Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

skkn tiểu học phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 38 trang )

Phần 1: Mở đầu
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Tiếng Việt - Lớp 5.
3. Tác giả:
Họ và tên: Phạm Thị Minh Huệ;

Nam (nữ): Nữ.

Ngày, tháng, năm sinh: 04/ 07/ 1976
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Tiểu học.
Chức vụ, đơn vị công tác: Phó hiệu trưởng trường Tiểu học Hồng Dụ.
Điện thoại: 0949939018
4. Đồng tác giả (nếu có):
Họ và tên: ....................................................................... Nam ( nữ): ........................
Ngày tháng năm sinh: ................................................................................................
Trình độ chuyên môn: ................................................................................................
Chức vụ, đơn vị công tác: ..........................................................................................
Điện thoại: .................................................................................................................
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Tiểu học Hồng Dụ - Ninh Giang.
Địa chỉ: Thôn Lang Viên xã Hồng Dụ huyện Ninh Giang; Số ĐT: 03203767310.
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường Tiểu học Hồng Dụ - Ninh Giang.
Địa chỉ: Thôn Lang Viên xã Hồng Dụ huyện Ninh Giang; Số ĐT: 03203767310.
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Giáo viên, học sinh, chương
trình học, sách giáo khoa.
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2013-2014.
HỌ TÊN TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN


1


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
Môn Tiếng Việt trong nhà trường Tiểu học với tư cách là một môn học độc lập,
Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho HS những tri thức về hệ thống Tiếng Việt,
đồng thời hình thành cho HS các kĩ năng giao tiếp nghe, nói, đọc, viết. Ngoài ra
Tiếng Việt còn là công cụ giao tiếp và tư duy cho nên nó còn có chức năng kép mà
các môn học khác không có được, đó là: Trang bị cho HS một số công cụ để tiếp
nhận và diễn đạt mọi kiến thức khoa học trong nhà trường, là công cụ để học các
môn học khác.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của dạy Tiếng Việt là dạy học thông qua
giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp, đặc biệt giao tiếp bằng ngôn ngữ là công cụ
hiệu quả để học sinh tiếp cận, rèn luyện và phát triển khả năng sử dụng từ Tiếng
Việt. Do đó, việc đưa học sinh vào các hoạt động học tập trong giờ Tiếng Việt
được giáo viên đặc biệt quan tâm.
Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là một hiện tượng độc đáo của tiếng Việt. Cùng
với các từ loại khác, từ đồng âm và từ nhiều nghĩa làm cho tiếng Việt thêm phong
phú và mang đậm một nét đặc sắc riêng mà không thể lẫn với một thứ ngôn ngữ
nào khác.
Với mục tiêu giúp GV và HS dạy và học tốt phần “Từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa”, nội dung sáng kiến đã khẳng định vai trò, tầm quan trọng của việc dạy học
tốt phần từ đồng âm và từ nhiều nghĩa; khái quát đánh giá thực trạng việc dạy và
học nội dung này ở trường Tiểu học trong những năm qua; nêu được một số giải
pháp chỉ đạo nhằm giúp GV và HS dạy và học tốt phần “Từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa”. Bên cạnh đó, sáng kiến cũng khẳng định được tính sáng tạo, hiệu quả của
vấn nghiên cứu thế nào? Khẳng định lợi ích thiết thực và khả năng áp dụng của
sáng kiến ra sao? Đưa ra bài học kinh nghiệm cụ thể sau thời gian nghiên cứu và
áp dụng thực tiễn. Nêu được một số khuyến nghị để việc triển khai và áp dụng dạy
và học “Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa” mang tính hiệu quả và khả thi hơn trong

