Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Tổng quan về công nghệ thông tin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.48 KB, 71 trang )

BAN CHỈ ĐẠO CÔNG NGHỆ THÔNG TIN CỦA CƠ QUAN ĐẢNG
***
GIÁO TRÌNH


TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
HÀ NỘI, 2004
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
Mục lục
I. MỞ ĐẦU.......................................................................................................4
II. CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN.....................5
1. Thông tin và các quá trình thông tin..........................................................5
2. Từ thông tin đến công nghệ thông tin.......................................................7
3. Những mốc quan trọng trong sự phát triển của máy tính điện tử và công
nghệ thông tin................................................................................................9
4. Công nghệ thông tin và truyền thông - động lực của sự phát triển ........17
5. Con đường đi tới xã hội thông tin ..........................................................20
6. Những nguyên tắc cơ bản để hình thành và phát triển xã hội thông tin..22
7. Những mục tiêu cần đạt tới.....................................................................26
III. CHÍNH SÁCH QUỐC GIA VỀ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN Ở MỘT
SỐ NƯỚC.......................................................................................................27
1. Phần Lan..................................................................................................27
2. Nhật Bản..................................................................................................28
3. Cộng hoà Liên bang Đức.........................................................................30
4. Đan Mạch................................................................................................31
5. Ấn Độ......................................................................................................32
6. Cuba.........................................................................................................32
7. Côxta Rica...............................................................................................33
8. Extonia.....................................................................................................33
9. Mali.........................................................................................................34


10. Các quốc đảo nhỏ đang phát triển ........................................................34
IV. CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN Ở NƯỚC TA..........................................................................35
1.Một số kết quả đã đạt được .....................................................................35
Về công nghiệp máy tính .........................................................................35
Về đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin......................................36
Về phát triển cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia, Internet..........................37
Về công nghiệp phần mềm.......................................................................40
Về công tác quản lý nhà nước và môi trường ứng dụng, phát triển công
nghệ thông tin..........................................................................................40
Về ứng dụng công nghệ thông tin............................................................41
2. Một số tồn tại cần khắc phục...................................................................44
PHỤ LỤC.......................................................................................................46
CHỈ THỊ......................................................................................................46
về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin...........................46
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.......................................46
QUYẾT ĐỊNH............................................................................................55
của Ban Bí thư ban hành Đề án tin học hoá hoạt động...............................55
của các cơ quan Đảng giai đoạn 2001-2005................................................55
Trang
2
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
ĐỀ ÁN
TIN HỌC HÓA HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN ĐẢNG
GIAI ĐOẠN 2001 - 2005............................................................................56
(Ban hành kèm theo Quyết định số 47- QĐ/TW,
ngày 06 tháng 8 năm 2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng).................56
1- Những kết quả chính...............................................................................56
2- Những hạn chế và tồn tại........................................................................57
1- Mục tiêu chung .......................................................................................58

2- Mục tiêu cụ thể .......................................................................................59
1- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung .......................................61
2- Xây dựng hệ thống thông tin điều hành tác nghiệp................................63
3- Bồi dưỡng, tập huấn, đào tạo..................................................................63
4- Mở rộng, hoàn thiện và nâng cấp mạng thông tin diện rộng của Đảng.. 64
5- Xây dựng hệ thống an toàn, bảo mật.......................................................64
6- Bổ sung, hoàn chỉnh quy định, quy chế về quản lý, khai thác, sử dụng và
bảo vệ mạng ................................................................................................65
IV- ĐẦU TƯ...................................................................................................65
1- Yêu cầu đầu tư........................................................................................65
2- Phân cấp đầu tư.......................................................................................65
3- Dự toán kinh phí......................................................................................66
V- TỔ CHỨC THỰC HIỆN.........................................................................66
1- Xây dựng và tổ chức thực hiện các dự án cụ thể....................................66
2- Tổ chức bộ máy.......................................................................................67
3- Về cán bộ................................................................................................67
4- Về chính sách..........................................................................................68
5- Tiến độ thực hiện....................................................................................68
6- Trách nhiệm thực hiện............................................................................68
Trang
3
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
I. MỞ ĐẦU
Cuộc cách mạng công nghệ thông tin diễn ra sôi động hiện nay đang
tác động sâu sắc và trực tiếp đến mọi mặt hoạt động kinh tế xã hội của hầu
khắp các quốc gia trên thế giới, mở ra một thời kỳ phát triển mới khi nhân
loại bước vào thế kỷ XXI. Nội dung chủ đạo của bước chuyển biến lần này là
sự phát triển từ nền văn minh công nghiệp tiến lên nền văn minh thông tin và
trí tuệ, mà cơ sở của nó là sự phát triển từ nền kinh tế công nghiệp truyền
thống sang nền kinh tế thông tin. Về cơ bản, bước chuyển biến này được nẩy

sinh và thực hiện chủ yếu tại các nước đã có nền kinh tế công nghiệp phát
triển; tuy nhiên, với xu thế “toàn cầu hoá” nhanh chóng hiện nay, tác động
của bước chuyển biến vĩ đại này đã lan toả nhanh chóng đến khắp các nước
trên thế giới, tạo ra những cơ hội to lớn và đồng thời cũng là những thách
thức to lớn cho các nước đang phát triển đang tìm đường công nghiệp hoá và
hiện đại hoá nền kinh tế và xã hội của mình.
Công nghệ thông tin bao gồm tất cả các hoạt động và các công nghệ
chứa đựng các nội dung xử lý thông tin bằng các phương tiện điện tử, từ việc
thu thập, lưu trữ, tìm kiếm, chế biến, truyền đưa,... đến sử dụng thông tin
trong mọi lĩnh vực của sản xuất, kinh tế và đời sống con người. Với những
tiến bộ nhanh chóng kỳ diệu của kỹ thuật máy tính và kỹ thuật viễn thông
trong vài thập niên gần đây, công nghệ thông tin thực sự đã thâm nhập rộng
khắp vào mọi mặt hoạt động của con người, đưa đến những biến đổi to lớn
trong việc tự động hoá các quá trình sản xuất, nâng cao chất lượng các sản
phẩm và dịch vụ vốn có, tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ mới, thúc đẩy các
quá trình đổi mới tổ chức và quản lý kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế, v.v...
Trong giai đoạn mới của sự phát triển kinh tế và xã hội dưới tác động của
công nghệ thông tin, tri thức và các ý tưởng sáng tạo đóng vai trò trung tâm
có ý nghĩa quyết định, do đó sự chuyển biến sang nền kinh tế thông tin đòi hỏi
phải tăng cường giáo dục, thực sự đổi mới và tìm nhiều cách thức mới cho
giáo dục, cho việc phát triển nhanh chóng nguồn nhân lực và lao động có chất
lượng cao, phát huy tối đa tiềm năng trí tuệ của đất nước. Ngày nay, hầu hết
các quốc gia, các tổ chức và các công ty đều hiểu rằng vị trí tương lai của họ
trong thế giới và trên thị trường quốc tế phụ thuộc một cách quyết định vào
việc liệu họ có tận dụng được công nghệ thông tin để phát triển một cách
nhanh chóng mọi năng lực đổi mới nền sản xuất và kinh tế của họ hay không?
Không những đối với các nước phát triển, mà nhiều nước đang phát triển
Trang
4
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT

trong khu vực đã giải quyết câu hỏi đó một cách tích cực với những chính
sách mạnh mẽ phát triển công nghệ thông tin trong những thập niên gần đây,
đưa đến những kết quả to lớn đáng cho chúng ta học tập.
Ở nước ta, trước yêu cầu đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện
đại hoá đất nước trong bối cảnh phát triển mới của thế giới hiện đại, việc phát
triển và ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới và phát triển mọi lĩnh vực
hoạt động kinh tế, xã hội trở thành rất cấp thiết. Chỉ thị 58 BCT đã chỉ rõ:
“Công nghệ thông tin nhân lên sức mạnh tinh thần, vật chất, trí tuệ của toàn
dân tộc; là động lực mạnh mẽ thúc đẩy đổi mới và phát triển, nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế…”
II. CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN
1. Thông tin và các quá trình thông tin
Theo nghĩa thông thường, thông tin là điều hiểu biết về một sự kiện,
một hiện tượng nào đó, thu nhận được qua khảo sát, đo lường, trao đổi,
nghiên cứu, v.v… Kỹ thuật về thông tin được phát triển đầu tiên là kỹ thuật
truyền tin. Việc nghiên cứu lý thuyết truyền tin vào cuối những năm 40 đã
làm cho thông tin trở thành đối tượng của nghiên cứu khoa học, và lượng
thông tin thu được về việc xẩy ra một sự kiện nào đó được xác định là bằng độ
bất định của sự kiện đó trước khi biết nó xẩy ra. Như vậy, khoa học về thông
tin đã phát hiện một thuộc tính cơ bản của thông tin là đối lập với bất định và
ngẫu nhiên, do đó nó phản ánh cái tất định, trật tự của các sự vật và hiện
tượng. Trật tự cũng là thuộc tính cơ bản của tổ chức, vì vậy nói chung thông
tin phản ánh tính trật tự và tổ chức của các hệ thống. Mối quan hệ này cho ta
một “cách tiếp cận thông tin” có tính chất phổ biến khi nghiên cứu các vấn đề
về tổ chức và điều khiển, quản lý trong các hệ thống kỹ thuật, kinh tế, xã hội,
sự sống…
Trong đời sống hàng ngày, các quá trình thông tin thường bao gồm các
loại hoạt động như thu thập, lựa chọn, sắp xếp, lưu trữ, tìm kiếm, chế biến,
truyền đưa, khai thác và sử dụng thông tin… Một quá trình gồm một số các
hoạt động đó nhằm đạt một mục đích nhất định thường được gọi chung là quá

