Tải bản đầy đủ (.pptx) (26 trang)

Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 26 trang )

BÀI THẢO LUẬN

ề Tài: NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂ
DÂN



LỜI MỞ ĐẦU
      
Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới đối với nước ta- kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng tháng Tám thành công đã xóa bỏ chính quyền thực dân phong kiến, lập ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, là
Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Những ngày đầu thành lập nước, Đảng và nhân dân ta đứng trước bao khó khăn chồng chất, phải chiến thắng giặc đói, giặc
dốt và nhất là giặc ngoại xâm. Để xây dựng và củng cố bộ máy Nhà nước, bảo vệ thành quả cách mạng, chỉ 11 ngày sau khi Hồ Chủ
Tịch đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà - ngày 13/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký và ban
hành sắc lệnh số 33c/SL thiết lập các Tòa án quân sự trên toàn lãnh thổ Việt Nam với nhiệm vụ “xét xử tất cả những người nào
phạm vào một việc gì đó có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”. Đó là mốc son đánh dấu sự ra đời
của ngành Tòa án Việt Nam.


Hệ thống Tòa án Việt Nam ra đời ngay sau khi Nhà nước ta ra đời và từng bước hoàn thiện trong
thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước và trong thời kỳ
đổi mới hiện nay. Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống Tòa án Việt Nam gắn liền với lịch sử
xây dựng, củng cố và hoàn thiện bộ máy Nhà nước ta nói chung, các cơ quan tư pháp nói riêng. Cho
đến nay, ngành Tòa án Việt Nam bao gồm hệ thống Tòa án nhân dân được tổ chức từ Trung ương
đến cấp huyện và hệ thống Tòa án quân sự từ Tòa án quân sự Trung ương đến các Tòa án quân sự
khu vực.


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NGÀNH TOÀ ÁN NHÂN DÂN


Dưới cái nhìn chung, tòa án là cơ quan thuộc hệ thống bộ máy Nhà nước, đảm nhiệm chức năng xét xử. Nhưng tùy
từng thời kì lịch sử, tùy mỗi giai đoạn mà những quy định về tòa án lại khác nhau.
Dưới chế độ phong kiến, vua là người đứng đầu nhà nước nắm trọn trong tay các quyền lập pháp, thi hành pháp luật và tư
pháp. Quan cai trị cấp dưới vừa là người thi hành pháp luật đồng thời cũng là người xét xử.
Đến Nhà nước tư sản, Moongtexkiơ – một triết gia người Pháp, kiến trúc sư của học thuyết về nhà nước tư bản đã đề ra
thuyết tam quyền phân lập. Ông cho rằng “ mọi thứ sẽ bị biến mất cả nếu chính một người hay chính một tập đoàn dù
thân hào hay quý tộc hoặc bình dân hành xử cả ba quyền: quyền làm luật, quyền thi hành luật và quyền xét xử…”. Cả ba
quyền tập trung vào tay một người thì đó là chế độ độc tài vô hạn độ, vậy nên dưới chế độ tư bản, việc xét xử sẽ do một hê
thống cơ quan có chức năng riêng biệt và do các quan tòa là những công chức chỉ làm nhiệm vụ xét xử thực hiện.


Ở Việt Nam, từ khi có chính quyền cách mạng, các tòa án là những cơ quan
thuộc hệ thống bộ máy nhà nước được đảm nhiệm chức năng là xét xử. Điều
127 – Hiến pháp 1992 quy định rằng: “ tòa án nhân dân tối cao, các tòa án
nhân dân địa phương, các tòa án quân sự và các tòa án khác do luật định là
những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Hệ thống các tóa án nhân dân của nước ta hiện có: tòa án nhân dân tối cao, toà
án nhân dân cấp tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, các tòa án nhân dân
cấp quận, huyện và các tòa án quân sự.