thời gian tiếp theo.
2


Phần 2: Nội dung
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là một hiện tượng độc đáo của tiếng Việt. Cùng
với các từ loại khác, từ đồng âm và từ nhiều nghĩa làm cho tiếng Việt thêm phong
phú và mang đậm một nét đặc sắc riêng mà không thể lẫn với một thứ ngôn ngữ
nào khác. Qua thực tế giảng dạy và chỉ đạo chuyên môn nhiều năm, tôi nhận thấy:
Số tiết dạy về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là rất ít (có 5 tiết - từ tuần 5 đến tuần 8
của chương trình phân môn Luyện từ và câu lớp 5), sách giáo khoa chỉ đưa ra một
vài ví dụ điển hình mang tính chất giới thiệu. Trong khi đó mảng kiến thức này
khá trừu tượng mà khả năng đọc hiểu của các em học sinh Tiểu học lại phát triển
chưa cao. Vậy với nội dung và thời lượng giảng dạy như thế liệu có ảnh hưởng
đến chất lượng dạy học hay không? Sau một năm học, bao nhiêu em nắm được nét
đẹp, sự phong phú mà hiện tượng đồng âm và nhiều nghĩa mang lại? Chưa nói đến
các em làm sao sử dụng từ đồng âm, đồng nghĩa và từ nhiều nghĩa trong cuộc sống
hằng ngày. Mặt khác, nếu sử dụng từ đồng âm và từ nhiều nghĩa không đúng thì
không đạt được kết quả giao tiếp vì không biểu đạt đúng thái độ của chủ thể giao
tiếp với đối tượng cần giao tiếp. Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa nếu sử dụng sai sẽ
làm sai lệch nghĩa của câu văn, đoạn văn…
Vậy làm thế nào giúp các em sử dụng đúng từ đồng âm và từ nhiều nghĩa?
Thực tế qua các bài tập làm văn của học sinh, ngôn ngữ rất nghèo nàn và hầu như
chưa biết sử dụng hoặc sử dụng chưa đúng từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Có rất
nhiều nguyên nhân dẫn đến chất lượng thấp kém của học sinh trong việc nói và
viết tiếng Việt trong đó có những nguyên nhân trên. Đó là điều trăn trở lo nghĩ của
biết bao giáo viên đứng trên bục giảng khi dạy phân môn luyện từ và câu và cũng
là điều băn khoăn của những người cán bộ quản lí chỉ đạo công tác chuyên môn

trong trường Tiểu học hiện nay. Bởi những lí do đó trong đề tài này tôi tập trung
nghiên cứu, khảo sát, xử lí thông tin nhằm tìm ra biện pháp giúp học sinh thực
3


hành phân biệt và nhận diện những từ đồng âm và từ nhiều nghĩa qua những bài
tập ở vở bài tập Tiếng Việt, hoặc trong những buổi sinh hoạt ngoại khóa, các tiết
trong buổi tăng thêm để:
- Giúp học sinh nắm được bản chất của hiện tượng đồng âm và nhiều nghĩa.
- Học sinh nhận diện (xác định) đựơc từ đồng âm và từ nhiều nghĩa có trong
đoạn văn, câu văn.
- Sử dụng (vận dụng) từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để làm các bài tập trong
chương trình học tập và sử dụng trong cuộc sống hằng ngày.
Qua việc nghiên cứu những vấn đề trên tôi mong muốn tìm ra những phương
pháp mang tính khả thi, dễ tiếp thu nhằm giúp anh chị em giáo viên dạy tốt hơn
phân môn luyện từ và câu nói chung và từ đồng âm và từ nhiều nghĩa nói riêng.
Đồng thời khi nghiên cứu sẽ làm sáng tỏ một số vấn đề có liên quan giúp giáo viên
và học sinh vận dụng tốt hơn những từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong thực tế
dạy và học.
2.1. Cơ sở khoa học của sáng kiến.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của dạy Tiếng Việt là dạy học thông qua
giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp, đặc biệt giao tiếp bằng ngôn ngữ là công cụ
hiệu quả để học sinh tiếp cận, rèn luyện và phát triển khả năng sử dụng từ Tiếng
Việt. Do đó, việc đưa học sinh vào các hoạt động học tập trong giờ Tiếng Việt
được giáo viên đặc biệt quan tâm.
Nội dung từ đồng âm và từ nhiều nghĩa được bắt đầu đưa vào chương trình
Tiểu học (Phân môn Luyện từ và câu ở lớp 5) với 5 tiết: Bài 10,12,13,14,16. Đây
là vấn đề khá phức tạp, dễ nhầm lẫn như dân gian có câu ”Phong ba bão táp không
bằng ngữ pháp Việt Nam.”
Theo Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu và Hoàng Trọng Phiến. Cơ sở ngôn

ngữ học và tiếng Việt. Nxb Giáo dục, H, 1997. Từ đồng âm là những từ trùng
nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa. như: đường1 (đường tàu

