Tải bản đầy đủ (.ppt) (30 trang)

bài giảng tích hợp liên môn ngữ văn 12 bài ai đã đặt tên hco dòng sông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.55 MB, 30 trang )


SỞ GD&ĐT HÀ NỘI
TRƯỜNG THPT SƠN TÂY
TỔ NGỮ VĂN

GIÁO ÁN DỰ THI DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ TÍCH HỢP
Tiết 45, 46

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?
(Trích)
Hoàng Phủ Ngọc Tường

Nhóm giáo viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn
Hoàng Thị Kim Cúc


I. TÌM HIỂU CHUNG:
1.Tác giả: Hoàng Phủ Ngọc Tường
- 1937, quê: Triệu Phong, Quảng Trị.
- Một trí thức yêu nước, vốn hiểu biết
sâu rộng.
- Chuyên về bút kí.
Phong cách: kết hợp chất trí tuệ và tính trữ tình, nghị luận sắc
bén với suy tư đa chiều, vốn kiến thức sâu rộng, lối hành văn
hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa
=> Giải thưởng Nhà nước về văn học và nghệ thuật (2007)


2.Tác phẩm:
- Nhan đề: “Hương ơi, e phải mày không?”
-> “Ai đã đặt tên cho dòng sông”


- Hoàn cảnh sáng tác: tại Huế 1/1981.
- Giá trị bài kí: một trong những bài bút kí
đặc sắc.
- Thể loại: tùy bút.
- Bố cục: 3 phần.
- Đoạn trích: phần một + lời kết.
-> Tiêu biểu cho văn phong Hoàng Phủ
Ngọc Tường.


II. ĐỌC- HIỂU


1.Vẻ đẹp của sông
Hương (qua cách
tiếp cận thứ nhất)
qua cảnh sắc thiên
nhiên:

- Điểm khác biệt:“sông Hương
là thuộc về một thành phố duy
nhất”
-> Gắn liền với Huế.


- Sông Hương ở thượng nguồn:

có mối quan hệ sâu sắc với dãy
Trường Sơn


+ Khi chảy qua lòng Trường Sơn:
. “Bản trường ca của rừng
già, rầm rộ giữa bóng cây
đại ngàn, mãnh liệt qua
những ghềnh thác, cuộn
xoáy như cơn lốc” (SGK,
tr.178).
-> Vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt, hoang dại đầy cá tính.


. So sánh: dòng sông như một
“cô gái Di-gan phóng khoáng
và man dại”… với “một bản
lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do
và trong sáng”

. Hiền dịu và đa tình, “trở nên dịu
dàng và say đắm giữa những dặm
dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ
quyên rừng”


+ Khi ra khỏi rừng: “mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở
thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”
-> Cội nguồn bồi đắp nền văn hóa Huế.
-> Với tâm hồn dào dạt nhạy
cảm, liên tưởng tự do của tác
giả, sông Hương càng mạnh
mẽ hơn, đắm say hơn ở
thượng nguồn.

=> Bằng thủ pháp nhân hóa, so sánh, sông Hương ở thượng
nguồn có thể chất mạnh mẽ, toát lên vẻ đẹp của một sức sống
mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính.


- Ở đồng bằng:

Sông Hương đã thay đổi về tính cách:

+ Sông Hương trải qua
một hành trình đầy gian
truân và nhiều thử thách.

-> Thuỷ trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiếm có ý
thức người tình nhân đích thực của người con gái.


+ Sông Hương đã thay đổi tính cách:
. Giữa cánh đồng Châu Hoá:
là “người gái đẹp ngủ mơ
màng”;
. Ngay sau khi ra khỏi vùng núi: bừng lên sức trẻ và niềm
khao khát của tuổi thanh xuân:
“Vòng những khúc quanh đột ngột”;
“Chuyển dòng liên tục”;

“Uốn mình theo những đường cong
thật mềm”;



. Sông Hương có lúc
“mềm như tấm lụa”

. Có khi ánh lên “những phản
quang nhiều màu sắc sớm xanh,
trưa vàng, chiều tím”

ĐỒI VỌNG CẢNH


. Mang vẻ đẹp trầm mặc khi qua bao lăng tẩm, đền đài.

