Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ Công tác dân vận của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.04 KB, 78 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ HƯƠNG

CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC ĐẢNG BỘ XÃ, THỊ
TRẤN Ở HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI, 2009
1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC ĐẢNG BỘ XÃ, THỊ TRẤN Ở
HUYỆN CHƯƠNG MỸ. THÀNH PHỐ HÀ NỘI – NHỮNG VẤN ĐÊ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN
1.1. Khái quát về huyện Chương Mỹ và các Đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương
Mỹ, thành phố Hà Nội.
1.2. Công tác dân vận cùa các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ, thành phố
Hà Nội - quan niệm, vai trò, nội dung, phương thức, đặc điểm.
Chương 2: CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC ĐẢNG BỘ XÃ, THỊ TRẤN Ở
HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI – THỰC TRẠNG, NGUYÊN
NHÂN VÀ KINH NGHIỆM.
2.1. Công tác dân vận của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ, thành phố
Hà Nội - Thực trạng và nguyên nhân.
2.2. Các kinh nghiệm chủ yếu.
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TĂNG
CƯỜNG CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC ĐẢNG BỘ XÃ THỊ TRẤN Ở HUYỆN


CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
3.1. Mục tiêu và phương hướng.
3.2. Những giải pháp chủ yếu.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIÊT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNH – HĐH :

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

PTTH

:

Phổ thông trung học

THCS

:


Trung học cơ sở

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lực lượng của dân rất to, việc dân vận rất
quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành
công” [50, tr.700]. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã đạt lên hàng đầu nhiệm vụ tập
hợp tất cả lực lượng không để sót một người nào, góp thành lực lượng toàn dân để thực
hiện những mục tiêu của cách mạng. Thực chất của công tác dân vận là xây dựng lực
lượng cách mạng. Không có lực lượng nhân dân đông đảo tham gia phong trào cách
mạng hăng hái, nhiệt tình thì cách mạng không thể thành công. Thực tiễn đấu tranh cách
mạng của Đảng và nhân dân ta trong tám mươi năm qua đã chứng minh đây là một
trong những nguyên nhân cơ bản đưa sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác. Vì vậy, Đảng phải thường xuyên, liên tục tiến hành
công tác dân vận, chăm lo lợi ích thực sự của nhân dân.
Trước yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, công tác dân vận góp
phần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo ra sức mạnh nội lực kết hợp với
sức mạnh bên ngoài, sức mạnh truyền thống với sức mạnh thời đại để thực hiện thắng
lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Mặt khác, công
tác dân vận còn phát huy tính tích cực, sáng tạo của nhân dân trong xây dựng Đảng,
chính quyền trong sạch vững mạnh, xây dựng hệ thống chính trị nước ta đáp ứng đòi hỏi
của nhân dân và yêu cầu mới của cách mạng. Do vậy, Đảng phải tăng cường công tác
dân vận, đặc biệt là công tác dân vận ở cấp cơ sở, bởi cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng pháp luật của Nhà nước và là nơi trực tiếp thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân.
Chương Mỹ là một huyện của Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội. Ngày nay, cùng với
nhân dân Thủ Đô, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Chương Mỹ, nhân dân Chương

Mỹ đang hăng hài thi đua xây dựng cuộc sống mới, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH,
tiến lên CNXH. Đảng bộ và nhân dân huyện Chương Mỹ quyết tâm đưa kinh tế của
huyện nhà phát triển, góp phần thực hiện mục tiêu chung của Thủ đô và cả nước.
Những năm qua, các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ đã có nhiều chủ
trương, biện pháp để tăng cường công tác dân vận, nhằm khơi dậy, phát huy tiềm năng
và sức mạnh to lớn của các tầng lớp nhân dân trong huyện; góp phần thực hiện thắng lợi
những mục tiêu kinh tế - xã hội. Những kết quả mà Chương Mỹ đạt được trong thời
gian qua là đáng ghi nhận, tuy nhiên tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng
và lợi thế, thu nhập bình quân đầu người chưa cao. Đặc biệt việc thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở (nay là Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn) còn nhiều
khuyết điểm; không ít nơi cấp uỷ, chính quyền cơ sở chưa nhạy bén, kịp thời nắm bắt
tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; những vấn đề bức xúc của dân chưa
được giải quyết kịp thời; một số nơi lòng tin của nhân dân đối với tổ chức đảng, chính
4


quyền giảm sút ... Những thành công và hạn chế nêu trên có liên quan mật thiết với chất
lượng và hiệu quả của công tác dân vân của các đảng bộ xã, thị trấn.
Từ tình hình nêu trên, qua thực tiễn công tác, tôi chọn đề tài “Công tác dân vận của
các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện
nay” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ, chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam, với hy vọng sẽ đóng góp một phần nhằm nâng cao chất lượng công tác dân vận
của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội trong giai đoạn
CNH, HĐH đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công tác dân vận là một trong những mảng hoạt động lớn của Đảng Cộng sản Việt
Nam, do đó đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, tổng kết được công bố liên quan đến
đề tài này. Năm 1990, cuốn sách Tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân của
tác giả Vũ Oanh (nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, phụ trách công tác dân vận) được
Nhà xuất bản Sự thật phát hành. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, nguyên Tổng Bí thư của

Đảng cũng cho ra đời tác phẩm Đổi mới công tác quần chúng vào năm 1991. Năm
1999, Ban Dân vận Trung ương cho xuất bản cuốn Sơ thảo lịch sử công tác dân vận của
Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-1996). Đây là công trình nghiên cứu lớn nhất, có ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn; đã dựng lại quá trình thực hiện công tác dân vận của
Đảng qua các thời kỳ cách mạng. Năm 2006, Trung tâm nghiên cứu Khoa học Dân vận
thuộc Ban Dân vận Trung ương xuất bản cuốn 75 năm công tác dân vận của Đảng - Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn. Đây là công trình hình thành trên cơ sở những bài tham
luận tại Hội thảo 75 năm công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam, thu hút sự
tham gia của nhiều nhà lãnh đạo, các nhà khoa học. Cuốn sách đã phác họa bức tranh
toàn cảnh về công tác dân vận, làm rõ những quan điểm của Đảng về công tác dân vận,
trao đổi những kinh nghiệm và phương pháp vận động các giai cấp, tầng lớp nhân dân
qua mỗi thời kỳ cách mạng và giới thiệu thực tiễn công tác dân vận ở một số địa
phương tiêu biểu.
Một số công trình nghiên cứu cũng được thực hiện về đề tài công tác dân vận như:
Công tác vận động nông dân của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước
(Luận án tiến sĩ của Lê Kim Việt, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002);
Công tác vận động giáo dân của tổ chức cơ sở đảng (cấp xã) ở đồng bằng Bắc bộ nước
ta hiện nay (Luận án tiến sĩ của Hoàng Mạnh Đoàn, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 2002); Công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình thực hiện
đường lối đổi mới 1986-1996 (Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Ngọc Mai, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002); Kinh nghiệm công tác quần chúng của Đảng ta
ở căn cứ địa Tân Trào trong Cách mạng Tháng Tám (Luận vãn thạc sỹ của Lê Quang
Hoà, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1996); Nâng cao chất lượng công tác
dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới (Luận văn thạc sỹ của Vũ
5


Dũng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1998); Năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của đảng bộ xã ở tỉnh Hà Tây hiện nay - thực trạng và giải pháp (Luận văn thạc sỹ
của Tạ Thị Minh Phú, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004) .v.v... Các công

trình này đã góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác dân vận của Đảng
trong các thời kỳ cách mạng.
Ngoài ra, hàng tháng Ban Dân vận Trung ương cũng cho phát hành Tạp chí Dân
vận. Đây được coi là cuốn cẩm nang nghiên cứu lý luận và hướng dẫn nghiệp vụ của
Ban Dân vận Trung ương. Các tổ chức Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ
nữ... cũng đã xuất bản những tờ báo, tạp chí làm cơ quan ngôn luận, tuyên truyền các
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và vận động đoàn viên, hội viên của tổ
chức mình.
Về phần lịch sử đảng bộ huyện, cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Chương Mỹ đã xuất
bản được 2 tập, phản ánh các mặt hoạt động của đảng bộ từ năm 1930 cho tới 12/ 2007,
nhưng không chuyên sâu về công tác dân vận. Những năm gần đây, các địa phương
cũng cho ra đời một số cuốn Lịch sử đảng bộ xã, thị trấn. Trên một số tờ báo, tạp chí
như báo Nhân dân, báo Nông nghiệp Việt Nam, báo Lao động, báo Pháp luật, báo Hà
Tây... cũng có một số bài nghiên cứu về Chương Mỹ thuộc các lĩnh vực như: tình hình
phát triển kinh tế - xã hội, công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị..., công
tác dân vận tuy có được đề cập nhưng còn mức độ, chưa hệ thống. Như vậy, có thể nói,
cho đến nay chưa có một công trình chuyên khảo nào đi sâu nghiên cứu về công tác dân
vận của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ. Nội dung của luận văn này bước
đầu nghiên cứu một cách toàn diện, cụ thể về công tác dân vận của các đảng bộ xã, thị
trấn trên phạm vi địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận, khảo sát thực tế, luận văn đề xuất những giải pháp chủ yếu
nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác dân vận của các đảng bộ xã, thị trấn ở
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và của Đảng ta về công tác dân vận.
- Đánh giá đúng thực trạng công tác dân vận của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện
Chương Mỹ, thành phố Hà Nội, tìm ra một số nguyên nhân của thực trạng ấy.

- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng công tác dân vận của
các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước.
4. Đối tượng và phạm vỉ nghiên cứu của luận văn

6


- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác dân vận của các đảng bộ xã, thị
trấn ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn bao gồm các chủ trương, nghị quyết của các
đảng bộ xã, thị trấn và thực trạng công tác dân vận ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà
Nội từ năm 2005 đến nay và từ nay đến 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hổ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng và các nghị quyết của Đảng bộ
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội về công tác dân vận.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng công tác dân vận của các đảng bộ xã,
thị trân ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội trong thời gian qua. Đồng thời luận văn
cũng căn cứ vào yêu cầu và nhiệm vụ của đảng bộ và nhân dân huyện Chương Mỹ trong
công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của huyện.
- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn là kết
hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, kết hợp chặt chẽ phương pháp lịch sử với
logic, phân tích và tổng hợp. Đồng thời luận văn cũng sử dụng phương phấp khảo sát
thực tế, xử lý số liệu thống kê.
6.

Những đóng góp về khoa học của luận văn

Qua nghiên cứu, luận văn làm rõ bối cảnh, điều kiện và đặc điểm của công tác dân

vận của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội trước yêu cầu
nhiệm vụ mới; chỉ ra những căn cứ khoa học, thực tiễn của việc nâng cao chất lượng
công tác dân vận của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các tổ
chức đảng, Ban Dân vận ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội trong công tác dân
vận. Đồng thời có thể phục vụ cho việc học tập, giảng dạy ở Trường Đào tạo cán bộ Lê
Hồng Phong, các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp quận, huyện của thành phố Hà Nội.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương, 6 tiết.

7


Chương 1
CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC ĐẢNG BỘ XÃ, THỊ TRẤN Ở HUYỆN
CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN CHƯƠNG MỸ VÀ CÁC ĐẢNG BỘ XÃ, THỊ
TRẤN Ở HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1.1.

Khái quát về huyện Chương Mỹ

1.1.1.1. Đặc điểm địa lý và tình hình dân cư
Chương Mỹ là một trong những huyện lớn, đông dân của tỉnh Hà Tây cũ, nay
thuộc thành phố Hà Nội. Địa bàn huyện Chương Mỹ nằm bên hữu ngạn của dòng Sông
Đáy, liền kề với miền rừng núi Hoà Bình và cách trung tâm Hà Nội 20km; là cửa ngõ ra

vào giữa miền rừng núi Tây Bắc với vùng đồng bằng châu thổ Sông Hồng, là địa bàn
trọng điểm có vị trí quan trọng về kinh tế, quân sự, cửa ngõ phía Tây Nam của Thủ đô
Hà Nội; có đường quốc lộ 6A, 21A, đường 80 và đường sông (Sông Bùi và Sông Đáy)
chạy qua.
Phía Bắc huyện Chương Mỹ tiếp giáp với hai huyện Hoài Đức và Quốc Oai. Phía
Nam giáp với địa bàn huyện Mỹ Đức và một phần của huyện Ứng Hoà. Phía Đông
huyện có dòng Sông Đáy mà bên kia sông là địa phận huyện Thanh Oai. Phía Tây tiếp
giáp với huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình.
Địa dư hành chính huyện Chương Mỹ có từ mùa hạ, tháng tư năm Đồng Khánh thứ
ba 1888. Đây là huyện có địa hình vừa mang đặc trưng của vùng đồng bằng châu thổ
Sông Hồng, vừa mang đặc trưng của vùng bán sơn địa. Một số vùng phía Tây Bắc giáp
ranh với Hoà Bình và khu vực tiếp giáp với Quốc Oai, Ba Vì có địa hình gò đồi, nhưng
ngay chân các vùng gò đồi này là cả một vùng trũng như một thung lũng của các ngọn
núi cao xung quanh. Phía Đông Nam, nhất là vùng ven lưu vực sông lớn, là vùng đất
phù sa tương tự vùng châu thổ Sông Hồng. Tuy nhiên vẫn là vùng đất thấp, vì thế mà
nơi đây là rốn nước của các con sông lớn từ thượng nguồn đổ về và là huyện phân lũ
của Trung ương, khi sức đê Sông Hồng quá tải.
Tổng diện tích tự nhiên của Chương Mỹ là 22.862 ha, trong đó đất nông nghiệp là
14.371 ha. Huyện có 32 đơn vị hành chính: 30 xã, 02 thị trấn, với 213 thôn, cụm dân cư;
chia thành 3 vùng kinh tế rõ rệt: vùng bán sơn địa, vùng bãi và vùng trũng.
Vùng bán sơn địa, giới hạn bởi phía Bắc và Đông Bắc giáp bờ hữu Sông Tích và
Sông Bùi; gồm 10 xã, thị trấn (Thuỷ Xuân Tiên, Xuân Mai, Tân Tiến, Nam Phương
Tiến, Hoàng Văn Thụ, Hữu Văn, Mỹ Lương, Trần Phú, Đồng Lạc, Hồng Phong); diện
tích đất tự nhiên có 9.842,36 ha trong đó có 384 ha đất canh tác. Các xã vùng này
thường chịu ảnh hưởng lũ rừrig Ngang của dãy núi Hoà Bình. Địa hình rất phức tạp, đất
đai xen kẹp và bị chia cắt bởi các khu vực đồi gò thấp với các ô trũng, chằm sâu và các
dòng suối nhỏ, các đường tràn thoát lũ của hai hồ chứa nước lớn (hồ Đồng Sương, hồ
8



Văn Sơn). Chạy dọc vùng đất bán sơn địa là quốc lộ 21A, có hơn 10km thuộc đoạn đầu
đường Hồ Chí Minh. Thế mạnh của vùng đất bán sơn địa là có nhiều tiềm năng phát
triển kinh tế trang trại, phát triển thương mại, dịch vụ, phát triển du lịch sinh thái vùng
hồ.
Vùng bãi ven Đáy, giới hạn bởi đê hữu Đáy và dòng Sông Đáy, gồm 8 xã (Phụng
Châu, Thuỵ Hương, Lam Điền, Hoàng Diệu, Thượng Vực, Văn Võ, Phú Nam An, Hoà
Chính); với tổng diện tích tự nhiên là 5.052,83 ha, trong đó 3.083,217 ha đất canh tác và
dãy núi Tử Trầm có di tích lịch sử văn hoá chùa Trầm, động Long Tiên (hang Rồng),
chùa Vô Vi. Đây là vùng đất màu mỡ, có nhiều tiềm năng phát triển cả lúa và màu, nhất
là phát triển các loại cây ăn quả, các loại cây rau, mầu có giá trị kinh tế cao; có tiềm
năng phát triển khu du lịch tâm linh, sinh thái và vui chơi giải trí.
Vùng trũng giữa huyện, từ bên tả Sông Bùi, Sông Tích đến giáp các xã vùng hữu
Sông Đáy gồm 14 xã, thị trấn (Đồng Phú, Quảng Bị, Tốt Động, Hợp Đồng, Đại Yên,
Ngọc Hoà, Chúc Sơn, Tiên Phương, Phú Nghĩa, Trường Yên, Trung Hoà, Thanh Bình,
Đông Phương Yên, Đông Sơn); diện tích đất tự nhiên 7.966,81 ha, trong đó 1.978,31 ha
đất canh tác. Vùng này có quốc lộ 6A chạy qua; nối liền Thủ đô Hà Nội với vùng Tây
Bắc bao la; là vùng có nhiều làng nghề, đặc biệt có xã Tiên Phương nằm trên một dãy
núi trù phú hữu tình với chùa Trăm Gian nổi tiếng (xây dựng từ thời Lý Cao Tông1185). Vùng đất này vừa có nhiều tiềm năng phát triển lúa có năng suất, chất lượng cao;
vừa có nhiều tiềm năng phát triển các điểm cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; phát
triển du lịch tâm linh, sinh thái, du lịch làng nghề.
Năm 2009, Chương Mỹ với số dân 28,5 vạn người, gồm 2 dân tộc: Kinh, Mường.
Toàn huyện Chương Mỹ có 2 tôn giáo chính là đạo Thiên chúa giáo và đạo Phật với 4
vạn tín đồ, chiếm 14% dần số. Có 216 cơ quan, đơn vị sự nghiệp, 12 doanh nghiệp nhà
nước, 366 doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác hoạt động trên địa bàn
huyện.
Cư trú trên một địa bàn có vị trí và tiềm năng kinh tế, qua nhiều thế hệ, lao động và
tài năng của nhân dân đã sáng tạo nên nhiều công trình có giá trị văn hóa và nghệ thuật
đặc sắc như: Chùa Trăm Gian ở Tiên Phương, chùa Trầm, chùa Hoa Nghiêm ở Phụng
Châu đình Ninh Sơn, đình Chúc Sơn, đình Lễ Khê ... Hầu như làng xã nào ở Chương
Mỹ cũng có đình chùa, nơi sinh hoạt văn hoá tâm linh, lễ hội của nhân dân.

