Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Báo cáo kiến tập dịch vụ pháp lý: THẨM QUYỀN xét xử sơ THẨM vụ án HÌNH sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.26 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

BÁO CÁO KIẾN TẬP
ĐỀ TÀI: THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
ĐỊA ĐIỂM KIẾN TẬP: TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN

Người hướng dẫn: Nguyễn Minh Nam
Sinh viên thực hiện: Đỗ Văn Thái
Hệ đào tạo: Cao đẳng
Khóa học: 2013 - 2016
Lớp: Dịch vụ pháp lý K13A

Hà Nội – 2015
1


MỤC LỤC

2


LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình tiến hành tố tụng, giai đoạn xét xử chiếm vị trí rất quan trọng. Bởi
các giai đoạn khác có đạt được hiệu quả hay không có vai trò rất lớn ở công tác xét
xử tại tòa. Nước ta ghi nhận và đảm bảo thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc hai cấp
xét xử là xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Trong đó, xét xử sơ thầm được quy
định chặt chẽ từ thẩm quyền xét xử, chuẩn bị xét xử, những quy định chung về thủ
tục tố tụng tại phiên tòa cho đến khi xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nghị án và
tuyên án. Noi riêng vấn đề thẩm quyền xét xử sơ thẩm được quy định cụ thể trong
chương XVI Bộ luật tố tụng hình sự năm 2013 (BLTTHS). Hiện nay thẩm quyền


xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được quy định khác phù hợp với thực tiễn cũng như
năng lực xét xử của Tòa án nước ta. Tuy nhiên, do những điều kiện khách quan và
chủ quan, các quy định của luật tố tụng Hình sự vẫn còn nhiều hạn chế và rất cần
có những đề xuất đổi mới và hoàn thiện nó. Với việc chọn đề tài “Thẩm quyền xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự và việc hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này”
giúp em có thêm nhiều kiến thức thực tế, không chỉ hiểu thêm về tòa án nhân dân
và quy trình thủ tục xét xử các vụ án hình sự của tòa án nhân dân, mà em còn có
thể tiếp xúc và học hỏi trực tiếp từ Tòa án nhân dân Quận Long Biên với những
con người giàu kinh nghiệm và hiểu biết sâu rộng về pháp luật.

Báo cáo kiến tập gồm 3 phần :
• Phần I: Tổng quan về Tòa án nhân dân Quận Long Biên.
• Phần II : Thực trạng hoạt động của Tòa Án về thẩm quyền xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự.
• Phần III: Một số giải pháp, kiến nghị về thẩm quyền xét xử vụ án hình
xự tại Tòa án.

3


Lần kiến tập này là dịp em được thử sức, áp dụng tất cả những kiến thức trong sách
vở đã được học ở trên lớp để thể hiện năng lực thực tiễn, khả năng ứng phó với
tình huống, và khẳng định bản thân mình.
Để có thể học tập và hoàn thành được bài báo cáo kiến tập này, em xin gửi lời cảm
ơn sâu sắc đến :
- Thư kí Nguyễn Minh Nam – Tòa án nhân dân Quận Long Biên
- Thư kí Nguyễn Thị Ngọc Lan – Tòa án nhân dân Quận Long Biên
Cùng toàn thể nhân viên trong văn phòng tổng hợp của tòa án nhân dân Quận Long
Biên
Do thời gian có hạn nên báo cáo kiến tập này không tránh khỏi những thiếu sót và

khiếm khuyết. Kính mong sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các
bạn để báo cáo kiến tập này của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

4


PHẦN I:TỔNG QUAN VỀ TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN LONG BIÊN
1. Giới thiệu sơ lược về tòa án nhân dân Quận Long Biên.
- Tòa án nhân dân Quận Long Biên được thành lập theo quyết định số
268/2003/QĐ-TCCB ngày 25/12/2013 của Chánh án tòa án nhân dân tối cao.
- Chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/2004.
- Trụ sở của tòa án nhân dân Quận Long Biên được đặt tại địa chỉ lô HH03
Khu đô thị Việt Hưng, P.Giang Biên, Quận Long Biên, Thành Phố Hà Nội.
- Trên diện tích khoảng 3200m2, với 2 khu nhà: Khu nhà làm việc 3 tầng với
30 phòng làm việc và khu nhà xét xử với 3 phòng xét xử.

