Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Luận văn thạc sĩ trường đại học thương mại đề tài “phát triển dịch vụ thẻ thanh toán tại ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển việt nam – BIDV”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 115 trang )

i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
được tập hợp từ nhiều tài liệu trong thực tế để viết ra và không sao chép ở bất kỳ
luận văn nào trước đó.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung của luận văn này.
Hà Nội, Ngày tháng năm 2016
Học viên
Nguyễn Thị Minh Huệ


ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn tốt nghiệp này, tôi đã nhận được nhiều sự
ủng hộ, giúp đỡ và ý kiến đóng góp quý báu của nhiều người.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới PGS.TS. Nguyễn Văn Minh, người đã
hướng dẫn và giúp đỡ tôi rất nhiệt tình, tận tâm trong thời gian qua.
Tôi xin gửi lời cám ơn tới các thầy cô giáo Khoa sau đại học, trường
Đại học Thương Mại đã dạy dỗ và truyền đạt cho tôi nhiều tri thức khoa học,
những kinh nghiệm thực tế trong suốt khoá học.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã giúp đỡ và
động viên tôi hoàn thành tốt khóa học này.


iii
MỤC LỤC

Khi có ý định định hướng phát triển dịch vụ thanh toán qua thẻ thì các Ngân hàng sẽ
phải xây dựng cho mình các kế hoạch phát triển phù hợp. Chiến lược đó được xây dựng trên
nền tảng điều tra, khảo sát các đối tượng khách hàng mục tiêu, khảo sát thị trường, đối thủ
cạnh tranh... ...........................................................................................................................31


Khi có ý định định hướng phát triển dịch vụ thanh toán qua thẻ thì các Ngân hàng sẽ
phải xây dựng cho mình các kế hoạch phát triển phù hợp. Chiến lược đó được xây dựng trên
nền tảng điều tra, khảo sát các đối tượng khách hàng mục tiêu, khảo sát thị trường, đối thủ
cạnh tranh... ...........................................................................................................................31


iv
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam
Ngân hàng phát hành
Ngân hàng thanh toán
Đơn vị chấp nhận thẻ
Ngân hàng thương mại
Tổ chức thẻ quốc tế
Ngân hàng Nhà nước
Công nghệ thông tin

BIDV
NHPH
NHTT
ĐVCNT
NHTM
TCTQT
NHNN
CNTT

Máy chấp nhận thanh toán thẻ (Point of Sale)
Máy rút tiền tự động (Automatic Teller Machine)

POS

ATM


v
DANH MỤC BẢNG, BIỂU VÀ SƠ ĐỒ


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thành tựu của công nghệ và khoa học kỹ thuật
đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác trong xã hội,
tạo nên cuộc cách mạng công nghiệp, thúc đẩy hiện đại hóa và toàn cầu hóa.
Trong tiến trình toàn cầu hoá như hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đã và đang
hội nhập sâu, rộng với nền kinh tế thế giới. Chính xu hướng này đang đặt ra
nhiều yêu cầu đối với hệ thống các ngân hàng thương mại, đặc biệt là trong
vấn đề thanh toán nội địa cũng như thanh toán quốc tế. Nói tới vấn đề thanh
toán thì không thể không nhắc đến phương thức thanh toán không dùng tiền
mặt. Phương thức này đang cho thấy được những ưu thế của mình đó là làm
giảm các chi phí trong việc thực hiện thanh toán, góp phần luân chuyển nhanh
nguồn vốn trong nền kinh tế, đảm bảo tính an toàn, bảo mật và hiệu quả trong
hoạt động thanh toán, góp phần hạn chế các giao dịch bất hợp pháp và tăng
cường sự quản lý của Nhà nước. Bên cạnh đó, quá trình toàn cầu hóa đã tạo
nên áp lực cạnh tranh đối với các ngân hàng thương mại, trong môi trường
kinh doanh hiện nay thì các ngân hàng thương mại sớm nhận ra rằng chỉ có
đổi mới và đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng, cung cấp những sản phẩm chất
lượng và đầy đủ tiện ích thì mới có thể phát triển hơn nữa. Song song với sự
phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội thì nhu cầu của con người cũng không
ngừng thay đổi, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mang tính truyền thống đang

cho thấy tính không thuận tiện của nó. Điều này đã tạo động lực thúc đẩy các
ngân hàng tìm kiếm dòng sản phẩm dịch vụ mới mẻ hơn, hiện đại hơn nhằm
thay thế cho các sản phẩm dịch vụ truyền thống.
Trong các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt thì thẻ thanh toán
được biết đến như là phương tiện thanh toán phổ biến nhất, đặc biệt đối với
khách hàng cá nhân. Đến nay, không chỉ là một phương tiện thay thế tiền mặt


2

thông thường, thẻ thanh toán đã phát triển với nhiều loại hình dịch vụ gia tăng
trên thẻ và ngày càng tích hợp nhiều tính năng hiện đại hơn, đáp ứng đông
đảo nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Đối với các ngân hàng thương
mại, phát triển dịch vụ thanh toán qua thẻ mang lại một định hướng mới cho
hoạt động kinh doanh ngân hàng, theo hướng mở rộng kinh doanh dịch vụ để
gia tăng thu nhập, mở rộng quy mô.
Có thể nói, thẻ thanh toán đã làm thay đổi cách chi tiêu, thanh toán của
cộng đồng xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động phát triển
dịch vụ thẻ trong hoạt động kinh doanh của một ngân hàng hiện đại cũng như
xu hướng phát triển của xã hội, Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và
Phát triển Việt Nam đang từng bước triển khai và đã đạt được nhiều kết quả
trong việc đưa dịch vụ thẻ thành một trong những lĩnh vực kinh doanh nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trong thị trường ngân hàng. Để có một
cái nhìn tổng thể, đánh giá được những thành công và điểm yếu, đồng thời đề
xuất được các giải pháp nhằm tiếp tục phát triển các dịch vụ thẻ tại Ngân
hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam, tôi đã lựa chọn đề
tài “Phát triển dịch vụ thẻ thanh toán tại Ngân hàng thương mại cổ phần
Đầu tư và Phát triển Việt Nam – BIDV” cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan các công trình khoa học liên quan đến đề tài
Chúng ta đều biết dịch vụ thẻ thanh toán tại các ngân hàng thương mại

