Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

tiểu luận cao học mác LÊNIN mác và ph ăngghen trình bày những nguyên lý chủ nghĩa duy vật lịch sử giai đoạn 1844 1848

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.54 KB, 31 trang )

MỤC LỤC
A.
B.

C.
D.

Lời nói đầu.
Nội dung.
I.
Khái quát hoàn cảnh lịch sử và chủ nghĩa duy vật lịch sử
1. Hoàn cảnh lịch sử
2. Khái quát chủ nghĩa duy vật lịch sử
II.
Những nguyên lí của chủ nghĩa duy vật lịch sử (1844 – 1848).
1. Tác phẩm “Bản thảo kinh tế - triết học (C. Mác viết 1844)
1.1 Vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp
1.2 Vấn đề về con người.
1.3 Vai trò của sản xuất vật chất
2. Tác phẩm “Gia đình thần thánh” (C. Mác, Ph. Ăngghen
1845)
2.1 Vai trò của quần chúng nhân
dân
2.2 Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
2.3 Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
2.4 Tư tưởng quan hệ sản xuất
3. Tác phẩm “Luận cương về Phơ Bách (C. Mác viết 1845)
3.1 Vấn đề con người và bản chất con người
3.2 Vấn đề về tôn giáo
4. Tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (C. Mác, Ph.Ăngghen 18451846)
4.1 Con người là xuất phát điểm của lịch sử xã hội


4.2 Sản xuất vật chất là nền tảng của tồn tại và phát triển xã hội
4.3 Những quy luật cơ bản của phát triển tiến bộ lich sử.
4.4 Những nguyên lí khác của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
5 Tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học” (C. Mác 1847)
5.1 Lí luận về hình thái kinh tế xã hội
5.2 Khảo cứu mối quan hệ đời sống vật chất và đời sống tinh thần
5.3 Vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp
6.
Tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” (C. Mác,
Ph.Ăngghen, 1848)
6.1 Vấn đề giai cấp,đấu tranh giai cấp, sứ mệnh lich sử GCCN
6.2 Cách mạng xã hội, nhà nước, tư tưởng chuyên chính vô sản
6.3 Vai trò của Đảng cộng sản
III.
Kết luận chung
Lời kết
Tài liệu tham khảo
1


A.

Lời nói đầu

Quá trình hình thành và phát triển của triết học Mác trải qua nhiều giai đoạn
khác nhau trong đó giai đoạn 1844 – 1848 là giai đoạn hình thành những nguyên lí
cơ bản của triết học Mác, thể hiện qua hàng loạt tác phẩm như “Bản thảo kinh tế_
triết học”, “Sự khốn cùng của triết học”, “Hệ tư tưởng Đức”…, và tác phẩm đánh
giá sự chín mùi của thế giới quan mới đó là “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” bất hủ.
Trong những lí luận của các tác phẩm đó thì chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong

những cống hiến vĩ đại nhất của C. Mác và Ph. Ăngghen cho nhân loại. Sự xuất
hiện của chủ nghĩa duy vật lịch sử là cuộc cách mạng trong lịch sử - xã hội loài
người. Đó là kết quả của sự vận dụng quan điểm duy vật biện chứng vào giải thích
lĩnh vực lịch sử và đồng thời là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của tư tưởng
triết học lịch sử của loài người. Nó bàn về nhưng vấn đề như vấn đề giai cấp, đấu
tranh giai cấp, vấn đề nhà nước, cách mạng xã hội, tiến bộ xã hội, vấn đề về con
người, vai trò của quần chúng nhân dân, hình thái kinh tế xã hội... Có thể nói rằng
chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng với chủ nghĩa duy vật biện chứng là “linh hồn” của
triết học Mác.
Để có thể hiểu thêm về chủ nghĩa duy vật lịch sử được hình thành và phát
triển như thế nào? Những quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử thể hiện cụ thể qua
những tác phẩm như thế nào? Giá trị và ý nghĩa của nó ra sao...? Thông qua quá
trình được học trên lớp và tham khảo một số tài liệu liên quan em đã chọn đề tài
“C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày những nguyên lý chủ nghĩa duy vật lịch sử giai
đoạn 1844-1848”.

2


I.

Khái quát hoàn cảnh lịch sử và chủ nghĩa duy vật lịch sử
1. Khái quát hoàn cảnh lịch sư.
C. Mác và Ph. Ăngghen là hai người con thiên tài của nước Đức. C. Mác

sinh ra trong một gia đình trí thức, tại thành phố Tơ–nơ –vơ, tỉnh Ranh của nước
Đức, là vùng có nền kinh tế phát triển cao. Chính nền kinh tế tư bản đã sản sinh ra
giai cấp tư sản và giai cấp công nhân. Ông đã nhìn thấy tình trạng người công nhân
bị bóc lột và bần cùng hóa, do đó mà nảy sinh tư tưởng muốn giải phóng. Đối với
Ph. Ăngghen, nếu như C. Mác sinh ra trong gia đình trí thức thì Ph. Ăngghen lại

được sinh ra trong một gia đình thương nhân, xuất thân từ một nhà tư sản, bố ông
là một ngươi rất nghiêm khắc ông định hướng cho tương lai của Ph. Ăngghen,
nhưng Ph. Ăngghen không chấp nhận và đi theo con đường mà mình yêu thích. Do
đó mà hai nhà tư tưởng vĩ đại đã gặp được nhau, cùng nhau nghiên cứu hoạt động
lí luận và chính trị xã hội đẻ đưa tới sự ra đời của triết học Mác vào những năm 30,
40 của thế kỉ XIX ở Tây Âu cụ thể là nước Đức.
Các nước Tây Âu lúc này phát triển mạnh về kinh tế nhờ những thành tựu
của cuộc cách mạng khoa học công nghệ như ở Anh, Pháp… phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa ngày càng phát triển, giai cấp tư sản càng tập trung vào phát triển
lực lượng sản xuất, cải tiến công cụ lao động để tăng năng suất lao động. Lực
lượng sản xuất lúc này phát triển cao, mang tính xã hội hóa trong khi đó quan hệ
sản xuất vẫn là quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn kinh tế giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không thể tự điều hòa, giải quyết được do
vậy mà các nước Tây Âu nổ ra nhiều cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân như
cuộc khởi nghĩa của công nhân Li – ông (Pháp), phong trào Hiến chương ( Anh)…
vv
Tại Đức quê hương sản sinh ra triết học Mác thì quốc gia này có phần đi vào
chủ nghĩa tư bản có phần chậm hơn các nước khác nhưng vẫn chịu tác động của
3