trình xử lý thông tin. Quản lý và lãnh đạo, về thực chất là thực hiện các quá
trình xử lý thông tin, mà sản phẩm là các thông tin điều khiển nhằm mang lại
cho đối tượng những trật tự nhất định.
Dữ liệu là những tín hiệu (con số, chữ viết, màu sắc, hình ảnh âm
thanh…) rời rạc, là vật mang thông tin. Khi các dữ liệu được tập hợp lại có hệ
Trang
5
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
thống, chúng giúp con người nhận biết về một vật thể, một sự kiện, một hiện
tượng… thì trở thành thông tin.
Thông tin thường được biểu diễn qua các hình thức c¸c d÷ liÖu cã hÖ
thèng như c¸c chuçi sè liÖu, lêi nãi, c©u viết, âm thanh, hình ảnh…
Lượng thông tin không tuỳ thuộc vào độ dài ngắn của hình thức biểu
diễn nó; lượng thông tin chưa nói lên được chất lượng của thông tin. Thông
tin có nhiều mức độ chất lượng khác nhau: Các dữ liệu thu thập ban đầu qua
các cuộc điều tra, khảo sát được tập hợp lại giúp con người nhận biết về một
sự kiện, hiện tượng nào đó (biết gì); qua phân tích, xö lý sẽ thu được những
thông tin có giá trị hơn, hiểu được bản chất của hiện tượng, sự kiện… (biết tại
sao), biết xử lý khối lượng lớn thông tin có thể tìm ra các mối liên hệ bên
trong, các đặc tính có tính qui luật, lúc bấy giờ thông tin trở thành tri thức
(biết làm thế nào), ở mức cao hơn xử lý thông tin có thể cho ra các dự báo,
(thông tin thông minh); người lãnh đạo phải có đầy đủ thông tin, biết xử lý
thông tin, hiểu được bản chất của sự việc, đưa ra các dự báo mới có thể ra các
quyết định đúng đắn. Thông tin chứa đựng trong các quy luật khoa học, kết
quả của nhiều công phu tìm kiếm sáng tạo, suy luận, thử nghiệm,...
Dữ liệu, thông tin và tri thức
Giữa “tri thức”, “thông tin” và “dữ liệu” có sự phân biệt nhất định. Dữ
liệu là các tín hiệu, con số, chữ viết, hình ảnh, âm thanh... riêng biệt, là nguồn
gốc, là vật mang thông tin, là vật liệu sản xuất ra thông tin. Những dữ liệu
được xắp xếp lại thành những tổ hợp có ý nghĩa, có nội dung thì trở thành

thông tin.
Theo tiến trình của sự nhận thức, sau khi các giác quan tiếp nhận các tín
hiệu của các đối tượng ta có các dữ liệu. Tập hợp các dữ liệu này qua quá
trình tư duy lôgic ta sẽ có thông tin về đối tượng đó. Thông tin được hiểu theo
nghĩa thông thường là sự phản ánh về một vật, một hiện tượng, một sự kiện
hay quá trình nào đó của thế giới tự nhiên, xã hội và con người thông qua
khảo sát trực tiếp hoặc lý giải gián tiếp. Thông tin là nội dung của tất cả các
loại thông điệp giao tiếp. Thông tin được truyền đi dưới hình thức trao đổi
trực tiếp giữa hai người, qua các thiết bị truyền thông, tại các cuộc hội nghị,
hội thảo, hoặc qua các phương tiện thông tin đại chúng khác nhau như báo
Trang
6
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
chí, sách vở, các tài liệu, các tranh ảnh, các cơ sở dữ liệu, bằng sáng chế…
Thông tin không nhất thiết phải dưới hình thức các từ ngữ - nó có thể là hình
ảnh, âm thanh, bản nhạc, điệu múa, cử chỉ…
Khi tiếp thu và xử lý thông tin, con người có những hiểu biết về các đối
tượng, về quy luật vận động và tương tác của đối tượng đó với thế giới vật
chất xung quanh. Những hiểu biết đó được gọi là tri thức. Hay nói một cách
đơn giản, thông tin sau khi được thu thập, xử lý để nhận thức sẽ trở thành tri
thức. Giữa thông tin và tri thức đôi khi không có ranh giới rõ ràng. Để phân
biệt giữa thông tin và tri thức ta có thể hình dung mối liên hệ giản dị: thông
tin là “cái của người” còn tri thức là “cái của mình”. Tri thức có tính chất cá
nhân - nó bao gồm tất cả những hiểu biết của một người - nó tồn tại dưới
nhiều hình thức như “biết”, “biết cái gì”, “biết như thế nào”, “biết làm thế
nào”.
Phân biệt tri thức được hệ thống hoá với tri thức tiềm ẩn là điều quan
trọng. Tri thức được hệ thống hoá là tri thức được chuyển thành thông tin để
có thể dễ dàng truyền đạt, trao đổi, phổ biến rộng rãi đến mọi người. Tri thức
ở dạng tiềm ẩn, như năng khiếu, khó có thể hệ thống hoá để trở thành thông

tin, vì vậy khó có khả năng truyền đạt, trao đổi, phổ biến cho người khác. Tri
thức tiềm ẩn thường gắn với cá nhân con người, tổ chức, dân tộc, đất nước cụ
thể.
Từ những mối quan hệ trên đây ta có thể thấy rõ, thông tin là cơ sở quan
trọng của tri thức, không có thông tin thì không thể có tri thức. Tất nhiên đôi
khi có thông tin mà vẫn không có tri thức. Chính vì vậy, mà năm 1996, nhà
tương lai học người Anh Giôn Naisbet đã cảnh báo rằng: “Chúng ta đang
chìm ngập trong thông tin mà vẫn thiếu tri thức”.
2. Từ thông tin đến công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin khởi đầu từ lúc con người sáng chế ra các loại
máy móc tự động thực hiện một số chức năng xử lý thông tin, trước hết là các
máy tính điện tử. Để chế tạo các máy tính điện tử, người ta phải tìm được
cách biểu diễn thông tin bằng các tín hiệu kỹ thuật và thực hiện các hoạt động
lưu trữ, chế biến thông tin bằng các biện pháp xử lý kỹ thuật trên các tín hiệu
tương ứng.
Trang
7
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
Máy tính điện tử và mọi thiết bị thông tin hiện đại đều làm việc với các
thông tin được biễu diễn bởi các dãy chữ số nhị phân (binary digits), tức là
dãy các tín hiệu 0; 1. Mọi dạng thông tin (số, chữ, tiếng nói, âm thanh, hình
ảnh, màu sắc…) đều có thể - qua những cách làm rời rạc và mã hoá thích hợp
- biểu diễn lại bằng các dãy chữ số nhị phân. Khả năng biểu diễn mọi thông
tin bất kỳ qua một hệ thống tín hiệu đơn giản và thống nhất bằng chữ số nhị
phân là cơ sở cho việc phát triển nhanh chóng các thiết bị kỹ thuật xử lý thông
tin làm việc được với mọi dạng thông tin khác nhau.
Máy tính điện tử được thiết kế trên nguyên tắc: mọi quá trình xử lý
thông tin đều có thể qui về một trình tự thực hiện liên tiếp các phép toán sơ
cấp đơn giản. Vì vậy, cấu trúc một máy tính điện tử gồm có: bộ lôgic-số học
thực hiện các phép toán sơ cấp, bộ điều khiển để chỉ huy việc thực hiện các