4


Thống Nhất), đường2 (mua một cân đường); sao1 (ông sao trên trời), sao2 (sao anh
lại làm như thế), sao3 (đi sao giấy khai sinh), sao4 (sao thuốc nam)…
Hiện tượng đồng âm nói chung và từ đồng âm nói riêng thường xuất hiện ở
những đơn vị có kích thước vật chất không lớn, tức là có thành phần phần ngữ âm
không phức tạp. Vì vậy, chỉ có đồng âm giữa từ với từ là chủ yếu, và đây là nét
chủ đạo còn đồng âm giữa từ với cụm từ hoặc cụm từ với cụm từ thì rất hiếm hoi.
Cũng theo các học giả nói trên: Từ nhiều nghĩa (cách gọi khác từ đa nghĩa)
là những từ có một số nghĩa biểu thị những đặc điểm, thuộc tính khác nhau của
một đối tượng, hoặc biểu thị những đối tượng khác nhau của thực tại. Hiện tượng
từ đa nghĩa được quan sát thấy ở hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới. Ví dụ như từ
đi trong Tiếng Việt là một từ đa nghĩa, nó vừa có nghĩa chỉ sự dịch chuyển bằng
hai chi dưới (Tôi đi rất nhanh nhưng vẫn không đuổi kịp anh ấy.) vừa có nghĩa chỉ
một người nào đó đã chết (Anh ấy ra đi mà không kịp nói lời trăng trối).
Trong môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng ở
Tiểu học, mở rộng vốn từ là một nhiệm vụ hết sức quan trọng để làm phong phú
vốn từ ngữ cho học sinh. Trong đó từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là các loại từ
quan trọng, nó được xem như là “hiện tượng đặc thù” của Tiếng Việt. Việc nhận
diện các loại từ này đối với người lớn đã khó, đối với HS lớp 5 lại càng khó hơn
nhiều. Các em thường lẫn lộn giữa từ nhiều nghĩa và từ đồng âm. Hơn thế nữa các
em chưa ý thức được vai trò xã hội của ngôn ngữ, chưa nắm được các phương tiện
kết cấu và quy luật cũng như họat động chức năng của nó. Mặt khác HS chưa hiểu
rõ được rằng người ta nói và viết không chỉ cho riêng mình mà còn cho người
khác nên ngôn ngữ cần chính xác, rõ ràng đúng đắn và dễ hiểu, tránh làm cho
người khác hiểu sai nội dung câu, từ, ý nghĩa diễn đạt.

Qua thực tế dự giờ đồng nghiệp ở trường tôi nhận thấy việc dạy học về từ
đồng âm và từ nhiều nghĩa còn có một số tồn tại, hiệu quả tiết dạy chưa cao. Với
những căn cứ và cơ sở khoa học nêu trên, tôi đã tiến hành nghiên cứu và giới thiệu
một số kinh nghiệm giúp HS lớp 5 „Phân bịêt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa”.
5