Đóng góp vào nền văn hóa của dân tộc, Chương Mỹ cũng là đất đã sinh ra và nuôi
dưỡng tài năng lỗi lạc làm rạng rỡ cho quê hương, cho dân tộc như: Trần Khải, Ngô Sĩ
Liên, Nguyễn Sỹ Chiêu, Đặng Thái Sơn...
Nhân dân Chương Mỹ có niềm tự hào chính đáng về những truyền thống vẻ vang
lâu đời của quê hương mình trong quá trình dựng nước, giữ nước của dân tộc. Trong hai
cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, đánh đuổi thực dằn Pháp và đế quốc Mỹ xâm

9


lược, Đảng bộ và nhân dân huyện Chương Mỹ vinh dự được Đảng và Nhà nước phong
tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Với những đặc điểm nêu trên, thời kỳ lịch sử nào, vùng đất Chương Mỹ cũng có
thế mạnh để phát triển về mọi mặt.
1.1.1.2. Thành tựu kinh tế - xã hội những năm qua
Những năm qua, kinh tế trong huyện có bước tăng trưởng khá. GDP của huyện
năm 2005: 13,5%; năm 2006: 15,4%; năm 2007: 15,8%; năm 2008: 15,7%; ước thực
hiện năm 2009: 12,2%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2005: 4,89 triệu đồng; năm
2006: 5,77 triệu đồng; năm 2007: 7,03 triệu đồng; năm 2008: 8,75 triệu đồng; ước thực
hiện năm 2009: 9,76 triệu đồng. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực: năm 2008
tỷ trọng của ngành nông - lâm - ngư nghiệp: 34,6%; Công nghiệp- tiểu thủ công nghiệpxây dựng: 39,7%; Thương mại- dịch vụ: 22,7% (xem phụ lục 1). Các chương trình kinh
tế dự án của Trung ương, của thành phố và của huyện đã và đang triển khai thực hiện có
hiệu quả.
Sản xuất nông nghiệp từng bước được phát triển theo hướng bền vững, hiệu quả,
từng bước tạo sản phẩm hàng hoá, góp ổn định và cải thiện đời sống nhân dân nông
thôn. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng được quan tâm, tập trung chỉ đạo. Huyện chủ trương
phá bỏ thế độc canh cây lúa để tiến tới đa canh, thích ứng với địa hình đa dạng của địa
phương. Trước hết, Chương Mỹ xây dựng chương trình sản xuất lúa hoá 1000 ha ở 7 xã
vùng đồng trũng có điều kiện thâm canh đạt năng suất cao, đồng thời có kế hoạch
chuyển đổi diện tích trồng lúa thuộc vùng đất bãi, vùng cao sang trồng màu và trồng cây

công nghiệp. Các xã vùng đồng trũng đã chuyển một phần diện tích lúa bấp bênh sang
mô hình 1 lúa + 1 cá + chăn nuôi gia cầm, đưa diện tích chuyển đổi theo công thức này
là 369 ha và bước đầu khẳng định được kết quả cao hơn so với trồng lúa trước đây. Đã
triển khai xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng/ ha với diện tích 82 ha, bước đầu cho thu
hoạch từ 50- 80 triệu đồng. Tổng giá trị sản xuất của ngành trồng trọt năm 2008 đạt 274
tỷ đồng (tăng 11,8% so với năm 2005).
Chăn nuôi có bước phát triển mạnh, tập trung vào mô hình lợn hướng nạc, bò lai
Sind, bò sữa, gia cầm, thuỷ cầm. Tổng đàn lợn có 117.300 con, bên cạnh là đàn trâu
3.030 con, đàn bò 15.600 con, có 145 trại chăn nuôi gia cầm với số lượng bình quân từ
6.000- 10.000 con/lứa/trại, tổng đàn gia cầm với số lượng bình quân 3 triệu con/năm.
Năm 2008 giá trị sản xuất ngành chăn nuôi đạt 250 tỷ đồng.
Thực hiện chủ trương CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, những năm qua huyện
đã tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp, nông thôn, sử dụng các nguồn
vốn có hiệu quả nhằm hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng như giao thông, thuỷ lợi, kiên
cố hoá kênh mương ... từng bước nâng cao mức sống của nhân dân, để phát triển nông
nghiệp, nông thôn một cách toàn diện. Đến nay, 100% số xã, thị trấn trong huyện có
đường ô tô đến trung tâm. Đường bộ nông thôn được đầu tư xây dựng bằng bê tông.
10


Tổng số đường giao thông nông thôn thuộc xã, thị trấn quản lý là 606 km, trong đó
đường có lớp mặt rải nhựa, bê tông xi măng hoặc lát gạch là 209,3 km còn lại là đường
cấp phối và đường đất.
Về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: huyện đã quan tâm, tích cực khôi phục làng
nghề mới ở nông thôn trên quy mô toàn diện, đưa nghề đan mây, tre, giang xuất khẩu
thành thế mạnh của địa phương. Năm 2007, huyện có 29 làng được tỉnh công nhận là
làng nghề, tăng 18 làng so với năm 2002; 75% số làng có nghề. Kim ngạch xuất khẩu
của các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp ngày càng tăng lên trong những năm gần đây
càng thúc đẩy hướng đi nhanh, mạnh hơn. Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp xây dựng cơ bản có bước phát triển mạnh, tốc độ tăng trưởng khá, bình quân
21,1%/năm. Toàn huyện đã quy hoạch được 2 khu công nghiệp và 13 điểm công nghiệp

- tiểu thủ công nghiệp với diện tích 780 ha. Năm 2007, đã có 32 dự án đầu tư vào huyện
với tổng diện tích 1.243,5 ha, đặc biệt là dự án trục phát triển kinh tế Bắc - Nam và khu
đô thị sinh thái huyện Chương Mỹ với 946 ha. Đến nay, đã có 366 công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần và tổ hợp sản xuất đang hoạt động sản xuất kinh doanh trên
địa bàn huyện, thu hút và giải quyết việc làm cho trên 50.000 người lao động. Giá trị
sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản nãm 2008 đạt 470 tỷ
đồng. Giá trị sản xuất thương mại - dịch vụ năm 2008 đạt 425 tỷ đồng. Thu ngân sách
huyện đạt 70,401 tỷ đồng.
Trên mặt trận xoá đói, giảm nghèo, huyện đã đẩy mạnh công tác lập sổ bảo hiểm,
cấp 100% giấy chúng nhận hộ nghèo (chiếm 11,8% số hộ trong huyện) để người nghèo
có cơ hội được hưởng các chính sách xã hội, chăm sóc sức khoẻ và một số ưu đãi khác,
nhanh chóng vượt qua khó khăn vươn lên trong cuộc sống. Hàng năm, huyện tiết kiệm
chi ngân sách hỗ trợ xoá nhà dột nát, hộ nghèo. Từ năm 2005 đến nay hỗ trợ xây gần
130 nhà tình nghĩa, với số kinh phí 2.613 triệu đổng; tặng 1.522 sổ tiết kiệm tình nghĩa,
mỗi sổ trị giá từ 200.000- 500.000 đồng; huy động được 1.470 triệu đồng quỹ đền ơn
đáp nghĩa... Do vậy đã góp phần thu hẹp dần khoảng cách về mức sống của nhân dân ở
nông thôn, từng bước xây dựng nông thôn mái giàu đẹp.
Về y tế, trong những năm qua, huyện đã làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ ban
đầu cho nhân dân với 100% số xã, thị trấn có trạm y tế có bác sĩ, y sĩ sản khoa và kiện
toàn bước đầu đội ngũ nhân viên y tá thôn đội (113/213 thôn). Mục tiêu của các chương
trình y tế quốc gia, y tế dự phòng đều được thực hiện tốt, đạt và vượt kế hoạch được
giao, không để dịch bệnh lớn xảy ra. Hàng năm, công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em
cũng được chăm sóc thường xuyên với tỷ lệ trẻ em tiêm chủng 6 loại vắc xin luôn đạt
99,6199,8%; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng năm 2008 còn 19%; 6/32 trạm y tế đạt chuẩn
quốc gia đạt 19% tổng số trạm y tế trong huyện.
Nhân tố con người luôn giữ vai trò quan trọng, Chương Mỹ luôn dành sự lựa chọn
hàng đầu cho đầu tư xây dựng, đổi mới cơ sở hạ tầng và trang thiết bị cho các ngành
11