phép toán theo trình tự quy định, bộ nhớ để ghi các chương trình tính toán và
dữ liệu, các thiết bị đưa dữ liệu vào và đưa kết quả ra. Cấu trúc đó tạo thành
phần cứng của máy tính điện tử, sẵn sàng tổ chức thực hiện các trình tự tính
toán được qui định bởi các chương trình bất kỳ. Tuỳ theo từng bài toán cụ thể,
người ta viết một chương trình để giải nó trong một ngôn ngữ máy tính nào đó
và chương trình được đưa vào máy để máy thực hiện. Các chương trình làm
thành phần mềm của máy tính điện tử. Tuỳ theo tính chất và phạm vi tác
động của các loại chương trình mà ta có: phần mềm hệ thống, phần mềm
tiện ích và phần mềm ứng dụng.
Máy tính điện tử là thành phần cơ bản của công nghệ thông tin. Tuy
nhiên, theo nghĩa rộng thường dùng hiện nay, công nghệ thông tin là tập hợp
các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại - chủ
yếu là máy tính điện tử và các mạng viễn thông - nhằm cung cấp các giải pháp
tổng thể để tổ chức, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên
thông tin phong phú và tiềm tàng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người
và xã hội.
Công nghệ thông tin có các chức năng quan trọng: sáng tạo (bao gồm
nghiên cứu khoa học, công trình thiết kế, giáo dục, đào tạo…), truyền tải
thông tin (bao gồm phát hành, mạng Internet, xuất bản, phát thanh truyền
hình, phương tiện thông tin đại chúng…), xử lý thông tin (bao gồm biên tập,
trình bày, phát triển phần mềm, xử lý dữ liệu, phân tích hỗ trợ ra quyết
định…) và lưu giữ thông tin (bao gồm thư viện điện tử, cơ sở dữ liệu…).
Với những thành tựu và khả năng ứng dụng rộng rãi của công nghệ
thông tin như máy vi tính, tia lade, vi điện tử, viễn thông và mạng Internet,...
Trang
8
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
ngành công nghệ thông tin cùng với các dịch vụ liên quan đang trở thành
ngành mang tính chủ đạo trong nền kinh tế.
3. Những mốc quan trọng trong sự phát triển của máy tính điện tử và

công nghệ thông tin
Trong hơn nửa thế kỷ qua, kỹ thuật máy tính điện tử và viễn thông đã
phát triển một cách mạnh mẽ và liên tục, tạo tiền đề cho sự thâm nhập sâu
rộng của công nghệ thông tin vào mọi mặt hoạt động của con người. Những
mốc quan trọng nhất trong sự phát triển đó là:
1946-1948. Sự ra đời của các máy tính điện tử đầu tiên. Tiếp đó là
việc sản xuất hàng loạt máy tính điện tử thế hệ thứ nhất và thứ hai trong
thập kỷ 50, chủ yếu được sử dụng trong tính toán khoa học-kỹ thuật.
Giữa thập kỷ 60. Sự ra đời của các máy tính điện tử thế hệ thứ ba với
kỹ thuật mạch tích hợp và các bộ nhớ bán dẫn. máy tính điện tử được bắt đầu
ứng dụng ngày càng rộng rãi trong kinh doanh, quản lý kinh tế. Tuy nhiên,
máy lớn và đắt, nên thường chỉ được trang bị cho các trung tâm tính toán.
Cuối những năm 60 sang đầu những năm 70 bắt đầu có các mạng nối các
trung tâm tính toán với nhau.
Giữa thập kỷ 70: Ra đời các bộ vi xử lý, đó là các linh kiện thực hiện
chức năng của cả bộ xử lý trung tâm của một máy tính điện tử được chứa
trong chỉ một "chip" bán dẫn có diện tích khoảng 1-2cm
2
. Kỹ thuật vi xử lý
khởi đầu một cuộc cách mạng trong tin học, tạo cơ sở cho sự ra đời từ thập kỷ
80 hàng triệu rồi hàng chục, hàng trăm triệu máy vi tính với năng lực ngày
càng cao, giá ngày càng rẻ, thâm nhập khắp mọi nơi trên thế giới và được sử
dụng trong mọi lĩnh vực hoạt động.
Cuối thập kỷ 80 đến nay: Sự phát triển bùng nổ của các mạng viễn
thông truyền dữ liệu quốc gia và quốc tế trên cơ sở kỹ thuật cáp sợi quang,
vệ tinh và vi ba số đã có khả năng nối mạng không những giữa các trung
tâm tính toán mà còn nối được đến từng máy vi tính của từng cá nhân. Xuất
hiện những hệ thống “siêu xa lộ thông tin” liên kết hàng trăm triệu người
trong từng quốc gia cũng như trong phạm vi khu vực và toàn cầu. Xây
dựng “kết cấu hạ tầng về thông tin” làm nền móng cho một “xã hội thông

tin” trong những năm cuối của thế kỷ này đã trở thành hiện thực, và được
xác định trong chính sách của nhiều nước trên thế giới.
Tốc độ xử lý của máy tính tăng lên rất nhanh: Chiếc máy tính đầu tiên
ENIAC của Pítsbấc vào năm 1947 chỉ với tốc độ khoảng 6 - 7 nghìn phép
tính/giây, tiêu hao năng lượng rất nhiều và toả nhiệt rất lớn, chiếm diện tích là
Trang
9
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
1.800m
2
với giá 450 nghìn đôla Mỹ lúc đó (tương đương khoảng 4 - 5 triệu
đôla Mỹ bây giờ). Hiện nay, máy tính thông thường đã có thể xử lý hàng chục
tỉ phép tính/giây. Theo định luật của Godơn Mo, cứ sau mỗi 18 tháng, khả
năng xử lý của máy tính tăng gấp đôi, tương ứng với mật độ của bóng bán dẫn
(transitor) trên một bảng mạch (chip).
Bảng 1: Số lượng bóng bán dẫn trên một bảng mạch
qua các thế hệ bộ xử lý
Bộ xử lý Năm sản xuất Số bóng bán dẫn
4004 1971 2.250
8008 1972 2.500
8080 1974 5.000
8086 1978 29.000
286 1982 120.000
386 1985 275.000
486DX 1989 1.180.000
Pentium 1993 3.100.000
Pentium II 1997 7.500.000
Pentium III 1997 24.000.000
Pentium IV 2000 42.000.000
Năng lực xử lý của máy tính qua số MIP (triệu phép tính trong một

giây) vào năm thứ n bằng 2
n-1986
, khi đó:
- Năm 1987, năng lực xử lý của máy tính là 2 triệu phép tính trong một
giây.
- Năm 1990, năng lực xử lý của máy tính là 16 triệu phép tính trong
một giây.
- Năm 1994, năng lực xử lý của máy tính là 156 triệu phép tính trong
một giây.
- Năm 1997, năng lực xử lý của máy tính là 1 tỷ phép tính trong một
giây.
Trong khi đó thì giá tính toán mỗi năm lại giảm đi 25%:
- Năm 1978 giá cho một triệu phép tính trong một giây là 480 đôla Mỹ,
- Năm 1988 giá cho một triệu phép tính trong một giây là 45 đôla Mỹ,
- Năm 1998 giá cho một triệu phép tính trong một giây là 4 đôla Mỹ.
Dung lượng bộ nhớ cũng tăng với tốc độ tương tự. Nhờ đó công nghệ
máy tính đã tạo ra những bước nhảy vọt trong ứng dụng: Thế hệ các máy tính
Trang
10
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
đầu tiên những năm 1950, 1960 chủ yếu chỉ dùng để tính toán, nhưng ngày
nay máy tính đã có thể xử lý mọi loại thông tin và trở thành phương tiện đa
năng, đa dụng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Nhờ khả năng xử
lý đa phương tiện (xử lý đồng thời hình ảnh, âm thanh, hình ảnh động…) máy
tính và mạng máy tính có thể thay thế cho thư viện, chế bản in ấn, thu hình,
thu thanh, máy fax, điện thoại v.v…
Công nghệ thông tin phát triển đã làm cho các nhiều lĩnh vực hội tụ với
nhau. Công năng của máy tính ngày càng mạnh, công dụng ngày càng nhiều,
kích thước ngày càng nhỏ, sử dụng ngày càng đơn giản, máy tính được ứng
dụng ngày càng rộng rãi trong mọi lĩnh vực, mọi lúc và mọi nơi. Quá trình

