Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Hình thành một số kiến thức mới bằng giải bài tập trong dạy học vật lí ở trường trung học phổ thông (LV00420)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.23 KB, 111 trang )

-1-

Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Ngày 12- 8- 1991, nhà nước thông qua luật phổ cập giáo dục tiểu học,
chuyển cấp I sang bậc tiểu học, xác định đây không phải là giai đoạn chuẩn bị
mà là bậc học đầu tiên, hoàn chỉnh tương đối để chuẩn bị cho một bộ phận trẻ
em bước vào cuộc sống.
Bậc tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục phổ thông.
Các em là những người lao động trong thế kỷ mới, sẽ là những người quyết
định việc đất nước ta sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới. Trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi giáo dục đào tạo nói
chung và trường tiểu học nói riêng phải có những mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ
phù hợp với xu thế phát triển của đất nước.
Để thực hiện được những nhiêm vụ này, người giáo viên tiểu học giống
như một ông thầy tổng thể, vừa biết truyền cho học sinh những tri thức của
nhân loại, vừa là một người thợ khéo léo, biết uốn nắn, sửa chữa những thiếu
xót cho các em, giúp các em trở thành những con người phát triển toàn diện.
Đi học ở trường tiểu học là bước ngoặt trong đời sống của trẻ đã mở ra
cánh cửa diệu kỳ đầy bí ẩn, đưa các em đến thăm một thế giới mới lạ với biết
bao tri thức mới. Có nhiều môn học mà trẻ phải làm quen trong đó có môn
Tiếng Việt với phân môn như : Chính tả, tập viết, kể chuyện, tập đọc, tập làm
văn

Với nhiệm vụ giúp học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để sử dụng

trong học tập và giao tiếp.
Tập đọc là một phân môn của chương trình Tiếng Việt. Đây là một phân
môn có vị trí đặc biệt trong chương trình, vì nó đảm nhiệm việc hình thành và
phát triển cho học sinh kỹ năng đọc, kỹ năng quan trọng hàng đầu của học
sinh ở bậc học đầu tiên trong chương trình phổ thông. Môn học này đóng vai




-2trò quan trọng trong việc hình thành những phẩm chất, năng lực đạo đức của
con người.
Phương pháp tổ chức trò chơi học tập được coi là một trong những
phương pháp dạy học tích cực. Phương pháp này được sử dụng khá phổ biến,
để tổ chức cho học sinh học tập có hiệu quả ở nhiều môn học trong chương
trình tiểu học như môn toán, tiếng Việt, tự nhiên xã hội, đạo đức,

Sử dụng

trò chơi trong dạy học, không phải là vấn đề mới.
Khổng Tử đã từng dạy học trò rằng: Biết mà học không bằng thích mà
học, thích mà học không bằng vui say mà học.Vì vậy một trong những giải
pháp đảm bảo sự thành công trong dạy học cho học sinh tiểu học là tạo được
sự hứng thú nhận thức cho các em. Trò chơi với tính hấp dẫn tự thân của mình
có một tiềm năng lớn để trở thành một phương tiện dạy học hiệu quả, kích
thích sự hứng thú nhận thức, niềm say mê học tập và tính tích cực sáng tạo ở
học sinh.
Trong thực tế, phân môn tập đọc ngày càng được quan tâm, chú ý.
Nhiều chương trình mới được xây dựng, nhiều phương pháp và hình thức dạy
học mới được nghiên cứu và ứng dụng đã mang lại những hiệu qủa giáo dục
đáng trân trọng. Tuy nhiên, người giáo viên tiểu học phần lớn mới chỉ chú ý
đến việc bằng mọi cách cung cấp hết kiến thức trong sách giáo khoa mà ít
quan tâm đến thái độ cảm xúc của trẻ, chính vì vậy nhiều tiết học đã trở nên
nặng nề, mệt mỏi đối với học sinh. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi áp lực
do đòi hỏi từ phía xã hội, gia đình, nhà trường lên đứa trẻ ngày càng lớn, thì
ngày càng xuất hiện những học sinh sợ mà học chứ không phải thích mà học.
Để khắc phục nhược điểm này, cũng có một số giáo viên đã đưa trò chơi vào
trong dạy học và giáo dục, tuy nhiên do các trò chơi thiếu tính hấp dẫn và

chưa có tổ chức thích hợp nên đã không có được hiệu quả dạy học như mong
muốn.


-3Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi đã chọn đề tài:
chơi cho học sinh trong dạy học môn tập đọc ở trường tiểu học

Tổ chức trò
.

2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận và thực tiễn việc sử dụng phương pháp tổ chức trò
chơi.
- Tìm ra phương pháp, tổ chức những trò chơi hợp lý,để vận dụng chúng
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn tập đọc ở trường tiểu học.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các trò chơi trong dạy học môn tập đọc và cách
thực hiện các trò chơi.
- Phạm vi nghiên cứu: Tìm hiểu thực trạng tổ chức trò chơi trong dạy học
môn tập đọc và thiết kế trò chơi đề xuất biện pháp tổ chức, xây dựng quy trình
tổ chức trò chơi trong môn tập đọc. Luận văn tiến hành khảo sát thực trạng tổ
chức trò chơi trong giờ tập đọc tại ba trường tiểu học ở khu vực thị xã Phúc
Yên tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống, một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài : Việc dạy học
môn tập đọc ở trường tiểu học, đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học, lý
luận về trò chơi, trò chơi học tập, trò chơi trong dạy học môn tập đọc làm
sáng tỏ về vai trò, ý nghĩa tổ chức các trò chơi trong dạy học môn tập đọc ở
tiểu học.
- Khảo sát thực trạng việc sử dụng trò chơi dạy học trong môn tập đọc.

- Đề xuất biện pháp và quy trình tổ chức trò chơi dạy học trong môn tập đọc
- Tổ chức thực nghiệm Sư phạm để kiểm nghiệm hiệu quả, việc sử dụng phương pháp
trò chơi trong dạy học môn tập đọc.


-45. Phương pháp nghiên cứu
Phân tích, so sánh, phỏng vấn.
- Quan sát: quan sát và ghi chép để nhận xét đánh giá về cách sử
dụng trò chơi trong dạy học môn tập đọc của giáo viên.
- Điều tra: Điều tra bằng phiếu để tìm hiểu thực trạng sử dụng trò
chơi trong giờ tập đọc.
- Đàm thoại: Trao đổi với các giáo viên đế tìm hiểu về nhận thức, thực
trạng sử dụng trò chơi trong giờ tập đọc.
- Thử nghiệm sư phạm: Thử nghiệm một số tiết học có sử dụng trò
chơi theo đúng cách thức đã đề ra để chứng minh tính đúng đắn của giả thuyết
khoa học.
6. Giả thuyết khoa học
Trò chơi học tập là trò chơi có mục đích học tâp rõ rệt. Trong khi chơi các
trò chơi này, học sinh sẽ tiếp nhận và thực hiện các nhiệm vụ học tập một cách
nhẹ nhàng, thoải mái. Nếu ta lựa chọn, thiết kế được các trò chơi hấp dẫn để
sử dụng hợp lí trong dạy học môn tập đọc ở TH, thì hiệu quả giờ tập đọc nhất
định sẽ được nâng cao, HS sẽ ham thích học hơn.