CHƯƠNG II: NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
4.1. Thực hiện chế độ bầu nhiệm thẩm phán , chế độ bầu cử Hội thẩm nhân dân và cử Hội thẩm nhân dân.
4.1.1 Thực hiện chế độ bổ nhiệm thẩm phán

Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miểm nhiệm, cách chức theo đề nghị của hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao.
Thẩm phán tòa án nhân dân cấp tỉnh , Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện do chánh án hân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo
đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện.
Thẩm phán Tòa án quân sự cấp Quân khu, Tòa án quân sự cấp khu vực do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm,miễn nhiệm, cách chức

theo đề nghị của hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu, Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực.
Với quy định này của Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân đã quy định tại khoản 3, điều 40 là: “Thẩm phán các Tòa án nhân dân địa phương,
Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực do Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề
nghị của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán”. Như vậy theo quy định trên thì Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao chỉ có thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm
phán Tòa án nhân dân địa phương.


Điều 31
1. Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án Toà án quân sự trung ương do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
2. Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân địa phương do Chánh án Toà án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân địa phương cùng cấp.
3. Chánh án, Phó Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu, Toà án quân sự khu vực do Chánh án Toà án nhân dân tối cao bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
4. Trước khi đề nghị Chủ tịch nước, Chánh án Toà án nhân dân tối cao cách chức các chức vụ Chánh án, Phó Chánh án theo quy
định tại khoản 1, khoản 2 hoặc khoản 3 của Điều này, nếu người đó thuộc một trong các trường hợp có thể bị cách chức chức danh
Thẩm phán thì phải có ý kiến của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán có thẩm quyền tuyển chọn Thẩm phán đó.
5. Nhiệm kỳ của Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân địa phương, Toà án quân sự là
năm năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
Nhiệm kì của Thẩm phán là 5 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm


4.1.2 Thực hiện, chế độ bầu Hội thẩm nhân dân và cử Hội thẩm
quân nhân

Điều 38 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân
1. Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và do Hội
đồng nhân dân cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân cùng cấp sau khi thống nhất với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.
2. Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự cấp quân khu do Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính trị quân
khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương và do Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của

Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu sau khi thống nhất với cơ quan chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương.
3. Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự khu vực do Chủ nhiệm chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương cử theo sự giới thiệu của
cơ quan chính trị sư đoàn hoặc cấp tương đương và do Chủ nhiệm chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề
nghị của Chánh án Toà án quân sự khu vực sau khi thống nhất với cơ quan chính trị sư đoàn hoặc cấp tương đương.


4.2. Nguyên tắc việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội Thẩm nhân dân tham gia

Pháp luật không chỉ quy định khi xét xử Hội đồng xét xử phải có Hội thẩm nhân dân tham gia mà còn quy
định khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, tức là Hội thẩm nhân dân cùng Thẩm phán quyết
định giải quyết mọi vấn đề của vụ án không kể về nội dung hay thủ tục tố tụng. Mặc dù Hội thẩm không phải
là cán bộ trong biên chế Tòa án mà là người của cơ quan, tổ chức được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
bầu hoặc cử làm đại diện cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử của Tòa án, nhưng khi tham gia xét
xử Hội thẩm lại ngang quyền với Thẩm phán, từ việc đọc hồ sơ vụ án, nghiên cứu chứng cứ, cho đến việc ra
quyết định giải quyết vụ án. Đây là điều quan trọng để Hội thẩm nhân dân thực sự pháp huy được vai trò là
đại diện cho quần chúng nhân dân của mình.


2.2. Nghiên
cứu xét
nhàxử,
nước
Phong
kiến
và sựthẩm
vận độc
dụnglập
tưvà
tưởng
lấy dân

gốcluật
4.3. Khi
Thẩm
phán
và Hội
chỉ tuân
theolàm
pháp

Thời
nàotắc
cũng
gia hưng
thịnh,chế
cácxãnhà
đạo phải
dựađảm
vàobảo
nhân
lấy quan
dân làm
gốc,
Nguyên
nàyvậy,
bắt muốn
nguồn quốc
từ nguyên
tắc pháp
hội lãnh
chủ nghĩa,

