An và Hà Tĩnh,

không chỉ có công nông đông đảo mà còn có phần lớn trí thức, một số sĩ phu, trung
tiểu địa chủ cũng có xu hướng theo cách mạng rõ rệt. Sự thật lịch sử đó sớm minh
chứng giá trị khoa học và thực tiễn cách mạng của tư tưởng độc lập tự do và chiến
lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh.
Tình hình đất nước và thế giới càng biến chuyển, chiến lược và đường lối chủ
trương cách mạng càng sát hợp với nhu cầu phát triển của dân tộc thì sức mạnh hội
tụ và đoàn kết dân tộc càng rộng lớn, cách mạng càng giành được thắng lợi to lớn
và có ý nghĩa lịch sử vĩ đại và tính thời đại sâu sắc.


Sự thay đổi chiến lược cách mạng tư sản dân quyền có tính chất phản đế và phản
phong kiến thành chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh
(được Hội nghị lần thứ VIII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhất trí thông
qua tháng 5 năm 1941) có sức mạnh cuốn hút cả dân tộc đứng lên tiến hành cuộc
Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời tháng 8 năm
1945 đã mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
Với đường lối kháng chiến và kiến quốc (1945-1954), đặc biệt là Chính cương
Đảng Lao động Việt Nam (tháng 2 - 1951), tiếp đến là đường lối chiến lược tiến
hành đồng thời cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc với cách mạng dân tộc dân
chủ ở miền Nam, nhân dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước
với quyết tâm ''Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Vì đại nghĩa của dân tộc, vì
lương tâm và danh dự của nhân loại tiến bộ, Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí
Minh đứng đầu đã huy động sức mạnh quá khứ và hiện tại của dân tộc, kết hợp với
sức mạnh tiến bộ của thời đại mới đưa dân tộc Việt Nam giành được những thắng
lợi vĩ đại trong 30 năm kháng chiến chống xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc
Mĩ.
Đường lối Đổi mới được đề ra trong Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) và Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực
tiễn đất nước và xu thế của thế giới trong giai đoạn hiện nay đã đóng vai trò quyết
định đưa đất nước vượt qua khủng hoảng, giành được những thành tựu to lớn trong

chặng đường 20 năm đã qua, tạo niềm tin của quần chúng, động viên sức mạnh của
khối đoàn kết dân tộc và trí tuệ của mọi người Việt Nam thành một quốc gia dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong hơn 75 năm qua trước hết là thắng lợi của Cương lĩnh, chiến
lược đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo, là thắng lợi của tư tưởng cách
mạng cao cả và vĩ đại của Hồ Chí Minh - tư tưởng độc lập, tự do.
2. Khối quần chúng đông đảo chỉ trở thành sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về
mục tiêu chiến đấu cao cả, được tổ chức lại thành một khối vững chắc trên cơ sở
của Mặt trận dân tộc thống nhất, được hình thành và phát triển ngày càng hoàn
thiện trong tiến trình cách mạng.


Năm 1941, cùng với chủ trương thay đổi chiến lược cách mạng, Hồ Chí Minh đã
quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh giữa lúc nhân dân Việt Nam đang sống
quằn quại trong cảnh nước sôi, lửa nóng, lúc quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn
hết thảy, ai cũng muốn độc lập, tự do.
Thành lập Mặt trận Việt Minh là một điển hình sáng tạo của Hồ Chí Minh về chiến
lược đại đoàn kết dân tộc đưa đến thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám, lập
nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, một nhà nước của dân tộc, do dân tộc và vì
dân tộc.
Tiếp đến trong thời kỳ kháng chiến kiến quốc 1945-1954, mặt trận dân tộc thống
nhất tiếp tục được củng cố và mở rộng. Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam đã ra
đời, thực hiện sự đoàn kết quốc dân để làm cho nước Việt Nam được độc lập,
thống nhất, dân chủ, phú cường. Hội ra đời tạo điều kiện mới để đoàn kết và tranh
thủ những ai có thể tranh thủ được nhằm thống nhất lực lượng quốc gia dân tộc,
chống chia rẽ. Lúc này, bao nhiêu thành kiến giai cấp, bao nhiêu phân tranh Đảng
phái, bao nhiêu đố kỵ về tôn giáo và nòi giống phải hất văng ra khỏi con đường
tiến triển của dân tộc Việt Nam. Thống nhất dân tộc là một vũ khí sắc bén chống
lại kẻ thù dân tộc. Vũ khí ấy, ta phải giữ lấy như một của báu…Lúc này bí quyết