-5-

NộI DUNG
CHƯƠNG 1: Cơ Sở lí luận
1.1. khái niệm về phương pháp dạy học và hình thức tổ chức dạy học
1.1.1. Khái niệm phương pháp dạy học

* Khái niệm phương pháp:
Theo Heghen: Phương pháp là ý thức về hình thức của sự tự vận động
bên trong của nội dung [9,6].
Theo Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt: Phương pháp là con đường, cách
thức để đạt được mục đích nhất định [7, 227].
Theo Hoàng Phê: Phương pháp là cách thức nhận thức, nghiên cứu
hiện tượng của tự nhiên và đời sông xã hội [8 ,793].
Còn nhiều quan niệm khác nhau nữa về phương pháp, tuy nhiên các tác
giả đều cho rằng phương pháp là cách thức, con đường để thực hiện một mục
đích nào đó. Do vậy, chúng tôi đồng ý với quan niệm của tác giả Hà Thế Ngữ
và Đặng Vũ Hoạt về định nghĩa phương pháp như sau: Phương pháp là con
đường, cách thức để đạt được mục đích nhất định .
* Khái niệm phương pháp dạy học
Theo Đi a chen - co: Phương pháp dạy học là hệ thống những
hành động có mục đích của giáo viên, nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và
thực hành của học sinh, đảm bảo học sinh lĩnh hội nội dung học vấn [5,28].
Theo Phan Trọng Ngọ: Định nghĩa chung nhất về phương pháp dạy học
là những con đường, cách thức tiến hành dạy học [5,145 ].
Theo Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt: Phương pháp dạy học là tổ hợp
cách thức hoạt động của cả thầy và trò trong quá trình dạy học, mà thầy và trò
sử dụng để đạt được mục đích dạy học [7 ,229 ].
Theo Nguyễn Ngọc Quang: Phương pháp dạy học là cách thức làm
việc của thầy và trò trong sự phối hợp thống nhất dưới sự chỉ đạo của thầy,
nhằm làm cho trò tự giác, tích cực, tự lực đạt tới mục đích dạy học. [9 ,23].


-6Mỗi một nhà giáo dục lại có những quan niệm khác nhau về phương
pháp dạy học, theo cách hiểu của Đi - ô - chen - co phản ánh những quan
niệm cũ về vai trò của người giáo viên trong quá trình dạy học, theo đó giáo
viên là nhân vật trung tâm, chủ đạo, học sinh thụ động thực hiện những điều

thầy dạy. Quan niệm của Phan Trọng Ngọ, Đặng vũ hoạt, Hà Thế Ngữ và
Nguyễn Ngọc Quang có những nét tương đồng khi cho rằng đó là cách thức
phối hợp của cả thầy và trò nhằm đạt được mục đích dạy học. Như vậy quan
niệm về phương pháp dạy học này phù hợp với quan điểm dạy học lấy người
học làm trung tâm, chúng tôi đồng ý với quan điểm của hai tác giả Hà Thế
ngữ và Đặng vũ Hoạt cho rằng:

Phương pháp dạy học là tổ hợp cách thức

hoạt động của cả thầy và trò trong quá trình dạy học, mà thầy và trò sử
dụng để đạt được mục đích dạy học .
1.1.2. Khái niệm về hình thức tổ chức dạy học
* Khái niệm hình thức tổ chức dạy học
Theo quan điểm công nghệ dạy học, quá trình dạy học tồn tại như một
quy trình công nghệ đặc biệt. Đó là quy trình tổ chức, điều khiển và quy trình
tự tổ chức, tự điều khiển của người dạy và người học nhằm thực hiện tối ưu
các nhiệm vụ dạy học. Từ quan điểm đó chúng ta xem xét các hình thức tổ
chức dạy học như: hình thức tác động qua lại giữa hoạt động dạy và hoạt động
học, giữa thầy và trò. Trong đó, các thành tố: mục đích, nhiệm vụ dạy học, nội
dung, phương pháp, phương tiện dạy học được thực hiện với phương pháp tối
ưu nhất.
Như vậy, hình thức tổ chức dạy học là hình thức tổ chức hoạt động dạy
học được tiến hành theo một trật tự và chế độ nhất định. Trong quá trình đó
hoạt động dạy và hoạt động học thống nhất biện chứng với nhau. Trong thực
tiễn dạy học, tồn tại nhiều hình thức tổ chức dạy học khác nhau, tuỳ theo mối
quan hệ giữa hoạt động dạy và học có tính cá nhân hay theo tập thể, tuỳ theo
phương thức tổ chức, điều khiển của người dạy và mức độ hoạt động tích cực,


-7độc lập sáng tạo của người học mà các hình thức tổ chức dạy học được diễn

ra như thế nào cho phù hợp với đặc điểm hoạt động dạy học với các điều kiện
về thời gian, không gian và các phương tiện dạy học cho phép.
* Các hình thức tổ chức dạy học
Cho tới nay các tài liệu về lí luận dạy học chưa có sự nhất trí hoàn toàn
về các hình thức tổ chức dạy học. Tuy nhiên, dựa theo lịch sử phát triển của
các hình thức tổ chức dạy học nói chung và kinh nghiệm thực tiễn trong các
hình thức hiện nay, chúng ta có thể kể tới các hình thức tổ chức dạy học cơ
bản sau: Hình thức lên lớp, trò chơi, kể chuyện, tự học, thực hành, thảo luận,
xemina, giúp đỡ riêng ( phụ đạo ), ngoại khoá, tham quan, nghiên cứu khoa
học trong các hình thức tổ chức dạy học kể trên, lên lớp là hình thức dạy học
cơ bản nhất. Hoạt động học tập được tiến hành chung cho cả lớp gồm một số
người học nhất định phù hợp với khả năng bao quát của giáo viên. Những
người học này thuộc cùng lứa tuổi, có trình độ nhận thức tương đương, đảm
bảo cho hoạt động giảng dạy được tiến hành phù hợp với trình độ chung của
cả lớp. Hoạt động dạy và học được tiến hành theo từng tiết học, thời gian của
các tiết học được quy định phù hợp với trình độ nhận thức của người học. Các
tiết học được sắp xếp theo một trình tự khoa học, phù hợp với trình độ phát
triển của người học. Trong các lớp học, giáo viên trực tiếp tổ chức, điều khiển
nhằm phát huy tính tích cực nhận thức của người học. Trong quá trình chiếm
lĩnh tri thức và các kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. Hình thức trên lớp có những ưu
điểm cơ bản là tạo điều kiện đào tạo hàng loạt học sinh đáp ứng yêu cầu phổ
cập giáo dục và đào tạo cán bộ cho đất nước. Mặt khác, hình thức lên lớp đảm
bảo cho việc lĩnh hội tri thức và các kỹ năng, kỹ xảo được tiến hành một cách
có kế hoạch, có hệ thống phù hợp với những yêu cầu giáo dục và tạo điều kiện
phát triển nhân cách đối với người học. Tuy nhiên, hình thức lên lớp vẫn còn
có những nhược điểm, những hạn chế nhất định như, giáo viên lên lớp với số
lượng HS rất đông, không đủ thời gian để quan tâm tới từng cá nhân người