không còn là vấn đề mới. Cho đến nay có rất nhiều công trình nghiên cứu
cũng như các bài báo khoa học đều được thực hiện nhằm đưa ra khía cạnh nào
đó của dịch vụ, để từ đó đưa ra được nhiều giải pháp nhằm hoàn thiện hơn sự
phát triển của việc sử dụng thẻ trong thanh toán.
Trong luận văn của mình, tác giả Lê Thị Trà Vân có thực hiện nghiên
cứu về vấn đề thẻ thanh toán tại Ngân hàng Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Quân đội trong thời gian từ năm 2010 đến 2013. Theo tác giả, dịch vụ thanh


3

toán qua thẻ của MB bank đều gia tăng qua các năm cả về số lượng và chất
lượng, cụ thể là gia tăng về số lượng thẻ mới, doanh số sử dụng thẻ cũng như
doanh số thực hiện giao dịch chuyển khoản tăng, ... Tuy nhiên, MB bank vẫn
có một số mặt cần chú ý đến để cải thiện hơn, đó là việc số lượng đơn vị chấp
nhận thẻ còn ít và chưa đa dạng, số máy ATM được lắp đặt còn ít so với kế
hoạch dự tính, một số địa điểm đặt máy còn chưa phát huy hiệu quả, các ứng
dụng của thẻ ghi nợ nội địa vẫn chưa nhiều, nguồn nhân lực còn thiếu kinh
nghiệm và chuyên môn,...
Viettinbank là một trong những ngân hàng lớn hiện nay nhưng không
phải vì thế mà dịch vụ thanh toán thẻ của Viettinbank đã phát triển một cách
hoàn hảo. Chúng ta có thể có cái nhìn tổng quan hơn về dịch vụ thanh toán
thẻ của Viettinbank thông qua sự nghiên cứu của tác giả Ngô Thị Phương
Anh về vấn đề triển khai nghiệp vụ kinh doanh thẻ và phát hành thẻ ở
Viettinbank. Qua nghiên cứu của mình, tác giả đã khẳng định phát triển hoạt
động kinh doanh thẻ là bước đi đúng đắn đối với Viettinbank. Bài học rút ra
từ sự phát triển của ngân hàng Viettinbank đó là để có thể thành công và phát
triển bền vững trong lĩnh vực này, ngoài việc đề ra những chiến lược kinh
doanh hợp lý thì các ngân hàng cũng cần quan tâm tới công tác quản lý rủi ro, sử
dụng những biện pháp có hiệu quả nhằm hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất có thể.

Liên quan đến thẻ của BIDV, chúng ta có thể tham khảo qua bài viết
của tác giả Nguyễn Thị Hồng Yến và đtg được đăng trên số 112(12)1 của Tạp
chí Khoa học & Công nghệ. Bài viết của tác giả có nhan đề “Phát triển hoạt
động kinh doanh thẻ của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam năm 2012,
tầm nhìn đến 2015”. Tác giả có đề cập đến xu hướng của thị trường dịch vụ
thẻ, cũng như đưa ra được ý kiến phân tích của mình đối với các đối thủ cạnh
tranh của BIDV là Vietcombank, Viettinbank, Agribank, Techcombank,
Eximbank, ... Đồng thời thông qua việc phân tích mô hình SWOT đối với


4

BIDV, nhóm tác giả định vị hoạt động kinh doanh thẻ của BIDV để từ đó đưa
ra được các nhóm giải pháp nhằm phát triển dịch vụ thẻ BIDV.
Trong các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt thì thẻ cũng đã
có được vị thế nhất định trong tâm trí của khách hàng. Tuy thế, đi kèm với sự
tăng trưởng của thẻ thanh toán là yếu tố phát triển chưa bền vững. Tác giả
Đặng Công Hoàn đã đưa ra những ý kiến của mình trong việc nhận diện
những yếu tố chưa bền vững đó trong bài viết “Phát triển bền vững dịch vụ
thẻ thanh toán ở Việt Nam” và được đăng trên website tapchitaichinh.vn.
Thông qua việc nhận diện các yếu tố đó, tác giả đã đưa ra một số giải pháp
nhằm phát triển bền vững thẻ thanh toán tại các ngân hàng ở nước ta.
3. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về phát triển dịch vụ thẻ
thanh toán tại ngân hàng thương mại;
- Tìm hiểu, phân tích và đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ thẻ
thanh toán tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam
trong thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển hơn dịch vụ

thẻ thanh toán tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt
Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: các vấn đề về phát triển dịch vụ thẻ thanh toán
của một ngân hàng thương mại.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành tại Ngân hàng thương
mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Các số liệu được lấy để phân tích
nằm trong giai đoạn từ năm 2013 đến 2015.