phát triển công nghệ thông tin có thể chia ra bốn giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất (thủ công): Việc thu thập thông tin và xử lý thông
tin được thực hiện bằng những phương pháp thủ công là chủ yếu.
Giai đoạn thứ hai (cơ giới hoá): Sử dụng máy tính tham gia vào một số
công đoạn trong quá trình thu thập và xử lý thông tin, như tính toán, phân
tích, thống kê, tổng hợp thông tin.
Giai đoạn thứ ba (tự động hoá): Toàn bộ quá trình thu thập thông tin và
xử lý thông tin được tự động hoá trên cơ sở sử dụng những hệ thống máy tính
mạnh. Nhờ tự động hoá, khối lượng lớn thông tin được phân tích, xử lý nhanh
hơn nhiều. Trước kia, trong phòng thí nghiệm, thí nghiệm phải có người theo
dõi, ghi chép và phải tiến hành nhiều lần để có nhiều chuỗi số liệu, sau đó tính
toán phân tích để tìm ra các mối quan hệ, rồi từ đó đi đến kết luận khoa học.
Ngày nay, những việc làm đó phần lớn được tự động hoá. Các số liệu thí
nghiệm do các máy móc tự động đo đạc, ghi chép, lưu cất và đưa vào máy
tính để tự động xử lý và kết quả là nhờ các số liệu tổng hợp, các mối quan hệ,
các phương án khả thi… có thể dẫn tới những phát hiện mới, những tri thức
mới. Tương tự như trong nghiên cứu khoa học, trong đời sống hàng ngày khối
lượng đồ sộ thông tin thương mại, thông tin kinh tế, văn hoá, xã hội… cũng
được xử lý trên máy tính để cung cấp cho con người nhiều tri thức mới, gợi
mở cách làm mới, tư duy mới.
Giai đoạn thứ tư (thông tin thông minh): Hệ thống máy tính tích luỹ
được một khối lượng rất lớn thông tin và tri thức, có khả năng xử lý rất lớn,
giúp con người phân tích các tình huống, chọn ra các giải pháp, trợ giúp đắc
lực cho con người nâng cao tri thức, phát triển khả năng sáng tạo, thông minh
của con người. Chẳng hạn máy Deep Blue của hãng IBM chế tạo, nhờ tích luỹ
được nhiều thông tin và kinh nghiệm của các chuyên gia trong lĩnh vực cờ
vua nên đã thắng nhà vô địch cờ vua thế giới Casparốp. Nếu công nghệ cơ khí
Trang
11
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT

giúp con người nâng cao năng lực lao động cơ bắp, làm tăng công lực, thì
công nghệ thông tin giúp con người nâng cao năng lực lao động trí óc, làm
tăng trí lực của con người.
Từ thập kỷ 80 thế kỷ XX trở về trước, xu thế phát triển của công nghệ
thông tin chủ yếu là phát triển máy tính lớn, các nước chạy đua chế tạo máy
siêu tính. Máy tính lớn có khả năng rất lớn nhưng rất đắt tiền, không thể phổ
cập được, phải nhiều người dùng một máy, làm việc theo chế độ phân chia
thời gian liên tục 24 giờ một ngày. Nhưng từ khi máy tính cá nhân ra đời, kết
nối nhiều máy tính với nhau thành một mạng, cùng làm việc với nhau như
làm việc trên một máy siêu lớn, nhưng không phải theo chế độ phân chia thời
gian, mà mọi người đều có máy riêng và làm việc theo chế độ phối hợp, chia
sẻ thông tin. Nhờ đó, hệ thống hoạt động thuận tiện và hiệu quả hơn nhiều.
Mạng máy tính, đầu tiên xuất hiện năm 1969, là mạng ARPAnet thuộc
Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, tiền thân của Internet ngày nay. Năm 1979, mạng
này bắt đầu được mở rộng kết nối quốc tế. Với sự ra đời của giao thức
Internet (TCP/IP) năm 1982, những thành tựu mới về kỹ thuật mạng, siêu văn
bản, công nghệ web năm 1989, mạng máy tính phát triển rất nhanh nối khắp
nơi trên thế giới, năm 1984 đã có 1.000 người dùng nối vào mạng. Internet
thực sự ra đời năm 1993 với khoảng một triệu người dùng. Đến tháng 3 năm
2000, có khoảng 280 triệu người dùng Internet trên khắp thế giới và hàng năm
số người dùng tăng 30 - 40%. Đến cuối 2002 đã có 605 triệu người dùng
Internet, đạt tỉ lệ khoảng 10% dân số thế giới.
Bảng 2: Phân bổ người sử dụng Internet trên thế giới (2002)
Trung Đông 1%
Châu Á Thái Bình Dương 31%
Châu Âu 32%
Bắc Mỹ 30%
Châu Mỹ La tinh 5%
Châu Phi 1%%
Dịch vụ thư điện tử (E-mail) phổ biến nhanh chóng và rộng rãi. Năm

1999, số hộp thư điện tử lên tới 569 triệu trên toàn thế giới, trong đó Hoa Kỳ
333 triệu và các nước khác 236 triệu. Theo đà tăng trưởng này, trong vài năm
tới, số địa chỉ điện tử sẽ lớn hơn số điện thoại và trở thành một phương tiện
thông tin liên lạc đại chúng rất quan trọng.
Trang
12
SYNLOC
K
BIT
S
C&C0
8
STP
INTES
S
Calling
Center
TELLI
N
SCP
SMP/SC
E
Intelligent
Network
1969 1984
1993 2000 2005
1000
1 triÖu
280 triÖu
1 tỉ

ARPAne
t
Số người sử dụng INTERNET
phát triển nhanh chóng
0
50
100
150
200
250
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
"7/1999
M¸y chñ (triÖu)
N­íc nèi m¹ng
Số nước tham gia Internet và số máy
chủ
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
Cơ sở hạ tầng thông tin được phát triển mạnh nhờ sự bùng nổ của mạng
Internet, khi các tài nguyên trên Internet được kết nối và gắn kết với nhau như
một cơ thể sống làm cho người truy cập Internet không còn cảm giác cách
biệt do khoảng cách. Khi đang nghiên cứu tài liệu trên mạng, gặp một khái
niệm mới lạ, ta có thể truy cập Internet và có thể biết được trên thế giới hiện

đang có những tài liệu nào đề cập đến khái niệm đó, và ngay lập tức ta có thể
đọc tài liệu đó từ một điểm rất xa xôi trên thế giới. Sau đó lại trở lại đọc tiếp
tài liệu của mình. Sự gắn kết chặt chẽ của Internet còn làm cho con người
không còn cảm giác chia cắt khác biệt về các loại hình thông tin. Tất cả các
loại thông tin, như chữ, số, âm thanh, hình ảnh đều được trình diễn ngay cho
ta như ta mong muốn, dù rằng nó ở các điểm khác nhau đâu đó trên thế giới
của Internet.
Công nghệ Internet/Web sau khi ra đời đã được phổ biến nhanh chóng.
Để đạt mức 50 triệu người sử dụng, điện thoại phải mất 74 năm; radio mất 38
năm; máy tính cá nhân mất 16 năm; máy truyền hình mất 13 năm; còn
Internet chỉ mất có 4 năm. Số máy chủ và nước nối mạng cũng tăng rất nhanh.
Trang
13
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
Mặc dù phát triển như vũ bão, song thế hệ Internet hiện nay đang dùng
vẫn còn rất nhiều hạn chế so với yêu cầu của thương mại điện tử, của thực tế
ảo… Do đó từ 1995 hơn 150 trường đại học ở Hoa Kỳ hợp tác với nhau và
được sự hỗ trợ của Chính phủ và sự phối hợp của rất nhiều công ty hàng đầu
về công nghệ thông tin bắt đầu nghiên cứu thế hệ Internet mới gọi là Internet
2. Mục tiêu của Internet 2 là nhằm vào sự hỗ trợ ứng dụng công nghệ đa
phương tiện để phát triển thư viện điện tử, chẩn đoán từ xa và phòng thí
nghiệm ảo. Muốn vậy, tốc độ xử lý và truyền phải rất lớn, phải nhanh hơn
Internet hiện nay từ 100 đến 1000 lần. Hiện nay, Internet 2 đã đã đạt tốc độ
nhiều Gigabit trong một giây, đang được sử dụng ở nhiều nơi tại Hoa Kỳ. Với
Internet hiện nay ở nước ta, muốn lấy về một cuốn sách khoảng 1000 trang thì
cần khoảng 5-20 phút, nhưng với Internet 2 thì 1 giây truyền được 90.000 tập
bách khoa toàn thư Encyclopedia. Hiện nay các nước đang triển khai dự án
kết nối Internet 2 với châu Âu, châu Phi, châu Á. Khi Internet 2 được phổ cập
rộng rãi thì thương mại điện tử, chính phủ điện tử, làm việc từ xa (công xưởng
ảo), chữa bệnh từ xa, phòng thí nghiệm ảo, v.v… sẽ rất phát triển. Lúc đó sẽ