-8học, không có điều kiện để thoả mãn nhu cầu nhận thức sâu sắc những tri thức

vượt ra ngoài chương trình. Cho nên việc cá biệt hoá, cá nhân hoá hoạt động
dạy học khó thực hiện. Vì những ưu và nhược điểm trên, thì hình thức lên lớp
là hình thức dạy học cơ bản, song không phải là hình thức dạy học duy nhất.
Bởi vậy, nó cần bổ sung bởi các hình thức tổ chức dạy học khác.
1.1.3.Mối quan hệ giữa phương pháp dạy học và hình thức tổ chức dạy học
Sự thành công của việc dạy học phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trước hết
phải nói tới việc xác định đúng đắn mục tiêu và nội dung dạy học. Tiếp sau đó
là vai trò có tính chất quyết định của biện pháp đạt tới mục tiêu, nghĩa là
phương pháp dạy học và hình thức tổ chức dạy học.
Phương pháp dạy học là tổ hợp các cách thức hoạt động của cả thầy và
trò trong quá trình dạy học, được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của thầy nhằm
thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học.
Hình thức tổ chức dạy học hay phương pháp dạy học nào cùng đều xuất
phát từ một mục đích, hay nhiệm vụ dạy học cần đạt. Chúng đều là hệ thống
các hoạt động có mục đích nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành
của HS, bảo đảm cho HS lĩnh hội nội dung trí thức một cách tốt nhất.
Mỗi hình thức tổ chức dạy học thường gắn liền với một số phương pháp
dạy học nhất định là yếu tố vô cùng quan trọng tạo nên hiệu quả của các
phương pháp dạy học đó. Khi các hình thức tổ chức dạy học (hoạt động nội
khoá và hoạt động ngoại khoá ) thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của các
phương pháp dạy học. Nếu hình thức dạy học chủ yếu hiện nay ở tiểu học là
hình thức lên lớp, gắn liền với hình thức này giáo viên thường sử dụng các
phương pháp dạy học khác nhau trong giờ lên lớp như: thuyết minh, trực quan,
vấn đáp, thực hành, dạy học nêu vấn đề, kiểm tra,

thì khi hình thức dạy học

thay đổi như thảo luận nhóm, tự học cá nhân, lúc đó phương pháp dạy học phù
hợp là luyện tập, làm việc độc lập với sách; khi hình thức tổ chức dạy học là
tham quan ngoại khoá thì phương pháp dạy học được sử dụng là trực quan,



-9Trong đó phương pháp quan sát của người học dưới vai trò chỉ đạo của giáo
viên đóng vai trò chủ yếu
Trong mỗi hình thức tổ chức dạy học lại có những hình thức cụ thể nói
lên đặc điểm mối quan hệ, sự gắn bó mật thiết và quy định lẫn nhau giữa hình
thức tổ chức và phương pháp dạy học. Cụ thể với hình thức tổ chức dạy học
theo nhóm ở tiểu học. Cụ thể với hình thức tổ chức dạy học theo nhóm ở tiểu
học có thể tổ thức theo: nhóm nhỏ cùng thảo luận, nhóm theo sở thích, nhóm
theo biểu tượng, nhóm theo cặp,

Mỗi kiểm nhóm đó lại có thể áp dụng các

phương pháp dạy học cụ thể nhằm tăng hiệu quả, chất lượng dạy học. Ví dụ
nhóm nhỏ cùng thảo luận có thẻ áp dụng các phương pháp: luyện tập, nêu và
giải quyết vấn đề,.. Nhóm theo sở thích có thể dùng phương pháp luyện tập,
thảo luận, vao trò,

Nhóm theo biểu tượng có thể áp dụng phương pháp: thảo

luận, luyện tập, ôn tập, trò chơi,
Cho nên trong quá trình học có thể có nhiều phương pháp và hình thức
để chuyển tải cùng một nội dung nhưng ta phải lựa chọn phương pháp sao cho
phù hợp với hình thức tổ chức dạy học và phải sử dụng linh hoạt, phối hợp
nhiều phương pháp, nhiều hình thức tổ chức khác nhau. Có như vậy mới phát
huy được thế mạnh và hạn chế, khắc phục được những nhược điểm của chúng
đồng thời mang lại hiệu quả giáo dục như mong muốn.


- 10 1.2. Phương pháp tổ chức trò chơi cho học sinh trong dạy học môn tập

đọc.
1.2.1. Lịch sử phương pháp trò chơi
Ngay từ thế kỷ XVIII nhà tâm lý học người Pháp J.J. Rútxô đã nhận xét:
Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại và người lớn cũng không phải lúc
nào cũng có thể hiểu được trí tuệ, nguyện vọng và tình cảm độc đáo của trẻ
thơ vì Trẻ em có những cách nhìn, cách suy nghĩ và cảm nhận riêng của nó
J.Piaget (ngi phỏp) rất quan tâm và ủng hộ luận điểm Thông qua
hoạt động vui chơi để tiến hành hoạt động học tập của ông được triệt để khai
thác trong các nhà trường tiểu học hiện nay.
Năm 1974, trên tạp chí văn học trường Matcơva tác giả B.C.Gie-nhi
xloai - a cho rằng: Chúng ta không phải tạo ra cho trẻ thì giờ để chơi mà còn
phải làm cho toàn bộ cuộc sống của trẻ được nuôi dưỡng bằng trò chơi(7,
Tr3).
Năm 1999, nhà xuất bản Meadowbook (Anh) đã xuất bản cuốn
Phương pháp giúp trẻ chơi mà học (Biên dịch Mạnh Linh - Minh Đức NXB phụ nữ ) của tác giả Penny Warner, cuốn sách đã được tác giả nghiên
cứu và viết về trò chơi học tập trong đó mỗi trò chơi có hướng dẫn từng bước,
liệt kê các kĩ năng mà trẻ học được qua mỗi trò chơi. (7,tr3).
Vấn đề lý luận về trò chơi học tập và tổ chức cho trẻ chơi, trò chơi này
được các nhà sư phạm trên thế giới cũng như ở nước ta quan tâm, bởi lẽ họ đã
tìm thấy ý nghĩa đích thực của trò chơi học tập trong việc giáo dục và dạy học
cho trẻ. Tuy nhiên, trong các hệ thống giáo dục cổ điển và hiện đại về vấn đề
này được xem xét nghiên cứu theo những khuynh hướng khác nhau .
* Khuynh hướng thứ nhất: Nghiên cứu và sử dụng trò chơi học tập vào
mục đích giáo dục, phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ. (N.K.Crupxkaia;
I.A Kômenxki;

Đ. Lokk; J.J. Rutxô, Sáclơ Phuriê, Robert Owen; A.X.

Macarencô, E.I. Chikhieva; ).