2. Cơ cấu tổ chức.
5


Tòa án nhân dân Quận Long Biên gồm:
-

01 Chánh án
03 Phó chánh án
12 Thẩm phán
14 Thư kí
Các chức danh khác: Kế toán, nhân viên hợp đồng …


Nhiệm vụ, quyền hạn
a. Chánh án: Lưu Tuấn Dũng
-

Chịu trách nhiệm phụ trách chung mọi hoạt động của cơ quan.
Phụ trách giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo.
Phân công thẩm phán tiến hành giải quyết các vụ án.
Phân công công tác tổ chức trong cơ quan.
Tổ chức quán triệt, thực hiện các chỉ đạo, lãnh đạo của cấp trên.
Tổ chức rút kinh nghiệm án hủy.

b. Phó chánh án: Nguyễn Thị Nguyệt, Lưu Đình Hùng, Nguyễn Thị
Phương Huyền
- Chịu trách nhiệm trước Chánh án về việc giám sát tiến độ giải quyết án
của mình và tiến độ giải quyết án của Thẩm phán thuộc bộ phận mình
quản lý.
- Xem xét tính ngay thẳng của các quyết định trước khi ban hành đối với
các thẩm phán mà mình phụ trách
- Báo cáo kết quả giải quyết án với Chánh Án
- Cho ý kiến chỉ đạo đối với thẩm phán
- Chủ động báo cáo tình hình mới phát sinh
- Tham gia báo cáo các cấp cùng Thẩm phán khi có yêu cầu
- Báo cáo hàng tháng
c. Các thẩm Phán
- Lập kế hoạch chi tiết trong 5 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ, trình Chánh án
phê duyệt
- Tiến hành giải quyết án theo kế hoạch
- Báo cáo tiến độ giải quyết án đối với Phó chánh án
6



- Chủ động báo cáo tình huống mới phát sinh trong quá trình giải quyết
- Giải trình các nguyên nhân về việc: Tạm đình chỉ, để án quá hạn.
- Báo cáo phó chánh án phụ trách tất cả các quyết định trước khi ra quyết
định
- Lên kế hoạch làm việc, giám sát đối với thư ký
d. Các thư kí
- Tiến hành tố tụng theo kế hoạch của Thẩm phán
- Chủ động báo cáo, tham mưu tình huống mới phát sinh trong quá trình
giải quyết vụ án
- Thực hiện các nhiệm vụ khác khi được lãnh đạo phân công.
3. Chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận
Tòa án nhân dân Quận Long Biên gồm 3 bộ phận:
- Bộ phận dân sự
- Bộ phận hình sự
- Bộ phận văn phòng - tổng hợp
a. Chức năng nhiệm vụ của bộ phận dân sự.
- Giải quyết các loại án dân sự, hành chính, hôn nhân gia đình, kinh doanh
thương mại và lao động.
- Chuẩn bị tài liệu, thông tin liên quan đến các loại án dân sự cho chánh án
khi tham dự các cuộc họp các cấp.
- Báo cáo kết quả, kế hoạch giải quyết các loại án dân sự hang tháng.
- Dự họp các cuộc họp khi lãnh đạo phân công.
- Chuyển hồ sơ dân sự lưu trữ vào kho
- Chuyển hồ sơ dân sự có kháng cáo, kháng nghị theo quy định pháp luật.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác khi được chánh án phân công.
- Tham mưu về lĩnh vực dân sự cho Quận ủy, UBND quận Long Biên.

b. Chức năng nhiệm vụ của bộ phận hình sự


7


- Tiếp nhận, tham mưu cho chánh án thụ lý và làm các thủ tục thụ lý theo
quy định pháp luật các vụ án hình sự.
- Lập, lưu, quản lý toàn bộ sổ sách và tài liệu của bộ phận hình sự.
- Làm các báo cáo, thống kê liên quan đến lĩnh vực hình sự, thống kê mạng
hình sự.
- Chuyển giao bản án, quyết định hình sự theo quy định pháp luật.
- Chuyển hồ sơ hình sự lưu trữ vào kho.
- Chuyển hồ sơ hình sự có kháng cáo, kháng nghị theo quy định pháp luật.
- Liên hệ, thu chi án lưu động.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác khi được chánh án phân công.
c. Chức năng nhiệm vụ của bộ phận văn phòng tổng hợp
-