giáo dục 4 đào tạo. Toàn huyện có 100% trường THCS và 82,5% số trường tiểu học
được xây dựng cao tầng. Tiếp bước truyền thống giáo dục của một địa phương luôn là lá
cờ đầu nhiều năm liền của ngành giáo dục, tỷ lệ học sinh lên lớp, tốt nghiệp ở các cấp
học, ngành học hàng năm đều đạt trên 99%, số trường đạt chuẩn quốc gia là 14 trường
đạt 17,7% tổng số trường trong huyện.
Phong trào xây dựng làng văn hoá, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp văn hoá, gia
đình văn hoá được phát động khá sâu rộng. Toàn huyện có 88% số làng xây dựng quy
ước làng văn hoá; 30% số làng được công nhận làng văn hoá, 75% số hộ được công
nhận gia đình văn hoá. Hệ thống đài truyền thanh từ huyện đến cơ sở được nâng cấp cải
tạo. Chất lượng, nội dung chương trình phát thanh được nâng lên, phục vụ tốt công tác
tuyên truyền thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Phong trào thể dục thể thao tiếp tục phát triển, các môn thể thao truyền thống được
chú trọng. Các hoạt động thể dục thể thao, rèn luyện thân thể đã thu hút hàng vạn người
tham gia, nhiều địa phương đã trở thành phong trào của quần chúng. Trong 5 năm gần
đây đã giành 210 huy chương các loại và đóng góp được nhiều vận động viên tham gia
thi đấu ở tỉnh và quốc gia.
Hoạt động bưu chính viễn thông có nhiều chuyển biến, từng bước đầu tư mở rộng
địa bàn hoạt động. Đến nay 100% xã, thị trấn có điện thoại, bình quân 9 máy/100 người.
Mạng lưới phát hành báo chí cơ bản đáp ứng nhu cầu thông tin xã hội và phục vụ cho sự
lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của cấp uỷ, chính quyền các cấp trong huyện.
Cùng với nâng cao dân trí, huyện đã tổ chức bồi dưỡng về kiến thức khoa học - kỹ
thuật, kiến thức quản lý nhà nước cho 17.000 lượt cán bộ cơ sở thôn, xã, thị trấn; huyện
tiếp tục xây dựng nguồn cán bộ cho hệ thống chính trị trong những năm tiếp theo. Có
thể nói, đây cũng là nhân tố quyết định, đặt nền tảng cho những bước đi vững chắc của
huyện Chương Mỹ trong hiện tại và tương lai.
Huyện Chương Mỹ hôm nay đang tạo thế đứng chân kiềng: nông nghiệp kết hợp
với sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ - thương mại và đầu tư cho thế
hệ trẻ. Tất cả đều hướng tới mục tiêu: làm giàu và vững bước trong tiến trình hội nhập.
Nhìn bức tranh toàn cảnh Chương Mỹ ngày hôm nay, có thể thấy, hầu hết những chỉ tiêu
quan trọng mà huyện uỷ và các cấp chính quyền đề ra theo quy hoạch phát triển tổng thể

kinh tế — xã hội đến 2010, ở thời điểm này, đều đạt và vượt mức so với tiến độ.
1.1.1.3 Thực trạng đời sống nhân dân và những vấn đề bức xúc đang đặt ra trong
nông thôn huyện Chương Mỹ
Nhân dân Chương Mỹ cần cù, giản dị, trung thực, có bề dày truyền thống văn hoá,
đoàn kết trong lao động sản xuất, xây dựng quê hương và chống ngoại xâm. Kinh tế
nông nghiệp là nguồn sống chủ yếu của người dân trong huyện. Một số làng có các
nghề như mây tre đan ở Phú Vinh; đục đá, nung vôi ở Long Châu, khâu nón lá ở Văn
La, Mỗ Xá; kéo mía làm mật ở một số làng ven sông Đáy ... Tuy nhiên, nghề thủ công ở
12


Chương Mỹ phần lớn mang tính chất nghề phụ. Nhiều người, nhiều gia đình làm nghề
thủ công nhưng không tách khỏi làm ruộng.
Nhiều năm qua, sự tiến bộ trong sản xuất, kinh doanh của nhân dân cũng như
những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước đã góp phần làm cho đời sống của đại
bộ phận nhân dân trong huyện được cải thiện và nâng lên khá rõ rệt. Thu nhập của đại
bộ phận nhân dân trong huyện đã tăng khá do phát triển được sản xuất, dịch vụ. Một bộ
phận có thu nhập cao và tăng nhanh là các hộ phát triển kinh doanh dịch vụ tổng hợp và
phát triển kinh tế trang trại, phát triển thành doanh nghiệp tư nhân. Thu nhập tăng nên
đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao, hộ khá và giàu tăng nhanh, hộ nghèo
giảm nhiều, hộ đói không còn. Nhìn chung, điều kiện sống và sinh hoạt, làm việc của đa
số nhân dân trong huyện đã được cải thiện. Nhà ở của đa số hộ nhân dân đã khang trang
hơn; số hộ có nhà kiên cố, nhà mái bằng tăng khá nhanh. Phần nhiều số hộ đã mua sắm
được những vật dụng có giá tri như xe máy, ti vi, tủ lạnh ... số hộ có điện thoại ngày
càng tăng. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ nhân dân, nhất là nông dân còn có đời
sống thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần. Thu nhập của nông dân vẫn thấp và chênh
lệch khá nhiều so với các bộ phận dân cư khác; điều kiện sinh hoạt và làm việc của
nông dân còn khá nhiều vất vả, nặng nhọc, lao động thủ công là chính. Một bộ phận vẫn
phải sống trong những căn nhà tạm bợ, điều kiện sinh hoạt thấp kém so với mặt bằng
chung của xã hội. Đây là vấn đề đặt ra đòi hỏi các cấp uỷ đảng, chính quyền phải có

những giải pháp thiết thực để giúp đỡ nhân dân vượt qua khó khăn, nâng cao đời sống.
Đời sống văn hoá, giáo dục, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ở huyện Chương Mỹ
những năm qua đã được quan tâm hơn. Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, lễ hội truyền
thống, phong trào thể dục thể thao phát triển đều khắp các xã, thị trấn trong huyện, bước
đầu đáp ứng một phần nhu cầu thưởng thức văn hoá, văn nghệ, thể thao của nhân dân.
Phong trào xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá; thực hiện nếp sống văn minh
trong việc cưới, việc tang và lễ hội được đẩy mạnh. Các phong tục tập quán lạc hậu, tệ
nạn cờ bạc, mê túi dị đoan ... được khắc phục dần. Đến nay, 100% xã, thị trấn đều có
bưu điện và mạng lưới truyền thanh; 100% xã, thị trấn có nhà văn hoá xã; có 83 nhà văn
hoá thôn, khu dân cư (đạt 35,5%); có 45 thôn, cụm dân cư có phương tiện truyền thanh
(đạt 19,23%). Hầu hết các hộ dân đều có ti vi hoặc ra-đi-ô. Số hộ có máy điện thoại cố
định ngày càng tăng.
Sự phát triển của cơ sở hạ tầng văn hoá - xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhân
dân trong huyện tiếp cận được nhanh hơn, nhiều hơn với thông tin kinh tế - xã hội, với
khoa học - kỹ thuật phục vụ sản xuất và đời sống. Đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước đến vói nhân dân đầy đủ, kịp thời hơn.
Tuy đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân có nhiều tiến bộ, song những tiến bộ
đó vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Phần nhiều gia đình thu nhập không đủ để nuôi con học
tập sau khi tốt nghiệp THPT và chữa bệnh khi đau ốm nặng. Điều kiện học tập của đa số
13


con em trong huyện còn thiếu thốn. Tình trạng học sinh bỏ học tuy ít nhưng vẫn đang
diễn ra ở một bộ phận nhỏ nông dân nghèo. Đời sống văn hoá, văn nghệ, thể dục thể
thao của nhân dân trong huyện còn khá đơn điệu và nghèo nàn. Các điểm bưu điện văn
hoá xã, thư viện huyện và cả các phòng đọc ở nhà văn hoá thôn chưa phát huy hiệu quả.
Những năm gần đây, nhờ tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật, thành quả của
giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng nghề và sự tăng cường hoạt động chuyển giao tiến bộ khoa
học - kỹ thuật, công nghệ của các cấp chính quyền, trình độ dân trí và chất lượng lực
lượng lao động trong huyện đều đã được nâng lên.

Đến nay, 100% các xã, thị trấn trong huyện đã hoàn thành phổ cập giáo dục THCS.
Tỷ lệ học sinh bỏ học giảm, tỷ lệ người có trình độ THPT tăng nhanh. Trình độ chuyên
môn của nhân dân trong huyện đã có tiến bộ, năng suất lao động tăng. Hầu hết nhân dân
trong huyện đều là những lao động có kỹ năng khá thành thạo và nhiều kinh nghiệm
trong sản xuất so với các vùng khác, nhất là trong canh tác lúa nước và chăn nuôi gia
súc, gia cầm. Tuy nhiên do số lao động trẻ mới tốt nghiệp THPT mấy năm gần đây rất ít
ở lại làng quê tham gia lao động, chủ yếu đi tìm kiếm việc làm ở ngoài huyện hoặc đi
học đại học, cao đẳng, học nghề nhưng không về quê hương công tác nên thực tế phần
lớn lao động ở nông thôn trong huyện có trình độ tiểu học và THCS. Bên cạnh đó, với
chủ trương thực hiện đa dạng các loại hình đào tạo nghề cho nhân dân, năm 2008 số lao
động trong huyện được đào tạo nghề là 34%; tuy nhiên, nội dung đào tạo ngành nghề
còn đơn điệu, kiến thức, tay nghề được trang bị chưa thật phù hợp nên hiệu quả dạy
nghề chưa cao. Nếu so với yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn của huyện hiện
nay thì trình độ học vấn, chuyên môn của nhân dân còn thấp. Đây là vấn đề khó khăn
trong việc nâng cao chất lượng lao động, chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời gian tới.
Những năm qua, nhất là từ sau Đại hội Đảng bộ huyện và các đảng bộ cơ sở nhiệm
kỳ 2005 - 2010 đến nay, các cấp uỷ đảng, chính quyền đã có nhiều năng động, sáng tạo
trong việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nghị quyết Đại hội XXI
Đảng bộ huyện Chương Mỹ, kinh tế - xã hội phát triển khá nhanh, cùng với thành tựu
của công cuộc đổi mới đất nước đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến tâm trạng, ý thức
chính trị và niềm tin của nông dân. Người dân phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo
Đảng, của các cấp uỷ đảng, chính quyền.
Việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã mang lại luồng sinh khí mới
trong nhân dân, góp phần củng cố sự giác ngộ chính trị của nhân dân. Người dân ngày
càng có ý thức trách nhiệm cao hơn trong việc đóng góp ý kiến xây dựng chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước, phương hướng, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
đảng bộ, chính quyền địa phương. Mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng, chính quyền
ngày càng gắn bó.