hình thành xã hội thông tin, hay gọi là xã hội mạng, xã hội số hoá.
Công nghệ thông tin phát triển với tốc độ đặc biệt nhanh chóng. Từ khi
chiếc máy tính ra đầu tiên ra đời đến nay tốc độ xử lý đã tăng 12 nghìn tỷ lần;
giá cả cũng giảm đi theo tốc độ tương ứng; trong khi đó kích thước máy tính
ngày càng nhỏ đi, việc sử dụng máy tính ngày càng dễ dàng, thuận lợi. Thêm
vào đó thông lượng của viễn thông cũng tăng theo tốc độ rất nhanh, giá cả của
nó cũng giảm rất nhanh. Chính nhờ những đặc điểm ấy mà công nghệ thông
tin đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, được sử dụng rất rộng rãi trong tất cả
các lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người, đến từng người dân, từ người
quản lý, nhà khoa học đến người nông dân, bà nội trợ, em bé học sinh tiểu
học. Không có lĩnh vực nào, không có nơi nào không có mặt của công nghệ
thông tin. Công nghệ thông tin xoá dần đi khoảng cách địa lý, rút ngắn thời
gian của các quá trình.
Mạng ARPAnet đến năm 1984 mới chỉ có một nghìn người dùng, năm
1993 cùng với sự bùng nổ công nghệ web, internet bắt đầu được dùng cho
mục đích thương mại, có một triệu người dùng; sau 10 năm (năm 2003) đã có
hơn 600 triệu người dùng, chiếm gần 10% dân số thế giới; đang chuẩn bị đưa
vào ứng dụng rộng rãi Internet 2 (và internet X) nhanh hơn internet hiện nay
từ 100 đến 1000 lần, cũng sắp có đường truyền với dung lượng đến hàng chục
Terabit/giây…; đang thử nghiệm máy tính quantum v.v… Công nghệ thông
tin đang hứa hẹn những khả năng vô tận. Khó mà hình dung cụ thể những
Trang
14
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
công nghệ gì sẽ có sau 5-10 năm. Điều chắc chắn là CNTT sẽ phát triển hết
sức nhanh chóng. Nếu trước đây khả năng của CNTT tới đâu thì con người
hầu như sử dụng hết tới đó, còn hiện nay thì khả năng của CNTT đã vượt quá
yêu cầu, mức độ sử dụng hiện tại của con người, và khoảng cách giữa sử
dụng và năng lực của CNTT sẽ ngày càng xa. Con người cần phải biết tận
dụng hết những khả năng do mình tạo ra cho sự phát triển của mình!

Những tiến bộ kỳ diệu trong công nghệ viễn thông đã nhanh chóng tăng
tốc và giảm giá các cuộc trao đổi, giao tiếp qua mạng. Theo Liên hiệp công
nghệ thông tin quốc tế, trong gần 2 thập kỷ qua, hệ thống cáp viễn thông
xuyên Đại Tây Dương tăng khả năng chuyển tải trung bình 64% và giá giảm
41% một năm. Năm 1970, chuyển tải bộ Từ điển Bách khoa Britanica 32
quyển từ New York đến San Francisco qua Internet mất 97 phút, và tốn 187
đôla Mỹ. Hiện nay, có thể gửi 8 bộ từ điển Bách khoa Britanica như thế trong
vòng 1 giây, chỉ tốn mấy chục cent; chuyển toàn bộ thông tin Thư viện Quốc
hội Hoa Kỳ giữa các bang qua hệ thống cáp quang chỉ tốn 40 đôla Mỹ. Phí sử
dụng đường truyền thông sẽ được tính trên khối lượng thông tin chuyển tải,
chứ không còn tính theo thời gian hay khoảng cách như trước đây nữa. Như
vậy, liên lạc với nhau trong cùng một thành phố hay giữa các châu lục về tốc
độ và về chi phí không khác gì nhau.
Trong mấy thập kỷ vừa qua công nghệ thông tin đã liên tục có những
bước phát triển vượt bậc, và tiếp tục có những tiến bộ dồn dập trong những
năm tiếp theo. Một số hướng chủ yếu của công nghệ thông tin được tập trung
nghiên cứu trong thời gian tới là:
- Sử dụng các vi mạch, chip điện tử có tốc độ xử lý, tính toán cao với
cấu trúc song song tạo nên cách tiếp cận khác hẳn so với việc sử dụng các bộ
vi xử lý truyền thống. Cách cấu trúc này, giống như bộ não con người, tiến
hành tổ chức thông tin theo mô thức, chỉ định các chức năng khác nhau cho
các bộ phận khác nhau, cho phép nhiều bộ vi xử lý cùng hoạt động đồng thời
trong một chế độ mạng song song linh hoạt được mô phỏng theo bộ não của
con người.
- Kỹ thuật số hoá, trong đó mọi tín hiệu dưới dạng âm thanh, chữ viết,
hình ảnh, sơ đồ biểu bảng… đều được mã hoá thành các nhóm tín hiệu 1 và 0.
Phương pháp số hoá giúp cho thông tin được truyền dẫn không bị nhiễu,
không bị méo tín hiệu, bớt sự tác động của môi trường điện từ bên ngoài, đảm
bảo chất lượng cao đối với mọi loại hình thông tin. Kỹ thuật số hoá phát triển
mạnh mẽ đã là một yếu tố quan trọng thúc đẩy việc phát triển siêu lộ thông

tin, truyền thông đa phương tiện và điện thoại có hình.
Trang
15
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
- Công nghệ LASER. Thông qua bộ lọc, các quang tử có cùng tần số,
bước sóng và cùng hướng có thể đi qua tạo nên một chùm ánh sáng có tần số
rất cao, hội tụ ở một điểm rất nhỏ và phát thành tia cực mảnh với công suất
cực lớn. Công nghệ laser được ứng dụng rộng rãi và rất hiệu quả trong các
lĩnh vực y tế (giải phẫu não, mắt, mổ các khối u với hiệu suất cao, khai thông
tắc nghẽn các động mạch…), vật lý thiên văn, công nghệ vũ trụ, công nghệ
thông tin (đầu đọc CD, chuyển tải tín hiệu trên cáp quang).
- Cáp sợi quang là vật liệu thuỷ tinh dạng sợi, được kéo thành những
dây cáp, gọi là cáp quang dẫn hay là cáp sợi quang, cấu tạo bởi hai loại thuỷ
tinh có hệ số khúc xạ khác nhau và loại có hệ số khúc xạ thấp bọc ở phía
ngoài để tia sáng laser khi đi trong sợi cáp không bị khuyếch tán ra bên
ngoài.Với công nghệ cáp sợi quang, thông lượng truyền tải tín hiệu có thể
tăng lên đến hàng trăm tỉ héc và khối lượng thông tin truyền đi có thể tăng lên
gấp hàng nghìn lần, tốc độ truyền dẫn có thể đạt tới trên 40 tỉ bit/giây, cho
phép đồng thời truyền hàng triệu kênh điện thoại.
- Công nghệ nén số hình ảnh. Để truyền tải những lượng thông tin
khổng lồ do kỹ thuật số hoá tạo ra, các thuật toán nén số đã cho phép giảm
khối lượng thông tin xuống hàng trăm, hàng nghìn lần. Công nghệ này đã
thúc đẩy việc nâng cao chất lượng và hiệu quả truyền thông và cuộc cách
mạng số hoá một cách thực sự.
- Công nghệ truyền tải không đồng bộ - ATM (Asynchronous Mode of
Transfer). Nhờ đơn giản hoá các tham số của gói thông tin và giảm thiểu hoá
công tác xử lý trên mạng trong quá trình truyền nên công nghệ ATM là một
kỹ thuật chuyển gói nhanh.
- Mạng thông tin số hoá đa dịch vụ băng rộng B-ISDN (Broad Band
Integrated Services Digital Network) cho phép thực hiện tất cả các ứng dụng