nhằm
tínhdân,
khách
trong
quá trình xét xử để áp dụng thống nhất
hành
độngởtheo
dân,Tòa
vì tương
lai dântắctộc.
pháp luật
tất cảý các
án. Nguyên
nàyĐó
đòicũng
hỏi: chính là tư tưởng đặt căn bản trên tinh thần quốc gia,
dựa
vàoxử,
lậpcác
trường
dân
tộc và
và Hội
quyền
tự do
bình
đẳng
của người
Khi xét
Thẩm

phán
thẩm
trên
cở sở
nghiên
cứu hồdân.
sơ vụ án để xác định chứng cứ, quy phạm pháp luật cần áp dụng để có quyết định cụ
Mạnh
đãhợp,
có câu
nói lịch
“Dân
đếncủa
xã bất
tắc,cứ
vua
xemtổnhẹ”.
cũng nào.
có câu nói
thể
choTử
phù
không
phụ sử:
thuộc
vàolàý quý,
muốnsau
chủmới
quan
cơthì

quan,
chứcTuân
hoặc Tử
cá nhân
rất
thuyền,
nước,
chởđộc
thuyền,
lậtviệc
thuyền”.
Từchứng
đó, Nho
thấy
Khi nổi
xét tiếng:
xử các“Vua
thànhlàviên
trongdân
Hội là
đồng
xét nước
xử cũng
lập vớinước
nhaucũng
trong
xác định
cứ, gia
phân
tích, lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp

được
điểm hết sức quan trọng là: “Dân là gốc nước, gốc vững, nước yên” . Chủ tịch Hồ Chí Minh của
để
áp một
dụng.
chúng
ta cũng
có cũng
quanđộc
điểm
tự như
gia,theo
khi các
Người
“Trong
trời
không
có đốc
gì quý
hơnhoặc
bằngtái thẩm. Các Hội đồng xét xử phải tự
Giữa các
Tòa án
lậptương
với nhau
khiNho
xét xử
thủnói:
tục sơ
thẩm,bầu

phúc
thẩm,
giám
thẩm
nhân
dân.định
Trong
thế gian
gì mạnh
đoàn
kết của
dân”
tư tưởng
mình xác
lại chứng
cứ,không
quy phạm
phápbằng
luật lực
phùlượng
hợp để
áp dụng
chứnhân
không
phải. Tuy
chịu nhiên
ảnh hưởng
của lấy
các quyết định, bản án của Tòa án đã xét xử
dân làm

trước
đó.gốc của Người đã vượt qua những hạn chế còn tồn tai trong tư tưởng Nho giáo phong kiến.
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm phải tuân thủ pháp luật, phải dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết các vụ án chứ không được tùy
tiện, chủ quan trong việc áp dụng pháp luật.
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không bị ràng buộc bởi kết luận của Viện kiểm sát, không bị chi phối bởi ý kiến của nhau. Thẩm phán, Hội thẩm
phải chịu trách nhiệm đối với ý kiến của mình về từng vấn đề của vụ án.


4.4. Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số

Hội đồng xét xử các vụ án phải có ít nhất là 3 người do Chánh án Tòa án quyết định. Trong hội đồng xét xử có một thẩm phán
được Chánh án cử làm chủ tọa phiên tòa. Các bản án, quyết định của Tòa án phải được đa số các thành viên của Hội đồng xét
xử biểu quyết tán thành.
Tòa án xét xử tập thể có nghĩa là việc xét xử bất cứ một vu án nào, trình tự nào cũng do một Hội đồng thực hiện. Thành phần
hội đồng xét xử ở mỗi cấp xét xử đối với từng loại vụ án được qui định tại các điều tương ứng của Luật Tố tụng, cụ thể như
sau:
Đối với vụ án Hình sự:
+Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm;
+ Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm;
+ Thành phần Hội đồng Giám đốc thẩm, tái thẩm.
Đối với vụ án Dân sự (các vụ tranh chấp về Dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động):
+ Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm
+ Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm
+ Thành phần Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm.