14


Tuy vậy, do tác động của kinh tế thị trường nên có một bộ phận nhân dân mải mê
làm ăn, còn thờ ơ trước những vấn đề của địa phương. Một bộ phận ý thức và trình độ
làm chủ hạn chế, họ rất ngại sinh hoạt đoàn thể, ngại đấu tranh, rất ít tham gia ý kiến
đóng góp cho chính quyển địa phương; nhận thức về quyền lợi và nghĩa vụ công dân
không đầy đủ, chỉ thấy quyền lợi mà không thấy rõ trách nhiệm; truyền thống tốt đẹp "lá
lành đùm lá rách" có nguy cơ bị mai một; xu hướng cục bộ dòng họ phát triển. Vấn để
dân chủ, công bằng xã hội tuy đã có nhiều chuyển biến nhưng hiện nay vẫn còn không ít
hạn chế. Một số nơi tình trạng quan liêu, lãng phí, ức hiếp dân, thiếu dân chủ với dân
vẫn còn khá nghiệm trọng. Việc thực hiện "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra"
còn hình thức. Người dân chưa thực sự được tôn trọng và phát huy đầy đủ quyền dân
chủ. Tuy trong huyện chưa có khiếu kiện tập thể đông người có tính chất điểm nóng
nhưng vẫn còn nhiều vụ việc khiếu kiện của nhân dân chưa được quan tâm giải quyết
kịp thời.
Hiện nay, một bộ phận nhân dân trong huyện còn băn khoăn, bức xúc về sự quản lý
nhà nước trên một số lĩnh vực như: chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, phân bón,
thuốc bảo vệ thực vật, chất lượng thức ăn gia súc, gia cầm.... ở lĩnh vực này hiện tượng
hàng nhái, hàng giả, kém chất lượng còn khá phổ biến, người dân phải gánh chịu cả.
Lạm phát, giá cả các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống có xu hướng gia
tăng, ảnh hướng xấu đến những người thu nhập thấp và làm công ăn lương. Đời sống
văn hoá, tinh thần của nhân dân trong huyện còn nghèo nàn; phân hoá giàu nghèo ngày
càng gay gắt; tệ nạn buôn bán, sử dụng và tàng trữ trái phép các chất ma tuý, cờ bạc, số
đề ... có chiều hướng gia tăng; tình trạng ô nhiễm môi trường, thiếu nước sạch sinh hoạt
đang làm cho nhân dân có nhiều băn khoăn, lo lắng. Chương Mỹ cũng là địa bàn những
năm vừa qua có tốc độ đô thị hóa cao, cho nên trên địa bàn có các khu đô thị, các cụm,
điểm công nghiệp mới được xây dựng. Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, giải
quyết việc làm cho người dân ở những khu vực này đang nổi lên rất nhiều vấn đề bức
xúc. Bên cạnh đó, các “điểm nóng” còn tồn tại, tình trạng mất dân chủ, nạn quan liêu,

tham nhũng của một số cán bộ, công chức, đảng viên chưa được xử lý dứt điểm và thỏa
đáng đang là những vấn đề bức xúc. Những tồn tại, bất cập này nguyên nhân của nó có
liên quan mật thiết đến hạn chế của công tác dân vận.
1.1.2. Khái quát về các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ
1.1.2.1. Vị trí, vai trò
Tổ chức cơ sở đảng có vai trò quan trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng.
C.Mác và Ph.Ăngghen là người đầu tiên nêu lên những quan điểm, tư tưởng về vị trí,
vai trò của tổ chức cơ sở đảng. Hai ông sáng lập ra “Liên đoàn những người cộng sản”
và khẳng định các chi bộ của “Liên đoàn” được thành lập dưới hình thức các hội bí mật
trong các hiệp hội công nhân. Hai ông cũng chỉ ra rằng, nếu các chi bộ này bị buông

15


lỏng về mặt tổ chức sẽ dẫn đến cắt dứt liên lạc với Ban Chấp hành Trung ương, làm cho
Đảng “mất chỗ dựa vững mạnh và duy nhất”.
Trong điều kiện “Liên đoàn những người cộng sản” chuyển từ hoạt động bí mật
sang hoạt động công khai, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển tư tưởng của mình: Phải
tổ chức lại liên đoàn mà khâu đặc biệt quan trọng là củng cố các chi bộ, “biến mỗi chi
bộ của mình thành trung tâm và hạt nhân của các hội liên hiệp công nhân” [46, tr.348],
là mắt xích quan trọng, là chỗ dựa vững chắc của Đảng.
Kế thừa những tư tưởng đó của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I. Lênin đã phát triển
quan điểm về vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng trong quá trình xây dựng và lãnh đạo
Đảng Bônsêvích Nga - Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Người chỉ rõ rằng, việc
thành lập các tổ chức cách mạng trong các xí nghiệp, nhà máy là nhiệm vụ đầu tiên, cấp
bách của Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga: mỗi nhà máy phải là một thành trì.
V.I Lênin coi chi bộ là nơi rèn luyện, phân công công tác, quản lý, sàng lọc đảng viên để
họ luôn luôn là người chiến sỹ tiên phong của giai cấp. Chi bộ còn là nền tảng của quần
chúng, là hạt nhân chính trị của các tập thể lao động. Người yêu cầu mỗi chi bộ phải là
điểm tựa để tiến hành công tác tuyên truyền, cổ động và tổ chức thực hiện trong quần

chúng.
V.I Lênin rất quan tâm xây dựng tổ chức công nhân dân chủ - xã hội, nhất là khi
các tiểu tổ đó phát triển thành các chi bộ cơ sở của Đảng Bônsêvích Nga. Cách mạng
chuyển giai đoạn, Đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng CNXH, Đảng trở thành lãnh tụ
chính trị của toàn xã hội, các tổ chức cơ sở của Đảng được thành lập không chỉ trong
các nhà máy, công xưởng mà còn ở tất cả các đơn vị cơ sở trong hệ thống tổ chức xã
hội. V.I Lênin viết: “Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với trung ương Đảng
phải trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau, phải làm công tác cổ động, tuyên truyền. Công tác
tổ chức phải thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với tất cả mọi tầng lớp
quần chúng lao động, những chi bộ ấy phải thông qua công tác muôn hình muôn vẻ mà
rèn luyện mình, rèn luyện Đảng, giai cấp, quần chúng một cách hệ thống” [45, tr.232233].
V.I. Lênin coi các tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, giữ mối liên hệ chặt
chẽ giữa Đảng với quần chúng lao động, là một nhân tố chính trị của tập thể lao động,
giáo dục và dẫn dắt quần chúng thực hiện đường lối, chủ trương và chính sách của
Đảng. Người chỉ rõ: “Mỗi chi bộ và mỗi uỷ ban công nhân của Đảng phải là một “điểm
tựa để tiến hành công tác tuyên truyền cổ động và tổ chức -

thực hiện trong quần

chúng”,
tức là nhất định phải đi đến nơi mà quần chúng đi, và trong mỗi bước đi, phải cố gắng
làm cho ý thức của quần chúng hướng về CNXH ...” [43, tr.447].
Trên cơ sở định hướng những quan điểm, tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác- Lênin, ở mọi thời kỳ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đặc
16


biệt quan tâm xây dựng các tổ chức cơ sở đảng của mình; luôn coi các tổ chức cơ sở
đảng là những đơn vị chiến đấu cơ bản, là nền tảng của Đảng, thông qua đó Đảng được
xây dựng vững chắc và thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với cách mạng. Chủ tịch Hồ