cuộc cách mạng công nghiệp. Giai cấp tư sản Đức lúc này tiến hành cách mạng
đánh đổ phong kiến nhưng dè dặt, nhượng bộ, họ đã chuyển sang thỏa hiệp với
Nhà nước phong kiến Phổ để mong chuyển từ chế độ quân chủ phong kiến sang
dân chủ tư sản cho thấy rằng họ không đủ sức lãnh đạo phong trào cách mạng cộng
với việc lo sợ nhất là sự lớn mạnh của phong trào công nhân cả về số lượng cũng
như nhận thức tiêu biểu trong giai đoạn này là cuộc đấu tranh của công nhân xiledi
năm 1844.
Như vậy các cuộc đấu tranh nổ ra ở Anh, Pháp, Đức…là những hồi chuông
đánh lên liên tiếp rằng giai cấp tư sản không nhân danh cho tiến bộ xã hội, giai cấp

vô sản mới nhân danh cho tiến bộ xã hội, mới là lực lượng tiến bộ đại diện cho dân
chủ, đấu tranh cho dân chủ, tiến bộ xã hội. Tuy nhiên những cuộc đấu tranh còn tự
phát, lẻ tẻ. Muốn phong trào chuyển từ tự phát sang tự giác cần có một lí luận soi
đường. Triết học Mác ra đời đáp ứng được nhu cầu đó của lịch sử, giải quyết vấn
đề lí luận cho các phong trào đấu tranh về sau, trong tác phẩm “Lời nói đầu góp
phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen” C. Mác nói rằng: “Triết học là vũ khí
tinh thần của giai cấp công nhân còn giai cấp công nhân là vũ khí vật chất”.
Sự lớn mạnh của chủ nghĩa tư bản được triết học phản ánh bằng hàng loạt
các luận giải khác nhau để thoát khỏi hiện thực, chống lại sự áp bức, bóc lột của
các giai cấp thống trị ở Đức lúc bấy giờ tiêu biểu như triết học Hêghen ngoài hạt
nhân hợp lý là phép biện chứng thì Hêghen lại ca ngợi Nhà nước Phổ, cho rằng
Nhà nước phổ là Nhà nước hoàn mỹ, ông đấu tranh bảo vệ Nhà nước phổ, con
người chỉ cần hoạt động tinh thần, không cần phải hoạt động vật chất, không cần
thiết phải làm cách mạng, chỉ cần thỏa hiệp với tư sản rồi quay lại với Nhà nước
phong kiến Phổ trong khi các nước trên thế giới đã phát triển lên tư bản chủ nghĩa.

4


Không chỉ phê phán triết học Hêghen mà ông còn phê phán chủ nghĩa duy
tâm nói chung và đặc biệt trong giai đoạn này là phái Hêghen trẻ tiêu biểu là Bruno
– Bauer. Ông vạch trần tính chất duy tâm của Hêghen trẻ và đồng bọn, lúc này
Hêghen trẻ là bộ phận trí thức nhưng vô chính phủ tự đề cao mình, không quan tâm
tới đời sống nhân dân, rơi vào hữu khuynh, không những thế mà họ còn kết tội C.
Mác và Ph. Ăngghen là không phê phán quần chúng nhân dân, giai cấp công nhân.
Trong sự nghiệp cách mạng, tự đề cao mình – những con người có óc phê phán,
tinh thần phê phán.
Năm 1845 – 1846, ở Đức lúc này chủ nghĩa duy tâm và trào lưu chủ nghĩa
xã hội tiểu tư sản ảnh hưởng mạnh mẽ tới phong trào cách mạng, những người ủng
hộ theo C.Mác và Ph. Ăngghen là thiểu số, các phe phái đủ màu sắc của chủ nghĩa

xã hội tiểu tư sản đang chiếm ưu thế. Trước tình hình đó C.Mác và Ph. Ăngghen
thấy đã đến lúc phải chứng minh một cách có khoa học những cơ sở hệ tư tưởng
của giai cấp vô sản, tuyên truyên tư tưởng đó vào giai cấp vô sản để tranh thủ
những người cộng sản về phía cách mạng.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã tích cực tham gia vào phong trào đấu tranh giai
cấp của giai cấp vô sản, thành lập các tổ chức có khuynh hướng cộng sản và hoạt
động tích cực cùng các nhóm cách mạng khác. Trên cơ sở hoạt động lí luận và thực
tiễn các ông đã chứng minh một cách khoa học hệ tư tưởng của giai cấp vô sản,
tuyên truyền hệ tư tưởng đó vào phong trào công nhân và phê phán chủ nghĩa xã
hội tiểu tư sản lúc bấy giờ. Một trong những nhiệm vụ lúc đó là phải vạch trần
quan điểm vô chính phủ, phản động của Prudong, giải phóng giai cấp công nhân
khỏi ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản. Trong khoảng thời gian này các ông vừa
tích cực hoạt động khoa học và lí luận vừa tích cực tham gia hoạt động thực tiễn
nhằm thành lập Đảng cộng sản. Năm 1847 tổ chức đó đã được thành lập với tên

5


gọi là “Đồng minh những người cộng sản” mà cương lĩnh của nó là “Tuyên ngôn
Đảng cộng sản” (1848).
Như vậy cùng với sự tích cực hoạt động lí luận và chính trị xã hội đã làm
cho các nhà mácxit xây dựng nên những nguyên lí của chủ nghĩa duy vật lịch sử ở
giai đoạn 1844– 1848 rất có giá trị.
2.

Khái quát chủ nghĩa duy vật lịch sư.
Tư tưởng triết học lịch sử đã xuất hiện từ thời kỳ cổ đại, trong xã hôi tư sản
dưới những hình thức khác nhau các tư tưởng triết học lịch sử cổ đại cũng bàn về
con người, về xã hội, về bản thân mình và về quan hệ của con người với tự
nhiên…hầu hết những vấn đề đã đặt ra đều thuộc nội dung mà triết học mácxit sau

này giải đáp, và nó đã thu lại những thành tựu có giá trị nhất định. Tuy nhiên, một
măt do thiếu năng lực khái quát hóa, do sự vận động của thực tiễn chưa được chín
muồi, một mặt do lập trường giai cấp mà các nhà tư tưởng triết học lịch sử trước
Mác đã chưa thể giải quyết một cách đúng đắn khoa học về bản chất và quy luật
của quá trình lịch sử. Căn bản là ở chỗ họ đứng trên lập trường duy tâm. Tiêu biểu
triết học cổ điển Đức là Hêghen giải thích xã hội bằng “tinh thần tuyệt đối” hay có
chăng chỉ là “tự ý thức” theo quan niêm của Can-tơ..., như vậy họ đã rơi vào duy
tâm.
Đến lượt C. Mác và Ph. Ăngghen đã luận giải vấn đề lịch sử xã hội theo
một hướng khác đó là vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật
của triết học Mác là chủ nghĩa duy vật triệt để bởi luận giải duy vật cả về tự nhiên
và xã hội còn những nhà triết học trước Mác chỉ luân giải duy vật về mặt tự nhiên
nhưng lại duy tâm về mặt xã hội, thể hiện tính chất không triệt để. Trong tác phẩm
luận cương về Phơ Bách C. Mác viết rằng: “Các nhà triết học trước kia chỉ biết giải
thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới”.
6


Sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
được coi là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học của nhân loại. Đây là hình
thức triết học duy vật cao nhất gắn liền với công lao vĩ đại của C.Mác và Ph.
Ăngghen.
C.Mác và Ph.Ăngghen chẳng những đã sáng tạo ra thế giới quan duy vật
biện chứng là thế giới quan kết hợp giữa lí luận với khoa học và phương pháp cách
mạng khác về chất so với chủ nghĩa duy vật cũ và phép biên chứng trước kia mà
còn vận dụng lí luận đó vào giải thích đời sống xã hội để xây dựng nên một hệ
thống quan điểm duy vật biên chứng về xã hội, vạch ra cấu trúc và quy luật phát
triển của xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã vạch ra rằng:
Một là: Lịch sử phát triến của loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên, do
những quy luật khách quan của bản thân lịch sử chi phối, không phụ thuộc vào ý

muốn chủ quan của con người, đó là quá trình phát triển thay thế nhau của các hình
thái kinh tế – xã hội.
Hai là: Không phải ý thức con người quyết định tồn tại của họ, mà chính tồn
tại xã hội quyết định ý thức của họ.
Ba là: Sản xuất vật chất là cơ sở nền tảng cho sự phát triển xã hội.
Bốn là: Chủ nghĩa duy vật lịch sử còn đề xuất những nguyên tắc nhận thức
về khoa học lịch sử trong đó quan trọng nhất là không thể giải thích “thời đại lịch
sử nhất định căn cứ vào ý thức của thời đại đó, mà phải căn cứ vào sinh hoạt vật
chất của thời đại.”
Có thể nói rằng chủ nghĩa duy vật lịch sử do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng
lập ra là thành quả vĩ đại mà chỉ có đứng trên lập trường vô sản mới có thể thấy
được. Tai sao lại như vậy? Ấy là bởi chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đưa tới kết luận
có tính cách mạng về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự thắng lợi tất
yếu của giai cấp vô sản. Sự xuất hiện của chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong
7


những đặc điểm cơ bản của cuộc cách mạng trong triết học mà C. Mác và Ph.
Ăngghen đã thực hiện. Với tiểu luận này sẽ trình bày những nguyên lí cơ bản của
chủ nghĩa duy vật lịch sử giai đoan 1844 – 1848, nó được thể hiện qua những tác
phẩm một cách cụ thể và sâu sắc.
II.

Giai đoạn đề xuất những nguyên lí những nguyên lí của chủ nghĩa duy
vật lịch sử (1844 -1848)
Trong giai đoạn này C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp tục đi vào đề xuất tư tưởng

duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của mình. Qua rất nhiều tác phẩm những
nguyên lý triết học đã được hình thành đặc biệt là những nguyên lí của chủ nghĩa
duy vật lịch sử và tác phẩm trước bao giờ cũng được các ông bổ sung và hoàn thiện

ở những tác phẩm sau đó để rồi những nguyên lí được hình thành vào năm 1848
đánh dấu bởi tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”.
1.

Tác phẩm “Bản thảo kinh tế – triết học (C.Mác viết 1844)
Năm 1844, Mác rời báo Sông Ranh sang pháp. Ở đây ông có nhiều thời gian

nghiên cứu các vấn đề mà ông đã phát hiện ra đó là những vấn đề về chính trị, xã
hội, cách mang,…Trong thời gian này ông làm việc trong tờ báo “Niên dám Pháp _
Đức”, ông bắt đầu nghiên cứu một cách có phê phán kinh tế chính trị học tư sản
Anh trên lập trường chủ nghĩa xã hội, cũng tại nơi đây ông đã đọc được tác phẩm
“Bản thảo góp phần phê phán kinh tế chính trị học” của Ph. Ăngghen. Đây là tác
phẩm Ph.Ăngghen viết để phê phán hai nhà kinh tế chính trị học cổ điển Anh là A.
Smith và Đ. Ricacdo, khi đọc được tác phẩm này C. Mác nói rằng đó là con đường
mà tôi nghiên cứu kinh tế.
Mục đích viết tác phẩm nhằm vạch trần tính chất hạn chế của kinh tế chính
trị tư sản trong luận điểm về tính vĩnh viễn của chế độ tư hữu khi họ khẳng định
rằng tư hữu là thuộc tính của con ngươi đồng thời coi sự tồn tại của giai cấp vô sản
8


là hợp lý, là tự nhiên, phát triển tư tưởng về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân. C.Mác khẳng định phải xóa bỏ chế độ tư hữu để trả lại bản chất người đích
thực cho con người. Tác phẩm là kết quả của quá trình ông nghiên cứu một cách có
phê phán kinh tế chính trị học tư sản Anh trên lập trương chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở phê phán quan điểm về kinh tế của A. Smith va Đ. Ricacdo,
C.Mác đã nêu bật được một số quan điểm duy vật lịch sử như sau:
1.1 Vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp, sứ mệnh lịch sư của giai cấp
công nhân.
Hai nhà kinh tế học A. Smith và Đ. Ricacdo cho rằng chế độ tư hữu tồn tại

mãi mãi, rằng chế độ tư hữu là chế độ cuối cùng không bị diệt vong.
C.Mác đã phê phán quan điểm trên và phản bác lại rằng chế độ tư hữu chỉ là
chế độ tồn tại trong một hình thái kinh tế – xã hội nào đó và để xóa bỏ tư hữu phải
làm cách mạng và nhiệm vụ đó không phải ai khác chính là giai cấp công nhân. C.
Mác khẳng định rằng đấu tranh giai cấp chính là giải phóng giai cấp công nhân và
tầng lớp nhân dân lao động khác trong đó giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo.
1.2 Vấn đề về con người.
Tư tưởng của tác phẩm chủ yếu là tư tưởng về vai trò của lao động, cuả sản
xuất vật chất trong việc tạo ra chính bản thân con người và tiếp tục phát triển con
người.Trong khi sáng tạo ra và phát triển con người, lao động đồng thời chiếm mất
tất cả sức lực và thời gian con người, nô dịch con người, dẫn đến sự xuất hiện sở
hữu tư nhân, bóc lột và các giai cấp. Theo đó C. Mác đưa ra khái niệm mới là “lao
động bị tha hóa”, có nghĩa là hoạt động đó của con người thể hiện sự quan trọng
nhất bản chất người của con người nhưng lại trở thành lực lượng nô dịch con
người, thể hiện ở chỗ sản phẩm của lao động thống trị chính ngay người sản xuất
9