của sự thành công là ở tinh thần đoàn kết. Đây là mặt sáng tạo mới về đại đoàn kết
dân tộc, dân chủ được thành lập trong cả nước, song lại đứng trước một tình thế
hiếm nghèo như ''ngàn cân treo sợi tóc'' và phải bước vào cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp trong tương quan đối sánh lực lượng giữa ta và địch như ''châu chấu
đá voi”, nhưng cuối cùng ta đã thắng, địch đã thua.
Trong cuộc chiến đấu chống Mĩ cứu nước, Hồ Chí Minh đã giương cao ngọn cờ
''Không có gì quý hơn độc lập, tự do'' và chiến lược đại đoàn kết dân tộc để đẩy
mạnh cuộc cách mạng ở miền Nam, thống nhất đất nước. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam đã ra đời, kế tục sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc của Mặt trận Liên Việt.
Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đã được thành lập nhằm tạo
điều kiện để mở rộng khối đoàn kết dân tộc dưới ngọn cờ của Mặt trận. Đầu năm
1968, Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình miền Nam Việt Nam
ra đời. Đây là một tổ chức thích hợp để thu hút các tầng lớp trung gian và thượng
lưu ở thành thị miền Nam vào khối đại đoàn kết dân tộc chống Mĩ cứu nước.


Trải qua hơn 20 năm chiến đấu, cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã thắng lợi
hoàn toàn. Non sông đã thu về một mối. Năm 1976, các tổ chức Mặt trận trong cả
nước đã được thống nhất lại thành một mặt trận chung lấy tên là Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, thực hiện sứ mạng đại đoàn kết dân tộc, cùng nhau xây dựng lại đất
nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, làm cho Việt Nam thành một quốc gia
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
3. Sau khi cách mạng thành công, nhà nước của dân, do dân tộc và vì dân tộc được
thành lập, chiến lược đại đoàn kết quốc gia dân tộc không chỉ được thực thi bằng
cách tập hợp lực lượng quần chúng rộng rãi, phong phú về nội dung và hình thức
tổ chức mà còn phải liên hiệp quốc dân ở trong Quốc hội, cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan hành chính cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Hồ Chí Minh đề xuất và tổ chức
thành công Quốc dân đại hội Tân Trào, lập ra Uỷ ban Giải phóng Dân tộc tháng 8
năm 1945 trong đêm trước cuộc Tổng khởi nghĩa, đặc biệt là tổ chức cuộc Tổng

tuyển cử toàn dân vào tháng 1 năm 1946, để bầu ra quốc hội đầu tiên của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Quốc hội của độc lập dân tộc, thống nhất đất nước
và của đại đoàn kết toàn dân, và quốc hội đã lập chính phủ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà 1à một chính phủ chung của cả dân tộc chứ không phải là chính phủ
riêng của một đảng phái, một giai cấp nào. Đây cũng là một điển hình thành công
sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong tổ chức nhà nước Pháp
quyền của dân tộc, do dân tộc và vì dân tộc, là một bài học vô cùng quý báu của
việc thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực xây
dựng, tổ chức nhà nước.
Để khối đại đoàn kết dân tộc được vững bền, Hồ Chí Minh chủ trương sau khi có
chính quyền, chính phủ phải triển khai mới hoạt động của mình trên tất cả các lĩnh
vực của chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. . . “Chính phủ tỏ rõ một ý muốn duy
nhất làm sao đem lại cho dân chúng được tự do độc lập hoàn toàn và để cho tất cả
mọi phần tử quốc dân được hưởng tự do, độc lập ấy như muôn vật được hưởng ánh
ngặt trời"
Khi một chính phủ, một Nhà nước thực sự là của dân tộc, do dân tộc và vì dân tộc
phấn đấu vì lợi ích tối cao của quốc dân là độc lập, tự do và sớm mang lại quyền
lợi cho toàn dân trước mắt và cả mai sau thì toàn dân sẽ gắn bó đại đoàn kết thành
một khối để bảo vệ sự trường tồn của nhà nước, của dân tộc và cũng là bảo vệ lợi