Thực hiên các hoạt động của phòng hành chính tư pháp.
Tham mưu giúp chánh án thu chi theo quy định.
Quản lý, theo dõi và thống kê thi hành án hình sự.
Tham mưu cho chán án để ra các quyết định thi hành án hình sự đúng quy
định phảp luật, theo dõi thủ tục đặc xá.
Miễn giảm thi hành án.
Mua sắm, thanh lý và quản lý tài sản công
Theo dõi công tác Hội thẩm nhân dân.
Tổng hợp báo cáo chuyển các nơi theo yêu cầu.
Thông báo, tham mưu cho lãnh đạo các cuộc họp các cấp.
Thông báo các chỉ đạo của chánh án đến toàn bộ cơ quan .
Công văn đi, đến.
Quản lý, điều hành bộ phận bảo vệ và tạp vụ.

Lưu trữ các văn bản của cấp trên, các loại báo cáo, các văn bản của cơ
quan gửi đi các nơi.
Tham mưu về công tác đối nội, đối ngoại của cơ quan.
Lập, lưu, quản lý sổ sách các lĩnh vực liên quan đến hoạt động của bộ
phận.
Chuẩn bị các phiên tòa tại trụ sở cơ quan.
Chuẩn bị các điều kiện phòng họp ( đối với các cuộc họp của cơ quan, các
sự kiện, lễ chào cờ hàng tháng ).
Thực hiện nhiệm vụ của tổ bảo vệ và tạp vụ.
Thực hiện các nhiệm vụ khác khi được cánh án phân công.

8


PHẦN II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA
ÁN VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ
1. Lý do chọn đề tài :
Trong quá trình tiến hành tố tụng, giai đoạn xét xử chiếm vị trí rất quan trọng. Bởi
các giai đoạn khác có đạt được hiệu quả hay không có vai trò rất lớn ở công tác xét
xử tại tòa. Nước ta ghi nhận và đảm bảo thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc hai cấp
xét xử là xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Trong đó, xét xử sơ thầm được quy
định chặt chẽ từ thẩm quyền xét xử, chuẩn bị xét xử, những quy định chung về thủ
tục tố tụng tại phiên tòa cho đến khi xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nghị án và
tuyên án.
Xét xử sơ thẩm là giai đoạn mở đầu cho toàn bộ hoạt động xét sét xử (sơ thẩm phúc
thẩm giám đốc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm). Việc tìm hiểu, giải thích, làm
sang tỏ thẩm quyền xét xử sơ thẩm không chỉ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
xét xử sơ thẩm ấcc vụ án hình sự mà còn có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng.

9


Điểm trọng tâm trong đề tài mà người viết thực hiện là: “Thẩm quyền xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự và việc hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này”.
Tìm hiển quy định của pháp luật TTHS hiện hành về thẩm quyền xét xử sơ thẩm
hình sự, nghiên cứu thực tiễn xét xử liên quan đến thẩm quyền trong bối cảnh cải
cách tư pháp hiện nay là vấn đề có ý nghĩa quan trọng về lý luận cũng như thực tiễn
lập pháp.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
2.1 Khái niệm thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và căn cứ quy
định thẩm quyền xét xử.
Theo giáo trình luật TTHS trường Đại học Luật Hà Nội: “Thẩm quyền xét xử sơ
thẩm là quyền mà pháp luật quy định cho phép Tòa án được xét xử sở thẩm vụ án
hình sự căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; đối tượng
phạm tội; nơi thực hiện tội phạm hoặc nơi khác theo quy định của pháp luật”. Đây
là một khái niệm hẹp giới hạn trong phạm vi nghiên cứu về thẩm quyền xét xử của
Tòa án theo quy định tại Chương XVI của Bộ luật TTHS (thẩm quyền hình thức)
còn xét một cách rộng hơn thẩm quyền xét xử của tòa án còn bao gồm cả thẩm
quyền nội dung bao gồm cả quyền hạn giải quyết quyết định của tòa án đối với
những vấn đề cần được xem xét mà trong phạm vi bài làm này sẽ không đề cập
đến.
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được phân định theo những căn cư sau:
căn cứ vào đường lối chính sách của Đảng; các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS;
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; tính chất nghiêm
trọng phức tạp của tội phạm; trình đội chuyên môn nghiệp vụ của người tiến hành
tố tụng và căn cứ vào tình hình tội phạm và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm. Dựa trên những căn cứ này, pháp luật hiện hành phân định thẩm quyền của
Tòa án như sau:


10


- Thẩm quyền xét xử theo sự việc: là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa
Tòa án các cấp với nhau căn cuws vào tính chất của tội phạm.
- Thẩm quyền xét xử theo đối tượng: là sự phân định thẩm quyền xét xử
giữa TAND và TAQS căn cứ vào đối tượng của tội phạm.
- Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ: là sự phân định thẩm quyền xét xử căn
cứ vào nơi tội phạm được thực hiện và nơi kết thúc điều tra.