Nhằm giúp học sinh tháo gỡ những khó khăn, lầm lẫn khi phân biệt và sử dụng
các từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, tạo nền tảng để các em học tốt môn Tiếng Vịêt;
giúp giáo viên giảng dạy về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đạt hiệu quả cao hơn.
2.2. Thực trạng vấn đề cần nghiên cứu.
2.2.1. Thuận Lợi.
*Về phía nhà trường:
- Trường đạt chuẩn quốc gia mức độ II nên cơ sở vật chất trang thiết bị dạy và
học trong nhà trường tương đối đầy đủ, đồng bộ và hiện đại tạo điều kiện thuận lợi
cho việc tổ chức các hoạt động dạy học cũng như các hoạt động giáo dục khác.
*Về phía CBQL và giáo viên:
- Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên trong nhà trường đủ về số lượng, đảm
bảo về chất lượng, có nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạy và giáo dục, có
trình độ chuyên môn vững vàng, có lòng yêu nghề, mến trẻ và nhiệt tình trong mọi
công việc được giao.
*Về phía học sinh:
Mặc dù địa phương là một xã có quy mô nhỏ so với các xã trong huyện, kinh tế
còn khó khăn nhưng phụ huynh rất quan tâm đến công tác giáo dục. Đa số học
sinh đều ngoan ngoãn, có ý thức và sức khỏe tốt, chăm chỉ học tập và lao động
theo sự hướng dẫn của thầy cô và cha mẹ, kết quả học tập đạt cao và thực chất.
Những năm gần đây trường đều có HS đạt học sinh giỏi cấp huyện, tỉnh.
2.2.2. Khó khăn, hạn chế.
*Về phía giáo viên:
- GV giảng dạy kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa còn máy móc và sơ

sài, lấy ví dụ chưa rộng và chưa cụ thể, mới chỉ bó hẹp trong phạm vi sách giáo
khoa. Khi thoát khỏi phạm vi này thì hầu hết giáo viên và học sinh đều luống
cuống và nhầm lẫn.
- Khi thể hiện tiết dạy hầu như GV chỉ chú ý đến đối tượng học sinh khá, giỏi,
còn lại đa số HS khác thụ động ngồi nghe, một số em khác muốn nêu cách hiểu
6


của mình về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cũng sợ sai lệch, từ đó tạo nên không
khí một lớp học trầm lắng, HS làm việc tẻ nhạt, thiếu hứng thú không tạo được
hiệu quả trong giờ học.
- GV chưa dành nhiều thời gian học hỏi và nghiên cứu tài liệu tham khảo, chưa
tích cực trao đổi với đồng nghiệp.
*Về phía học sinh:
- Đa số học sinh lớp 5 khi học các tiết luyện từ và câu về từ đồng âm đều gặp
rất nhiều khó khăn. Cụ thể là:
+ Khó khăn trong việc giải nghĩa các từ: học sinh còn giải nghĩa từ thiếu chính
xác, lúng túng và diễn đạt lủng củng.
+ Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa còn mơ hồ, định tính. Đặc biệt phân
biệt nghĩa gốc và một số nghĩa chuyển của từ học sinh còn làm sai tương đối
nhiều.
+ Đặt câu có sử dụng từ đồng âm và từ nhiều nghĩa: chưa chính xác, chưa hay,
chưa đúng với nét nghĩa yêu cầu.
+ HS lo ngại, chán nản, lúng túng khi gặp phải một số bài tập dạng phân biệt,
giải nghĩa hoặc đặt câu với từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
2.2.3. Điều tra thực trạng.
- Sau khi lên kế hoạch nghiên cứu đề tài,tôi đã ra đề khảo sát và tiến hành kiểm
tra kiến thức của HS về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa như sau:
+ Thời điểm kiểm tra: sau khi HS học xong các phần kiến thức về từ đồng âm
và từ nhiều nghĩa.

+ Đối tượng nghiên cứu: học sinh khối lớp 5 năm học 2013-2014.
+ Tổng số học sinh tham gia kiểm chứng: 35 em.
* Đề kiểm tra:
ĐỀ KIỂM TRA 20 PHÚT