- 11 Các nhà khoa học đã bỏ nhiều công sức về trò chơi học tập, họ chỉ ra
vai trò của trò chơi học tập trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ
Theo nhà sư phạm nổi tiếng N.K Crupxkaia thì Trò chơi học tập không
những là phương thức nhận biết thế giới, là con đường dẫn dắt trẻ em đi tìm
chân lý mà còn giúp trẻ xích lại gần nhau, giáo dục cho trẻ tình yêu quê
hương, lòng tự hào dân tộc. Trẻ em không chỉ học trong lúc học mà còn học
trong lúc chơi. chơi với trẻ vừa là học,vừa là lao động, vừa là hình thức giáo
dục nghiêm túc. Còn nhà sư phạm E.I Chikhieva cho rằng Trò chơi học tập
đẩy mạnh sự phát triển chung của trẻ, nó giúp trẻ xích lại gần nhau, phát huy
tính độc lập của chúng nếu cô giáo biết cách tổ chức hướng dẫn loại trò chơi
này một cách khéo léo và sinh động thì trẻ rất thích thú và tràn ngập niềm vui
* Khuynh hướng thứ hai: Nghiên cứu và sử dụng trò chơi bó hẹp trong
mục đích dạy học, coi trò chơi học tập như một phương tiện dạy học. Có
nghĩa là trò chơi học tập được xác định như là một phương pháp, biện pháp
dạy học là một hình thức dạy học phù hợp với học sinh tiểu học (I.B.
Bazêđôra; Ph. Phroebel; X.G. Zalxmana; )
Theo nhà sư phạm người Đức Ph. Phroeble, trò chơi học tập phát triển
thể chất làm giàu vốn ngôn ngữ cũng như phát triển tư duy, trí tưởng tượng
của trẻ. Tuy nhiên ông xem xét trò chơi dưới góc độ duy tâm thần bí. Ông cho
rằng: trò chơi phát triển cái vốn có sẵn của trẻ em, vì thế ông đã loại bỏ khả
năng tưởng tượng, óc sáng tạo và tính tích cực của trẻ trong hoạt động vui chơi
* Khuynh hướng thứ ba: Nghiên cứu và sử dụng trò chơi học tập vào
mục đích giáo dục và phát triển một số năng lực, phẩm chất trí tuệ cho học
sinh (T.M. Babunova; A.K. Bônđarencoo; ) Theo hướng nghiên cứu này, trò
chơi học tập được xác định như một phương pháp giáo dục và phát triển tính
tích cực và tính độc lập nhận thức của học sinh.
Theo một số nhà tâm lý học phương tây, trong trò chơi học tập, người
lớn như là thang đỡ, người trợ giúp trẻ trong khi chơi mỗi giáo viên tự



- 12 mình quyết định xem có nên tham gia vào trò chơi của trẻ hay không? những
ai đã quyết định can thiệp thì phải xác định xem tiếp theo sau đó họ sẽ phải
làm gì? Tuy nhiên vẫn chưa có sự nhất quán về vai trò và mức độ ảnh hưởng
của người lớn đến vai trò của trẻ.
Các công trình nghiên cứu về trò chơi trên thế giới tập trung vào việc
nghiên cứu về lý luận sử dụng trò chơi học tập vào mục đích dạy học và giáo
dục cho học sinh tiểu học. Trên cơ sở đó, các nhà sư phạm đã cố gắng tìm
kiếm, lựa chọn nội dung và các phương pháp, biện pháp tổ chức trò chơi tuy
nhiên việc nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn giáo dục trẻ còn phụ thuộc vào
quan điểm của họ về bản chất của trò chơi.
ở Việt nam, ngoài những công trình nghiên cứu có tính lý luận về
phương pháp trò chơi nói chung, nhiều tác giả đã quan tâm đến việc sử dụng
phương pháp này trong từng môn học cụ thể. Nguyễn Thị Hoa đã đề cập một
cách khá chi tiết từ nguồn sưu tầm, sự phân loại, hướng sử dụng câu đố như
một phương tiện đặc biệt để tổ chức trò chơi học tập cho học sinh nhằm nâng
cao hiệu quả dạy và học, tạo bài giảng có sức hấp dẫn, lôi cuốn làm học sinh
say mê, phấn khởi học tập qua bài viết Sử dụng câu đố trong giảng dạy môn
Tự nhiên - Xã hội.
Tác giả Ngô Thúc Lanh đã cho xuất bản cuốn Giúp em vui học toán
1. Cuốn sách đã đưa ra những câu đố và rất nhiều trò chơi Toán học giúp các
em củng cố nội dung bài học, rèn trí thông minh, khả năng sáng tạo mà vẫn
đảm bảo Học mà vui, vui mà học.
Hay nhóm tác giả Đỗ Tiến Đạt, Trần Ngọc Lan, Phạm Thanh Tâm đã
đề cập tới các loại trò chơi theo từng nội dung bài học trong chương trình toán
1 qua cuốn 100 trò chơi học toán 1
Trong các giáo trình giáo dục học, giáo dục tiểu học, phương pháp
trò chơi luôn là phương pháp có vị trí quan trọng. Các giáo trình này đều nhấn
mạnh trò chơi là một hình thức tổ chức dạy học nhẹ nhàng, hấp dẫn lôi cuốn



- 13 học sinh vào học tập tích cực, vừa chơi, vừa học, và học có kết quả [8,240].
Giáo trình phương pháp dạy học Tiếng Việt 1 [12,72] cũng coi phương
pháp học sử dụng trò chơi là một phương pháp cơ bản để dạy học vần . Các tác
giả của giáo trình này cho rằng đó là một dạng hoạt động học tập được tiến
hành thông qua các trò chơi (chơi là phương tiện, học là mục đích ). Thực chất
trò chơi ở đây là trò chơi có mục đích và cũng khẳng định Trò chơi có tác
dụng giúp giờ học trở nên sinh động, duy trì được hứng thú của trẻ. Các em
học tập một cách chủ động , tích cực. Một số tài liệu tham khảo về trò chơi
như Trò chơi học tập tiếng Việt [17], Tổ chức hoạt động vui chơi ở tiểu học
nhằm phát triển trí tuệ và thể lực cho học sinh [16] dạy và học môn Tiếng
Việt ở tiểu học theo chương trình mới [18], cũng đã nghiên cứu một số lý
luận về tổ chức trò chơi ở tiểu học. Các tài liệu này đã trình bày về vai trò của
trò chơi trong việc thực hiện mục tiêu giáo
dục tiểu học, một số lý luận về trò chơi, những nguyên tắc và quy định lựa
chọn, tổ chức trò chơi cho học sinh tiểu học. Có thể nói đây là bước khởi đầu
cho việc đẩy mạnh tổ chức trò chơi ở trường tiểu học nói chung và phân môn
tập đọc nói riêng.
1.2.2. Hình thức tổ chức trò chơi
Trò chơi là hoạt động vui chơi mang một chủ đề, một nội dung nhất
định và có những quy định mà người tham gia phải tuân thủ:
Nếu vui chơi là một thuật ngữ chỉ dạng hoạt động giải trí tự nguyện của
mọi người tạo ra sự sảng khoái, thư giãn về thần kinh, tâm lí, thì trò chơi là sự
vui chơi có nội dung, có tổ chức của nhiều người, có quy định luật lệ mà người
tham gia phải tuân theo. Nếu vui chơi của cá nhân được tổ chức dưới dạng trò
chơi thì nó sẽ mang lại ý nghĩa giáo dục, rèn luyện đối với người chơi , đặc
biệt là đối với thiếu niên, nhi đồng và sẽ có tác dụng góp phần hình thành nên
những phẩm chất, nhân cách cho trẻ .Trò chơi là một hoạt động của con người
nhằm mục đích trước tiên và chủ yếu là vui chơi, giải trí, thư giãn sau những