2.2 Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án theo quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự
2.2.1 Thẩm quyền xét xử theo sự việc
• Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và tòa án quân sự khu vực
Khoản 1 Điều 170 BLTTHS 2003 quy định Tòa án nhân dân cấp huyện và Toàn án
quân sự khu vực xét xử sở thẩm những vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng,
nghiêm trọng và rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm sau đây:
- Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
- Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
- Các tội quy định tại các điều 93, 95,96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222,
223, 224, 225, 226, 293, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình
sự năm 1999.
Như vậy theo khoản 1 điều 170 BLTTHS, thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự (VAHS) của TAND huyện và TAQS khu vực bao gồm các loại tội phạm có mức
hình phạt cao nhất được quy định trong Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi 2009 (BLHS)
là 15 năm tù, trừ trường hợp quy định tại điểm a, b, c khản 1 Điều 170. So với
quyền định của BLTTHS 1988, thẩm quyền xét xử sơ thẩm quy định theo hướng
tang cường thẩm quyền quy định theo hướng tang cường thẩm quyền xét xử cho
TAND cấp huyện. Đây cũng là một biện pháp giảm lượng án tồn đọng ở TAND
cấp huyện. Đây cũng là một biện pháp giảm lượng án tồn đọng ở TAND cấp tỉnh

và Tòa phúc thẩm TAND tối cao. Đây là một bước cải cách phù hợp với chuyên
11


môn, cơ sở vật chất của ngành tòa án. Vấn đề này đã được hướng dẫn tại Mục 3
Nghị quyết 24/2003/QH11 về việc thi hành Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
Việc mở rộng thẩm quyền cho TAND huyện xuất hiện từ lý do sau:
Một là, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán ở hầu hết Tòa án cấp huyện
ngày càng được nâng cao và có khả năng xét xử được những vụ án mà mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là 15 năm tù trở xuống. Hai là việc tăng
thẩm quyền xét xử cho Tòa án cấp huyện sẽ tránh được việc tồn đọng án cấp tỉnh,
dành thời gian cho Tòa cấp tỉnh tập trung xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm. Ba là, cơ sở vật chất của Tòa án cấp huyện ohaafn nào đã được cải thiện nâng
cấp. Số lượng biên chế thẩm phán ổn định cũng chính là lí do giúp cho ngành Tòa
án làm việc tốt hơn. Bốn là, giảm bớt được chi phí và thời gian tiến hành tố tụng,
tránh được việc trì hoãn phiên tòa vì lí do vắng mặt của người tham gia tố tụng.
Năm là, một trong những mục đính của việc xét xử là giáo dục quần chúng nhân
dân chấp hành đúng pháp luật, và việc xét xử ở Tòa cấp huyện có thể thực hiện tốt
mục đích này.
• Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu
Khoản 2 Điều 170 Bộ luật TTHS 2003 quy định: “Tòa án nhân dân cấp tỉnh và
Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ tẩm những vụ án hình sự về những tội
phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự
khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà mình lấy lê
để xét xử”. So với những quy định trước đây, thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa
án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu được quy định trong Bộ luật
tố tụng hình sự không có gì khác nhau. Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự
cấp quân khu có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hai loại việc sau:
- Những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của
Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực

Đó là những vụ án hình sự về những tội phạm đặc biện nghiêm trọng mà mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù, hoặc những vụ án không
12


thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới quy định tại điểm a,b,c khoản 1 Điều 170
BLTTHS.
- Những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để
xét xử Bộ luật tố tụng hình sự không quy định cụ thể những vụ án nào
thuộc quyền của Tòa án cấp huyện nhưng Tòa án cấp tỉnh lấy lên để xét
xử. Do đó, Chánh án Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát và thủ trưởng cơ
quan điều tra cấp tỉnh cần căn cứ vào khả năng thực tế của các Thẩm
phán, Kiêm sát viên và Điều tra viên ở cấp huyện mà xác định những loại
vụ án nào cần lấy lên để điều tra truy tố và xét xử ở cấp tỉnh. Cơ quan
điều tra cần lấy lên để điều tra, truy tố xét xử các vụ án sau:
+) Những vụ án có tính chất phức tạp ( có nhiều tình tiết khó đánh giá
thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều
ngành);
+) Những vụ án mà bị cáo là thẩm phán, kiểm sát viên, sỹ quan công
an, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người nước ngoài, người có
chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.
2.2.2 Thẩm quyền xét xử theo đối tượng
Trong BLTTHS 2003 không có điều luật cụ thể phân định đói tượng nào thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, đối tượng nào thuộc thẩm quyền của Tòa
án nhan dân. Tuy nhiên trong Pháp lênh tổ chức Tòa án quân sự 2002 có quy định
về thẩm quyền xét xử của TAQS. Cụ thể Điều 3 Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự
năm 2002 quy định: “Các tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình
sự mà bị cáo là:
1. Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị
trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sang chiến

đấu; dân quân tự vệ phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu phục vụ chiến
đấu và những người được trưng tập là nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân
đội trực tiếp quản lý;
2. Những người không thuộc các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này mà
phạm tội có lien quan đến bí mật quan sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội”.
13


Dấu hiệu đối tượng tội phạm phân biệt rõ thẩm quyền giữa tòa án quân sự và tòa án
nhân dân. Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét xử hầu hết các đối tượng phạm tội
trừ các đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự (theo Điều 3 pháp
lệnh trên). Còn trong tòa án quân sự thì việc phân định thẩm quyền xét xử giữa các
cấp lại cũng theo cấp bậc, chức vụ quân nhân (Điều 26, Điều 29 Pháp lệnh).
Ngoài những tội phạm có đối tượng không thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án
quân sự, Tòa án nhân dân có quyền xét xử những người không còn phục vụ trong
quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trong thời gian phục vụ
quân đội, những người đang phục vụ trong quân đội mà phát hiện tội phạm của họ
được thực hiện trước khi vào quân đội nếu tội phạm đó không lien quan đến bí mật
quân sự hoặc không gây thiệt hại cho quân đội.
2.2.3 Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ
Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ được quy định tại Điều 171 BLTTHS. Theo
khoản 1 Điều 171, vụ án hình sự được xét xử căn cứ vào nơi tội phạm được thực
hiện và nơi kết thúc điều tra. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện ở nhiều
nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Tòa án có thẩm
quyền xét xử là Tòa án nơi kết thúc điều tra. Đối với Tòa án Quân sự, Thẩm quyền
xét xử được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 25/2005: “Vụ án thuộc thẩm quyền
xét xử của Tòa án quân sự cấp nào xảy ra trên địa bàn có Tòa án quân sự cấp đó
thì do Tòa án quân sự cấp đó xét xử của Tòa án quân sự do Bộ Quốc phòng quy
định cụ thể”. Nếu không xác định được nơi thực hiện tội phạm hoặc có nhiều Tòa
án quân sự khác nhau có thẩm quyền xét xử vụ án thì tòa án quân sự đó xét xử vụ

án là Tòa mà VKS truy tố bị cáo trước tòa đó.
Việc quy định thẩm quyền xét xử thuộc về tòa án nơi tội phạm được thực hiện
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng sẽ dễ dàng tiết kiệm được thời gian hơn trong
việc tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng
hoặc những người liên quan trong vụ án. Mặt khác, việc xử lý vụ án nơi tội phạm
14