Chí Minh nhấn mạnh: Các chi bộ, đảng bộ cơ sở dù được thành lập ở loại hình đơn vị
cơ sở nào trong xã hội đều có vai trò là “nền móng” của Đảng, hạt nhân chính trị ở cơ
sở, là “sợi đây chuyền” để Đảng liên hệ với quần chúng. Người khẳng định: “Mỗi chi
bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên
hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần chúng”
[53, tr.23]. Chất lượng của các tổ chức cơ sở đảng là một trong những nhân tố quyết
định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, quyết định việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị ở cơ sở, “chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt” [54, tr.213]. Vì vậy, xây dựng chi bộ
tốt, cho vững mạnh là một việc vô cùng quan trọng.
Từ những bài học thành công, chưa thành công trong thực tiễn xây dựng tổ chức cơ
sở đảng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng ta đã khẳng định: “Những thành
tựu đã đạt được, những tiềm năng được khai thác, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt
nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của quần chúng ở cơ sở mà hạt nhân là tổ chức đảng.
Nhưng mặt khác, sự yếu kém của nhiều tổ chức cơ sở đảng đã hạn chế những thành tựu
của cách mạng” [28, tr.141].
Như vậy, rõ ràng tổ chức cơ sở đảng có vai trò quan trọng tạo nên chất lượng lãnh
đạo của Đảng đối với cách mạng. Trong mối quan hệ này, năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng là nguyên nhân quan trọng trực tiếp, còn việc thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng tại cơ sở là kết quả và cũng là chuẩn mực, thước đo để
đánh giá chất lượng lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng.
Điều 21, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, được Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng thông qua, đã quy định: “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ
sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở” [32, tr.34].
Với tư cách là một tổ chức cơ sở đảng, vị trí, vai trò của các đảng bộ cơ sở xã, thị
trấn ở huyện Chương Mỹ còn được quy định bởi vị trí, vai trò của mặt trận nông nghiệp,
nông thôn và nông dân. Trong giai đoạn hiện nay vai trò quan trọng của các đảng bộ xã,
thị trấn ở huyện Chương Mỹ được thể hiện những khía cạnh sau:
Trước hết, các đảng bộ xã, thị trấn huyện ở Chương Mỹ cũng như các tổ chức cơ
sở khác của Đảng là nơi trực tiếp liên kết các đảng viên lại với nhau thành tổ chức. Với
mạng lưới tổ chức của mình, các đảng bộ xã, thị trấn là điểm tựa của Đảng để tiến hành

công tác tư tưởng, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện đường lối của Đảng; đồng
thời là sợi dây nối liền Đảng với nhân dân. Thông qua phong trào cách mạng của nhân
dân địa phương, cán bộ chủ chốt ở các đảng bộ nắm được tâm tư, nguyện vọng của nhân
đân, tổng kết sáng kiến của nhân dân, đóng góp cho Đảng và Nhà nước để bổ sung, phát
triển đường lối, chính sách.
17


Hai là, các đảng bộ xã, thị trấn thông qua nghị quyết của mình, vạch ra chủ trương,
phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; quyết định những vấn đề về tổ
chức và cán bộ của hệ thống chính trị ở địa phương. Bằng nghị quyết, bằng công tác tư
tưởng, với phương pháp dân chủ, thuyết phục và vận động; bằng việc giới thiệu những
cán bộ có phẩm chất và năng lực tham gia các cương vị chủ chốt của chính quyền và
các đoàn thể nhân dân ở địa phương, các đảng bộ xã, thị trấn đã phát huy được vai trò
hạt nhân lãnh đạo chính trị ở địa phương, trực tiếp vận động và tổ chức nhân dân địa
phương thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Ba là, các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ là nơi giáo dục lý tưởng cách
mạng, rèn luyện ý chí, trau dồi quan điểm, lập trường cách mạng cho đảng viên ở địa
phương, động viên đảng viên tham gia các phong trào giữ gìn an ninh, trật tự, phát triển
kinh tế- xã hội ở địa phương; đồng thời là nơi động viên và bồi dưỡng những người ưu
tú, xuất sắc trong quần chúng, kết nạp họ vào Đảng nhằm xây dựng, phát triển, tăng
cường số lượng và sức chiến đấu của Đảng.
Bằng việc đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào cuộc sống ở địa phương, tổ
chức quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, phát triển lực lượng đảng viên mới trong quần chúng, các đảng bộ xã, thị trấn
huyện Chương Mỹ thực sự là “một đơn vị chiến đấu cơ bản” của Đảng, là hạt nhân lãnh
đạo của hệ thống chính trị và là chỗ dựa đáng tin cậy của nhân dân ở địa phương.
Ở giai đoạn cách mạng hiện nay, đối với các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương
Mỹ, nhiệm vụ chính trị quan trọng bậc nhất là đề ra các chủ trương đúng, biện pháp
thiết thực, hành động cụ thể với sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên để phát triển kinh

tế - xã hội, giúp nhân dân xoá đói giảm nghèo, có việc làm, nâng cao mức sống, giữ gìn
an ninh, trật tự xã hội, môi trường sống an toàn và bền vững. Các đảng bộ xã, thị trấn
thực hiện vai trò lãnh đạo toàn diện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giáo dục,
thuyết phục dân làm, dân thực hiện chứ không làm thay, không áp đặt, mệnh lệnh, chỉ
thị theo kiểu hành chính quan liêu, càng không bao biện làm thay chính quyển, can thiệp
vào công việc của chính quyền; gần dân, phải trở thành chỗ dựa đáng tin cậy của dân,
phải giải quyết kịp thời những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của dân, khuyến khích
dân góp ý xây dựng Đảng, chính quyền. Đảng viên phải gương mẫu trong công tác được
phân công, tham gia sinh hoạt đảng đều đặn, thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy định của cấp trên và địa phương, vận động,
tuyên truyền nhân dân hoàn thành nghĩa vụ công dân.
Thực tế cho thấy, sự ổn định chính trị, kinh tế- xã hội ở địa bàn huyện Chương Mỹ
thời gian qua là nhân tố cực kỳ quan trọng để ổn định chính trị xã hội đất nước nói
chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng. Điều đó nói lên vị trí vai trò quan trọng của các đảng
bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ.
1.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ
18


* Chức năng
Tổ chức cơ sở đảng có chức năng quan trọng là hạt nhân chính trị lãnh đạo tại
đơn vị cơ sở. Theo Quy định số 95 - QĐ/TW (ngày 3/3/2004) của Đảng về chức năng,
nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, các đảng bộ xã ở huyện Chương Mỹ có chức
năng: “Là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống
chính trị ở xã vững mạnh, nông thôn giàu đẹp văn minh; không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với
Nhà nước” [31, tr.26].
Theo Quy định số 94 - QD/TW (ngày 3/3/2004) của Đảng về chức năng, nhiệm vụ
của đảng bộ, chi bộ cơ sở phường, thị trấn thì về chức năng, đảng bộ thị trấn khác đảng

bộ xã ở chỗ: “Đảng bộ thị trấn lãnh đạo thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà
nước và quản lý đô thị trên địa bàn” [31, tr.19]. Mặc dù theo quy định thì đảng bộ thị
trấn không lãnh đạo phát triển kinh tế- xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế, ở những mức độ
nhất định, đảng bộ thị trấn cũng lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Để thực hiện chức năng là hạt nhân chính trị lãnh đạo các mặt hoạt động trên địa
bàn, các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ cần phải thể hiện rõ vai trò là đội tiền
phong chính trị của địa phương, đoàn kết và lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính
trị ở địa phương; là trung tâm quy tụ, tập hợp mọi lực lượng ở địa phương; định hướng
cho địa phương phát triển. Đồng thời, các đảng bộ xã, thị trấn tiến hành các hoạt động
xây dựng nội bộ Đảng nhằm nâng cao chất lượng của chính bản thân mình. Chỉ có
thường xuyên chỉnh đốn, đổi mới, củng cố và kiện toàn bộ máy tổ chức, giữ vững
nguyên tắc tập trung dân chủ, những tiêu chuẩn sinh hoạt đảng, các đảng bộ xã, thị trấn
mới thực sự là hạt nhân, là đơn vị chiến đấu cơ bản của Đảng ở địa phương.
* Nhiệm vụ
Mỗi giai đoạn cách mạng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng có những bổ sung,
thay đổi phù hợp. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng thông qua đã nêu lên 5 nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng: Một là, lãnh
đạo thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa
phương; hai là, lãnh đạo xây dựng nội bộ Đảng; ba là, lãnh đạo chính quyền và các tổ
chức ở cơ sở; bôn là, tăng cường mối quan hệ với nhân dân; năm là, kiểm tra, giám sát.
Quy đinh 94, 95 - QD/TW nêu trên cũng nêu cụ thể hoá nhiệm vụ của các đảng bộ
xã, thị trấn. Trên cơ sở nhiệm vụ chung của tổ chức cơ sở đảng do Điều lệ Đảng quy
định, và theo các Quy định số 94, 95 - QD/TW nêu trên, nhiệm vụ của các đảng bộ xã,
thị trấn ở huyện Chương Mỹ được thể hiện ở: Một là, lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương; hai là, lãnh đạo công tác tư tưởng; ba là,
lãnh đạo công tác tổ chức và cán bộ; bốn là, lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân; năm là, xây dựng tổ chức đảng, thực hiện công tác kiểm tra, giám sát.
19