- 14 giờ làm việc căng thẳng. Nhưng qua trò chơi người chơi còn có thể rèn luyện
thể lực, rèn luyện các giác quan tạo cơ hội giao lưu với mọi người cùng hợp
tác với bạn bè, đông đội trong nhóm, tổ
Trò chơi là một loại hình hoạt động sống của con người cũng như hoạt
động học tập, lao động
Trò chơi có chủ đề và nội dung nhất định, có những nội dung mà người
tham gia phải tuân thủ.
Trò chơi vừa mang tính chất vui chơi, giải trí vừa có ý nghĩa giáo dưỡng
và giáo dục lớn lao đối với con người.
* Dựa theo nguyên tắc lựa chọn và tổ chức trò chơi, chúng tôi đã xây
dựng các biện pháp lựa chọn và tổ chức trò chơi như sau:
- Giáo viên phải xây dựng được một ngân hàng trò chơi phong phú, đa
dạng và phù hợp với đối tượng học sinh. Để có được ngân hàng trò chơi đó thì
giáo viên cần sưu tầm từ các tài liệu như sách giáo viên, sách trò chơi các môn
học từ các đồng nghiệp hay tự mình thiết kế xây dựng trò chơi.
- Khi lựa chọn trò chơi trong giờ lên lớp, trước hết giáo viên phải phân
chia bài dạy thành các hoạt động cụ thể, xác định rõ nhiệm vụ mục đích của
từng hoạt động để từ đó lựa chọn hoạt động nào có thể tổ chức bằng trò chơi.
Xác định thời lượng, cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động đó và lựa chọn
trong ngân hàng trò chơi một trò chơi thích hợp.
- Khi lựa chọn một trò chơi từ ngân hàng trò chơi, nếu cần thiết thì giáo
viên có thể thay đổi một số yếu tố để trò chơi trở nên thích hợp hơn. Chẳng
hạn như tăng giảm độ khó của trò chơi, thay đổi nhiệm vụ nhận thức của trò
chơi
- Lựa chọn các trò chơi cho trẻ theo hướng tăng dần độ khó, buộc trẻ
phải tìm kiếm phương thức giải quyết mới để giải quyết nhiệm vụ nhận thức
tiếp sau.
+ Tạo và duy trì sự hứng thú chơi của học sinh:



- 15 Giáo viên nên tạo ra những tình huống bất ngờ trong trò chơi giúp học
sinh tập trung chú ý, quan sát và ghi nhớ, kích thích các em đến với trò chơi
như: mở đầu thật hấp dẫn, ấn tượng. Học sinh luân phiên được tham gia chơi
một cách thường xuyên. Đảm bảo quyền bình đẳng quyền của các thành viên
trong nhóm chơi. Trong quá trình tổ chức trò chơi, điệu bộ, cử chỉ, nét mặt của
người điều khiển cũng làm tăng hứng thú của học sinh. Sự động viên khuyến
khích kịp thời cũng làm cho các em thấy hứng khởi hơn, tin vào bản thân hơn.
Đồng thời động viên khuyến khích còn có tác dụng uốn nắn các em khác
trong quá trình hoạt động. Sử dụng phong phú các loại trò chơi khác nhau với
nhiều hình thức khác nhau (cá nhân, nhóm, tập thể chơi trong lớp, chơi
ngoài lớp) một mặt hình thành và phát triển kỹ năng chơi của học sinh, mặt
khác làm tăng sự hứng thú của các em đối với trò chơi.
+ Phát huy tính tích cực, độc lập sáng tạo của học sinh:
Tính tự lực của học sinh trong trò chơi được thể hiện bằng việc các em
có thể lựa chọn, tìm kiếm các phương thức tối ưu để giải quyết nhiệm vụ nhận
thức, tự kiểm tra và đánh giá kết quả chơi của chúng. Tuy nhiên nếu không có
sự tác động của người lớn thì trò chơi trẻ em sẽ bị kìm hãm trong sự phát triển
của chính nó. Nhờ sự giúp đỡ của người lớn (tổ chức cho trẻ em hoạt động phù
hợp với khả năng chúng) thì trẻ có thể giải quyết được vấn đề mà chúng chẳng
bao giờ tự mình có thể giải quyết được. Vai trò của người lớn nên thể hiện sao
không lấn át vai trò của trẻ. Trong khi chơi, giáo viên là điểm tựa thang
đỡ cho trẻ dựa vào. Giáo viên chỉ là người dàn xếp, điều phối các mối quan
hệ; là người giúp trẻ khi cần thiết; là người lên kế hoạch chơi và đảm bảo sự
an toàn cho trẻ trong khi chơi. Trong khi chơi, học sinh là chủ thể tích cực
hoạt động, tích cực tìm kiếm, khám phá những điều bí ẩn thú vị nhằm thỏa
mãn nhu cầu nhận thức của mình. ở đây vai trò của người lớn không bị loại
bỏ, ngược lại, nó tạo điều kiện cho các em phát huy được tính tích cực của
mình trong khi chơi. Tạo những tình huống chơi mang tính có vấn đề, kích



- 16 thích sự tìm kiếm cũng là một cách thức thúc đẩy tính độc lập sáng tạo của trẻ,
bắt buộc trẻ phải suy nghĩ, phải sử dụng những thao tác tư duy: so sánh, phân
tích, hệ thống, huy động vốn tri thức của mình để tìm ra lời giải đáp. Việc tạo
ra yếu tố thi đua trong quá trình chơi sẽ phát huy được tính tích cực trong hoạt
động của học sinh. Bởi không có ganh đua trẻ không còn hứng thú nữa.
+ Phát triển kỹ năng chơi:
- Làm mẫu, giải thích: Đối với những trò chơi có cách thức mới và khó
thì giáo viên cần làm mẫu, giải thích để học sinh nắm được cách chơi. Giáo
viên sử dụng lời nói một cách ngắn gọn, rõ ràng kết hợp với minh họa bằng
hành động cho học sinh xem để cuốn hút sự chú ý, tập trung của các em, giúp
các em lĩnh hội, tiếp nhận nhiệm vụ nhận thức, luật chơi, hành động chơi.
- Kiểm tra: Đối với những trò chơi mà học sinh đã được làm quen với
cách chơi, giáo viên có thể kiểm tra mức độ ghi nhớ, tính linh hoạt, sáng tạo
khi chơi trò chơi. Có thể cho một nhóm học sinh thực hiện lại cách chơi.
- Theo dõi và sửa sai: Trong quá trình chơi, học sinh thường xuyên theo
dõi và kịp thời sửa sai, khi các em chơi chưa đúng. Khi học sinh đã nắm được
nội dung và cách chơi, cô giáo có thể thay đổi hình thức thi đua toàn thể ,
phân nhóm , cá nhân để trẻ tự khẳng định vai trò của mình vào trò chơi học
tập.
+ Tạo mối quan hệ của học sinh trong quá trình chơi:
Giáo viên giúp học sinh thiết lập mối quan hệ bạn bè thân ái, biết phối
hợp cùng nhau trong trò chơi. Việc phân nhóm chơi một cách linh hoạt, hợp lí,
giúp học sinh có nhiều cơ hội để giao tiếp với các bạn. Giáo viên phải kịp thời
nhắc nhở khi học sinh có thái độ không tốt với bạn chơi. Làm tốt việc đánh
giá cũng giúp các em điều chỉnh hợp lý với bạn chơi, giúp trẻ tự tin và cố gắng
hơn ở các trò chơi tiếp theo. Việc này cũng có tác dụng hình thành, củng cố và
phát triển tình cảm giữa giáo viên và học sinh. Giáo viên cần tạo điều kiện để
học sinh được tự nhận xét đánh giá buổi chơi.