truyền tiếng nói, âm thanh, hình ảnh tĩnh, động và các dữ liệu, đồ hoạ, văn
bản, bảng biểu… có khả năng cung cấp đồng thời các dịch vụ truyền tin với
tốc độ thay đổi từ vài nghìn bit đến hàng tỉ bit/giây.
- Truyền thông đa phương tiện trong thế giới thông tin tương tác. Ngày
nay, máy tính không chỉ với chức năng xử lý thông tin đơn thuần mà còn là
một chiếc máy truyền thông đa phương tiện, máy “thông minh”, là nguồn kiến
thức và tri thức ngày càng đóng vai trò quan trọng trong giao tiếp người -
máy, giao tiếp giữa các đối tác nhanh chóng gần như tức thời không phụ
thuộc vào khoảng cách địa lý.
- Các hệ thống thông tin di động. Công nghệ viễn thông vũ trụ đang
Trang
16
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
được triển khai mạnh mẽ với các dự án xây dựng mạng thông tin toàn cầu. Hệ
thống thông tin di động với 840 vệ tinh thông qua một hệ thống các vệ tinh
quỹ đạo tầm thấp phủ quanh trái đất (trong khoảng 1.000 - 10.000km) đang
tạo ra cho hệ thống thông tin di động những bước phát triển đầy hứa hẹn vào
thời điểm bước sang thiên niên kỷ mới.
- Siêu lộ cao tốc thông tin. Với công nghệ viễn thông vũ trụ, công nghệ
truyền tải không đồng bộ ATM, mạng đa dịch vụ số hoá băng rộng và hệ
thống cáp quang toàn cầu đang tạo ra những tiền đề thuận lợi cho việc hình
thành các siêu lộ cao tốc thông tin hay còn được gọi là xa lộ thông tin điện tử
ngày càng phát triển mạnh mẽ.
4. Công nghệ thông tin và truyền thông - động lực của sự phát triển
Với sự ra đời của máy tính cùng nhiều thành tựu đột phá khác trong
công nghệ sinh học, khoa học vật liệu… vào những thập kỷ cuối thế kỷ 20 đã
diễn ra cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, mà đặc trưng nổi bật
của nó là cách mạng tri thức và cách mạng thông tin. Tác động của nó đên
mọi mặt đời sống xã hội loài người còn mạnh mẽ, sâu sắc hơn nhiều so với
các bước ngoặt lịch sử trước đây; máy móc không chỉ nhân lên sức mạnh cơ

bắp mà còn thay thế lao động trí óc của con người, nhân lên sức mạnh trí tuệ
con người. Nền kinh tế công nghiệp đang chuyển sang nền kinh tế tri thức;
nhiều biến động to lớn, sâu sắc trong mọi mặt của đời sống xã hội loài người
đang diễn ra hàng ngày. Tác nhân chủ yếu nhất của sự thay đổi đó là công
nghệ thông tin.
Trong 4 yếu tố quyết định nhất (còn gọi là 4 trụ cột) đối với trình độ
phát triển của một nền sản xuất: khoa học về sự sống, vật liệu, năng lượng và
thông tin, thì thông tin có ý nghĩa bao trùm hơn cả. Hiện nay công nghệ thông
tin đang hội tụ với công nghệ sinh học, công nghệ nano trở thành infornautic -
công nghệ chủ đạo của thế kỷ 21, hứa hẹn những đột phá to lớn trong phát
triển khoa học công nghệ và phát triển xã hội loài người.
Bất cứ hoạt động nào cũng cần có thông tin. Có thông tin đầy đủ, chính
xác mới có thể đi tới quyết định đúng và hành động đúng. Khi máy tính phát
triển đến giai đoạn tự động hoá xử lý thông tin thì thông tin sẽ cho ra tri thức
mới; trí tuệ nhân tạo phát triển giúp cho con người trở nên thông minh hơn, có
nhiều năng lực sáng tạo hơn. Khi vốn tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất
đối với sản xuất, là chỗ dựa chủ yếu của kinh tế - nền kinh tế dựa vào tri thức
- thì năng suất rất cao, công nghệ đổi mới nhanh, của cải dồi dào, lao động cơ
bắp giảm đi đến tối thiểu, đó là giai đoạn phát triển cao nhất của lực lượng sản
Trang
17
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
xuất xã hội. Hiện nay các nền kinh tế phát triển nhất đang hướng tới đó. Động
lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển đó là công nghệ thông tin.
Tác động của công nghệ thông tin đối với phát triển xã hội loài người
vô cùng to lớn: nó không chỉ thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế,
chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng kinh tế dựa vào tri thức, phát
triển bền vững, mà quan trọng hơn là thúc đẩy phát triển con người, phát triển
văn hoá, phát triển xã hội.
Mạng thông tin là môi trường lý tưởng cho sự sáng tạo, là phương tiện

quan trọng để quảng bá và nhân nhanh vốn tri thức – động lực của sự phát
triển, thúc đẩy phát triển dân chủ trong xã hội, phát triển năng lực con
người…
Thương mại điện tử thúc đẩy mạnh mẽ các ngành sản xuất dịch vụ trên
phạm vi toàn cầu; đặc biệt là nó có ý nghĩa rất quan trọng đối với các nước
đang phát triển, nhất là đối với các vùng xa xôi hẻo lánh, tạo cơ hội tiếp cận
với thị trường toàn cầu.
Giáo dục, đào tạo từ xa đang giúp nâng cao chất lượng các chương
trình giảng dạy và học tập, giúp cho mọi người có thể học tập suốt đời, phát
triển kỹ năng liên tục, thích ứng với sự phát triển ngày càng nhanh của khoa
học công nghệ.
Chính phủ điện tử, trên cơ sở điện tử hoá các hoạt động quản lý nhà
nước đang hình thành và trở nên ngày càng phổ biến. Mạng thông tin lớn và
mạnh có thể nối các cơ quan quản lý với đối tượng quản lý giúp cho quá trình
ra quyết định được thực hiện nhanh chóng, kịp thời và chính xác. Chính phủ
điện tử còn cho phép mọi người dân có thể dễ dàng tiếp cận các dịch vụ của
nhà nước, theo dõi, kiểm soát các hoạt động của nhà nước, khích lệ sự công
khai, minh bạch, trong sáng, thúc đẩy sự phát triển dân chủ, dân biết, dân bàn,
dân kiểm tra.
An ninh, quốc phòng cũng có những thay đổi cơ bản do tác động của
công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin đã tạo ra những thế hệ vũ khí,
phương tiện chiến tranh “thông minh”; từ đó xuất hiện hình thái chiến tranh,
phương thức tác chiến mới, làm thay đổi sâu sắc học thuyết quân sự của nhiều
quốc gia.
Công nghệ thông tin là nhân tố quan trọng nhằm đẩy nhanh quá trình
toàn cầu hoá. Mạng Internet làm cho thế giới ngày càng trở nên nhỏ bé. Tri
thức và thông tin không biên giới làm cho hoạt động kinh tế vượt ra khỏi
phạm vi quốc gia và trở thành hoạt động mang tính toàn cầu.
Trang
18

BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
Thế nhưng công nghệ thông tin cũng đang đặt ra những thách thức lớn!
Phát triển và ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin cùng với các
thành tựu khoa học công nghệ khác hiên nay đang có những tác động tiêu cực
đến quá trình phát triển chung của xã hội loài người. Công nghệ thông tin và
những công nghệ cao hiện nay chủ yếu do các nước tư bản phát triển, trước
hết là Hoa Kỳ nắm và chi phối. Với trật tự kinh tế thế giới do các siêu cường
áp đặt, sự phát triển khoa học công nghệ và công nghệ thông tin đã làm cho
khoảng cách thông tin và tri thức trên thế giới càng ngày càng lớn, dẫn đến sự
chênh lệch giầu nghèo, sự bất công, bất bình đẳng trên thế giới gia tăng nhanh
chóng. Chênh lệch giữa 20% những người giàu nhất thế giới so với 20%
người nghèo nhất năm 1913 là 11, năm 1960 là 30 lần, năm 1990 là 60 lần,
năm 1997 là 74 lần. Thu nhập bình quân đầu người của nước giàu nhất so với
nước nghèo nhất hiện nay là hơn 400 lần! (đầu thế kỷ 20 chênh lệch không
quá 10 lần). Vốn và công nghệ tập trung ở những người giàu, làm cho họ càng
giàu nhanh hơn! 20% dân số thế giới sống ở các nước có thu nhập cao nhất
chiếm 86% GDP thế giới và 93% số người sử dụng Internet; trong khi 20%
dân số nghèo nhất chỉ chiếm 1% GDP và chỉ có 0,2% người sử dụng Internet;
về thương mại thế giới thì con số trên là 82% so với 1%.
Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đã từng thừa nhận rằng tri thức không thể
bị chiếm hữu riêng, mà là tài sản công cộng của toàn xã hội; mọi người có
quyền truy cập và chia xẻ thông tin. UNESCO kiên trì với nguyên tắc: chế độ
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phải hài hoà với quyền được chia sẻ thông tin của
mọi người. Nếu không giải quyết thoả đáng vấn đề phân cực thông tin thì tình
trạng bất công, bất bình đẳng trên thế giới ngày càng trầm trọng. Hội nghị G8
ở Okinawa đưa ra tuyên bố sẽ tăng cường viện trợ cho các nước đang phát
triển để khắc phục khoảng cách thông tin (digital divide), nhưng việc thực
hiện nó còn đang ở phía trước.
Một vấn đề lớn khác cũng đang được đặt ra là làm sao ngăn chặn
những sản phẩm văn hoá không lành mạnh và nhất là giữ gìn bản sắc dân tộc