ích chân chính của mình và con cháu mình mai sau.
Chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp lực lượng quần chúng rộng rãi trong
các hội quần chúng và Mặt trận dân tộc thống nhất qua các thời kỳ lịch sử khác
nhau được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hồ Chí Minh cũng nêu rõ: ''Đảng không
thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình mà phải tỏ rõ ra là một bộ
phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thành nhất. Chỉ trong đấu tranh và
công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và
năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo''. (5)
Hồ Chí Minh đã thực thi thắng lợi chiến lược đại đoàn kết dân tộc do Đảng Cộng

sản là người lãnh đạo duy nhất chính vì Người đã thành công trong việc sáng lập
và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng đạo đức và văn minh, một
“Đảng hiện thân cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc, một Đảng cách
mạng tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc Việt
Nam”.
Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều luôn
luôn tiềm ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và
phát triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam, thực
thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực
lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập
thể và cá nhân trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng cốt do Đảng
Cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn
dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý
nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại Cập nhật: 21/4/2008


Kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh
thời đại là một nội
dung lớn của tư tưởng
Hồ Chí Minh. Vì vậy
trong xây dựng và bảo
vệ đất nước hiện nay
nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh về kết
Phóng viên báo Bắc Kạn tham dự

hợp sức mạnh dân tộc
cuộc thi "Bác Hồ người là niềm tin
với sức mạnh thời đại
tất thắng" ảnh H.T
là một yêu cầu quan
trọng.
Nhân dân ta có lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và
giữ nước. Trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lược
cũng như trong lao động sản xuất nhân dân Việt Nam
đã thể hiện tinh thần chiến đấu ngoan cường, sự thông
minh sáng tạo, ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường.
Trong truyền thống dân tộc ấy Hồ Chí Minh nhìn thấy
nổi bật lên sức mạnh của lòng yêu nước. Tinh thần yêu
nước của nhân dân Việt Nam có những đặc điểm riêng
biệt, đặc sắc, vì phải luôn luôn đối đầu với nhiều khó
khăn của tự nhiên và chiến tranh xâm lượư, sự đô hộ
của kẻ thù từ nhiều phương kéo đến. Lòng yêu nước
Việt Nam đã trở thành sức mạnh, một thứ đạo lý, một
lẽ sống của mỗi người dân, cũng là một tiêu chí cao
nhất để đánh giá con người trong xã hội ta. Hồ Chí
Minh xác định con đường cứu nước đúng đắn để giải
phóng dân tộc đã phát huy lòng yêu nước truyền thống
và nâng thành lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa. Tinh
thần, ý chí độc lập, tự chủ, tự cường và lòng yêu nước
phát huy được sức mạnh to lớn, tạo nên truyền thống
đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân. Hồ Chí Minh đã
làm nổi bật sức mạnh của con người Việt Nam, đó là
sức mạnh thể lực và trí tuệ, sức mạnh của bề dày lịch
sử và trong cuộc đấu tranh hiện tại, sức mạnh của sự
thông minh và dũng cảm, của lòng tin chân chính

không gì lay chuyển. Sức mạnh ấy bền vững và được
nhân lên nhiều lần dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản


Việt Nam.
Thời đại của chúng ta mở đầu bằng Cách mạng tháng
Mười Nga 1917. Cuộc cách mạng này đã mở ra con
đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở
đầu thời đại mới trong lịch sử. Theo Hồ Chí Minh sức
mạnh thời đại là sức mạnh của giai cấp vô sản thế giới,
của nhân dân lao động thế giới. Trong quá trình nhận
thức và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-lênin vào
hoàn cảnh cụ thể của Vịêt Nam, Hồ Chí Minh nhận
thấy phải dựa vào sức mạnh của dân tộc là chủ yếu,
đồng thời phải khai thác sức mạnh của thời đại. Những
nội dung, nguyên tắc về kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại là một bộ phận quan trọng của tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Thời đại ngày nay, đặc biệt là giai đoạn hiện nay đang
diễn ra một cuộc đấu tranh gay gắt trên mặt trận tư
tưởng cũng như về hoạt động thực tiễn mà chúng ta
cần nhận thức đúng đắn để tiến hành những hoạt động
quốc tế phù hợp phục vụ sự nghiệp xây dựng CNXH
và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Do vậy phải giáo dục cho
nhân dân có được niềm tin về lý tưởng XHCN trong
điều kiện thế giới có nhiều biến đổi. Cần phải xử lý
nghiêm minh, công bằng đối với những hành vi vi
phạm pháp luật làm suy thoái tư tưởng, băng hoại đạo
đức xã hội. Hội nhập quốc tế mà không được chệch
hướng XHCN, bảo đảm mục tiêu xây dựng một nước

Việt Nam hoà bình, thốnh nhât, độc lập, dân chủ, gìau
mạnh và góp phần xứng đáng vào cách mạng thế giới.
Không ngừng bảo vệ và pháy huy bản sắc văn hóa
truyền thống của dân tộc, làm cho bản sắc văn hoá
được giữ vững và phát triển. Giữ vững tinh thần độc
lập tự chủ trong tiếp thu sức mạnh bên ngoài, kết hợp
sức mạnh trong nước. Việc giáo dục tinh thần yêu
nước, lòng tự hào dân tộc chính đáng, ý thức bảo vệ
văn hoá dân tộc, tiếp thu có chọn lọc văn hoá nước
ngoài là những yêu cầu cấp thiết được đặt ra đối với
việc “mở cửa”. Công tác đối ngoại được xác định có
vai trò quan trọng đối với việc kết hợp sức mạnh dân


tộc với sức mạnh của thời đại.
Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại là một bộ phận quan trọng của tư tưởng Hồ
Chí Minh. Tư tưởng đó được vận dụng và phát triển
trong thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Nội dung cuả tư tưởng này rất phong phú,
sâu sắc về thời đại, về sự kết hợp các sức mạnh này
trong thực tiễn đấu tranh. Tư tưởng của Người còn
thấm đượm chủ nghĩa nhân văn sâu sắc, tính cách
mạng triệt để nên ảnh hưởng to lớn đến cuộc đấu tranh
lâu dài cho nhân dân các nước vì sư nghiệp”Giảiphóng
dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người”./.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
16:43', 2/11/ 2003 (GMT+7)


Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội
(CNXH) bao gồm:
Một là, CNXH là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy
quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của
nhân dân vào sự nghiệp xây dựng CNXH.
Hai là, CNXH có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao
động.
Ba là, CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người
với người là bè bạn, là đồng chí, là anh em, con người được giải phóng khỏi
áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều
kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
Bốn là, CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều,
làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, các dân tộc bình đẳng, miền núi tiến
kịp miền xuôi.