- 17 *Quy trình tổ chức trò chơi.
Với các biện pháp lựa chọn và tổ chức trò chơi đã nêu trên, quy trình tổ
chức trò chơi được xây dựng theo các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Lựa chọn trò chơi
Bước 1: Xác định mục tiêu, yêu cầu cần đạt của hoạt động, định tổ chức
trò chơi (hình thành, phát triển tri thức, củng cố tri thức hay luyện tập kỹ năng
kỹ xảo,).
Bước 2: Lựa chọn trò chơi phù hợp với yêu cầu, mục tiêu cần đạt được,
điều kiện thực tế,
Giai đoạn 2: Chuẩn bị tổ chức trò chơi
Bước 3: Thiết kế giáo án
Tên trò chơi
- Mục tiêu cần đạt của trò chơi.
- Chuẩn bị các phương tiện vật chất để thực hiện trò chơi
- Cách tiến hành: Nội dung trò chơi, luật chơi, cách đánh giá.
Bước 4: Chuẩn bị thực hiện giáo án
Chuẩn bị đầy đủ các phương tiện đảm bảo cho việc thực hiện trò chơi.
Giáo viên nắm chắc luật chơi và cách đánh giá để phổ biến cho học
sinh.
Giai đoạn 3: Tổ chức trò chơi
Bước 5: Đặt vấn đề
- Giới thiệu tên trò chơi
- Nêu yêu cầu của trò chơi.
Bước 6: Hướng dẫn trò chơi
Giáo viên giới thiệu rõ ràng nội dung chơi và phổ biến luật chơi. Giáo
viên có thể làm mẫu, hướng dẫn chơi thử nếu thấy cần thiết
Bước 7: Thực hiện chơi



- 18 Cho học sinh thực hiện trò chơi theo các hoạt động đã nêu. Giáo viên
theo dõi quá trình hành động, thực hiện luật chơi của học sinh. Theo dõi khả
năng sáng tạo của học sinh trong trò chơi, động viên khuyến khích hoặc uốn
nắn kịp thời để trò chơi đạt hiệu quả. Theo dõi tiến độ chơi để có thể điều
chỉnh nếu cần.
Giai đoạn 4: Nhận xét đánh giá kết qủa sau khi chơi
Bước 8: Giáo viên gợi ý cho học sinh nhận xét về:
- Mức độ nắm vững luật chơi và việc thực hiện trò chơi
- Thành tích của học sinh trong trò chơi.
- Những quan hệ của học sinh trong nhóm chơi.
Bước 9: giáo viên nhận xét tổng kết: Khẳng định, bổ sung, điều chỉnh
những nhận xét của học sinh, đánh giá chung về cuộc chơi. Phát phần thưởng
(nếu có)
Bước 10: Rút ra bài học, nhấn mạnh các kiến thức cần đạt sau khi chơi..
Như vậy, quy trình tổ chức trò chơi có 4 giai đoạn với 10 bước thực hiện
cụ thể cho việc tổ chức trò chơi nói chung. Việc tổ chức trò chơi trong dạy học
môn TĐ chúng ta cần rút ngọn lại tiến trình các bước, các giai đoạn, đan xen
giữa học mà chơi, chơi mà học cho phù hợp với mục đích, nội dung của bài
học.
1.2.3. Vai trò và giá trị của phương pháp trò chơi
Học trong quá trình vui chơi, là quá trình lĩnh hội tri thức, vốn sống
kinh nghiệm xã hội nhẹ nhàng, tự nhiên không gò bó, phù hợp với đặc điểm
tâm lý ở học sinh, giữ được sự hồn nhiên ở trẻ thơ
Trong quá trình chơi, để thực hiện chức năng của hoạt động chơi, giải
quyết nhiệm vụ chơi, học sinh phải sử dụng các giác quan để tiếp nhận thông
tin ngôn ngữ, phải tự phân tích, tổng hợp, so sánh, phân loại và khái quát hóa,
tùy theo nhiệm vụ nhận thức của mỗi trò chơi, làm cho các giác quan của trẻ
tinh nhậy hơn, ngôn ngữ mạch lạc hơn, tư duy trực quan, hình tượng phát triển



- 19 mạnh, các thao tác trí tuệ được hình thành. Qua trò chơi học tập học sinh tiếp
thu, lĩnh hội và khắc sâu được nhiều tri thức, nhiều khái niệm và hình thành
được những biểu tượng rõ rệt về các sự vật, hiện tượng xung quanh. Trên cơ sở
đó những phẩm chất trí tuệ của các em được hình thành như: Sự nhanh trí, tính
linh hoạt, sáng tạo, tính kiên trìTrò chơi học tập còn là phương tiện rất tốt
để khắc phục những mặt khó khăn trong hoạt động tư duy của học sinh, vì
cũng có lúc trong trò chơi các em bộc lộ những sai lầm trong những tình
huống mới. Giáo viên hoặc bạn bè trong nhóm giúp đỡ các em giải quyết tình
huống đó, các em tích lũy được kinh nghiệm mà sửa chữa những sai sót trong
tư duy.Trò chơi học tập có ảnh hưởng giáo dục sâu sắc tới học sinh. Nó được
coi là một trong những phương tiện có hiệu quả để đạt được mục tiêu dạy học,
góp phần phát triển năng lực trí tuệ đồng thời góp phần giáo dục thẩm mĩ, đạo
đức cho các em như: tính thật thà, tính tổ chức, tự lực, đoàn kết. Trò chơi học
tập giúp học sinh lĩnh hội tri thức và kỹ năng khác nhau mà không có chủ định
từ trước. Trong trò chơi này, yếu tố chủ yếu của bản thân các em là những
hành động chơi và đạt tới mục đích chơi. Đồng thời các em cũng thực hiện
được nhiệm vụ nhận thức, nắm vững được những tri thức, kỹ năng mới mà bản
thân các em không biết. Trò chơi học tập có sự tự nguyện và bình đẳng giữa
các học sinh. Mọi học sinh đều có vị trí, nhiệm vụ như nhau khi tham gia vào
trò chơi. Trò chơi học tập học sinh cảm nhận được một cách trực tiếp kết quả
hành động của mình: Đúng hay sai, phát hiện ra cái mới Kết quả này có ý
nghĩa to lớn đối với các em, nó mang lại niềm vui vô hạn, thúc đẩy tính tích
cực, mở rộng củng cố và phát triển vốn hiểu biết ở các em.Việc tổ chức hoạt
động trò chơi trong quá trình dạy học, không những giúp trẻ học tập một cách
có hiệu quả mà nó còn tạo ra những cơ hội để trẻ vui chơi, giải trí trong giờ
học.
Vì vậy có thể nói rằng qua trò chơi phát triển được cả thể chất lẫn trí
tuệ cũng như khả năng nhớ, khả năng tư duy, khả năng tưởng tượng, khả năng