Bài 1 (1 điểm): Dòng nào dưới đây có từ nhiều nghĩa?
a, đàn gà mới nở - hoa nở - nở nụ cuời
7


b, vàng ươm - vàng hoe - vàng tươi
c, thơ thẩn - thơ ca - thơ ngây
Bài 2 (1 điểm): Cặp từ nào dưới đây có từ đồng âm?
a, vỗ bờ - vỗ tay
b, vách đá - đá bóng
c, mắt cá - mắt lưới
d, lưng núi - đau lưng
Bài 3 (2 điểm): Trong các từ in đậm dưới đây, những từ nào có quan hệ đồng âm,
những từ nào có quan hệ nhiều nghĩa với nhau?
Vàng: - Giá vàng nước ta tăng đột biến.
- Tấm lòng vàng.
- Ông tôi mua một bộ vàng lưới để chuẩn bị cho vụ đánh bắt hải sản.
Bài 4 (3 điểm): Em hiểu các từ sau đây như thế nào?
Đi, bàn, mắt, hoa, đầu.
Bài 5 (3 điểm): Em hãy viết đoạn văn ngắn (4 đến 5 câu) trong đó có sử dụng từ
đồng âm và từ nhiều nghĩa. Gạch dưới các từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong
đoạn văn em viết.
* Kết quả kiểm tra:
Tổng Điểm Điểm Điểm Điểm Điểm Điểm Điểm Điểm Điểm Điểm
số

10
9
8
7
6
5
4
3
2
1
HSKS
35

2

6

6

11

4

4

2

2013-2014

Như vậy kết quả khảo sát có 25 em (71,4%) đạt yêu cầu. Kết quả cho thấy

phần lớn các em còn nhầm lẫn trong lúc nhận diện, phân biệt các từ đồng âm và từ
nhiều nghĩa. Nhiều em không đặt được câu để phân biệt các từ đồng âm và từ
nhiều nghĩa. Còn khả năng giải nghĩa sử dụng từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong
câu, trong đoạn văn của các em rất hạn chế.
8


2.3.4. Nguyên nhân của những khó khăn:
* Lý do thứ nhất: Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có đặc điểm và hình thức
giống nhau, đọc giống nhau, viết cũng giống nhau chỉ khác nhau về ý nghĩa.
Ví dụ 1: Từ đồng âm “bàn”(1) trong “cái bàn” và “bàn” trong “bàn công việc”
xét về hình thức ngữ âm thì hoàn toàn giống nhau còn nghĩa thì hoàn toàn khác
nhau: “bàn” (1) là danh từ chỉ một đồ vật có mặt phẳng, chân đứng để đồ đạc hoặc
làm việc, “bàn” (2) là động từ chỉ sự trao đổi ý kiến.
Ví dụ 2: Từ nhiều nghĩa: “bàn”(1) trong “cái bàn” và “bàn”(2) trong “bàn
phím”. Hai từ “bàn” này, về hình thức ngữ âm hoàn toàn giống nhau còn nghĩa thì
“bàn” (1) là danh từ chỉ một đồ vật có mặt phẳng, có chân dùng để đi kèm với ghế
làm đồ nội thất; “bàn”(2) là bộ phận tập hợp các phím trong một số loại đàn hoặc
máy tính. bàn” trong “cái bàn” và “bàn” trong “bàn công việc” đều mang nghĩa
gốc, VD2 “bàn” trong “cái bàn” mang nghĩa gốc còn “bàn” trong “bàn phím”
mang nghĩa chuyển.
* Lý do thứ hai: Vấn đề từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là vấn đề khó kể cả đối
với giáo viên thậm chí đối với các nhà ngôn ngữ học vẫn còn nhiều bàn cãi.
* Lý do thứ ba: Trong chương trình Tiếng Việt 5 chưa có nhiều bài luyện tập
về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, đặc biệt chưa có dạng bài tập phối hợp cả hai
kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để HS rèn kĩ năng phân biệt.
* Lý do thứ tư: Vốn từ vựng của các em học sinh còn hạn chế, đặc biệt là một
số học sinh phát âm chưa chuẩn dẫn đến phân biệt từ chưa chính xác.
2.3. Một số giải pháp chỉ đạo dạy - học “Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa”.