Những nhiệm vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và tác động lẫn nhau. Trong
hoạt động thực tiễn, các đảng bộ xã, thị trán không được xem nhẹ nhiệm vụ nào, cần
xác định những vấn đề trọng tâm để tập trung lãnh đạo thực hiện.
Các đảng bộ xã ở huyện Chương Mỹ có quan hệ thường xuyên với nông dân và
lĩnh vực lãnh đạo chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Do vậy,
yêu cầu có tính chất bao trùm trong hoạt động là đảm bảo cho đảng bộ thật sự là ngưòi
đại diện cho lập trường giai cấp công nhân ở nông thôn, là hạt nhân của sự đoàn kết,
thật sự là đơn vị chiến đấu cơ bản trên mặt trận nông nghiệp và xây dựng nông thôn
mới. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, các đảng bộ xã của huyện cần lãnh đạo đổi mới
về cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho
phù hợp với tiềm năng thế mạnh của địa phương. Không ngừng củng cố và đổi mới hình
thức tổ chức, phương thức hoạt động kinh tế tập thể, phát huy mọi tiềm năng của các
thành phần kinh tế, đẩy mạnh kinh doanh tổng hợp, phát triển kinh tế gia đình, tăng
nhanh hộ sản xuất kinh doanh giỏi, giảm đến mức thấp nhất số hộ nghèo, có khó khăn.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nông thôn mới, lãnh đạo chính quyền
xã thực hiện các chính sách xã hội và công bằng xã hội. Tiếp tục xây dựng và củng cố
chi bộ theo địa bàn dân cư, có nhiều hình thức sinh hoạt và hoạt động thích hợp cho
đảng viên.
Các đảng bộ thị trấn của huyện được thành lập ở nơi tập trung dân cư và ở trung
tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của huyện. Trong khi thực hiện các nhiệm vụ cơ bản của
tổ chức cơ sở đảng, các đảng bộ thị trấn cần hướng trọng tâm lãnh đạo của mình vào các
lĩnh vực hành chính, văn hoá, xã hội, trật tự xây dựng đô thị và trật tự an ninh trên địa
bàn, thực hiện tốt các chính sách xã hội; làm tốt công tác phát triển đảng, công tác dân
vận, xây dựng các đoàn thể nhân dân.
Thực tiễn xây dựng Đảng ở huyện Chương Mỹ những năm qua cho thấy, các đảng
bộ xã, thị trấn đạt trong sạch, vững mạnh là do thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của
mình, tiến hành đồng bộ những hoạt động lãnh đạo, thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây
dựng tổ chức, phát huy quyền làm chủ của nhân dân cùng với các hoạt động xây dựng
nội bộ làm cho đời sống nhân dân được cải thiện, niềm tin của quần chúng nhân dân đối
với Đảng được củng cố, mối quan hộ giữa Đảng với nhân dân ngày càng gắn bó chặt

chẽ. Ngược lại, những đảng bộ yếu kém là những đảng bộ khồng nhận thức đầy đủ chức
năng, nhiệm vụ của mình, trong hoạt động lúng túng dẫn đến bao biện làm thay, lấn
quyền các tổ chức khác trong hộ thống chính trị, những tiềm năng, thế mạnh không
được khai thác, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên
không được thực hiện đúng, quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm. Ở những nơi ấy
thường xuất hiện những hiện tượng như độc đoán, chuyên quyền, mất dần chủ, vi phạm
công bằng xã hội của một số cán bộ chủ chốt, làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân
đối với Đảng. Vì vậy, các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ cần nhận thức đầy
20


đủ, đúng đắn về chức năng, nhiệm vụ của mình, có như thế mới có thể nâng cao chất
lượng lãnh đạo của đảng bộ.
1.1.2.3 Đặc điểm
Toàn huyện Chương Mỹ có 30 đảng bộ xã, 02 đảng bộ thị trấn; có 329 chi bộ trực
thuộc đảng bộ xã và thị trấn với 6.632 đảng viên.
Về đội ngũ đảng viên:
Độ tuổi: đảng viên tuổi đời từ 18- 35 là 1.468 đ/c chiếm 22,13%; tuổi từ 36- 45 là
1.049 đ/c chiếm 15,81%; tuổi từ 46- 55 là 1.412 đ/c chiếm 21,29%; tuổi từ 56 trở lên là
2.703 đ/c chiếm 40,75%.
Trình độ học vấn: Tiểu học: 8,16%; THCS: 34,04 %; THPT: 59,77%.
Trình độ chuyên môn: Trung học chuyên nghiệp: 18,09%%; Cao đẳng, đại học:
21,41%.
Trình độ lý luận chính trị: sơ cấp lý luận: 59%; Trung cấp lý luận: 13,65%, cử
nhân: 0,13%, cao cấp lý luận: 0,27%; có 26,95% chưa qua đào tạo lý luận.
Phần lớn đảng viên các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ là quân nhân xuất
ngũ, cán bộ về hưu (khoảng 60 %). Những năm qua đội ngũ đảng viên ở các xã, thị trấn
được rèn luyện, trưởng thành trong lao động, công tác và học tập; đã tích cực phát triển
sản xuất, làm giàu chính đáng. Trình độ của đội ngũ đảng viên về chính trị, văn hoá,
chuyên môn, nghiệp vụ từng bước được nâng lên; nhiều đảng viên đã khẳng định được

vai trò đầu tầu gương mẫu ở cơ sở và trong lĩnh vực hoạt động của đời sống kinh tế- xã
hội, đặc biệt là trong việc phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, đội ngũ này
còn bộc lộ nhiều nhược điểm, thiếu sót: Có một bộ phận không nhỏ đảng viên có biểu
hiện phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí chiến đấu; tính tiền phong, gương
mẫu không cao; đảng viên ở một số nơi sống gần dân nhưng không sát dân, chưa hiểu
dân, chưa thường xuyên lắng nghe ý kiến, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân.
Vẫn còn tình trạng đảng viên bỏ sinh hoạt, vắng sinh hoạt, không tự giác nhận nhiệm vụ
và hoàn thành nhiệm vụ được tổ chức đảng phân công. Công tác phát triển đảng viên
kết quả còn yếu; số đảng viên mới được kết nạp, phần lớn là cán bộ, nhân viên công tác
ở xã, thị trấn, là giáo viên, công an, số đảng viên mới là thanh niên nông thôn không
nhiều.
Hoạt động của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ.
Năm 2008: có 23 tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh, đạt 71,9% (tăng
16,4% so với năm 2005); 08 tổ chức cơ sở đảng hoàn thành nhiệm vụ, đạt 25%; 01 tổ
chức cơ sở đảng yếu kém chiếm 3,1%. Số đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm
vụ là 4.913 đ/c = 74,08% (tăng 17% so với năm 2004); đảng viên đủ tư cách, hoàn
thành nhiệm vụ là 1.669 đ/c = 25,17%; đảng viên vi phạm tư cách, không hoàn thành
nhiệm vụ là 50 đ/c = 0,75%.

21


Về tổ chức đảng ở các xã, thị trấn: do tính chất dân cư chi phối nên số lượng đảng
viên ở các xã, thị trấn có sự chênh lệnh. Trong 32 xã, thị trấn có 2 thị trấn và 1 xã có từ
300- 600 đảng viên; có 10 xã có từ 200- 300 đảng viên; có 19 xã có số lượng dưới 200
đảng viên. Số lượng các chi bộ ở các xã, thị trấn cũng khác nhau: có 16 xã, thị trấn có từ
10- 18 chi bộ, có 16 xã có từ 6- 9 chi bộ. Các chi bộ về cơ bản được tổ chức theo thôn
xóm, cụm dân cư, tổ dân phố. Ở các đơn vị sự nghiệp do xã, thị trấn quản lý như trường
học, trạm xá, nhà trẻ, mẫu giáo; các cơ sở kinh tế, sản xuất kinh doanh như hợp tác xã
tiểu thủ công, thương mại, dịch vụ cũng đã thành lập chi bộ hoặc tổ đảng. Nhìn chung,

hệ thống tổ chức đảng ở xã, thị trấh của huyện Chương Mỹ về cơ bản là phù hợp với
quy định Điều lệ Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức đảng ở cơ sở.
Đại hội các đảng bộ xã, thị trấn nhiệm kỳ 2005- 2010, các đảng bộ đã bầu đủ số
lượng uỷ viên Ban Chấp hành theo quy định từ 9- 11 đồng chí và bầu được Ban Thường
vụ 3 đổng chí, gồm Bí thư Đảng uỷ, Phó Bí thư thường trực và Phó Bí thư phụ trách
chính quyền.
Những năm qua, về cơ bản, các đảng bộ xã, thị trấn huyện Chương Mỹ đã thể hiện
được vai trò hạt nhân chính trị, vai trò lãnh đạo toàn diện các mặt hoạt động ở địa
phương. Nhiều đảng bộ đã lãnh đạo thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của đảng bộ,
chi bộ cơ sở; đã năng động trong việc cụ thể hoá các chủ trương, nghị quyết của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước vào điểu kiện cụ thể của địa phương; chăm lo phát
triển kinh tế - xã hội, tạo điểu kiện thuận lợi và động viên các tầng lớp nhân dân địa
phương lao động, sản xuất, phát triển kinh tế, tăng thu nhập, xoá đói, giảm nghèo, ổn
đinh đời sống và làm nghĩa vụ với Nhà nước, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an
toàn xã hội; thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Các đảng uỷ đã chú trọng đổi mới phương thức lãnh đạo. Phần lớn các đảng bộ xã,
thị trấn ở huyện Chương Mỹ đã xây dựng được quy chế làm việc và đi vào hoạt động
theo quy chế.
Trong công tác cán bộ, nhiều cấp uỷ đảng đã tập trung sắp xếp, điều chỉnh, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ hiện có; chủ động bổ sung cán bộ có nhiều triển vọng để bồi
dưỡng, thử thách, tạo nguồn các chức vụ lãnh đạo chủ chốt ở địa phương. Chú trọng sử
dụng những đồng chí đã qua quân đội, là cán bộ nghỉ hưu có trình độ, năng lực và sức
khỏe để bổ sung, tăng cường cho đội ngũ cán bộ địa phương. Công tác phát triển đảng
viên được các đảng bộ coi trọng, bình quân hàng năm mỗi đảng bộ phát triển được từ 46 đảng viên.
Tuy nhiên, trước yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới, một số đảng bộ xã, thị trấh ở
huyện Chương Mỹ còn bộc lộ nhiều thiếu sót, hạn chế trong việc thực hiện chức năng
hạt nhân chính trị, lãnh đạo toàn diện đối với hệ thống chính trị; hạn chế trong công tác
tuyên truyền, phổ biến chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; lúng túng trong việc vận dụng những chính sách mới của Đảng và Nhà nước.
22