- 20 sáng tạo. Học sinh sẽ lĩnh hội được kiến thức bài học đồng thời giáo dục các
em về ý thức trong cuộc sống, rèn luyện tính kỷ luật, ý thức trách nhiệm góp
phần hoàn thiện nhân cách của học sinh. Thông qua trò chơi học tập, các em
sẽ có những biểu hiện nhất định về thế giới xung quanh nói chung, con người
nói riêng.Trò chơi học tập còn là chỉ tiêu chính xác nhất, thể hiện năng khiếu
và khả năng của trẻ.
A. H. Jpa Ôpb đã viết :Mức độ kém phát triển của đứa trẻ được thể
hiện bằng khả năng tham gia trò chơi của nó. Ông còn khẳng định rằng:
Không, không một khả năng nào mà nó không được rèn luyện trong các trò
chơi[31].
Như vậy nếu được tham gia vào các hoạt động vui chơi phong phú thì
chẳng những trí tuệ, tình cảm mà cả tài năng của các em cũng được phát triển
đến giới hạn tột cùng. Trò chơi được coi như một phương pháp làm phong phú
những kiến thức cho trẻ, mở rộng tầm nhìn của chúng, làm sáng tỏ những hiểu
biết của trẻ. Đối với học sinh tiểu học, trò chơi học tập thường có nội dung
đơn giản, vừa sức phù hợp với sự phát triển tâm lý của trẻ và nội dung chương
trình tiểu học quy định. Có nhiều cách phân loại trò chơi học tập. Có thể phân
loại theo số người tham gia chơi: Trò chơi tập thể, trò chơi cá nhân. Cũng có
thể căn cứ vào quá trình tâm lý chủ yếu được huy động để giải quyết tình
huống của trò chơi mà người ta phân chia thành các loại: trò chơi nhằm phát
triển các giác quan, trò chơi phát triển trí nhớ, trò chơi phát triển trí tưởng
tượng; trò chơi phát triển tư duy; trò chơi phát triển ngôn ngữ. Hay cũng có
thể dựa vào nguồn gốc, cấu trúc trò chơi để phân loại.Theo chúng tôi trò
chơi học tập có thể phân loại theo cách thức tổ chức của trò chơi gồm các loại:
trò chơi vận động, trò chơi trí tuệ, trò chơi vận động kết hợp với trí tuệ, trò
chơi đóng vai theo chủ đề, trò chơi đóng kịch, trò chơi với đồ vật
Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng, nếu được tổ chức
đúng đắn, hợp lý thì trò chơi sẽ là phương tiện rất tốt để giáo dục toàn diện trẻ



- 21 em cụ thể là: Trò chơi giúp trẻ thu lượm được những hiểu biết về thế giới xung
quanh nói chung, về các hoạt động của người lớn nói riêng. Dần dần ở các em
sẽ hình thành nên nhu cầu muốn tác động đến thế giới đó như người lớn. Trò
chơi giúp trẻ phát triển về thể chất và trí tuệ hoàn thiện các quá trình tri giác,
chú ý, ghi nhớ, tư duy, tưởng tượng, sáng tạo. Trò chơi giúp trẻ em hình thành
ý trí và tính cách, bồi dưỡng cho trẻ năng lực hoạt động tập thể, tạo điều kiện
cho chúng thống nhất những nỗ lực chung, để gải quyết một nhiệm vụ nào
đó. Trò chơi còn khuyến khích các em biểu hiện tính sáng tạo và tính độc lập.
Ngoài ra, trò chơi còn giúp trẻ em hình thành và phát triển nhiều phẩm chất
như: lòng dũng cảm, tính kiên trì, ý thức tập thể, tình bạn và tình đồng đội.
Qua trò chơi học sinh có cơ hội để thử nghiệm những chuẩn mực hành vi.
VD: Trong trò chơi tiếp sức, sẽ giúp cho các em, tính kiên trì, bền bỉ,
tinh thần trách nhiệm trong học tập cũng như trong ý thức tập thể trong hoạt
động chung.
Chính nhờ sự thể nghiệm này các em sẽ dần dần được hình thành
những hành vi ứng xử trong cuộc sống. Đồng thời qua trò chơi học sinh cũng
hình thành được những năng lực quan sát, kỹ năng phê phán, đánh giá hành vi
của người khác. Bằng trò chơi, việc rèn luyện các kỹ năng được tiến hành một
cách nhẹ nhành, sinh động, không khô khan nhàm chán. Học sinh bị lôi cuốn
vào quá trình luyện tập một cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách
nhiệm, hiệu quả học tập của học sinh tăng lên.
Như vậy có thể nói rằng qua trò chơi, trẻ em dần dần phát triển cả về
thể chất lẫn trí tuệ, đúng như A. X. Makarenko nói: Trẻ em trong trò chơi
như thế nào thì phần lớn nó sẽ như thế trong công việc khi nó lớn lên. Trò chơi
trở thành một hoạt động sống không thể thiếu được đối với trẻ em.
Qua đó, ta thấy rằng phương pháp trò chơi học tập thuộc nhóm phương
pháp dạy học tích cực góp phần đổi mới các phương pháp dạy học. Nó phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học, phù hợp với nội dung của



- 22 các môn học như: Toán, Tự nhiên- xã hội, Đạo đức, Tiếng việt ở tiểu học.
Phương pháp trò chơi có vai trò rất quan trọng trong dạy học, nó tạo cho học
sinh một phong cách học tập riêng, tự lập và sáng tạo.
1.3. Học sinh tiểu học với những trò chơi học tập
1.3.1. Đặc điểm của học sinh tiểu học
Chuyển từ cấp mầm non sang cấp tiểu học, học sinh các lớp đầu cấp
tiểu học vẫn có nhu cầu vui chơi rất lớn (mặc dù học tập đã trở thành hoạt
động chủ đạo). Việc tổ chức học tập có yếu tố vui chơi hợp lí, là rất cần thiết
để giúp trẻ thực hiện nhiệm vụ học tập một cách nhẹ nhàng, thoải mái, đầy
hứng thú. Những hiểu biết về đặc điểm tâm lí lứa tuổi, về hoạt động học của
các em là cơ sở khoa học để giáo viên thực hiện tốt việc này.
ở tuổi học sinh nhỏ, diễn ra sự phát triển toàn diện về các quá trình
nhận thức, trong đó đáng kể nhất là sự phát triển của tri giác, trí nhớ, chú ý,
tưởng tượng và tư duy.
- Tri giác của học sinh tiểu học còn mang tính tổng thể, ít đi vào chi
tiết. Vào đầu lớp một, trẻ chưa biết cách phân tích có hệ thống những thuộc
tính và phẩm chất của đối tượng tri giác. Trình độ tri giác của các em được
phát triển nhờ vào những hành động học tập có mục đích, có kế hoạch gọi là
quan sát. Trò chơi vốn là một hoạt động thực hành thú vị, hấp dẫn, sống động
do đó nó kích thích tri giác của học sinh. Khi tổ chức trò chơi cho học sinh,
giáo viên phải hướng dẫn cho các em quan sát (ví dụ quan sát mẫu). Vì vậy
việc sử dụng phong phú các trò chơi trong dạy học cũng giúp tính tổng thể của
tri giác dần dần nhường chỗ cho tri giác chính xác, tinh tế dưới sự hướng dẫn
của giáo viên.
- Học sinh tiểu học, trí nhớ không chủ định còn chiếm ưu thế, các em
thường ghi nhớ những gì chúng thích. Trẻ nhớ cái cụ thể, sinh động tốt hơn cái
trừu tượng, trí nhớ hình ảnh tốt hơn trí nhớ ngôn ngữ. Dần dần nhờ những
hành động học tập mà trí nhớ có chủ định ở trẻ tăng dần. Mặc dù vậy, trí nhớ