khi Internet phát triển. Điều đáng lo ngại là Internet sẽ làm mất đi bản sắc văn
hoá dân tộc, dễ làm cho các nền văn hoá trở nên pha tạp, lai căng không còn
là của chính mình nữa. Cần có biện pháp công nghệ và hành chính để kiểm
soát và ngăn chặn, nhưng quan trọng hơn là giáo dục truyền thống dân tộc, và
phát triển nền văn hoá mang bản bản sắc riêng của mình để có thể đứng vững
và phát triển trước sự xâm nhập các nền văn hoá khác. Cần đảm bảo hài hoà
giữa việc kiểm soát thông tin với quyền truy cập chia sẻ thông tin của mọi
người.
Trang
19
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
Đối với các nước đang phát triển, công nghệ thông tin không phải là
“liều thuốc tiên” chữa được bách bệnh. Phát triển công nghệ thông tin không
có nghĩa là ngay lập tức giải quyết được mọi vấn đề bức xúc về kinh tế, xã
hội; nhưng cần phải khẳng định là không thể lưỡng lự hay chờ đợi, vì như vậy
sẽ bỏ lỡ cơ hội, làm cho sự tụt hậu càng xa hơn nữa. Đầu tư để phát triển rất
tốn kém, nếu không cân nhắc kỹ lưỡng sẽ là sự lãng phí lớn. Vấn đề chủ yếu
của các nước đang phát triển trước hết là sử dụng CNTT có hiệu quả nhất cho
sự phát triển của mình.
Đứng trước những thách thức mới đó, mọi người cần có sự lựa chọn
thận trọng. Cần thiết có những cách thức mới trong làm việc, trong sản xuất
kinh doanh, cần có những hình thức mới về hợp tác, những kiểu tổ chức mới
về kinh tế xã hội và quan trọng nhất là có những cách suy nghĩ mới. Mọi
người, mọi tổ chức cần nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình.
5. Con đường đi tới xã hội thông tin
Với tiềm năng to lớn của công nghệ thông tin và truyền thông, trong
mọi lĩnh vực của đời sống con người, đã có thể có những lời giải đáp mới và
tốt hơn cho những vấn dề cơ bản và lâu dài được đạt ra như giảm nghèo, làm
tăng của cải, bảo vệ môi trường, cũng như tạo sự bình đẳng và công bằng xã
hội.

Tri thức luôn luôn là yếu tố quyết định của tiến bộ nhân loại. Ngày nay,
nhờ những thành tựu tuyệt vời của công nghệ thông tin và truyền thông, tri
thức mới phát triển bùng nổ và việc chia xẻ tri thức trở nên rất thuận lợi và
nhanh chóng, do đó vai trò động lực của tri thức đối với phát triển xã hội ngày
càng nổi bật, mang tính quyết định, đang hứa hẹn về một tương lai tốt đẹp của
xã hội loài người.
Khối lượng, tốc độ các dòng thông tin tăng lên nhanh chóng, công nghệ
thông tin đang tạo ra những biến đổi sâu sắc trong tổ chức quản lý, kinh
doanh, xã hội công dân và trong từng con người.
Công nghệ thông tin và truyền thông cần được coi như một công cụ,
một phương tiện, một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển và đổi mới;
chứ không phải chỉ là một ngành kinh tế kỹ thuật, càng không phải là mục
đích tự thân.
Chúng ta đang chứng kiến mọi nơi trên trái đất những thành tựu to lớn
về sử dụng thông tin và tri thức cho sự phát triển cộng đồng, xã hội và cá
nhân. Xã hội thông tin toàn cầu được hiểu là xã hội trong đó mọi người,
không có sự phân biệt, đều có quyền tự do trong việc tạo ra, thu nhận, chia xẻ
Trang
20
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
và sử dụng thông tin và tri thức cho sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá và
chính trị. Hiện nay chưa có tiêu chí rõ ràng cho một xã hội thông tin, nhưng
có thể dùng các chỉ số để dánh giá mức độ phát triên xã hội thông tin. Đó là:
- Cơ sở hạ tầng thông tin (từ mạng truyền thông radio, tivi đến
mạng viễn thông, internet…) phát triển, phủ đến làng xã, những
nơi xa xôi hẻo lánh, liên thông quốc tế; thông lượng lớn, giá rẻ,
thuận tiện,
- Số lượng radio, tivi, báo chí, điện thoại (cố định và di động)…
trên 100 dân,
- Số máy tính, số thuê bao internet trên 100 người dân,

- Trình độ học vấn của dân, số lượng người đi học trong độ tuổi ở
các bậc học, nhất là bậc sau trung học, số lượng người học tập tại
chức (học suốt đời)…
- Công nghệ thông tin được sử dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh
vực. Thực hiện chính phủ điện tử, thương mại điện tử, ngân hàng
điện tử, học tập điện tử, y tế điện tử, làm việc từ xa…
Nhiều nước đặt ra mục tiêu trở thành xã hội thông tin trước khi trở
thành xã hội tri thức và nền kinh tế tri thức. Coi xã hội thông tin là một tiền đề
cho nền kinh tế dựa vào tri thức với giá trị gia tăng rất cao. Hiện nay hầu hết
các nước đều có chiến lược phát triển công nghệ thông tin, hướng tới xây
dựng xã hội thông tin.
Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về xã hội thông tin (sẽ họp lần đầu vào
tháng 12/2003 tại Geneve) đang được tích cực chuẩn bị sẽ có ý nghĩa đặc biệt
trong việc thực hiện mục tiêu đó. Hội Nghị và lần hai vào năm 2005 tại Tunis;
sự kiện lớn đó đánh dấu bước phát triển mới trong hợp tác toàn cầu nhằm khai
thác tiềm năng của tri thức và công nghệ phục vụ sự phát triển cho tất cả mọi
người.
Hàng loạt những vấn đề rộng lớn, phức tạp mà loài người đang đối mặt
trong quá trình tiến tới một xã hội thông tin toàn cầu đang được đặt ra. Xu thế
phát triển xã hội thông tin toàn cầu hoá cũng như nền kinh tế tri thức toàn cầu
hoá là xu thế tất yếu. Nhưng con đường đi tới đó còn đầy chông gai trắc trở,
các dân tộc, các quốc gia phải hợp tác và đấu tranh để vượt qua, nhất là làm
thay đổi được “trật tự thế giới” hiện nay do những thế lực cường quyền,
những kẻ bóc lột thao túng, đang làm cho bất công xã hội, khoảng cách giàu
nghèo gia tăng nhanh chóng; tri thức và thông tin tập trung về cho những
nước giàu càng làm cho các nước giàu càng giàu lên nhanh chóng, các nước
Trang
21
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
nghèo càng khó khăn hơn trong phát triển. Hội nghị thượng đỉnh về xã hội

thông tin không thể không đề cập đến những vấn đề ấy nếu muốn thúc đẩy
quá trình tiến tới xã hội thông tin toàn cầu.
Có ba vấn đề mấu chốt nhất cần được giải quyết:
- Trước hết đòi hỏi phải có cách nhìn giống nhau về xu thế phát
triển hiện nay của cách mạng thông tin, cách mạng tri thức và tác
động của nó đến sự phát triển xã hội loài người; từ đó đặt cơ sở
cho một khuôn khổ hành động của toàn cầu hướng tới xã hội
thông tin.
- Cần tạo môi trường thuận lợi để các nước đều có thể tham gia thực
sự bình đẳng vào nền kinh tế toàn cầu hoá, chia xẻ các thành tựu
của cuộc cách mạng thông tin, truy cập thuận lợi vào kho thông tin
toàn cầu; và khuyến khích các nước đang phát triển xây dựng và
thực hiện những chiến lược điện tử phù hợp mục tiêu và nguồn lực
của mình.
- Các nước hợp tác với nhau để định ra những nguyên tắc cơ bản
cho các chính sách ở tầm quốc gia và khu vực về phát triển xã hội
thông tin; từ đó có thể đi tới thoả thuận về những nguyên tắc chính
quản lý xã hội thông tin toàn cầu.
6. Những nguyên tắc cơ bản để hình thành và phát triển xã hội thông
tin.
Hiện nay các nhà hoạch định chính sách, các nhà khoa học đang tranh
luận về những vấn đề có tính nguyên tắc sau đây:
- Truy cập vào thông tin và tự do thông tin là quyền cơ bản của con
người.
- Công nghệ thông tin là hạt nhân của xã hội thông tin, và giữ vai
trò quan trọng trong chống đói nghèo và bất bình đẳng trên toàn
cầu; để khắc phục khoảng cách số hoá một cách có hiệu quả cần
tạo cơ hội cho mọi người truy cập vào thông tin với giả rẻ.
- Để cho xã hội thông tin thực sự có lợi ích cho mọi người đòi hỏi
phải có môi trường dân chủ, minh bạch, phải có chính sách và