5

5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận nghiên cứu: Phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử.
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp;
+ Phương pháp so sánh;
+ Phương pháp thống kê.
- Các phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu:
+ Thu thập dữ liệu sơ cấp từ các nguồn sách báo, đề tài, bài viết điều tra
hoặc nghiên cứu của các chuyên gia, nhà quản lý, các doanh nghiệp.
+ Dữ liệu được xử lý và phục vụ cho phân tích thống kê mô tả được sử
dụng trong luận văn.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh mục
chữ viết tắt, bảng, biểu và sơ đồ, phụ lục, nội dung chính của luận văn bao
gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển dịch vụ thẻ thanh toán tại ngân
hàng thương mại

Chương 2: Thực trạng phát triển dịch vụ thẻ thanh toán tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Chương 3: Giải pháp phát triển dịch vụ thẻ thanh toán tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam


6

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THẺ
THANH TOÁN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ THẺ THANH TOÁN VÀ DỊCH VỤ THẺ
THANH TOÁN
1.1.1. Khái niệm thẻ thanh toán và phân loại thẻ thanh toán
1.1.1.1 Lịch sử phát triển của thẻ thanh toán
Sự ra đời của thẻ thanh toán bắt nguồn từ nhu cầu thực tế của con
người. Quá trình hình thành và phát triển của thẻ thanh toán là một quá trình
lâu dài với những cột mốc đáng chú ý. Thẻ được ra đời từ đầu thế kỷ XX và
xuất hiện lần đầu tiên tại Mỹ. Vào năm 1914, người ta cho rằng tấm thẻ thanh
toán đầu tiên được biết đến là do Công ty điện báo hàng đầu của Mỹ là
Western Union phát hành cho khách hàng của mình để thực hiện những giao
dịch trên thị trường. Vào năm 1951, Frank McNamara – chủ của ngân hàng
Franklin National hình thành nên ý tưởng cho ra đời thẻ tín dụng là do sự tác
động từ một sự kiện mà ông từng trải qua. Ông cho biết, trong một lần đi ăn
nhà hàng ở New York, khi thanh toán thì ông mới nhận ra mình không mang
theo tiền và phải gọi vợ đến trả. Sau bữa tối đó, ông đã suy nghĩ đến một
phương thức thanh toán mà không có sự tham gia của tiền mặt. Và với ý nghĩ
đó, ông cùng với các đối tác đã lập ra Công ty Diners Club và phát hành loại
thẻ chuyên dùng để thanh toán tại các nhà hàng. Chỉ trong năm đầu tiên, có
hàng chục nhà hàng ở New York chấp nhận loại thẻ này và dần dần thì số
người dùng thẻ tăng lên một cách nhanh chóng. Sau đó, thẻ không chỉ được

sử dụng ở lĩnh vực ăn uống mà còn ở các điểm du lịch, giải trí, ... Đến năm
1960, ngân hàng Bank of America thành lập Công ty dịch vụ BankAmericard,
nhằm kinh doanh nhượng quyền thương hiệu và phát hành thẻ với các ngân
hàng trên thế giới. Năm 1966, để cạnh tranh với sự thành công của Bank of
America, 14 ngân hàng lớn của Mỹ thành lập Hiệp hội thẻ liên ngân hàng


7

quốc tế (Interbank Card Association- ICA) và cho ra đời thẻ Master Charge.
Năm 1968, ngân hàng Bank of American chính thức trao quyền phát hành thẻ
BankAmerican của mình cho các ngân hàng khác thông qua việc ký các hợp
đồng đại lý. Năm 1977, thay vì sử dụng tên BankAmerican, thẻ của ngân hàng
Bank of American được đổi tên thành thẻ Visa. Đến năm 1979, Master Charge
đổi tên thành MasterCard và trở thành tổ chức thẻ quốc tế lớn thứ 2 trên thế
giới. Ngày nay, VISA và MasterCard là hai tổ chức thẻ lớn nhất thế giới.
Như vậy, thực tế cho thấy thẻ thanh toán ra đời từ nhu cầu thanh toán,
tiêu dùng trong cuộc sống và có sự phát triển mạnh trong lĩnh vực tài chính
ngân hàng dựa trên nền tảng công nghệ cũng như xu hướng không dùng tiền
mặt trong lưu thông. Chính quá trình toàn cầu hóa như hiện nay đã tạo nên
mạng lưới các thành viên và khách hàng rộng rãi, các tổ chức thẻ quốc tế đã
và đang xây dựng, hoàn thiện hơn hệ thống xử lý giao dịch bằng thẻ, trao đổi
thông tin toàn cầu về việc phát hành, thanh toán, cấp phép, tra soát, khiếu kiện
và quản lý rủi ro liên quan đến các giao dịch bằng thẻ.
Ở Việt Nam, ngân hàng đầu tiên thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ là
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), nay là Ngân hàng thương
mại cổ phần Ngoại thương. Chiếc thẻ đầu tiên được chấp nhận là vào năm
1990 khi Vietcombank kí hợp đồng làm đại lí cho thẻ VISA và đây chính là
bước đầu tiên cho dịch vụ này phát triển ở Việt Nam. Vào năm 1991 có thêm
Master Card, sau đó là các loại Thẻ JCB của Nhật, AMEX của Mỹ. Đến nay,

các ngân hàng thương mại lớn đều đã kết nối và phát hành thẻ quốc tế.
1.1.1.2 Khái niệm thẻ thanh toán
Vậy thẻ thanh toán là gì? Hiện nay có nhiều cách để diễn đạt về khái
niệm thẻ thanh toán, mỗi một cách diễn đạt đều chỉ làm nổi bật một nội dung
nào đó do tính năng và cách sử dụng thẻ từng nơi, từng thời điểm không
giống nhau. Chúng ta có thể đã từng biết đến một số cách diễn đạt như:


8

Thẻ thanh toán là một phương tiện để thanh toán tiền mua hàng hoá,
dịch vụ hoặc dùng để rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động, thẻ được phát
hành bởi ngân hàng, các tổ chức tài chính hay các công ty.
Hay thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt
mà chủ thẻ có thể sử dụng để rút tiền mặt hoặc thanh toán tiền mua hàng hoá,
dịch vụ tại các điểm chấp nhận thanh toán bằng thẻ.
Hoặc cũng đã từng nghe thấy thẻ thanh toán là phương thức ghi sổ
những số tiền cần thanh toán thông qua máy đọc thẻ phối hợp với hệ thống
mạng máy tính kết nối giữa Ngân hàng hoặc tổ chức tài chính với các điểm
thanh toán. Nó cho phép thực hiện thanh toán nhanh chóng, thuận lợi và an
toàn đối với các thành phần tham gia thanh toán.
Tóm lại, chúng ta có thể hiểu thẻ thanh toán là công cụ thanh toán
không dùng tiền mặt do các tổ chức tài chính, tín dụng hoặc các tổ chức
chuyên biệt phát hành cấp cho khách hàng sử dụng để thanh toán tiền hàng
hoá, dịch vụ hoặc rút tiền mặt trong phạm vi số dư của mình ở tài khoản hoặc
hạn mức tín dụng được cấp theo hợp đồng ký kết giữa ngân hàng phát hành
thẻ và chủ thẻ. Đơn vị chấp nhận thẻ và đơn vị cung ứng dịch vụ rút tiền mặt
được chủ thẻ thanh toán thông qua ngân hàng thanh toán và ngân hàng phát
hành thẻ.
Hầu hết các loại thẻ thanh toán được làm từ plastic và theo kích cỡ tiêu

chuẩn quốc tế, bao gồm các yếu tố: nhãn hiệu thương mại, tên và logo của
nhà phát hành thẻ, số thẻ, ngày hiệu lực và tên của chủ thẻ, ô chữ ký, dải băng
từ chứa các thông tin đã được mã hóa về khách hàng. Ngoài ra, trên thẻ còn


9

có thể có thêm tên công ty phát hành thẻ hoặc một số yếu tố khác tùy theo nhà
phát hành và quy định của hiệp hội thẻ, liên minh thẻ, tổ chức thẻ quốc tế.
1.1.1.3 Trên thế giới hiện nay đang lưu hành rất nhiều loại thẻ và trên các
góc độ khác nhau thì có thể chia thẻ thành các loại khác nhau:
a) Phân loại thẻ theo công nghệ sản xuất (đặc tính kỹ thuật): Theo căn
cứ này thì chúng ta có thể chia thẻ thành 3 loại như sau:
Thẻ khắc chữ nổi (Embossing Card)
Đây là loại thẻ mà những thông tin cần thiết được khắc nổi trên bề mặt
thẻ nhờ vào kỹ thuật khắc chữ nổi. Tấm thẻ đầu tiên trên thế giới được sản
xuất theo công nghệ này. Tuy nhiên, do kỹ thuật này quá thô sơ nên thẻ dễ bị
làm giả. Do vậy, ngày nay người ta không sử dụng loại thẻ này nữa.
Thẻ băng từ (Magnetic Stripe)
Đây là loại thẻ được sản xuất dựa trên kỹ thuật từ tính với 1 băng từ
chứa 2 rãnh thông tin ở mặt sau của thẻ. Mặc dù trình độ kỹ thuật được nâng
cao hơn so với loại thẻ khắc chữ nổi nhưng loại thẻ này vẫn tồn tại nhược
điểm như khả năng đọc thẻ dễ dàng bằng thiết bị đọc, mang tính thông tin cố
định, khu vực chứa thông tin hẹp nên không tính bảo mật chưa cao.
Thẻ thông minh (Smart Card)
Thẻ thông minh là loại thẻ dựa trên kỹ thuật xử lý tin học thông qua việc
gắn vào thẻ 1 "chip" điện tử có cấu trúc giống như một máy tính hoàn hảo. Do
dung lượng nhớ của "chip" điện tử khác nhau nên có nhiều nhóm thẻ thông
minh. Tất nhiên về mặt chi phí, thẻ thông minh khá tốn kém nhưng rõ ràng là với
thẻ thông minh thì sự an toàn và tiện lợi vượt trội hơn so với 2 loại thẻ trước.

b) Phân loại thẻ theo chủ thể phát hành: Thẻ được phân thành 2 loại sau:
Thẻ do Ngân hàng phát hành
Loại thẻ này hiện nay được sử dụng rất phổ biến trên toàn thế giới. Là


10

loại thẻ giúp cho khách hàng sử dụng linh động tài khoản của mình tại Ngân
hàng, hoặc sử dụng khoản tiền tín dụng do Ngân hàng cấp.


11

Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành
Là loại thẻ do các tổ chức không phải ngân hàng phát hành. Thẻ này
thường do các công ty hoặc các tập đoàn phát hành cho nhân viên hoặc khách
hàng của mình sử dụng. Các loại thẻ này có thể được phép lưu hành trên toàn
cầu hoặc chỉ mang tính cục bộ tại nơi phát hành.
c) Phân loại thẻ theo tính chất thanh toán: Theo tiêu chí này thì thẻ
được chia thành 3 loại sau:
Thẻ tín dụng (Credit Card)
Là loại thẻ mà chủ thẻ có thể thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ tại
những nơi chấp nhận loại thẻ này hoặc rút tiền mặt trong hạn mức tín dụng
theo hợp đồng giữa chủ thẻ với đơn vị phát hành thẻ. Số tiền trong tài khoản
của chủ thẻ là do đơn vị phát hành thẻ ứng trước để chủ thẻ tiêu dùng. Nếu
chủ thẻ hoàn trả số tiền này đúng kỳ hạn thì sẽ không phải trả lãi phát sinh từ
số tiền đã sử dụng và ngược lại.
Thẻ ghi nợ (Debit Card)
Thẻ ghi nợ là loại thẻ được sử dụng khá phổ biến, thẻ này giống thẻ tín
dụng ở chỗ nó cũng cho phép chủ thẻ thanh toán cho người bán từ tài khoản

trong ngân hàng của chủ thẻ tới tài khoản của người bán. Tuy nhiên, điểm
khác duy nhất và căn bản giữa thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng là khi sử dụng thẻ
ghi nợ để mua hàng hóa, dịch vụ thì số tiền phát sinh trong giao dịch ngay lập
tức sẽ được khấu trừ vào tài khoản thanh toán của chủ thẻ, đồng thời ghi có
ngay vào tài khoản của người bán.
Thẻ trả trước (Prepaid Card)
Đây là loại thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch bằng thẻ khi tiền
đã được nạp vào thẻ tức là trả trước cho tổ chức phát hành thẻ và chủ thể chỉ
có thể chi tiêu trong phạm vi giá trị tiền đã nạp tương ứng. Thẻ trả trước bao
gồm thẻ trả trước xác định danh tính (hay còn gọi là thẻ trả trước định danh)