ra nó. Lao động bị tha hóa ở đây làm cho người công nhân đánh mất tính người,
đánh mất cuộc sống cộng đồng, phá vỡ quan hệ giữa người với người. Ông cho
rằng sự phát triển của sản xuất trong điều kiện chủ nghĩa tư bản nhất định sẽ tạo ra
tiền đề vật chất để thủ tiêu “Lao động bị tha hóa”. Tha hóa ở đây là sự biến đổi để
thành cái đối lập, biến đổi đó theo hướng từ tốt sang xấu.
Trong lịch sử triết học đã có những nhà triết học đề cập đến phạm trù “tha
hóa”, nếu Hêghen đề cập đến phạm trù “tha hóa” nhưng đó lại là sự tha hóa của “ý
niệm tuyệt đối” tức có nghĩa là ý niệm tuyệt đối (tinh thần) tha hóa tự nhiên xã hội
(vật chất) để rồi lại quay về với ý niệm tuyệt đối (tinh thần), và toàn bộ vấn đề phát
triển là việc khắc phục sự tha hóa ấy, hay nhà triết học duy vật nhân bản Phơ Bách
cho rằng sự tha hóa đó là của tình cảm đạo đức, ông áp dụng tư tưởng về sự tha
hóa vào việc phê phán tôn giáo ông coi tôn giáo không phải là sự bịa đặt mà là sự

tha hóa của con người và muốn xóa bỏ tôn giáo hiện có và xây dựng một tôn giáo
mới, tôn giáo này đem bản thân con người thay cho thượng đế. Như vậy họ đều
xuất phát từ yếu tố tinh thần chứ không xất phát từ yếu tố vật chất.
Đến lượt C. Mác ông phê phán một cách sâu sắc theo quan điểm duy vật
quan niệm của Hêghen và Phơ Bách về sự tha hóa và cách khắc phục sự tha hoa
đó. Ông khẳng định rằng “tha hóa” đó là của lao động, của con người chứ không
phải một lực lượng tinh thần nào khác. Muốn xóa bỏ nguyên nhân con người bị tha
hóa hãy xuất phát từ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Thủ tiêu “lao động
bị tha hóa” giành lại bản chất người cho con người, phát triển mọi khả năng của
mỗi cá nhân tư do đó chính là “chủ nghĩa nhân đạo triệt để”. Theo quan điểm của
C. Mác con người phát triển toàn diện là một mẫu mực lý tưởng về mặt triết học
đối với C. Mác đó là “hạt nhân lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản”.

10


Học thuyết về sự tha hóa và việc giành lại cho con người cái bản chất của
mình là một bước lớn trên con đường sáng taọ ra một thế giới quan mới hoàn
chỉnh. Ngoài ra, C.Mác còn phê phán Hêghen cho rằng Hêghen không nhìn thấy
hoạt động vật chất của con người, ông đã thần bí hóa con người, đề cao hoat động
tinh thần. Con người trong triết học Hêghen là con người hoạt động tinh thần còn
con người trong triết học Mác là con người hoạt động thực tiễn.
1.3 Vai trò của sản xuất vật chất.
C. Mác phê phán quan niệm về vai trò của lao động của A. Smith và Đ.
Ricacdo họ cho rằng lao động tạo ra giá trị của hàng hóa, sản phẩm cho xã hội.
Còn C. Mác cho rằng lao động không những tạo ra giá trị hàng hóa mà còn cải biến
chính con người làm cho tư duy phát triển. Hoạt động của con người, hoạt động
sản xuất vật chất là cơ sở nền tảng của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Như vậy
ông đã chỉ ra được vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của
xã hội

“Bản thảo kinh tế – triết học” tuy còn ảnh hưởn của chủ nghĩa duy vật nhân
bản Phơ Bách nhưng ông đã đề xuất được những nguyên lý cơ bản chủ nghĩa duy
vật lịch sử và nó sẽ tiếp tục được phát triển trong những tác phẩm sau.
2.

Tác phẩm “Gia đình thần thánh” hay phê phán sự “phê phán có tính
chất phê phán” (C.Mác, Ph. Ăngghen, 1845)

Trong thời gian C. Mác sống ở Pari đã gặp được Ph. Ăngghen, hai ông thấy
cần phải làm rõ quan điểm với phái Hêghen trẻ do Bruno – Bauer đứng đầu. Mục
đích viết tác phẩm nhằm phê phán chủ nghĩa duy tâm nói chung và phái Hêghen
trẻ nói riêng vạch trần tính chất duy tâm của phái này. Trước kia C. Mác va Ph.
Ăngghen từng tham gia phái này vì lúc đó họ là những lực lượng tiến bộ còn lúc
này Hêgghen trẻ trở thành bộ phận trí thức nhưng vô chinh phủ, tự đề cao mình
11


không quan tâm đến giai cấp công nhân và nhân dân lao động, rơi vào hữu khuynh,
họ tuyên truyền một thứ phê phán đứng trên mọi hiện thực, đứng trên mọi chính
đảng và chính trị, phủ nhân mọi hoạt động thực tiễn và chỉ quan sát thế giới chung
quanh những sự kiện diễn ra trên thế giới “với tinh thần phê phán”, họ chứng minh
rằng hoạt động của những nhà tư tưởng suất sắc là động lực duy nhất của tiến bộ
lịch sử. Họ chủ trương cách mạng trên lĩnh vực ý thức, không những thế họ còn
phê phán C. Mác và Ph. Ăngghen không phê phán nhân dân, giai cấp công nhân
chính vì vậy mà C. Mác và Ph. Ăngghen đã viết tác phẩm này, để bóc trần tính
chất phản động của phái này. Tác phẩm trình bày những nguyên lí của chủ nghĩa
duy vật lịch sử bao gồm những vấn đề sau:
2.1 Vai trò của quần chúng nhân dân.
Bruno-Bauer đã phủ nhận vai trò của quần chúng nhân dân, đề cao vai trò
phát triển lịch sử thuộc về con người có óc phê phán, có tinh thần phê phán. Họ

phủ nhận tính chất khách quan của quy luật xã hội và ý nghĩa của hoạt động quần
chúng nhân dân. Ông cho rằng quần chúng nhân dân chỉ là một “đám đông quần
chúng không có tinh thần phê phán” không có “ý thức về mình”. Như vậy Hêghen
trẻ đã cho rằng quần chúng nhân dân là lực lượng phi lý tính không có ý thức bản
ngã, một đám đông hổ lốn, ngu muội cứ việc quần chúng nhân dân tham gia là thất
bại, chúng hạ thấp vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử.
C. Mác đã phê phán rằng Hêgghen trẻ đã không nhìn thấy vai trò sáng tạo ra
lịch sử của nhân dân bởi họ rơi vào tư tưởng hữu khuynh, để rồi C. Mác đi đến
khẳng định lịch sử từ trước đến nay mọi nhiệm vụ lịch sử đều do quần chúng nhân
dân giải quyết, quần chúng đấu tranh chống bọn bóc lột là nội dung chủ yếu của
lịch sử, ví dụ như cách mạng tư sản đánh đổ phong kiến vai trò to lớn nhất vẫn là