- 23 không chủ định vẫn tồn tại và có ý nghĩa nhất định, tạo nên hiệu quả trong trí
nhớ của trẻ. Dạy học sẽ đạt hiệu quả tối ưu nếu những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo,
qui tắc ứng sử được học sinh lĩnh hội một cách nhẹ nhàng, hấp dẫn. Học tập
thông qua trò chơi sẽ giúp học sinh ghi nhớ dễ dàng và bền vững hơn.
- Chú ý của học sinh tiểu học còn nặng tính không chủ định, nhưng kích
thích mạnh và mới lạ dễ thu hút sự chú ý của học sinh. Cùng với sự hoàn thiện
hoạt động học, chú ý có chủ định cũng phát triển ngày càng mạnh hơn. Việc
cho trẻ học dưới hình thức chơi với những trò chơi học tập sôi nổi cũng là một
cách để tăng cường sự chú ý của học sinh.
- Tưởng tượng của trẻ trong thời kì này chủ yếu là tưởng tượng tái tạo.
Để lĩnh hội tri thức, học sinh phải hình dung được những hình ảnh của hiện
thực (Hình ảnh các nhân vật trong truyện, hình ảnh các nhân vật chưa từng
thấy

), dựa vào mô hình, tranh vẽ, lời mô tả của giáo viên. ở lớp 1, lớp 2

tưởng tượng tái tạo của học sinh còn nghèo nàn, tản mạn chưa hợp lí, lên lớp
cao hơn khả năng tưởng tượng của trẻ tốt hơn. Việc tổ chức trò chơi học tập là
một trong những cách kích thích trí tưởng tượng của các em. Trong khi chơi,
tưởng tượng tái tạo và tưởng tượng sáng tạo của các em đều được phát triển
tốt.
- Tư duy của trẻ tiểu học cũng có sự phát triển. Việc giảng dạy ở trường
tiểu học làm thay đổi cơ bản về nội dung tri thức mà trẻ tiếp thu và phương
pháp vận dụng các tri thức đó của trẻ. Việc nắm vững kiến thức mẹ đẻ như
đọc, viết cũng như việc nắm các chữ số và các phép tính số học đã có vai trò
rất to lớn. Học sinh TH làm quen với các kí hiệu, các tượng trưng, các quy
ước: chữ cái kí hiệu của âm, chữ số kí hiệu của số và số lượng những cái gì đó.
Tất cả mọi thao tác với các loại ký hiệu ấy đòi hỏi sự trừu tượng hoá sự lập
luận và khái quát. Trong quá trình lĩnh hội các quy tắc chính tả và số học luôn
luôn diễn ra sự cụ thể hoá các quy tắc đó theo các ví dụ và các bài tập. Trẻ học

lập luận, so sánh, phân tích và rút ra các kết luận. HS tiểu học đã biết giải


- 24 quyết các nhiệm vụ đơn giản có nội dung thông thường ở trong óc nhưng đối
với những nhiệm vụ mới lạ thì các em vẫn phải sử dụng những hoạt động thực
tiễn để giải quyết.
- ý chí của học sinh tiểu học cũng đang hình thành và phát triển, tuy
nhiên những phẩm chất ý chí của các em như : tính kiên trì, độc lập, tự chủ,
còn yếu. Các em chưa đủ khả năng theo đuổi lâu dài mục đích đã đề ra, chưa
kiên trì khắc phục khó khăn và trở ngại
- Tính cách của học sinh đầu cấp tiểu học mới chỉ được hình thành, ở
các em những nét tính cách tốt như tính ham hiểu biết, tính hồn nhiên, tính
chân thực, tính bắt chước Điểm nổi bật nhất trong tính cách của các em là
tính xung đột, khuynh hướng hành động ngay tức khắc do ảnh hưởng của các
kích thích trực tiếp trong tính cách của các em có nhiều mâu thuẫn và chưa
bền vững.
Đi học ở trường tiểu học là bước ngoặt trong đời sống của trẻ. Đến
trường trẻ em có hoạt động mới giữ vai trò chủ đạo quyết định những biến đổi
tâm lý cơ bản ở lứa tuổi này. Những mối quan hệ mới với thầy cô giáo, với
bạn bè cùng tuổi được hình thành. Trẻ thực hiện một cách tự giác có tổ chức
các hoạt động phong phú đa dạng từ phía nhà trường, gia đình và xã hội. Điều
đó tác động đặc biệt đến sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Học
sinh tiểu học là những nhân cách đang hình thành và có nhiều khả năng phát
triển. Một vấn đề nổi bật nhất trong nhân cách của học sinh tiểu học là đời
sống tình cảm của các em. Trẻ đang ở lứa tuổi ngây thơ, trong trắng, giàu cảm
súc, dễ bị xúc động trước các hiện tượng xung quanh. Các em dễ vui, dễ buồn,
dễ rung cảm Sự nảy sinh tình cảm ở học sinh tiểu học gắn liền với những tình
huống cụ thể với những hoạt động của trẻ. Trạng thái tình cảm được bộc lộ
khá rõ ràng qua ánh mắt, nét mặt, cử chỉ, hành vi của các em. Tình cảm của
học sinh tiểu học đã có nội dung phong phú và bền vững hơn so với những lứa

tuổi trước. Tình cảm trí tuệ đang hình thành và phát triển, các em dần biết


- 25 chăm lo cho kết quả học tập, biết thể hiện sự hài lòng hay không hài lòng với
những điểm số của mình. ở lứa tuổi này trẻ rất ham hiểu biết, thích khám phá,
để tìm cái mới lạ trong thế giới tự nhiên và xã hội gần gũi xung quanh. Các
em luôn miệng hỏi người lớn vì sao thế này, tại sao thế kia Tình cảm đạo đức
và tình cảm thẩm mĩ cũng được thể hiện khá rõ nét thông qua tình cảm bạn bè,
tình cảm thầy trò, tình cảm tập thể, tình cảm ham thích cái đẹp... Việc tổ chức
tốt đời sống và hoạt động tập thể cho học sinh tiểu học là điều kiện quan trọng
để hình thành và phát triển nhân cách cho các em.
Như vậy, ở lứa tuổi này dưới ảnh hưởng chủ đạo của việc giảng dạy,
việc giáo dục của nhà trường, gia đình, xã hội, và tổ chức đoàn đội, sự phát
triển tâm lí, nhân cách của các em đang diễn ra mạnh mẽ. Việc tổ chức các trò
chơi học tập cho trẻ cũng là con đường hình thành và phát triển nhân cách của
các em.
1.3.2. Học mà chơi, chơi mà học
Học sinh lớp 1, thực hiện bước chuyển hoạt động chủ đạo: từ vui chơi
sang học tập . Học tập là một dạng hoạt động đặc thù điều khiển bởi mục đích
tự giác là lĩnh hội những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mới để từ đó tạo nên những
năng lực mới. Hoạt động này không tự nhiên mà có, nó được hình thành bằng
phương pháp nhà trường dưới tác động sư phạm của giáo viên. Để có hoạt
động học theo đúng nghĩa của nó, khi bước chân tới trường tiểu học trẻ cần
được chuẩn bị chuyên biệt. Việc chuẩn bị tốt nhất cho bước chuyển này là
hình thành và luyện cho trẻ những quy ước, kí hiệu, các thao tác chân tay cần
dùng cho quá trình học tập về sau. Bước chuyển tiếp này còn được thực hiện
bằng những việc làm trên lớp nhằm hình thành ở trẻ các quá trình tâm lí có
chủ động đồng thời hình thành và phát triển ở trẻ nhu cầu nhận thức, nhu cầu
học tập. Quá trình học tập của học sinh là quá trình hình thành ở các em hoạt
động học đích thực, trong đó việc hình thành cách học, hình thành các thao tác



×