12

và thẻ trả trước không xác định danh tính (hay còn gọi là thẻ trả trước vô
danh). Ngoài các ngân hàng thì các tổ chức cung cấp hàng hóa dịch vụ cũng
có thể phát hành loại thẻ này.
d) Phân loại thẻ theo phạm vi sử dụng: Theo tiêu chí này thì người ta
chia thẻ thành 2 loại sau:
Thẻ dùng trong nước (hay thẻ nội địa)
Là loại thẻ được giới hạn sử dụng trong phạm vi một quốc gia, đồng tiền
giao dịch là đồng tiền bản tệ của nước đó.
Thẻ quốc tế (International Card)
Là loại thẻ được chấp nhận thanh toán trên toàn cầu. Loại thẻ này rất
được khách du lịch ưa chuộng sử dụng vì tính tiện lợi, rộng rãi và an toàn.
e) Phân loại thẻ theo hạn mức tín dụng: Thẻ phân loại theo hạn mức tín
dụng được chia thành 2 loại:
Thẻ vàng (Gold Card)
Là loại thẻ có hạn mức tín dụng cao (phụ thuộc vào quy định của từng
đơn vị phát hành thẻ và thông thường là trên 5000 USD), nhằm vào những

đối tượng khách hàng có uy tín, khả năng tài chính lành mạnh, có nhu cầu
chi tiêu lớn.
Thẻ thường hay thẻ chuẩn (Standard Card)
Đây là loại thẻ mang tính chất phổ biến, đại chúng, được đông đảo mọi
người sử dụng. Hạn mức tín dụng tối thiểu tùy theo Ngân hàng phát hành quy
định (thông thường khoảng 1000 USD).
f) Phân loại thẻ theo mục đích sử dụng: Ta có thể chia thẻ thành 2 loại
như sau:
Thẻ kinh doanh (Business Card)
Đây là loại thẻ được phát hành cho nhân viên của công ty để sử dụng
nhằm giúp cho các công ty quản lý chặt chẽ việc chi tiêu của nhân viên. Định


13

kỳ (tháng hoặc quý hoặc năm), các công ty sẽ biết được thông tin chi tiết về các
khoản chi tiêu của từng nhân viên, từng bộ phận trong công ty.
Thẻ du lịch và giải trí
Là loại thẻ do các công ty tư nhân phát hành nhằm hướng khách hàng
sử dụng những dịch vụ do họ cung cấp.
Như vậy, rõ ràng trên thực tế có rất nhiều loại thẻ thanh toán đang được
sử dụng. Nhưng do điều kiện và thời gian có giới hạn nên bài viết chỉ tập
trung nghiên cứu tới thẻ thanh toán do tổ chức Ngân hàng phát hành.
1.1.2. Các chủ thể tham gia quá trình thanh toán thẻ
Đối với thẻ thanh toán trong nước thì hoạt động phát hành, sử dụng và
thanh toán thẻ có sự tham gia của 4 thành phần cơ bản là ngân hàng phát hành
thẻ, ngân hàng thanh toán thẻ, chủ thẻ và các đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT).
Đối với thẻ quốc tế có thêm một thành phần nữa là tổ chức thẻ quốc tế.
Tổ chức thẻ quốc tế (TCTQT) là tổ chức quản lý mọi hoạt động và
thanh toán thẻ trong mạng lưới của mình. TCTQT đặt ra những quy định bắt

buộc các thành viên của mình phải áp dụng và tuân thủ thống nhất trên hệ
thống toàn cầu. Tổ chức này là hiệp hội các tổ chức tài chính, tín dụng lớn với
mạng lưới hoạt động rộng khắp như tổ chức thẻ Visa, tổ chức thẻ MasterCard,
công ty thẻ American Express, công ty thẻ JCB, …
Ngân hàng phát hành (NHPH) là ngân hàng thực hiện việc phát hành
thẻ cho khách hàng và thẻ được cung cấp cho khách hàng mang thương hiệu
riêng của ngân hàng đó. Nhưng với những loại thẻ do TCTQT hoặc công ty
thẻ trao quyền phát hành thẻ thì trên thẻ phải in thương hiệu của những tổ
chức và công ty này. Ngân hàng phát hành có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ xin
cấp thẻ, xử lý, phát hành và quản lý thẻ.
Ngân hàng thanh toán (NHTT) là ngân hàng chấp nhận các loại thẻ
như một phương tiện thanh toán thông qua việc ký kết hợp đồng chấp nhận