12


quân chúng nhân dân là người tiến hành hoạt động chính trị xã hội, là lực lượng
chủ yếu trong hoạt động sản xuất vật chất.
2.2 Sứ mệnh lịch sư giai cấp công nhân.
Phái Hêghen trẻ cho rằng giai cấp vô sản là một đám đông quần chúng
không có năng lực phê phán, coi vô sản và quần chúng nhân dân lao động là một
“đám đông quần chúng tối tăm”, không thể tiến hành hoạt động lịch sử độc lập.
Những lí luận và quan điểm của phái có ảnh hưởng nghiêm trọng tới quá trình phát
triển phong trào công nhân, do vây hai ông đã bóc trần lí luận phản động đó.
Quá trình nghiên cứu lí luận và thực tiễn, C. Mác thấy chế độ tư hữu là mặt
khẳng định, giai cấp công nhân là mặt phủ định. Giai cấp công nhân sẽ thực hiện
sứ mệnh lịch sử thông qua cách mạng xã hội nhằm xóa bỏ chế độ tư hữu, xây dựng
chế độ công hữu. Xóa bỏ tư hữu một cách triệt để là nhiệm vụ phải tự mình đứng
lên giải phóng mình. Giai cấp công nhân cũng như quần chúng nhân dân lao động
là người sáng tạo ra của cải vật chất tinh thần cho xã hội còn phái Hêgen trẻ không
tìm được gì. Một lần nữa C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp tục khẳng định vai trò của

sản xuất vật chất.
Cũng trong gia đình thần thánh hai ông đã chỉ ra lợi ích thống nhất giữa lợi
ích của giai cấp công nhân với các tầng lớp nhân dân lao động khác. Giai cấp công
nhân sẽ là người tập hợp lực lượng tầng lớp khác để họ thực hiện sứ mệnh lịch sử
của mình. Tác phẩm đã nêu lên tư tưởng cho rằng giai cấp vô sản là kẻ đào mồ
chôn chủ nghĩa tư bản. Quan điểm về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân sẽ
tiếp tục được các ông làm rõ hơn trong quá trình phát triển và hoàn thiện triết học
Mác
2.3

Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.

13


Trên cơ sở phê phán Bruno – Bauer khi họ cho rằng nhà nước là công cụ của
phê phán, ở tác phẩm này ông chưa sử dụng khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng mà vẫn sử dụng khái niệm “ xã hội công dân” và “xã hội công dân” là
cơ sở hình thành nhà nước tức cở sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng chứ
không phải nhà nước quyết định xã hội công dân như phái Hêgghen trẻ khẳng
định.
2.4 Tư tưởng về quan hệ sản xuất.
Ở tác phẩm này ông nói rằng: “để sản xuất tất yếu phải hình thành nên mối
quan hệ giữa anh ta và người khác” tức là đã xuất hiện tư tưởng về quan hệ sản
xuất. Đây là nền tảng để ông tiếp tục phát triển quan hệ sản xuất trong bộ Tư Bản.
Tác phẩm này đánh dấu bước đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm nói chung và
chủ nghĩa duy tâm của phái Hêgen trẻ nói riêng, để đưa đến bước ngoặt có tính
cách mạng trong lịch sử triết học, là cơ sở nền tảng đầu tiên thể hiện thế giới quan
mới của C. Mác và Ph. Ăngghen, tuy nhiên ở đây chưa đụng chạm tới chủ nghĩa
duy vật, chưa tập trung phê phán chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII- XVIII, chủ nghĩa

Phơ Bách.
3.

Tác phẩm luận cương về Phơ Bách (C. Mác viết 1845).
C. Mác viết tác phẩm vào tháng 4/1845 tại Bỉ. Tác phẩm bao gồm mười một

luận đề của C. Mác về Phơ Bách lúc C. Mác còn sống tác phẩm không được xuất
bản sau khi ông qua đời Ph. Ăngghen công bố lần đầu tiên cùng với tác phẩm “
Lútvich- Phơbách và sự cáo trung của triết học cổ điển Đức (1888). Tác phẩm
được Ph. Ăngghen đánh giá là mầm mống của một thế giới quan mới. Đây là tác
phẩm mà C. Mác tập trung phê phán hạn chế của phép biện chứng duy tâm của
Hêghen và chủ nghĩa duy vật cũ là ở chỗ nó không có tính chất trực quan, không
hiểu thực tiễn là nền tảng của nhận thức, không hiểu tác dụng qua lại giữa người
14


với tự nhiên, kể cả chủ nghĩa duy vật Phơ Bách. Tác phẩm trình bày một số nội
dung trong đó có hai nội dung bàn về chủ nghĩa duy vật lịch sử là vấn đề con
ngươi,bản chất con người và vấn đề tôn giáo.
3.1 Vấn đề con người, bản chất con người.
Ông chỉ ra mặt hạn chế của chủ nghĩa duy vật cũ rằng: “Khuyết điểm chủ
yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật trước kia, kể cả chủ nghĩa duy vật của Phơ
Bách, là ở chỗ: Sự vật, hiện tượng chỉ được xem xét dưới hình thức khách quan
hay dưới hình thức trực quan chứ không được xét là hoạt động cảm tính của con
người, là thực tiễn…”
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật Phơ Bách về của con người là mặt tự
nhiên, tách rời con người khỏi xã hội, quy bản chất con người vào những tính chất
sinh vật học, chỉ thấy quan hệ giữa người với tự nhiên mà không thấy quan hệ giữa
người với nhau, ông không thấy con người thực tiễn trên cơ sở đó C. Mác phê phán
Phơ Bách và khẳng định: Con người là sản phẩm của hoàn cảnh là chủ thể của

hoàn cảnh, con người không chỉ có khả năng biến đổi tự nhiên mà còn có khả năng
biến đổi, hoàn thiện chính bản thân mình. Con người vừa có mặt tự nhiên vừa có
mặt xã hội, trong đó mặt xã hội tức là hoạt động thực tiễn khiến cho con ngươi cao
hơn con vật.
Con người trong triết học Mác là con người thực tiễn, khác với con người
sinh học trong triết học Phơ Bách. Khi C. Mác xem xét con người thực tiễn, có
nghĩa là con người ngoài mặt tự nhiên còn có mặt xã hội. C. Mác đã nhấn mạnh
mặt xã hội của con người để tạo nên bản chất con người và đưa đến kết luận rằng:
Con người mang bản chất xã hội. Ông nêu lên định nghĩa chứ danh của ông về bản
chất con người. “Bản chất con người không phải là cái trừu tượng vốn có của một
cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là toàn bộ
15


những quan hệ xã hội”, vì con người tồn tại được là trong các quan hệ xã hội, và
trong xã hội cụ thể chịu sự quy định của điều kiện kinh tế – xã hội đó, bản chất con
người không phải là chung chung, trừu tượng.
3.2 Vấn đề tôn giáo.
Trong tác phẩm C. Mác đã chỉ ra công lao của Phơ Bách trong khi phê phán
tôn giáo rằng: Phơ Bách đã kéo tôn giáo từ trên trời xuống dưới đất để phê
phán.Ông đã thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm, rằng
tôn giáo không phải là tình cảm bẩm sinh của con người, người ta đã tạo ra tôn
giáo theo hình ảnh thần thánh của mình.
C. Mác đã phê phán Phơ Bách ở chỗ trong quan điểm về tôn giáo ông đã bộc
lộ mâu thuẫn, tính chất không triệt để. Mâu thuẫn đó thể hiện ở chỗ một mặt ông
khẳng định tôn giáo không phải là tình cảm bẩm sinh của con người, một măt ông
lại lập luận rằng tình yêu là một thứ tình yêu đặc biệt được gọi là tình yêu tôn giáo.
Ông phê phán tôn giáo như vậy lại càng làm cho tôn giáo thêm hoàn thiện, ông lấy
tôn giáo làm cơ sở và căn cứ để phân biệt lịch sử.
C. Mác còn chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hạn chế của Phơ Bách đó là: Ông