Nhiều nơi, tổ chức đảng chưa thực sự quan tâm thường xuyên, cụ thể, sâu sát đến công
tác rèn luyện, giáo dục, bồi dưỡng và kiểm tra cán bộ, đảng viên ở cơ sở, chưa ngăn
chặn kịp thời, có kết quả những biểu hiện quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, tiêu cực,
vô trách nhiệm của cán bộ. Do đó vẫn còn tình trạng mất đoàn kết và những biểu hiện
tiêu cực trong đội ngũ cán bộ xã, làm giảm sút lòng tin của nhân dân. Công tác kiểm tra
của Đảng chưa được phát huy mạnh mẽ; nhiều khuyết điểm trong bộ máy đảng - chính
quyền - đoàn thể chậm được phát hiện và giải quyết. Hoạt động của các chi bộ ở một số
noi còn nhiều yếu kém, nội dung sinh hoạt chưa được cải tiến, chất lượng thấp. Phương
thức lãnh đạo của tổ chức đảng, cấp uỷ cơ sở ở xã, thị trấn chậm được đổi mới, hiệu quả
thấp; nghị quyết của cấp uỷ một số nơi còn bị trùng lặp, chất lượng chưa cao. Hiệu quả
hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính tri ở một số xã thiếu đồng bộ, phong
trào quần chúng chưa có chiều sâu, chưa phát triển đều khắp.
1.2. CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC ĐẢNG BỘ XÃ, THỊ TRẤN Ở
HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI - QUAN NIỆM, VAI TRÒ, NỘI
DUNG, PHƯƠNG THỨC, ĐẶC ĐIỂM
1.2.1. Quan niệm
Theo Từ điển tiếng Việt - Tường giải và liên tưởng định nghĩa công tác dân vận là
"công tác tuyên truyền, tổ chức, động viên và lãnh đạo quần chúng trong một cuộc đấu
tranh" [55, tr 42].
C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên đặt cơ sở khoa học cho chủ nghĩa
xã hội khoa học và cho toàn bộ phong trào công nhân- đã chứng minh rằng: “...Toàn bộ
lịch sử xã hội loài người từ trước đến nay là lịch sử đấu tranh giai cấp”...[46, tr.508].
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và các giai cấp
bóc lột khác xây dựng xã hội mới cũng ở trong tiến trình lịch sử đó. Hai ông cũng cho
rằng, để đảm bảo cho cuộc đấu tranh cách mạng ấy giành thắng lợi, phải có hai yếu tố
cơ bản: Một là, giai cấp công nhân phải tự mình tổ chức ra được chính đảng độc lập của
mình; hai là, “Bản thân quần chúng phải tự mình tham gia vào công cuộc cải tạo ấy,
phải tự mình hiểu rõ đó là vấn đề gì và vì sao phải tham gia vào công cuộc cải tạo ấy

với cả thể xác lẫn sinh mệnh của mình (...). Nhưng muốn cho quần chúng hiểu rõ là phải
làm gì thì cần phải tiến hành một công tác lâu dài và kiên nhẫn.[47, tr.617].
Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ảngghen trong điều kiện mới, V.I.Lênin
khẳng định: Chúng ta cần những Đảng có liên hệ thực tế thường xuyên với quần chúng
và biết lãnh đạo những quần chúng đó. Người cho rằng:
Muốn phục vụ quần chúng và đại biểu cho lợi ích được nhận thức một cách đúng
đắn của họ, thì đội tiên phong, tức là tổ chức, phải tiến hành toàn bộ hoạt động của mình
trong quần chúng, vừa thu hút ở trong quần chúng tất cả mọi lực lượng ưu tú nhất,
không trừ một lực lượng nào, vừa kiểm tra trên mỗi bước đi, một cách cẩn thận và
khách quan, xem mối quan hệ đó có mật thiết không. Như thế, và chỉ có như thế, đội
23


tiên phong mới giáo dục và giác ngộ được quần chúng, đồng thời đại biểu cho những lợi
ích của họ, dạy cho họ biết tổ chức lại, hướng toàn bộ hoạt động của quần chúng đi theo
một đường lối chính trị giai cấp tự giác [44, tr.51].
Vận dụng và phát triển tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, Hồ Chí
Minh đã nêu khái niệm dân vận. Người nói: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của
mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để
thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao
cho” [50, tr.698].
1
Từ định nghĩa trên ta thấy:
- Đối tượng công tác dân vận là nhân dân (con người).
- Mục tiêu công tác dân vận là tập hợp, thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia
cách mạng.
- Nội dung cơ bản của công tác dân vận là tổ chức lực lượng nhân dân, thực hiện
đại đoàn kết dân tộc để thực hiện mục tiêu chung.
- Phương thức công tác dân vận là phải tiến hành trước hết từ cơ sở, nắm chắc và
vận động nhân dân từ cơ sở.

Như vậy, qua những chỉ dẫn trên của các nhà kinh điển mác - xít và của Hồ Chí
Minh, có thể hiểu công tác dân vận của Đảng là toàn bộ các hoạt động tuyên truyền,
giáo dục, hướng dẫn, tập hợp tổ chức của tổ chức đảng đối với quần chúng nhân dân,
nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động tối đa lực lượng toàn dân thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.
Trên cơ sở khái niệm công tác dân vận của Đảng như trên đã trình bày, có thể hiểu
công tác dân vận của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ là hoạt động của cấp
uỷ và tổ chức đảng nhằm tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn, tập hợp, thu hút nhân dân
và tổ chức các phong trào hành động cách mạng trong nhân dân thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các chủ trương, nghị quyết
của các cấp uỷ, tổ chức đảng và chính quyền địa phương, góp phần thực hiện thắng lợi
các mục tiêu kinh tế- xã hội, an ninh - quốc phòng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
của địa phương vững mạnh.
Nội hàm của khái niệm công tác dân vận của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện
Chương Mỹ bao gồm:
- Hoạt động tuyên truyền, giáo dục, giải thích cho nhân dân hiểu được đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; hiểu được quyền lợi, trách
nhiệm và nghĩa vụ của mình.
- Tập hợp, thu hút các tầng lớp nhân dân vào các tổ chức cách mạng dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân.

24


- Tổ chức các phong trào hành động cách mạng của nhân dân thực hiện chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Công tác dân vận là trách nhiệm chủ yếu và trực tiếp của các cấp uỷ, tổ chức
đảng.
Chất lượng công tác dân vận của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ là
kết quả tổng hợp của nhiều hoạt động, bao gồm: Công tác tuyên truyền, giáo dục; công

tác tổ chức các phong trào cách mạng trong nhân dân; phương thức lãnh đạo, chỉ đạo;
năng lực định hướng chính trị và việc xây dựng các chủ trương, kế hoạch nhằm cụ thể
hoá chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước của các cấp uỷ
và tổ chức đảng, chính quyền địa phương.
Chất lượng công tác dân vận của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ phụ
thuộc vào chất lượng hoạt động của từng tổ chức trong hệ thống chính trị các xã, thị trấn
trong huyện, mà trước hết phụ thuộc vào chất lượng lãnh đạo của từng cấp uỷ, tổ chức
đảng, phụ thuộc vào chất lượng hoạt động của bộ máy chính quyền, các đoàn thể nhân
dân, phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Vì vậy, đánh giá chất lượng
công tác dân vận của các cấp uỷ, tổ chức đảng các xã, thị trấn trong huyện chính là đánh
giá vai trò lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng đối với chính quyền, các đoàn thể nhân
dân trong quá trình tiến hành công tác dân vận ở mõi địa phương. Phải căn cứ vào chất
lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính tri, của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở mỗi
xã, thị trấn.
Để nâng cao chất lượng công tác dân vận ở các đảng bộ xã, thị trấn huyện Chương
Mỹ phải tiến hành đồng bộ các hoạt động, bao gồm việc nâng cao chất lượng lãnh đạo
của các cấp ủy tổ chức đảng đối với chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đổi mới và
nâng cao chất lượng của toàn bộ hệ thống chính trị; đổi mới nội dung, phương thức vận
động quần chúng; nâng cao năng lực vận dụng, cụ thể hoá và tổ chức thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở địa phương; nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên của các tổ chức cơ sở đảng trong các xã, thị
trấn.
Kết quả công tác dân vận của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ thể hiện
ở phong trào nhân dân, ở sự giác ngộ chính trị, ý thức làm chủ, tinh thần tự giác của các
tầng lớp nhân dân trong việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; thể hiện ở đời sống kinh tế- chính trị- xã hội và bộ mặt nông
thôn mới ở mỗi xã, thị trấn.
Kết quả công tác dân vận còn thể hiện ở sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
trong các xã, thị trấn. Suy cho cùng, kết qủa công tác dân vận ở các xã, thị trấn huyện
Chương Mỹ được thể hiện ở tâm trạng, lòng tin, mối quan hệ giữa nhân dân đối với

Đảng và chế độ XHCN, đối với đảng bộ, chính quyền trong các xã, thị trấn và thể hiện
ở đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
25


×