Năm là, CNXH là một công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây
dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ xuất phát từ quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin và từ tình hình thực tiễn của Việt Nam:
Trước hết, Hồ Chí Minh đã lưu ý chúng ta cần nhận thức rõ tính quy luật
chung và đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước để nhận rõ đặc trưng tính chất
của thời kỳ quá độ của Việt Nam đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam, trong đó đặc điểm bao trùm to nhất là từ một nước nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không kinh qua giai đoạn phát triển tư

bản chủ nghĩa. Đặc điểm này thâu tóm đầy đủ những mâu thuẫn, khó khăn,
phức tạp, chi phối toàn bộ tiến trình quá độ lên CNXH ở nước ta, từ đó phải
tìm ra con đường với những hình thức, bước đi và cách làm phù hợp với đặc
điểm Việt Nam.
Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, Người nói "Chúng ta phải xây dựng
nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH, đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH,
có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến.
Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế
cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu
dài".
Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi CNXH ở Việt Nam, Hồ Chí
Minh chỉ rõ phải: Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng
cao vai trò quản lý của Nhà nước; Phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ
chức chính trị- xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
16:23', 28/10/ 2003 (GMT+7)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản
được thể hiện trên những luận điểm cơ bản sau đây:
Một là, độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân
tộc.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ nước.


Tinh thần yêu nước luôn luôn đứng ở hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần
truyền thống Việt Nam. Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất trên
đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Như Hồ Chí Minh đã từng
nói: "Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi

được độc lập...". Hồ Chí Minh là người đã đưa ra chân lý bất hủ, có giá trị cho
mọi thời đại: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Đó không chỉ là lý tưởng
mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh, là lý do chiến
đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng, nguồn động viên đối với các
dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Hai là, kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước.
Xuất phát từ vị trí của người dân thuộc địa mất nước, từ truyền thống dân tộc
Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực lớn mà những
người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để rơi vào tay giai cấp nào
khác, phải nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng này vừa phản ánh
quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách
mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng
dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đến Hồ
Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu
nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc. Hồ Chí
Minh đã khẳng định: Quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm của
các dân tộc, "dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do". Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh
cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân
tộc bị áp bức. Chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng ở Hồ Chí Minh.


Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng con người
15:56', 26/10/ 2003 (GMT+7)

Có thể nói, hạt nhân của tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung cốt lõi của tư tưởng
Hồ Chí Minh là giải phóng con người và mưu cầu hạnh phúc cho hết thảy mọi
người trên trái đất. Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp
cũng là nhằm mục tiêu giải phóng con người. Người quan niệm, giải phóng
dân tộc cũng là nhằm để dân có tự do, hạnh phúc, "nếu nước độc lập mà dân
không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì".
Theo Người, xây dựng chủ nghĩa xã hội không chỉ là điều kiện để bảo đảm
cho nền độc lập dân tộc và giải phóng giai cấp khỏi áp bức, bóc lột mà còn
chính vì "không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi
ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội
chủ nghĩa", chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát
nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn, việc làm, được ấm no và sống
một cuộc đời hạnh phúc.
Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội mang trong bản thân nó bản chất nhân
văn và văn hóa; chủ nghĩa xã hội là giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa tư
bản về mặt văn hóa và giải phóng con người. Nói văn hóa cũng tức là nói đến
con người - chủ thể của văn hóa. Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng xây dựng
con người, tình người, mối quan hệ nhân văn giữa người với người. Người
chú trọng nâng cao lý tưởng, đạo đức, văn hóa, khoa học cho con người, vì
theo Người, "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con
người xã hội chủ nghĩa". Tư tưởng "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì
lợi ích trăm năm thì phải trồng người" của Hồ Chí Minh đã thể hiện sự quan
tâm của Người đối với thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước như
thế nào, khẳng định trách nhiệm của xã hội ra sao.
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh nguồn lực con người như là nhân tố quyết định
thắng lợi của mọi cuộc cách mạng. Cũng chính vì xác định vai trò to lớn,
quyết định đó của con người mà Người luôn căn dặn, mỗi cán bộ, đảng viên
phải vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của dân; Nhà nước là Nhà
nước của dân, do dân và vì dân. Người cũng hết sức coi trọng vấn đề đại đoàn
kết toàn dân, coi đó là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công

của mọi cuộc cách mạng. Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh "Đoàn kết, đoàn


kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng giai cấp
16:17', 21/10/ 2003 (GMT+7)