không nhìn thấy nguyên nhân giai cấp khiến cho tôn giáo chia thế giới thành thế
giới tinh thần và thế giới vật chất, ông không hiểu được rằng không thể thủ tiêu
được tôn giáo nếu không thủ tiêu sự bóc lột, sự bất bình đẳng xã hội mà phân chia
giai cấp vốn có, không thấy mối quan hệ giữa tôn giáo với các hình thức xã hội,
mối quan hệ giữa tôn giáo với việc giải phóng con người. Theo ông để giải quyết
vấn đề con ngươi thì dùng tình yêu tôn giáo.
Với những tác phẩm trên tất cả những vấn đề về chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy vật lịch sử đã thể hiện một thế giới quan khoa học. Ông chỉ ra bản chất
cách mạng của chủ nghĩa Mác: “Các nhà triết học trước kia chỉ biết giải thích thế
16


giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới”. Những nội
dung còn thiếu sẽ được bổ sung ở những tác phẩm sau.
4.

Tác phẩm “ hệ tư tưởng Đức” (C.Mác và Ph.Ăngghen viết 1845)
Vào mùa hè 1845, Phơ Bách viết bại báo tuyên bố mình là người cộng sản,

cộng với những người theo “chủ nghĩa xã hội chân chính” (trào lưu chủ nghĩa xã
hội tiểu tư sản) và Bruno – Bauer đã viết nhiều bài báo chống lại chủ nghĩa cộng
sản. Trong lúc này những người ủng hộ C. Mác và Ph. Ăngghen là thiểu số trong
phong trào công nhân, các phe phái đủ màu sắc của chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản
đang chiếm ưu thế. Trước tình hình đó C.Mác và Ph.Ăngghen nhận thấy đã đến lúc
cần phải chứng minh một cách khoa học những cơ sở, hệ tư tưởng của giai cấp vô
sản, và tuyên truyền hệ tư tưởng đó để tranh thủ những người vô sản tiến về phía
mình trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản.
Hệ tư tưởng Đức là tác phẩm luận chiến của C. Mác và Ph. Ăngghen chống
lại chủ nghĩa duy tâm của những người theo phái Hêghen trẻ và chủ nghĩa xã hội
chân chính tiểu tư sản Đức, là sự phát triển những tư tưởng cơ bản của tác phẩm

“Bản thảo kinh tế- triết học”, “Luận cương về Phơ Bách”, lần đầu tiên một quan
điểm tổng quát, một phát minh vĩ đại của C. Mác ra đời nhận thức duy vật về lịch
sử là cơ sở triết học trực tiếp của học thuyết chủ nghĩa cộng sản khoa học. Là tác
phẩm đánh dấu bước tiến mới của các ông trong việc phát triển chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Những
nguyên lí của chủ nghĩa duy vật lịch sử được trình bày trong tác phẩm đó là:
4.1 Con người là xuất phát điểm của lịch sư.
Trên cơ sở phê phán quan điểm trước Mác về động lực phát triển của lịch sử
như quan điểm về con người trong triêt học Phơ Bách, trong phái Hêggen trẻ…C.
Mác và Ph.Ăngghen đã cụ thể hóa và phân tích chi tiết những đặc điểm của triêt
17


học Phơ Bách mà hạn chế cơ bản là trong quan niệm về vấn đề con người. Phơ
Bách dựa vào khái niệm “con người cộng đồng” để tự tuyên bố mình là người cộng
sản, con người theo quan niệm của Phơ Bách chỉ là “con người trừu tượng” mà
không phải là con người hiện thực của lịch sử. Đối với những người cộng sản, con
người là sản phẩm của tự nhiên và vấn đề xem xét con người hiện thực của lịch sử
là hành động thực tiễn của con người.
Mặc dù khi thừa nhận “ con người là đối tượng của cảm giác” nhưng Phơ
Bách chỉ nói đến quan hệ con người trong tình yêu và chỉ dừng lại ở lí luận mà
không xem xét con người trong mối quan hệ cụ thể, trong những điều kiện sinh
hoạt nhất định, trong những hành động thực sự tức là không thấy được con người
thực tiễn. Khi nói về mối quan hệ con người với tự nhiên, Phơ Bách có quan điểm
siêu hình về giới tự nhiên bất biến mà không hiểu rằng hoạt động thực tiễn của con
người tác động lên giới tự nhiên tạo nên giới tự nhiên có tính chất lịch sử, ở Phơ
Bách tự nhiên và lịch sử tách rời nhau, không liên quan với nhau.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã từng khẳng định: “Khi Phơ Bách là nhà duy vật
thì ông không bao giờ vận dụng đến lịch sử, còn khi ông có tính đến lịch sử thì ông
không phải là nhà duy vật. Ở Phơ Bách, lịch sử và chủ nghĩa duy vật hoàn toàn

tách rời nhau”
C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ ra sai lầm và hạn chế để rồi hai ông đứng trên
quan điểm duy vật lịch sử vào luận giải và đưa ra kết luận rằng: Con người thực
tiễn mới là xuất phát điểm của tồn tại và phát triển, tiến bộ xã hội. Để nghiên cứu
con người thực tiễn đó là con người hành động để sản xuất của cải vật chất, sản
xuất ra những giá trị tinh thần và cũng là quá trình sản xuất ra chính con người. Do
vậy để nghiên cứu lịch sử xã hội C. Mác và Ph. Ăngghen đa xuất phát từ xhinhs
con người chứ không phải một lực lướng siêu nhiên, thần bí nào đó.
18


4.2 Sản xuất vật chất là nền tảng của tồn tại và phát triển xã hội.
Đây là lần đầu tiên C. Mác và Ph. Ăngghen nêu ra nguồn gốc của sự nhận
thức duy vật về lịch sử đó là con người, hoạt động của họ, những điều kiện đời
sống vật chất của họ, nghĩa là thừa nhận vai trò quyết định của sản xuất vật chất
đối với các lĩnh vực còn lại của đời sống xã hội. Các ông khẳng định rằng hình
thức hoạt động thực tiễn đầu tiên của con người là hoạt động sản xuất vật chất, vì
con người sống thì cần phải ăn, mặc, ở, đi lại và để thỏa mãn được nhu cầu đó con
người phải tiến hành lao động sản xuất.