14

thanh toán bằng thẻ với các điểm cung ứng hàng hoá dịch vụ. Ngân hàng
thanh toán sẽ cung cấp thiết bị phục vụ cho việc thanh toán qua thẻ cho các
ĐVCNT, hướng dẫn cách thức vận hành cũng như quản lý và xử lý những
giao dịch thẻ tại các đơn vị này. Trong thực tế rất nhiều ngân hàng vừa là
ngân hàng phát hành vừa là ngân hàng thanh toán thẻ.
Chủ thẻ là những cá nhân hoặc người được uỷ quyền (trong trường hợp
thẻ do công ty uỷ quyền sử dụng) có nhu cầu sử dụng thẻ. Chủ thẻ muốn sử
dụng thẻ thì phải tuân theo những điều khoản, điều kiện do ngân hàng phát
hành và thanh toán quy định. Theo thông lệ, mỗi chủ thẻ chính có thể phát
hành thêm thẻ phụ, cả thẻ chính và thẻ phụ đều chi tiêu chung trên một tài
khoản. Một chủ thẻ có thể sở hữu một hoặc nhiều thẻ.
Đơn vị chấp nhận thẻ là các đơn vị cung ứng hàng hoá dịch vụ có ký
kết hợp đồng chấp nhận thanh toán qua thẻ như một phương thức thanh toán.
Các ĐVCNT có thể là các cửa hiệu bán lẻ hoặc các nhà hàng ăn uống, khách

sạn, sân bay, siêu thị, ... Các ĐVCNT được ngân hàng thanh toán trang bị
máy móc kỹ thuật để tiếp nhận thẻ thanh toán thay cho việc thanh toán tiền
mặt và ĐVCNT phải trả một khoản phí khi sử dụng tiện ích này.
1.1.3. Lợi ích của việc áp dụng dịch vụ thanh toán thẻ
Thẻ thanh toán và dịch vụ thanh toán qua thẻ được chấp nhận sử dụng
rộng rãi hiện nay bởi chính lợi ích do bản thân nó mang lại cho các chủ thể
tham gia quá trình thanh toán thẻ nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung.
Đối với nền kinh tế:
Thẻ thanh toán là công cụ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế,
khuyến khích người dân tiêu dùng. Hiện nay, việc thanh toán thông qua thẻ
thường nhanh chóng, thuận tiện và an toàn hơn rất nhiều so với thanh toán
bằng tiền mặt, hơn nữa lợi ích từ yếu tố "mua hàng trước, trả tiền sau" từ thẻ
tín dụng đã khuyến khích chủ thẻ chi tiêu nhiều hơn, từ đó tạo động lực kích


15

cầu cho nền kinh tế. Cho tới nay, Việt Nam vẫn đang là một quốc gia sử dụng
quá nhiều tiền mặt. Tình trạng giao dịch bằng tiền mặt đã dẫn tới hàng loạt
các chi phí liên quan kèm theo như chi phí đi lại, chi phí cơ hội, …. và thẻ
thanh toán là một trong những phương thức làm giảm bớt những chi phí
không cần thiết đấy.
Dịch vụ thanh toán qua thẻ còn góp phần huy động nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân cư. Hiện nay có rất nhiều đơn vị kinh doanh lựa chọn hình thức chi
trả thu nhập cho nhân viên thông qua thẻ thanh toán nhằm minh bạch hóa thông
tin giữa đơn vị kinh doanh với cơ quan thuế. Khi đó, thu nhập của chủ thẻ được
chuyển trực tiếp vào tài khoản cá nhân người lao động. Khi cần, người lao
động là chủ thẻ có thể gửi thêm tiền vào tài khoản của mình tại các phòng giao
dịch hay chi nhánh Ngân hàng. Điều này đã dẫn tới việc luôn tồn tại một số
lượng tiền nhất định trong tài khoản của ngân hàng. Với số vốn nhàn rỗi đó,

các ngân hàng có thể sử dụng cho những mục đích khác của nền kinh tế. Như
vậy, hiệu suất sử dụng vốn và luân chuyển vốn của nền kinh tế được hiệu quả
hơn. Thực tế, hầu hết các ngân hàng hiện nay đều lựa chọn việc phát hành thẻ
có đảm bảo tức là duy trì một số dư tối thiểu để thẻ hoạt động. Khi số lượng thẻ
phát hành càng nhiều thì tổng mức vốn huy động càng lớn.
Thẻ thanh toán làm tăng nhanh tốc độ chu chuyển trong nền kinh tế.
Chúng ta đều biết, hầu hết mọi giao dịch thẻ đều được thực hiện trực tuyến vì
vậy tốc độ thực hiện giao dịch rất nhanh chóng, thúc đẩy nguồn tiền đang lưu
thông trong nền kinh tế được dịch chuyển nhanh hơn.
Thanh toán qua thẻ giúp kiểm soát khối lượng giao dịch của dân cư
cũng như của toàn bộ nền kinh tế, hạn chế những hoạt động của nền kinh tế
ngầm, tăng cường sự quản lý của nhà nước, chống thất thu thuế. Thanh toán
qua thẻ thể hiện một lối sống văn minh hiện đại, phù hợp với sự phát triển và
tiến bộ của xã hội


16

Đối với chủ thẻ:
Đối với người tiêu dùng, thẻ thanh toán như là một ví tiền gọn nhẹ và an
toàn. Đối với thẻ ghi nợ khi không chi tiêu, tiền của chủ thẻ vẫn được đảm bảo
an toàn trong ngân hàng nhưng vẫn sinh lãi, đồng thời có thể rút tiền tại nhiều
địa điểm khác nhau trong cả nước. Khi sử dụng thẻ quốc tế, chủ thẻ có thể chi
tiêu bằng mọi đồng ngoại tệ nhưng thanh toán chỉ bằng một loại tiền duy nhất.
Với tư cách là một phương tiện thanh toán, thẻ đem lại sự thuận tiện
trong tiêu dùng. Chủ thẻ dễ dàng mua hàng hoá, dịch vụ hoặc rút tiền mặt,
hoặc có thể thanh toán cho các dịch vụ mang tính chất thông dụng như tiền
điện, tiền nước, điện thoại, bảo hiểm… thông qua một mạng lưới các
ĐVCNT, ATM được trang bị khắp mọi nơi. Không những thế chủ thẻ còn
được tiếp cận với các phương thức giao dịch hiện đại như mua hàng trên