Đối với vụ án hành chính:
+ Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm;
+ Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm;
+ Thành phần Hội đồng Giám đốc thẩm, tái thẩm

Hội đồng xét xử chia thành 2 cấp xét xử: xét xử sơ thấm là 1 trong những giai đoạn tố tụng của vụ án. Xét xử sơ
thẩm là xét xử các vụ án lần thứ nhất. Bản án quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thời hạn
pháp luật qui định thì có hiệu lực pháp luậ. Nếu bị cáo không chấp nhận với bản án đã tuyên thì có thể kháng án
lên tòa án cấp trên cao hơn. Tòa án cấp trên cao hơn tiếp tục xem xét giải quyết vụ án ( xét xử phúc thẩm).Bản
án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo trình tự Giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm do pháp luật tố tụng quy định.


Hội đồng xét xử phúc thẩm các vụ án có 3 người, chỉ bao gồm các Thẩm phán trừ một số
trường hợp đặc biệt Hội đồng xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự có 5 người, gồm 3 Thẩm
phán và 2 Hội Thẩm. Thực tiễn xét xử phúc thẩm trong những năm qua cho thấy trong các
trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ gồm 3 Thẩm phán. Tuy nhiên, trong quá trinh
nghiên cứa hồ sơ vụ án, xét xử thấy vụ án phức tạp hoặc đối với vụ án đối với người chưa
thành niên phạm tội cần có them ý kiến của Hội thẩm thì báo cáo Chánh án hoăch người
.

được Chánh án ủy quyền quyết định thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm 3 Thẩm
phán và 2 Hội thẩm. Cần chú ý là trường hợp này không thực hiện đối với các tòa phúc
thẩm Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án quân sự trung ương vì TANDTC và TAQSTW
không có Hội thẩm.


4.5. Tòa án xét xử công khai trừ trường hợp do luật định
Công khai là một trong những thuộc tính quan trọng của xã hội dân chủ. Trong xã hội dân chủ công khai được xem như một tư tưởng
xuyên suốt quá trình tổ chức và vận hành bộ máy nhà nước. Trong hoạt động tư pháp tư tưởng này cũng được ghi nhận một cách rất
cụ thể trong Hiến pháp và pháp luật tố tụng.
Hiến pháp 1946, Điều 67: “Các phiên tòa phải công khai, trừ trường hợp đặc biệt”.
Hiến pháp 1959, Điều 101: “Việc xét xử tại các tòa án nhân dân đều công khai, trừ trường hợp Luật định”.
Hiến pháp 1980, Điều 133: “Tòa án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp Luật định”.

Hiến pháp 1992, Điều 131: “Tòa án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp Luật định”.
Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự (năm 2003) đã cụ thể hóa tư tưởng này tại Điều 18: Xét xử công khai “Việc xét xử của Tòa án được tiến
hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do Bộ luật này qui định.
Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính
đáng của họ thì Tòa án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai.”


4.6. Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật
Cần nắm vững nguyên tắc chung là tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn
giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp
luật (Điều 5 BLTTHS).Cần nắm vững nguyên tắc xử lý quy định tại Điều 3 BLHS. Mọi
người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín
ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội.


4.7. Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ và lợi ích hợp pháp của đương sự

Điều 132 hiến phấp 1992
Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình.Tổ chức luật sư
được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa.
Quyền có NBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không thể được bảo đảm nếu cơ quan tiến hành tố tụng (THTT), người
THTT không nhận thức đúng nội dung, ý nghĩa và tầm quan trọng của nó. Cơ quan THTT, người THTT là những chủ thể trực
tiếp thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ làm sáng tỏ các
yếu tố của đối tượng chứng minh và tiến hành giải quyết vụ án trong phạm vi quyền hạn của mình.


Nghị quyết Hội nghị Trung ương III Khoá VIII của Ban Chấp hành trung ương Đảng nêu rõ:
“Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt

và có năng lực chuyên môn. Lập quy hoạch tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ tư pháp theo
từng loại chức danh với tiêu chuẩn cụ thể”. Quán triệt Nghị quyết của Đảng, các cơ quan tư
pháp, đặc biệt là cơ quan THTT đã triển khai nhiều biện pháp cụ thể để xây dựng đội ngũ
THTT vừa đủ về số lượng, vừa đảm bảo về chất lượng. Để nâng cao kiến thức chuyên môn và
nhận thức của đội ngũ THTT, phải tập trung một số vấn đề sau:


Một là, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn cho những người THTT. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng là những kiến
thức mới về pháp luật, nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tế. Tổ chức các đợt kiểm tra kiến thức chuyên môn, đánh giá trình độ, từ
đó có chế độ tuyên dương, khen thưởng xứng đáng. Phát động các phong trào thi đua có ý nghĩa trau dồi về đạo đức, tác
phong sống, làm việc nghiêm túc, lành mạnh; coi đây là cơ sở đề xuất bổ nhiệm, miễn nhiệm.
Hai là, thay đổi nhận thức chưa đúng đắn của những người THTT về vai trò, vị trí của NBC trong TTHS. Cần phải nhìn nhận
sự tham gia của NBC là yếu tố khách quan để vụ án được giải quyết đúng đắn. Sự có mặt của NBC trong vụ án không gây khó
khăn cho các cơ quan THTT, họ chỉ bác bỏ việc buộc tội thiếu căn cứ chứ không phải là “đối thủ” của các cơ quan THTT. Vì
vậy, người THTT cần phải tạo điều kiện cho NBC thực hiện tốt chức năng bào chữa.
Ba là, trang bị đầy đủ phương tiện, kinh phí phục vụ công tác cho những người THTT.


4.8. Nguyên tắc tòa án bảo đảm cho những người tham gia tố tụng quyền dùng tiếng nói , chữ viết của dân tộc mình trước tòa
án
Theo quy định tại điều 5 Hiến pháp 1992 của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam : Các dân tộc có quyền dùng tiếng
nói , chữ viết , giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục , tập quán , truyền thống và văn hóa tốt đẹp của dân tộc
mình .
Điều 24 Bộ luật TTHS quy định như sau : người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình , trong
trường hợp này cần phải có người phiên dịch .
Cũng theo quy định tại điều 20 Bộ luật TTDS : Tiếng nói và chữ viết trong tố tụng dân sự là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng
dân sự có quyền dung tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình , trong trường hợp này cần phải có người phiên dịch.


Vậy theo những cơ sở pháp lí trên thì những người tham gia tố tụng được quyền sử dụng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình

trong trường hợp họ không biết tiếng Viêt . Với việc quy định như thế , các nhà làm luật muốn bảo đảm hai nguyên tắc :
Một là,đảm bảo cho những người tham gia tố tụng dễ dàng trình bày quan điêm của mình trong quá trình tham gia tố tụng , bởi vì
một khi họ không biết và không hiểu tiếng Việt thì việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình tham gia tố tụng .
Hai là ,đảm bảo nguyên tắc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc.
Việc xét xử tại tòa án là một quá trình , trong đó việc thẩm vấn tại phiên tòa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để xác định lại chứng
cứ , làm sang to nguyên nhân vi phạm phap luật ,các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ … làm cơ sở cho việc đưa ra một quyết định
đúng đắng . Chính vì vậy những câu hỏi , câu trả lời của những người tham gia tố tụng phải rõ ràng . Để thực hiện được điều đó thì
những người này cần phải sử dụng tiếng nói , chữ viết của dân tộc mình .Do đó , trong những trường hợp cần thiết Tòa án phải cử
người phiên dịch . Mọi chi phí liên quan đến việc cử người phiên dịch được trích từ ngân sách .


4.9. Nguyên tắc tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử
Ngay từ khi nước ta vừa giành được độc lập, ngày 24/1/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức Tòa án và
các ngạch thẩm phán, trong đó đã ghi nhận nguyên tắc “Tòa án thực hiện hai cấp xét xử”. Đến nay, nguyên tắc này vẫn được ghi
nhận tại Điều 11 của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002. Và Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII đã chỉ rõ nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động xét xử của Tòa án: “Thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, đổi mới
thủ tục giám đốc thẩm để đảm bảo việc xét xử vừa đúng đắn, vừa nhanh chóng.”
Hiện nay, trong pháp luật quốc tế cũng như các quốc gia đều thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử. Tức vụ án mà bản án hoặc
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn định luật được Toà án cấp trên
trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Còn các bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật được xem xét lại theo thủ
tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.