C.Mác và Ph. Ăngghen

đánh giá cao việc sáng tạo ra cung tên để săn bắn tìm kiếm thức ăn, ở dưới nước
thì biết chế tạo ra thuyền độc mộc…Như vậy nhờ có hoạt động sản xuất vật chất
con người đã cải biến tự nhiên nhằm tạo ra của cải để thỏa mãn nhu cầu, con người
đã quan hệ với nhau tạo nên tính xã hội, để rồi những quan hệ xã hội được hình
thành, và quá trình sản xuất vật chất đó cũng đã biến đổi, hoàn thiện chính bản thân
mình.
Quá trình sản xuất vật chất đó đã làm cho con người “nhô lên khỏi tự
nhiên”,làm cho con người hoàn thiện những giác quan, là nền tảng, nguồn gốc,

động lực cho sự phát triển xã hội.
4.3Những quy luật cơ bản của phát triển, tiến bộ lịch sư.
Thứ nhất, mối quan hệ giữa lưc lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. C. Mác và
Ph.Ăngghen nói rằng để tiến hành sản xuất vật chất anh ta hay con người tất yếu
phải quan hệ với tự nhiên đồng thời còn phải quan hệ với nhau. Đây là quan hệ
song trùng, trong đó mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được gọi là sức sản
xuất (LLSX), mối quan hệ giữa con người với con ngươi được gọi là hình thức
giao tiếp (QHSX). Hai ông đã chỉ ra vai trò của sức sản xuất (LLSX) cụ thể là hình

19


thức giao tiếp (QHSX) bị quy định bởi sức sản xuất và sức sản xuất giữ vai trò
quyết định.
Về mối quan hệ giữa sức sản xuất( LLSX) và hình thức giao tiếp(QHSX): Bất
cứ thời đại nào cũng thế khi lưc lượng sản xuất phát triển đến một trình độ phát
triển nhất định nào đó sẽ mâu thuẫn với hình thức giao tiếp, mâu thuẫn này chỉ có
thể giải quyết bằng cách mạng xã hội, và khi cách mạng xã hội được thưc hiện thì
nó sẽ mâu thuẫn với hình thức giao tiếp cũ đã trỏ thành xiềng xích bằng hình thức
giao tiếp mới cho phù hợp với sức sản xuất(LLSX), đến lượt nó lại trở thành cái
không phù hợp. Ông nói: Theo quan điểm của chúng tôi mọi xung đột đều bắt
nguồn từ mâu thuẫn giữa sức sản xuất (LLSX) và hình thức giao tiếp (QHSX). Đây
là lần đầu tiên vạch ra nội dung cơ bản của quy luật vận động biện chứng giữa sức
sản xuất (LLSX) và hình thức giao tiếp(QHSX), lấy đó làm căn cứ để vạch ra sự kế
tục và thay thế nhau của các chế độ sở hữu bộ lạc nguyên thủy, chế đọ sở hữu nô
lệ, chế đọ sở hữu phong kiến, chế đọ sở hữu tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Ở tác phẩm
này C.Mác và Ph.Ăngghen vấn dùng khái niệm “xã hội công dân” của Hêghen để
chỉ mối quan hệ này. Hai ông đã nhắc tới hai yếu tố nhà nước và pháp luật. C.Mác
cho rằng nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị.

Toàn bộ giao tiếp vật chất của cá nhân trong một giai đoạn lịch sử là cơ sở
quyết định hình thức nhà nước và pháp luật hay cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc
thượng tầng. Thích ứng với một cơ sở kinh tế nhất định cũng là một hình thức phù
hợp với chế độ tư hữu hiện đại là nhà nước tư sản hay nhà nước tư sản nảy sinh từ
chế độ tư hữu hiện đại. Nhà nước sẽ bảo vệ lợi ích do vậy nhà nước bao giờ cũng
là công cụ của giai cấp thống trị, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nước

20


cũng như luật pháp đều là công cụ để bảo vệ lợi ích kinh tế, chế độ kinh tế. Như
vậy hai ông đã chỉ ra bản chất, chức năng của nhà nước.
Thứ ba, mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Đây là lần đầu tiên
C. Mác và Ph. Ăngghen nghiên cứu mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội.
Hai ông đã phê phán phái Hêghen trẻ rằng Hêghen trẻ đã tách ý thức xã hội
ra khỏi hiện thực của nó và coi trọng ý thức. Từ đó hai ông đã chỉ ra nguồn gốc của
ý thức là từ đời sống hiện thực. Và nêu lên khái niệm ý thức xã hội là tồn tại được
con người ý thức, tồn tại xã hội là cơ sở hiện thực của xã hội, tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội. Muốn xóa bỏ ý thức phải xóa bỏ tồn tại xã hội.
Trong tác phẩm C. Mác và Ph. Ăngghen nói đến tính tương đối của ý thức xã
hội khi ông cho rằng ý thức xã hội cũng co vai trò to lớn đến sự biến đổi xã hội.
Hai ông đã đề cập đến bản chất xã hội vì ý thức xã hội có tính độc lập tương đối, là
sự phản ánh tồn tại xã hội. Hai ông đã khẳng định rằng: “Không phải ý thức quyết
định đời sống, mà chính đời sống quyết định ý thức”. Ý thức, chính trị, xã hội là
do cơ sở kinh tế quyết định cho nên giai cấp nào chi phối tư liệu sản xuất vật chất
thì cũng chi phối luôn cả tư liệu sản xuất tinh thần và trong mọi thời đại những tư
tưởng của giai cấp thống trị là tư tưởng thống trị.
4.4 Những nguyên lí khác của chủ nghĩa duy vật lịch sư.
Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức C. Mác và Ph. Ăngghen đã manh nha xuất

hiện tư tưởng về chuyên chính vô sản. C. Mác nói: “lực lượng sản xuất phát triển
đến một trình độ cao nhất sẽ là điều kiện, tiền đề nổ ra cách mạng vô sản”. Tư
tưởng này về sau đã được Lênin phát triển sáng tạo “cuộc cách mạng vô sản có thể
nổ ra ở mắt xích yếu nhất trong sợi dây chủ nghĩa tư sản”.