Internet và thanh toán bằng thẻ,...
Thẻ là một phương tiện giao dịch an toàn. Thẻ hiện nay được sản xuất
ở trình động công nghệ cao với nhiều mã bảo mật an toàn. Cùng với sự tiến
bộ của công nghệ, kỹ thuật sản xuất thẻ ngày càng được hiện đại hơn, phù
hợp với trình độ phát triển của khoa học.
Một lợi ích nữa dành cho các chủ thẻ chính là dịch vụ sử dụng tiền ứng
trước, chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản là việc ngân hàng ứng trước
tiền cho các giao dịch của chủ thẻ. Lợi ích của dịch vụ này là cung cấp cho
chủ thẻ khả năng mở rộng các giao dịch tài chính mà nếu không sử dụng thẻ,
khách hàng sẽ không thể thực hiện được.
Sự hài lòng của khách hàng với dịch vụ thanh toán qua thẻ là bởi tính
linh hoạt của nó. Có rất nhiều loại thẻ khác nhau thích hợp với từng đối tượng
khách hàng. Hơn nữa, NHPH cũng đặt ra hạn mức giao dịch khách hàng có
thể thực hiện trong ngày nhằm hạn chế tổn thất cho chủ thẻ trong trường hợp
chủ thẻ bị mất thẻ hoặc bị lộ mã PIN.


17

Đối với các đơn vị chấp nhận thẻ:
Việc chấp nhận thanh toán thẻ đem lại cơ hội thu hút khách hàng tiềm
năng bởi họ có xu hướng chi tiêu nhiều hơn khách hàng dùng tiền mặt, điều
này đồng nghĩa với doanh thu tăng hơn.
Mỗi ĐVCNT là một cơ sở kinh doanh nên không tránh khỏi việc đặt ra
mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận thông qua việc tăng khối lượng hàng hoá. Vì
thế, chấp nhận thanh toán qua thẻ tức là đáp ứng xu thế của nhu cầu thị trường
từ đó có thể mở rộng thị trường và doanh số tiêu thụ. Bên cạnh đó, việc chấp
nhận thanh toán bằng thẻ cũng được xem là một biện pháp tích cực giúp các
ĐVCNT được hưởng lợi từ chính sách khách hàng của ngân hàng. Có thể kể
đến một số chính sách như cung cấp đầy đủ các máy móc, thiết bị cần thiết

cho việc thanh toán thẻ; ưu đãi về tín dụng, ... Hơn nữa, khi thanh toán bằng
thẻ, các ĐVCNT tránh được hiện tượng sử dụng tiền giả, vấn đề mất cắp tiền
mặt, giảm chi phí kiểm đếm, vận chuyển, bảo quản tiền mặt và tình trạng
chậm thanh toán của khách hàng.
Với tính năng là một phương tiện thanh toán được sử dụng trên phạm
vi quốc tế thì thẻ thanh toán là phương pháp để các ĐVCNT mở rộng thị
trường tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ của mình ra thị trường nước ngoài.
Đối với các Ngân hàng và hệ thống ngân hàng:
Đối với hệ thống các Ngân hàng, phát triển dịch vụ thanh toán qua thẻ
không chỉ đơn giản là tăng nguồn doanh thu. Thẻ còn là một sản phẩm công
nghệ cao được xây dựng trên nền tảng công nghệ hiện đại nên các Ngân hàng
có điều kiện tiếp cận với những công nghệ tiên tiến trên thế giới, nâng cao
khả năng cạnh tranh của chính mình.
Dịch vụ thanh toán qua thẻ phát triển sẽ cải thiện được môi trường tiêu
dùng, xác lập nên phương thức thanh toán hiện đại trong dân cư, tạo cơ sở để
thu hút vốn đầu tư nước ngoài để tăng cơ hội cho việc đầu tư sản xuất, xuất


18

khẩu, thúc đẩy kinh tế phát triển. Dịch vụ thanh toán qua thẻ phát triển còn có
tác dụng làm giảm khối lượng tiền mặt có trong lưu thông, giúp tiết kiệm các
chi phí in ấn, phát hành, vận chuyển, bảo quản, dự trữ tiền mặt cho toàn xã hội.
Dịch vụ thanh toán qua thẻ phát triển cũng mang lại một lượng nguồn
vốn huy động rẻ cho các Ngân hàng. Với loại thẻ ghi nợ, NHPH luôn tồn tại
một nguồn tiền gửi ở tài khoản giao dịch của chủ thẻ mà chỉ phải trả với mức
lãi suất thấp. Và hơn hết, số tiền duy trì tài khoản của các chủ thẻ chính là
nguồn vốn huy động có tính chất ổn định đối với các ngân hàng thương mại.
Với loại thẻ tín dụng, nguồn vốn được gia tăng là khi chủ thẻ thanh toán dư
nợ với ngân hàng tức là tăng quỹ tiền mặt thực tế. Bên cạnh đó, để thuận tiện