được thực hiện cũng đảm bảo tốt hơn sự có mặt của những người tham gia tố tụng
trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
Theo khoản 2 Điều 171 BLTTHS đối với trường hợp bị cáo phạm tội ở nước ngoài
thì:
- Báo cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thì do Tòa án nhân
dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét xử. Nếu
không xác định được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo thì tùy
trường hợp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho Tòa
án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh xét xử.
- Bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án
quân sự thì do Tòa án quân sự cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết
định của Chánh án Tòa án quân sự trung ương.
Như vậy vụ án về các tội phạm xảy ra ở nước ngoài thuộc thẩm quyền xét
xử của TAND cấp tỉnh và TAQS quân khu mà không phụ thuộc thẩm
quyền xét xử của TAND cấp tỉnh và TAQS quân khu mà không phụ
thuộc vào loại tội phạm được thực hiện. Bởi vì chỉ các cơ quan tiến hành
tố tụng ở cấp tỉnh và quân khu mới có đủ điều kiện đảm bảo cho hoạt
động tố tụng ở nước ngoài, các quan hệ với các cơ quan tố tụng nước
ngoài trong ủy thác hoạt động tư pháp, trong tương trợ hoạt động tư pháp,
trong dẫn độ tội phạm…

Đối với những vụ án thuộc thẩm quyền của TAQS thì ngoài quy tắc
chung trên còn phải căn cứ vào Thông tư liên tịch số 01/TTLTTANDTC- VKSNDTC-BQP-BCA ngày 18 tháng 4 năm 20055 Hướng
dẫn về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. Theo hướng dẫn này, các
vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS khu vực thuộc quân khu xét xử
theo Điều 171 BLTTHS về thẩm quyền theo lãnh thổ. Còn các vụ án
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Quân chủng hải quân và các Tòa án
quân sự khu vực Quân chủng hải quân thì không áp dụng nguyên tắc lãnh
thổ. Các Tòa án này co thẩm quyền xét xử các vụ án xảy ra trong đơn vị
quân chủng, các vụ án mà bị cáo là nười do quân chủng quản lý hoặc
15


người khác phạm tội liên quan đến bí mật quân sự, gây thiệt hại cho quân
chủng hải quân. Thẩm quyền xét xử những tội phạm xảy ra trên tàu bay
hoặc tàu biển quy định tại Điều 172: “Những tội phạm xảy ra trên tàu bay
hoặc tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án Việt Nam, nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về
đầu tiên hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký”. Tùy vào tội phạm
đó là tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc
biệt nghiêm trọng để xác định cấp Tòa án xét xử là cấp huyện hay cấp
tỉnh.
3. Thực tiễn thi hành và đề xuất hoàn thiện các quy định của pháp luật về
thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
3.1 Những kết quả đạt được
Bộ luật TTHS Việt Nam đã đóng góp quan trọng cho thực tiễn giải quyết các vụ án
hình sự đặc biệt là các quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Có thể điểm qua
một số kết quả quan trọng sau đây:
Thứ nhất: Việc mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho tòa án cấp huyện bước
đầu có những kết quả khích lệ. Án tồn đọng cũng như khối lượng công viêc cho các
cơ quan tòa án cấp trên có chiều hướng giảm.\

Nhờ sự mở rộng thẩm quyền mà đã làm giảm đi áp lực về thẩm quyền xét xử phúc
thẩm không chỉ cho các tòa án nhân dân cấp tỉnh mà còn cho tòa án nhân dân tối
cao để tòa án nhân dân tối cao có thể tập trung vào chức năng giám đốc thẩm, tái
thẩm cũng như tổng kết kinh nghiệm xét xử, v.v..
Thứ hai: Bên cạnh đặt ra chỉ tiêu cho các tòa án cấp huyện, chúng ta cũng có nhiều
biện pháp nâng cao năng lực cán bộ cũng như cơ sở vật chất, đáp ứng yêu cầu cơ
bản trang thiết bị thiết yếu phục vụ cho công tác xét sử.
Ngoài ra: Việc thực hiện chủ trương tăng cường thẩm quyền xét xử cho các tòa án
cấp huyện đã tạo ra sự chuyển biến về nhận thức cho các cấp ủy Đảng chính quyền
địa phương. Từ đó, có sự quan tâm hơn đối với hoạt động trọng ngành tòa án nhân
dân nói chung và các tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng.
16