2.3.1. Nâng cao nhận thức cho giáo viên về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc
dạy - học tốt phần “Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa”.
Để tìm ra biện pháp nhằm tuyên truyền và nâng cao nhận thức cho giáo viên về
ý nghĩa, tầm quan trọng của việc dạy - học tốt phần “Phân biệt từ đồng âm và từ

9


nhiều nghĩa” trong nhà trường, tôi tiến hành làm phiếu điều tra nhận thức của GV
với một số câu hỏi cụ thể như sau:
*Đồng chí hãy bày tỏ ý kiến của mình bằng cách đánh dấu (x) vào ô trống
phù hợp để trả lời các câu hỏi sau:
1/ “Từ đồng âm” và “Từ nhiều nghĩa” là nội dung kiến thức khó hay dễ?
A. Khó

B. Bình thường

C. Dễ

2/ “Từ đồng âm” và “Từ nhiều nghĩa” chỉ khó đối với học sinh, không khó đối với
giáo viên?
A. Khó với HS

B. Khó với GV

C. Khó với cả GV và HS

3/ Đồng chí đã dạy tốt nội dung kiến thức này chưa?
A. Rất tốt


B. Tốt

C. Bình thường

D. Chưa tốt

4/ Học sinh lớp đồng chí đã học tốt nội dung kiến thức này chưa?
A. Rất tốt

B. Tốt

C. Bình thường

D. Chưa tốt

5/ Dạy và học tốt về “Từ đồng âm” và “Từ nhiều nghĩa” có cần thiết cho mỗi GV
và học sinh không?
A. Rất cần thiết

B. Bình thường

C. Không cần thiết

6/ Đồng chí đã chuẩn bị điều kiện gì cho mình khi dạy nội dung kiến thức này?
A. Đọc sách giáo khoa

B. Đọc sách giáo khoa và
nghiên cứu kĩ tài liệu

C. Không làm gì


7/ Những điều kiện cần thiết hỗ trợ cho đồng chí dạy tốt nội dung này?
A. Phương tiện dạy học:
Tranh ảnh, máy chiếu...

B. Tổ chức chuyên đề,
thảo luận về cách dạy...

C. Chỉ cần SGK

Ngoài việc điều tra bằng phiếu điều tra như trên tôi còn có thể nắm bắt ý kiến
của GV thông qua các đợt hội thảo, chuyên đề, sinh hoạt tổ chuyên môn... Lấy ý
kiến trực tiếp của giáo viên để đánh giá nhận thức của từng người nhằm điều
chỉnh nội dung, phương pháp giúp đỡ nâng cao nhận thức, chuyên môn nghiệp vụ
cho giáo viên đạt hiệu quả tốt nhất.
- Giúp giáo viên nhận thức được mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc
dạy và học tốt phần “Từ đồng âm” và “Từ nhiều nghĩa” trong trường Tiểu học, tạo
10


sự đồng thuận và nâng cao trách nhiệm của mỗi giáo viên trong mỗi hoạt động dạy
học và giáo dục của nhà trường trong giai đoạn hiện nay.
- Giúp giáo viên có nhận thức sâu sắc hơn về việc dạy và học tốt phần “Từ
đồng âm” và “Từ nhiều nghĩa” trong trường Tiểu học: hình thức và phương pháp
tổ chức dạy học, cách mở rộng kiến thức, phương tiện hỗ trợ... sao cho có hiệu
quả. Vì mỗi nội dung khác nhau, mỗi lớp khác nhau và mỗi đối tượng học sinh
khác nhau phải có cánh tổ chức khác nhau sao cho hiệu quả nhất.
- Tổ chức dạy và học “Từ đồng âm” và “Từ nhiều nghĩa” lôi cuốn và hấp dẫn
học sinh giúp các em không chỉ mở rộng vốn từ ngữ, được rèn luyện về cách sử
dụng từ, mà còn rèn cho các em kỹ năng sống phù hợp: kỹ năng giao tiếp, ứng xử