trong thanh toán, các ĐVCNT khi ký hợp đồng tiếp nhận thẻ phải mở tài
khoản tại NHTT. Mỗi khi doanh số giao dịch phát sinh, NHTT sẽ hạch toán
Có vào tài khoản tiền gửi của ĐVCNT.
Thẻ thanh toán còn là một dịch vụ liên quan đến hoạt động tín dụng của
ngân hàng. NHPH có thể cấp tín dụng cho chủ thẻ dưới hình thức thấu chi
trên tài khoản tiền gửi phát hành thẻ ghi nợ hoặc cấp hạn mức tín dụng để chủ
thẻ chỉ có thể chi tiêu hàng hoá, dịch vụ hoặc ứng tiền mặt trong phạm vi hạn
mức thấu chi/hạn mức tín dụng đó. Phương thức này vừa đơn giản, thuận tiện,
vừa an toàn giúp ngân hàng mở rộng tín dụng, mở rộng thị trường của mình.
Một lợi ích của thẻ thanh toán đối với hoạt động ngân hàng mà không
thể không bỏ qua, đó là thu nhập từ việc cung cấp dịch vụ thẻ. Thu nhập mà
các ngân hàng có được từ khoản phí phát hành, phí thường niên mà chủ thẻ
phải trả khi sử dụng thẻ; là khoản phí và lãi ứng tiền mặt khi thực hiện rút tiền
tại các điểm ứng tiền mặt; là khoản lãi đối với các giao dịch thanh toán hàng
hoá dịch vụ của chủ thẻ khi không thanh toán đúng hạn, … Còn đối với các
ĐVCNT, ngân hàng sẽ đảm bảo thu được một khoản phí từ các ĐVCNT trên
mỗi đồng doanh thu từ việc chấp nhận thanh toán thẻ. Đối với ngân hàng là


19

NHTT sẽ được hưởng một khoản thu từ các giao dịch sử dụng thẻ, đó là
khoản phí đại lý thanh toán mà thực chất là hưởng một phần chiết khấu khi
tiến hành thanh toán lại với NHPH. Ngoài ra, ngân hàng còn có thể thu được
các khoản phí khác như phí chậm trả, phí tăng hạn mức, phí tra soát…
1.2. NỘI DUNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THẺ THANH TOÁN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Theo triết học Mác – Lênin, phát triển được hiểu là một quá trình biến
đổi cả về lượng và chất của sự vật, hiện tượng. Do đó, phát triển dịch vụ thẻ
thanh toán cũng nên được hiểu từ 2 khía cạnh là chất và lượng.

Chúng ta có thể hiểu phát triển dịch vụ thẻ thanh toán chính là quá trình
biến đổi cả về quy mô thẻ và chất lượng cung cấp dịch vụ thẻ thanh toán của
các ngân hàng thương mại. Tức là các ngân hàng thương mại đẩy mạnh việc
tăng số lượng khách hàng sử dụng thẻ và đồng thời cũng phải cung cấp đến
khách hàng dịch vụ thanh toán qua thẻ có chất lượng tốt hơn. Ngân hàng nào
đưa đến những dịch vụ tốt hơn thì sẽ thu hút được nhiều khách hàng sử dụng
sản phẩm thẻ của mình. Tuy nhiên, không phải lúc nào việc tăng số lượng
cũng là biện pháp mang tính khả thi. Doanh số thu được từ hoạt động kinh
doanh thẻ tăng nhưng không đồng nghĩa với việc lợi nhuận cũng tăng. Rõ
ràng, doanh số tăng thì doanh thu tăng mà lợi nhuận tỷ lệ thuận với doanh thu,
nhưng lợi nhuận còn chịu sự tác động của yếu tố chi phí. Nếu doanh thu cao
nhưng chi phí cũng tăng cao tương ứng khi đó lợi nhuận hoạt động kinh
doanh thẻ của ngân hàng không đạt được mục tiêu đề ra. Trong khi đó, để có
thể phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng thì đòi hỏi các ngân hàng phải bỏ
ra một khoản chi phí không nhỏ vào phát triển cơ sở hạ tầng, công nghệ, hệ
thống máy ATM, máy đọc thẻ, ...


20

Như vậy, phát triển dịch vụ thẻ thanh toán có thể được hiểu là sự phát
triển về quy mô thẻ, chất lượng cung cấp dịch vụ thẻ để mang lại ngày càng
nhiều tiện ích cho khách hàng sử dụng nhưng đồng thời nâng cao lợi nhuận
trong hoạt động kinh doanh thẻ của các ngân hàng thương mại và nâng cao lợi
ích cho toàn xã hội.
Để đạt được những điều trên trong phát triển dịch vụ thẻ thanh toán thì
các Ngân hàng phải xem xét tới các khía cạnh:
1.2.1 Phát triển sản phẩm dịch vụ thẻ
Ngày nay, sản phẩm thẻ trong ngành ngân hàng không ngừng gia tăng
về loại hình thẻ. Trong một thị trường cạnh tranh, với mong muốn thu hút

khách hàng, các Ngân hàng đã dựa trên nhu cầu của thị trường để tạo ra nhiều
sản phẩm thẻ độc đáo. Có thể nói chính sách sản phẩm thẻ là nền tảng cạnh
tranh trên thị trường thẻ của các Ngân hàng. Đối với chính sách sản phầm thẻ,
để đạt được mục tiêu trong kinh doanh, các Ngân hàng cần thực hiện xem xét
cụ thể tới một số vấn đề cơ bản sau:
- Các NHTM phải tự nhìn nhận và đánh giá được toàn bộ sản phẩm thẻ
hiện có của mình được thị trường chấp nhận ở mức độ nào? Có cần cải tiến
hay thay thế bằng sản phẩm mới hay không? Sản phẩm thẻ được đánh giá trên
một số chi tiêu cụ thể như:
Số lượng thẻ, quy mô mạng lưới và thị phần
Tiêu chí về số lượng và thị phần luôn là tiêu chí chung để đánh giá bất
kỳ hoạt động kinh doanh nào. Một ngân hàng thu hút được bao nhiêu khách
hàng thì tương ứng với đó là số lượng thẻ được phát hành ra. Căn cứ quy mô
chủ thẻ và mạng lưới thẻ sẽ xác định được thị phần hoạt động trên thị trường
thẻ của một ngân hàng. Thị phần hoạt động thẻ của một ngân hàng càng lớn
chứng tỏ ngân hàng càng có uy tín, hoạt động hiệu quả nên được nhiều khách
hàng lựa chọn sử dụng.


×