3.2 Những bất cập, vướng mắc trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử
Thứ nhất: Bộ luật TTHS hạn chế quá nhiều trường hợp vụ án hình sự về tội phạm
ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng mà Tòa án
cấp huyện không được xét xử tại điểm c khoản 1 Điều 170 (21 tội phạm cụ thể). Do
đó, án tồn đọng của các vụ việc này vẫn còn tương đối nhiều.
Thứ hai: Vẫn tồn tại tranh chấp về thẩm quyền và chuyển vụ án giữa các tòa án.
Về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp
quân khu xét xử những vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân
cấp huyện và Tòa án quân sự cấp quân khu có thể lấy vụ án thuộc thẩm quyền của
Tòa án cấp dưới lên để xét xử như hiện nay là chưa rõ rang. Thực tế, các cơ quan
này vẫn áp dụng theo tinh thần của Thông tư 02 nhưng hiện nay văn bản này đã hết
hiệu lực.
Bên cạnh đó, thực tiễn xét xử vẫn có một số trường hợp giữa Việt kiểm sát và tòa
án không thống nhất với nhau về thẩm quyền xét xử, nên vụ án đã không được giải
quyết theo đúng thẩm quyền. Ví dụ: vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án tỉnh nhưng
Viện kiểm sát tỉnh không truy tố nên phải để cho tòa án huyện xét xử và như vậy là

việc xét xử không đúng thẩm quyền. Còn có trường hợp vụ án thuộc thẩm quyền
xét xử của tòa án khác cùng cấp (huyện) nhưng khi tòa án không thuộc thẩm quyền
chuyển vụ án thì viện kiểm sát cùng cấp đó không thay đổi cáo trạng nên không xét
xử được.
Sở dĩ như vậy là vì việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền pháp luật mới chỉ đề
cập đến giải quyết tranh chấp giữa các tòa án theo quy định tại Điều 175 Bộ luật
TTHS mà chưa có quy định đối với việc thống nhất thẩm quyền giữa tòa án và viện
kiểm sát.
Thứ ba: Bộ luật TTHS 2003 không quy định trực tiếp phân biệt thẩm quyền xét
xử giữa tòa án nhân dân và tòa án quân sự mà việc này chỉ được quy định tại Pháp
lệnh tổ chức Tòa án quân sự 2002 là một văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn. Từ
đó, dẫn tới việc không phân định được rõ rang mà đặc biệt là đối với các vụ án liên
quan đến cả hai hệ thống tòa án này. Theo Điều 5 của Pháp lệnh trên thì nếu các vụ
án vừa có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân vừa có tội phạm
17


thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự xét xử tội phạm thuộc thẩm
quyền của Tòa án quân sự. Trường hợp không tách được vụ án thì Tòa án quân sự
sẽ xét xử toàn bộ vụ án. Như vậy, dẫn tới việc mâu thuẫn với chính Điều 117 Bộ
luật Tố tụn hình sự: “chỉ được tách vụ án trong nhưng trường hợp thật cần thiết khi
không thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với toàn bộ các tội phạm và nếu việc
tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện vụ án”.
Thứ tư: Hiện tại các cơ quan tiến hành tố tụng cũng đang rất lúng túng đối với việc
xác định thẩm quyền xét xử trong các trường hợp bị cáo phạm tội ở nước ngoài còn
các vụ án liên quan đến yếu tố nước ngoài khác: người bị hại. nguyên đơn dân sự.
bị đơn dân sự… là người nước ngoài; tội phạm thực hiện cả nước ngoài và trong
nước… thì không có quy định. Điều này dẫn tới việc các cơ quan tiến hành tố tụng
hết sức lung túng trong việc điều tra, truy tố, xét xử.
Có thể nói một trong những nguyên nhân tác động tới việc xét xử còn nhiều vướng

mắc chính là do các quy định pháp luật trong Bộ luật TTHS cũng như các văn bản
hướng dẫn thi hành chưa đầy đủ, còn tồn tại nhiều vấn đề chưa được đề cập, giải
quyết tạo thành những “lỗ hổng”, giảm hiệu lực cũng như gây nhiều vướng mắc
cho thực tiễn thi hành. Điều này đã đặt ra yêu cầu phải có những phương hướng
khắc phục nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS.

18


PHẦN III : MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ
NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM.