LĂNG GIA LONG

LĂNG MINH MẠNG


. Bừng sáng, tươi tắn và trẻ trung khi gặp “tiếng chuông
chùa Thiên Mụ”…

CHÙA THIÊN MỤ


=> Nhận xét:
+ Sông Hương khi chảy về Huế mang vẻ đẹp đa dạng,
gắn bó với đặc trưng văn hoá, không gian kinh thành
Huế.
+ Đoạn văn bộc lộ nét lịch lãm, tài hoa trong lối hành văn
của tác giả với những hiểu biết tường tận về địa lí.
+ Bút pháp kể và tả kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa.



- Khi chảy trong thành phố Huế:
Về địa lý, Huế trong tổng thể là một đô thị cổ nằm suốt dọc hai
bờ sông có nhiều biền bãi, nhiều cồn đảo và những nhánh sông
đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp đô thị.


+ Khi gặp thành phố thân yêu – người tình nhân đích thực: sông
Hương “vui tươi hẳn lên”,“kéo một nét thẳng thực yên tâm”, rồi
“uốn một cánh cung rất nhẹ” khiến dòng sông mềm hẳn đi, như
một tiếng “vâng” không lời của tình yêu.

-> Sự cảm nhận và diễn tả đầy tài hoa của ngòi bút tác giả:


. Hình ảnh so sánh:
Chiếc cầu trắng in
ngần trên nền trời,
nhỏ nhắn như những
vành trăng non”.

Hình ảnh cây cầu in ngần trên nền trời như những
vành trăng non” là một phát hiện và cảm nhận đầy thi
vị của HPNT.


. Hình ảnh so sánh: đường cong mềm mại của sông Hương
như “tiếng vâng không nói ra của tình yêu”.
-> Vẻ đẹp mềm mại, trữ

tình, yêu kiều của sông
Hương.

-> Vẻ đẹp tính cách của con
người Huế: thiết tha, tình tứ
mà dịu dàng và kín đáo.


+ So sánh: sông Hương - sông Xen, sông Đa-nuýp…
Giống nhau: đều nằm giữa lòng thành phố.
Điểm khác: sông Hương được cảm nhận với nhiều góc độ:
. Hội hoạ: sông Hương tạo những đường nét thật tinh tế làm
nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô.


. Âm nhạc, sông Hương “đẹp
như điệu Slow”.

. Cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sông Hương là
người tình dịu dàng và chung thuỷ.
Phát hiện thú vị:

“nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng
đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc
thị trấn Bao Vinh xưa cổ” (tr.182)

-> Tựa như một “nỗi vương vấn”, “một chút lẳng lơ
kín đáo” của tình yêu…



Nhận xét:
Vẻ đẹp của sông Hương được cảm nhận trong sự đa
dạng, mang cái đẹp nữ tính.
 Tình cảm thiết tha với Huế; vốn văn hóa phong
phú, vốn ngôn từ giàu có, đậm chất thơ của tác giả.


2. Vẻ đẹp sông Hương (qua cách tiếp cận thứ hai): qua văn hóa
và lịch sử
a. Qua văn hóa: là dòng sông có cốt cách văn hóa rất riêng:
đằm thắm và lắng sâu.
- Gắn liền với những địa chỉ văn hóa của Huế
- Là “người tài nữ dánh đàn
lúc đêm khuya”.


- Còn là dòng sông thi ca:

+ “Dòng sông trắng- lá cây xanh” (Chơi xuân - Tản Đà)
+ “Như kiếm dựng trời xanh” (Trường giang như kiếm lập thanh
thiên - Cao Bá Quát).
+ Là sức mạnh hồi sinh trong thơ Tố Hữu.
+ “Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu” (Thu Bồn)


- Ngay đến cả cái tên của dòng sông cũng
có một vẻ rất riêng.
- Bản thân sông Hương có mối quan hệ gắn
bó với đời sống của người dân xứ Huế, có khả

năng tạo lập, hoàn thiện nền văn hóa Huế.


×