Nguyên tắc hai cấp xét xử được thực hiện bằng cách tổ chức hệ thống Toà án và các thủ tục tố tụng cụ thể. Các nước thuộc hệ thống pháp luật lục địa
(legal law) hay các nước thuộc hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa hệ thống Toà án được tổ chức theo một trong các nguyên tắc nhất định là:
+ Theo đơn vị hành chính lãnh thổ gồm Toà án tối cao và Toà án địa phương. Về phần mình, tuỳ theo đặc điểm lãnh thổ và dân cư mà các Toà án địa
phương lại được tổ chức thành hai cấp (Toà án cấp tỉnh, Toà án cấp huyện) hoặc ba cấp (Toà án cấp tỉnh, Toà án cấp liên huyện và Toà án cấp huyện).
Theo cách tổ chức này, một Toà án có thể thực hiện các chức năng xét xử khác nhau; Toà án tối cao, Toà án cấp tỉnh vừa xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và
giám đốc thẩm; còn Toà án cấp huyện chỉ xét xử sơ thẩm. Cách tổ chức này đặc trưng cho các nước theo hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa;
+ Theo cấp xét xử gồm Toà án tối cao (Toà án phá án), các Toà án phúc thẩm và các toà sơ thẩm (Toà án vi cảnh, Toà án tiểu hình, Toà án đại hình).

Các Toà án tổ chức theo cấp này thực hiện chức năng được xác định: Toà án tối cao thực hiện chức năng phá án, các Toà án phúc thẩm xét xử phúc
thẩm, các Toà án sơ thẩm xét xử sơ thẩm các vụ án. Cách tổ chức này đặc trưng cho hệ thống pháp luật án lệ (commol law);
+ Theo cấp xét xử kết hợp với nguyên tắc hành chính lãnh thổ gồm Toà án tối cao (có chức năng phá án và xét xử phúc thẩm), Toà án cấp thứ hai (xét
xử phúc thẩm và sơ thẩm một số vụ án quan trọng) và Toà án cấp thứ ba (gồm các loại Toà án có chức năng xét xử sơ thẩm). Hệ thống Toà án này được
tổ chức trên cơ sở nhận thức khoa học về nguyên tắc hai cấp xét xử và coi cấp xét xử như là cách tổ chức tố tụng chứ không máy móc coi đó là tổ
chức hành chính pháp lý. Cách tổ chức này đặc trưng cho hệ thống pháp luật lục địa (legal law).


Như vậy, có thể nói rằng việc tổ chức hệ thống Toà án ở các
nước khác nhau phụ thuộc vào truyền thống tổ chức tư pháp
nước đó, vào hệ thống pháp luật và quan niệm về nguyên tắc
hai cấp xét xử.

Đây là một nguyên tắc mới được quy định trong bộ luật tổ
chức tòa án nhân dân.nguyên tắc này bảo đảm quan trọng
cho quyền bào chữa của bị cáo,bảo vẹ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự,thể hiện một bước tiến mới trong quyền
con người.căn cú vào nội dung của nguyên tắc này ,việc xét xử
các vị án theo sơ thẩm đồng thời chung thẩm bi bãi bỏ.


Kết luận
Sự hình thành và phát triển của tòa án nhân dân luôn gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ máy nhà nước.
Cùng với các cơ quan nhà nước khác, tòa án nhân dân đã và đang góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn hiện nay, để tạo điều kiện cho tòa án nhân dân thực hiện có hiệu quả,
Nhà nước cần hoàn thiện các văn bản pháp luật cs liên quan đến tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, chú ý đến việc
quy định để nâng cao chất lượng của đội ngủ thẩm phán và hội thẩm nhân dân, tăng cường xây dựng cơ sở vật chất, xây
dựng ngành tòa án nhân dân vững mạnh về mọi mặt. Mang vai trò là một bộ phận hợp thành của công cụ quản lí xã hội, vũ
khí bảo vệ trật tự pháp luật ,hoạt động của toà án nhân dân hướng tới mục tiêu "bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản,

tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân".


×