1. Kiến nghị
Trước hết: xuất phát từ thực tiễn là năng lực thực tế của các cơ quan tiến hành
tố tụng nói chung và cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp huyện nói riêng đã được nâng
cao rất nhiều so với thời điểm BLTTHS có hiệu lực thi hành. Do đó em đồng ý với
quan điểm của Th.S Vũ Gia Lâm thể hiện trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp
trường, tháng 1 năm 2009: đối với các tội phạm quy định tại điểm c khoản 1 Điều
170 Bộ luật TTHS, trong thời điểm hiện tại, các Tòa án cấp huyện đã có khả năng
xét xử hầy hết các tội phạm này, vì vậy chỉ nên quy định Tòa án cấp huyện không
được xét xử một số tội phạm quy định tại 9 điều luật sau thay vì 21 Điều như hiện
nay đó là Điều 172; 216; 217; 218; 219; 221; 222; 223; 263.
Thứ hai: Bộ luật TTHS nên quy định cụ thể trường hợp nào Tòa án nhân dân
cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu được lấy những vụ án thuộc thẩm quyền của
Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự cấp khu vực lên để xét xử. Vì như đã
nói Thông tư 02 trước đây có quy định về vấn đề này nhưng hiện nay văn bản này
đã hết hiệu lực. Do vậy, để đảm bảo cho hoạt động xét xử được thống nhất cần thiết
phải có các quy định rõ hơn đối với các trường hợp này trong một văn bản hướng
dẫn mới, có hiệu lực thi hành.

Thứ ba: Cần giải quyết mối quan hệ giữa Tòa án với Viện kiểm sát trong
trường hợp không thống nhất được về thẩm quyền theo việc. Chúng ta nên quy
định ngày từ đầu giai đoạn điều tra, truy tố: Viện kiểm sát truy tố không đúng thẩm
quyền phải chuyển hồ sơ, phải thay đổi bản cáo trạng chứ không phải đến khi xét
19


xử mới đề ra vấn đề không thuộc thẩm quyền theo việc. Trường hợp không nhất trí
với quyết định của Tòa án thì Viện kiểm sát có quyền báo cáo lên Viện trưởng Viện
Kiểm sát cấp trên.
Thứ tư: Về quy định tại Điều 172 đối với tội phạm xảy ra trên tàu bay, tài biển,
khi tàu bay tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng Việt Nam, Bộ luật TTHS hiện
hành quy định thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nơi có sân bay, bến cảng mà
tàu bay, tàu biển trở về đầu tiên ở trong nước hoặc Tòa án nơi tàu bay, tàu biển đó
đăng ký. Quy định như vậy dễ dẫn đến việc tranh chấp hoặc đùn đẩy lẫn nhau giữa
các Tòa án nói trên. Hơn nữa, khi sự việc xảy ra thường mang tính khẩn cấp, việc
quy định cả Tòa án nơi đăng ký tàu bay, tàu biển có thẩm quyền xét xử chắc chắn
sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, thu thập chứng cứ và không đảm bảo giải quyết
nhanh chóng, kịp thờ đối với vụ án. Do đó, chỉ cần quy các tội phạm xảy ra trên tày
bay, tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngoài
không phậm hoặc lãnh hải Việt Nam thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt
Nam, nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về đầu tiên ở trong nước.
Thứ năm: Bổ sung quy định đối với quy định phân biệt thẩm quyền xét xử
giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự, đặc biệt là
quy định rõ về đối tượng xét xử của hai loại tòa án này. Tránh tình trạng việc phân
định thẩm quyền chỉ được đề cập tại một văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn
(Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự), trong khi việc phân định thẩm quyền xét xử
giữa tòa án nhân dân và tòa án quân sự luôn có những vấn đề đáng quan tâm.
2. Giải pháp
Cần quy định về thẩm quyền của tòa án nào được xét xử những trường hợp vụ

án có liên quan đến yếu tố nước ngoài như: bị can, bị cáo là người nước ngoài, tội
phạm xảy ra ở trong nước và nước ngoài, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự là người nước ngoài… nhằm thống nhất trong giải quyết giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng
20


KẾT LUÂN
Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 (TTHS) được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003. Bộ
luật này thay thế Bộ luật TTHS ngày 28/6/1988 và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/7/2004 đã đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật tố tụng hình sự.
Những quy định của Bộ luật có nhiều sự đổi mới sâu sắc, thể chế hóa được đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn mới, đặc biện là các quy định về
thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án. Bài viết trên đây là sự phân tích, đánh giá
các quy định của Bộ luật tố tụng cũng như thực tiễn thi hành chúng và một số đề
xuất nhằm hoàn thiện các quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm với mong muốn
Bộ luật có thêm những quy định phù hợp với thực tiễn phức tạp và luôn thay đổi để
hoàn thiện hơn trong thời gian tới.

21



×