khuôn khổ luật pháp phù hợp.
- Trong xã hội thông tin, sáng tạo là động lực chủ yếu của sự phát
triển, tốc độ đổi mới diễn ra nhanh chóng, cho nên sự phát triển
khả năng con người là yêu cầu cơ bản và thường xuyên; giáo dục
Trang
22
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
và đào tạo, khoa học và công nghệ là yếu tố quyết duy nhất, phải
luôn luôn được đẩy mạnh.
- Tính đa dạng về văn hoá và ngôn ngữ là một tiêu chí của sự thành
công của xã hội thông tin; trong một xã hội đa dạng về văn hoá,
khả năng sáng tạo càng lớn, sản phẩm sáng tạo càng phong phú;
duy trì và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc là yếu tố hàng đầu
đảm bảo sự phát triển bền vững;
- Đảm bảo sự hài hoà giữa bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và nhu cầu
sử dụng thông tin của mọi người. (Trong trật tự thế giới hiện nay,
chế độ sở hữu trí tuệ thiên về bảo vệ lợi ích người sáng tạo, hạn
chế cơ hội chia xẻ, sử dụng thông tin của các nước đang phát
triển);
- Xã hội công dân, doanh nghiệp, doanh nhân giữ vai trò then chốt
trong việc sử dụng sức mạnh của thông tin cho sự phát triển bền
vững kinh tế, xã hội, văn hoá.
- Sự phát triển của mạng thông tin là yếu tố quan trọng nhất trong
xây dựng xã hôi thông tin toàn cầu, trong đó mọi người tham gia
bình đẳng. Độ tin cậy và tính an toàn của mạng là rất cần thiết cho
sự hoạt động bình thường của xã hội thông tin. Cần có biện pháp
bảo vệ tính riêng tư và độ tin cậy cho người dùng mạng thông tin
và phương tiện truyền thông.
Để tiến tới xã hội thông tin, cần thực hiện những chính sách và biện
pháp sau đây:

- Sử dụng hết tiềm năng của công nghệ thông tin cho phát triển: học
tập trên mạng (e-learning), chính phủ điện tử (e-government),
chữa bệnh từ xa (e-health), kinh doanh điện tử (e-business), và
trong rất nhiều lĩnh vực khác: nông nghiệp, dân số, môi trường
thiên nhiên, phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, dự báo
thời tiết…
- Khuyến khích tính đa dạng văn hoá và ngôn ngữ, nội dung thông
tin của các dân tộc, các địa phương, phát triển truyền thông đại
chúng:
- Tăng cường tính đa dạng văn hoá và ngôn ngữ trong sử dụng công
nghệ thông tin trên toàn thế giới, gìn giữ các tài liệu bằng các
ngôn ngữ khác nhau hiện đang sử dụng; bảo tồn các di sản văn
hoá; phát triển các khả năng tạo ra nội dung có chất lượng, bảo tồn
Trang
23
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
và sử dụng tri thức bản địa và truyền thống; kết hợp một cách sáng
tạo các phương tiện truyền thông khác nhau, bao gồm cả phương
pháp tương tác để cung cấp dịch vụ thông tin; làm việc với các
phương tiện truyền thông đại chúng để phổ cập việc sử dụng công
nghệ thông tin;
- Thông qua việc quản lý và phát triển nguồn nhân lực để phát triển
khả năng của con người; tăng cường năng lực thể chế và tổ chức
quản lý; tạo điều kiện cho con người hưởng lợi nhiều hơn từ công
nghệ thông tin, nhờ giáo dục và đào tạo;
- Thúc đẩy các chương trình phát triển kỹ năng công nghệ thông
tin; nâng cao năng lực đào tạo chuyên gia công nghệ thông tin; lập
các trung tâm công nghệ thông tin ở địa phương; phát triển năng
lực R&D về công nghệ thông tin;
- Tạo lập và tăng cường mạng thông tin điện tử tạo điều kiện cho

các nhà khoa học trao đổi thông tin rộng rãi hơn; tuyên truyền phổ
biến rộng rãi lợi ích công nghệ thông tin đối với sự phát triển bền
vững; tổ chức các chương trình năng cao nhận thức cho lãnh đạo.
- Đẩy mạnh cơ hội số hoá: mở rộng khả năng truy nhập, kết nối
mạng và phát triển kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin. Những
tiến bộ trong công nghệ thông tin tạo cơ hội thuận lợi để mọi
người có thể truy cập thông tin và tham gia mạng thông tin nhằm
nâng cao chất lượng cuộc sống.
 Phục vụ cho tất cả mọi cộng đồng, mọi tầng lớp xã hội.
 Tạo sự kết nối bền vững đến mọi làng xã, mọi cộng đồng,
nhất là đối với các quốc gia kém phát triển và những quốc
đảo nhỏ.
 Tạo những trung tâm cộng đồng về thông tin và truyền
thông ở nông thôn, ở những nơi xa xôi hẻo lánh.
 Đảm bảo sự truy cập bình đẳng các dịch vụ công nghệ
thông tin cho mọi người nhất là phụ nữ và thanh niên.
 Chú ý đến những nhu cầu riêng của những người yếu thế,
tàn tật, dân tộc thiểu số, bằng cách phát triển các công
nghệ các ứng dụng và nội dung phù hợp.
 Các thiết bị đầu cuối cho người dùng phải rẻ tiền, dề sử
dụng.
 Phát triển các doanh nghiệp và nhỏ.
Trang
24
BAN CHỈ ĐẠO CNTT CỦA CƠ QUAN ĐẢNG Tổng quan về CNTT
 Giảm giá truy cập các dịch vụ công nghệ thông tin nhất là
ở các nước đang phát triển, các quốc đảo nhỏ.
 Phát triển các thế hệ mới công nghệ thông tin.
 Có phương pháp theo dõi, có các chỉ số đánh giá khoảng
cách số hoá, bao gồm các chỉ số kết nối của cộng đồng.

- Tạo môi trường thuận lợi: Rất cần thiết tạo ra một môi trường
trong sáng, cạnh tranh và trung thực để cho các lợi ích của công
nghệ thông tin đạt tối đa:
 Hoạch định và thực thi các chiến lược hữu hiệu về phát
triển công nghệ thông tin ở cấp quốc gia và quốc tế.
 Có chính sách và chiến lược thu hút đầu tư cho kết cấu hạ
tầng và phát triển dịch vụ cho mọi người với giá thấp.
 Có chính sách thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và hiệu quả
trong việc tạo ra sản phẩm và dịch vụ công nghệ thông tin.
 Tăng cường sự tham gia của các nước đang phát triển vào
các diễn đàn quốc tế về chính sách công nghệ thông tin và
tạo cơ hội trao đổi kinh nghiệm.
 Mở rộng việc tham gia của tất cả mọi người vào việc quản
lý xã hội thông tin.
 Xây dựng khuôn khổ pháp lý minh bạch, ổn định ở qui mô
quốc gia và quốc tế cho sự phát triển xã hội thông tin.
 Có chính sách và chiến lược thúc đẩy phát triển thị trường
mở và cạnh tranh cho thương mại điện tử.
 Đẩy mạnh các sáng kiến nhằm đi tới cân đối giữa bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ với nhu cầu của người sử dụng thông
tin.
- Thúc đẩy sự tham gia và huy động các nguồn lực cho xã hội thông
tin
 Huy động sự tham gia của chính phủ, các tổ chức xã hội,
khu vực tư nhân vào xây dựng và thực hiện các dự án công
nghệ thông tin và truyền thông (ICT).
 Tạo ra các hình thức hợp tác mới cho phép mọi thành viên
đóng góp tích cực và có trách nhiệm vào quá trình ra quyết
định về kế hoạch và thực hiện các dự án ICT.
Trang

25

×