21


C. Mác và ph. Ănggen tiếp tục nghiên cứu làm rõ vấn đề giai cấp, đấu tranh
giai cấp, các ông coi cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản,
coi cách mạng cộng sản thắng lợi và sự xuất hiện tất nhiên của xã hội cộng sản, là
kết quả tất nhiên của quy luật kinh tế, quy luật tồn tại một cách độc lập với ý chí
của con người.
Vấn đề cách mạng xã hội là tính tất yếu và rằng cuộc cách mạng đó “là tất
yếu không những vì không thể lật đổ giai cấp thống trị bằng cách nào khác, mà còn
vì giai cấp tiến hành việc lật đổ chỉ có dùng cách mạng mới thoát khỏi hết thảy mọi
cái thối nát cũ và có khả năng sáng tạo một xã hội mới”.
Đây là tác phẩm luận chiến của C. Mác và Ph. Ăngghen chống lại chủ nghĩa
duy tâm và những người chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản Đức, đánh dấu bước tiến mới
của các ông trong việc phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa cộng sản khoa học.
5. Tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học” (C.Mác viết 1847)
Năm 1840, Prudon xuất bản cuốn sách “sở hữu là gì” để phê phán chủ nghĩa
tư bản, trực tiếp tấn công vào chế độ đại tư hữu nhưng ông lại lý tưởng hóa chế độ
tư hữu nhỏ, ông tuyên truyền cho chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản, thể hiện lập trường
hữu khuynh, theo Pudong, thì người ta có thể đảm bảo sự phồn vinh cho tất cả mọi
người chấm dứt cảnh nghèo khổ bằng con đường hòa bình, cải lương, không cần
đấu tranh giai cấp, không cần cách mạng xã hội bằng cách loaị bỏ những mặt
“xấu” và những hậu quả “xấu” của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và giữ lại những
mặt “tốt”, những mặt “có ích” của nó cho người tiểu tư sản. C. Mác kịch liệt phê

phán lí tưởng phản động đó. Ông bóc trần tính chất phản khoa học và giả dối của
lời lẽ “biện chứng” của Prudong.

22


Năm 1846 trong quyển “hệ thống mâu thuấn kinh tế hay triết học của sự khốn
cùng” Prudon tuyên truyền cho những người vô chính phủ, tự coi mình là kẻ đối
địch với chủ nghiã cộng sản. Do vậy C. Mác đã phê phán quan điểm của Prudon
để giáo dục giai cấp công nhân.
Trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triế học” C. Mác trình bày những nguyên
lí triết học thông qua những nhận xét, cụ thể như sau.
5.1 Lý luận về hình thái kinh tế xã hội.
Trong lời nhận xét thứ hai: Trong tác phẩm này C. Mác trình bày mối quan
hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Sự thay đổi phương
thức sản xuất nhất định dẫn đến sự thay đổi quan hệ xã hội, đáng chú ý trong khi
trình bày vấn đề này C. Mác đề cập đến thuật ngữ “quan hệ sản xuất” thay cho
quan hệ giao tiếp trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức. Ông khẳng định “ những quan
hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất” do có được những
lực lượng sản xuất mới mà loài người đã thay đổi phương thức sản xuất của mình
như cái cối xay quay bằng tay đã đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng
hơi nước đưa lại xã hội nhà tư bản công nghiệp.
Chính những người thiết lập nên những quan hệ xã hội phù hợp với năng lực
sản xuất vật chất của họ, cũng là những người sản sinh ra những nguyên lý, những
ý niệm phạm trù ấy ít có tính chất vĩnh cửu.
Trong nhận xét thứ ba: C. Mác cho rằng dòng hảy qua nhiều giai đoạn lịch
sử xã hội như là thể thống nhất các quan hệ sản xuất chính là ông đã trình bày về
nguyên lý sự thay đổi của thời đại khác nhau do sự thay đổi cac quan hệ sản xuất,
trình bày như một quy luật mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất ở chỗ quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất và ông nói rằng quan

hệ sản xuất không bao lại xuất hiện trước những điều kiện tiền đề vật chất của nó
23


chưa chín muồi hay quan hệ sản xuất không bao giờ ra đời trước lực lượng sản
xuất, xuất hiện mầm mống phôi thai của hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử
tự nhiên.
5.2 Khảo cứu mối quan hệ giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
Trong nhận xét thứ nhất: C. Mác đã nhắc tới tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Ông cho rằng: những điều kiện vật chất, sinh hoạt vật chất sự biến đổi của tồn tại
là sự biến đổi của những tồn tại vật chất, là sự biến đổi của phương thức sản xuất
dẫn đến làm thay đổi ý thức xã hội. Giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần thì
đời sống vật chất quyết định, đời sống vật chất thay đổi tức nói tới sự thay đổi của
phương thức sản xuất.
5.3 Vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp.
Trong lời nhận xét thứ bảy: C. Mác nhắc tới vấn đề lịch sử, cách mạng, đối
kháng giai cấp tư sản vô sản. Ông cho rằng chế độ phong kiến đã có giai cấp vô
sản của nó – tức là nông nô một đẳng cấp đã chứa đựng tất cả những mần mống
của giai cấp tư sản, những người xã hội chủ nghĩa và những người cộng sản là
những nhà lý luận của giai cấp vô sản. C. Mác khẳng định “ giống như những nhà
kinh tế học là những đại biểu của giai cấp tư sản, những người xã hội chủ nghĩa và
những người cộng sản cũng là những nhà lý luận của giai cấp vô sản”, đấu tranh
giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp.

Vì vậy

trong xã hội tư sản tồn tại mâu thuẫn giữa tư bản và vô sản, mâu thuẫn đó tới một
lúc nào đó tất yếu sẽ diễn ra cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản
bằng cách mạng vô sản. Ông khẳng định rằng cuộc đấu tranh tư sản chống lại vô
sản là cuộc đấu tranh cuối cùng trong lịch sử điều này cũng có nghĩa rằng giai cấp

công nhân có tính cách mạng triêt để.
6. Tác phẩm Tuyên ngôn Đảng cộng sản (C. Mác viết 1848)
24


Tác phẩm được C. Mác viết dựa trên tài liệu của Ph. Ăngghen trong những
nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản mà Ph. Ăngghen soạn thảo, cho đồng minh
những người cộng sản tại đại hội lần thứ nhất của tổ chức này ( 1847) đã được
xuất bản ngay trước khi nổ ra cách mạng 1848, đây là bản cương lĩnh cho chủ
nghĩa cộng sản khoa học. “Tuyên ngôn Đảng cộng sản" đã đề ra rõ ràng và chính
xác một cách thiên tài thế giới quan mới tức chủ nghĩa duy vật triệt để bao quát cả
lĩnh vực đời sống xã hội, lí luận về đấu tranh giai cấp, vai trò cách mạng trong lịch
sử thế giới của giai cấp vô sản. Có thể nói rằng tuyên ngôn là một văn kiện của giai
cấp công nhân, thể hiện một cách đầy đủ sâu sắc cô đọng hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân, hệ tư tưởng ra đời đã dẫn dắt phong trào công nhân trên toàn thế giới,
tuyên ngôn ra đời có tác động lớn đối với phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân trên toàn thế giới.
Tác phẩm gồm bốn chương:
Chương I: Những người tư sản và những người vô sản.
Chương II: Những người vô sản và những người cộng sản.
Chương III: Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Chương IV: Lập trường của những người cộng sản đối với các Đảng đối lập.
Tuyên ngôn Đảng cộng sản đã đề cập tới những nguyên lí chủ nghĩa duy vật
lịch sử như sau:
6.1 Vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp, sứ mệnh lịch sư của giai cấp công
nhân.
Ở trong chương I, C. Mác đã xác định quy luật cơ bản của sự phát triển của
mọi xã hội có tính chất đối kháng: Đấu tranh giai cấp. Ông đã vạch rõ ràng rằng xã
25



×