Trong khi đề cao mục tiêu giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ
xa rời mục tiêu giải phóng giai cấp.
Hồ Chí Minh đã xem cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng
khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới, là một cách của cách
mạng vô sản. Khác với Mác, Ăngghen và Lênin, Hồ Chí Minh không xem
cách mạng giải phóng dân tộc phụ thuộc vào cách mạng vô sản chính quốc
mà đặt hai cuộc cách mạng này ngang hàng nhau, có mối quan hệ hữu cơ và
tác động qua lại lẫn nhau. Người còn cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc
có khả năng, điều kiện nổ ra và thành công sớm hơn cách mạng vô sản ở
chính quốc và giúp cho cách mạng vô sản ở chính quốc giành thắng lợi. Đây
là điểm mấu chốt trong việc phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về
vấn đề giải phóng giai cấp và cách mạng vô sản trong điều kiện mới của chủ
nghĩa đế quốc.
Hồ Chí Minh đã xuất phát từ tình hình thực tế ở các nước thuộc địa phương
Đông lúc bấy giờ, trong đó có Việt Nam, để xác định đúng đắn nhiệm vụ lúc
này không phải là làm ngay một cuộc cách mạng vô sản, mà trước hết là phải
đấu tranh giành lại độc lập, có độc lập dân tộc rồi mới có địa bàn để làm cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Người cho rằng trong điều kiện một nước thuộc địa
thì giải phóng giai cấp gắn bó chặt chẽ với giải phóng dân tộc. Giải phóng
dân tộc là động lực lớn mà người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, là một
bước quan trọng để tiến tới giải phóng giai cấp. Cách mạng giải phóng dân
tộc là điều kiện để tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa và góp phần thiết

thực vào sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản trên thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân
tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít
giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải
phóng con người


Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc
17:0', 19/10/ 2003 (GMT+7)
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc có thể tóm tắt
thành một hệ thống luận điểm sau đây:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi
theo con đường của cách mạng vô sản. Từ đầu những năm 20
thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: Chủ nghĩa đế quốc là
một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám
vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc, phải đồng thời
Chủ tịch Hồ cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô
sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa;
Chí Minh
phải xem cách mạng ở thuộc địa như là "một trong những cái
cánh của cách mạng vô sản"; mặt khác, cách mạng giải phóng dân tộc muốn
thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
Hai là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai
cấp công nhân lãnh đạo.
Nguyễn Ái Quốc đã sớm khẳng định: muốn giải phóng dân tộc thành công
"trước hết phải có đảng cách mệnh", "Đảng có vững cách mệnh mới thành
công", "Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt" - đó là chủ nghĩa
Lênin.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên

cơ sở liên minh công-nông. Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng giải phóng dân
tộc "là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một, hai người", vì vậy
phải đoàn kết toàn dân, "sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường
quyền". Nhưng trong sự tập hợp đó, phải nhớ "công-nông là người chủ cách
mệnh"... "công-nông là gốc cách mệnh".
Bốn là, cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo
và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Đây là
một luận điểm mới và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Trong phong trào cộng sản


quốc tế lúc bấy giờ đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng
thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản chính quốc.
Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế
quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần
dân tộc, ngay từ năm 1924, Người đã sớm cho rằng cách mạng thuộc địa
không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể
giành thắng lợi trước. Đây là một cống hiến rất quan trọng vào kho tàng lý
luận Mác - Lênin, đã được thắng lợi của cách mạng Việt Nam chứng minh là
hoàn toàn đúng đắn.
Năm là, cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường
bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang
của nhân dân. Ngay từ năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam
kỳ, Nguyễn Ái Quốc đã nói đến khả năng khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương.
Theo Người, "Để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông
Dương... phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng...".
Đến tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương 8 do Người chủ trì đã đưa ra nhận
định: "Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa
võ trang".
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của
Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, sáng

tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành
cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa



×