hợp lý các tình huống trong cuộc sống; thói quen và kỹ năng học tập tích cực; kỹ
năng sinh hoạt theo nhóm... Tổ chức dạy và học tốt phần “Từ đồng âm” và “Từ
nhiều nghĩa” cũng là một nội dung quan trọng góp phần thực hiện tốt nội dung
giáo dục toàn diện học sinh, góp phần giữ gìn và bảo tồn nét văn hóa độc đáo của
Tiếng Việt.
2.3.2. Tìm hiểu về “Từ đồng âm” và cách phân loại.
2.3.2.1. Khái niệm “Từ đồng âm”:
- Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa.
(SGK Tiếng Việt 5 - trang 67)
*Ví dụ:
Từ (câu)
1. Từ : “Câu”
a. Anh Hùng ngồi câu cá.

Nghĩa
- Bắt cá bằng móc sắt nhỏ (thường có mồi),
buộc ở đầu một sợi dây.

b. Đoạn văn này có 5 câu.

- Đơn vị của lời nói, diễn đạt một trọn vẹn.
(SGV tr 130 –TV5 T1).

c. Sáng nay, mẹ em nấu rau câu - Là loại tảo hồng, thường mọc ở các cánh
để ăn.

đồng nước mặn ven biển, dùng làm nộm. (Từ
điển TV-NXB khoa học xã hội 1994, tr 664).
11



2. Từ : “Mực”
a. Em thường viết bài bằng mực - Chất lỏng có màu dùng để viết. (Từ điển
tím.

TV-NXB khoa học xã hội 1994,tr535).

b. Mực khô là một món ăn rất - Là loài động vật ở biển, thân mềm, chân ở
ngon.

đầu, bụng chứa túi mực, thường bắt ăn tươi
hay phơi khô. (Từ điển TV NXB khoa học xã
hội 1994,tr535).

3. Từ: “Sao”.
a. Sao bạn lại làm như vậy?

- Hỏi lí do của một hành động.

b. Bầu trời đầy sao lấp lánh như - Mọi thiên thể nhìn thấy dưới dạng chấm
những hạt kim cương.

sáng ban đêm trong không gian vũ trụ. (Từ
điển TV-NXB khoa học xã hội 1994,tr 684).

c. Mẹ em đi sao giấy khai sinh.

- Chép lại bản chính. (Từ điển TV-NXB khoa
học xã hội 1994,tr 684).


d. Bố em sao thuốc Bắc để uống.

- Rang thuốc cho khô. (Từ điển TV-NXB
khoa học xã hội 1994,tr 684).

4. Từ: “Giá”
a. Giá xăng tăng nhanh quá.

- Số tiền phải bỏ ra để mua một vật. (Từ điển
TV-NXB khoa học xã hội 1994,tr 343).

b. Bé Lan treo rổ lên giá.

- Đồ dùng để treo hay để gác vật gì đó. (Từ
điển TV-NXB khoa học xã hội 1994,tr334).

c. Mẹ mua giá về nấu canh chua.

- Loại rau làm bằng đậu ngâm cho mọc mầm
ra. (Từ điển TV-NXB khoa học xã hội 1994,tr
343).

5. Từ: “Bàn”.
a. Lọ hoa đặt trên bàn thật đẹp.

-Vật dụng thường được làm bằng gỗ,
nhựa…,mặt phẳng ,có chân, để bày vật
dụntg,viết lách….(Từ điển TV-NXB khoa
học xã hội 1994,tr41).
12



b. Chúng em bàn nhau quyên -Trao đổi kiến với nhau về một vấn đề gì đó.
góp ủng hộ đồng bào bị bão lụt.

(Từ điển TV-NXB khoa học xã hội 1994,tr
41).

c. Cái bàn chải này đẹp quá.

- Dụng cụ làm bằng lông cứng hay rễ tre, ken
vào một miếng gỗ, nhựa…có thứ dùng để giặt
giũ, có thú dùng để đánh răng. (Từ điển TVNXB khoa học xã hội 1994,tr 41).

2.3.2.2. Phân loại “Từ đồng âm”:
- Hiện tượng đồng âm nói chung và từ đồng âm nói riêng thường xuất hiện ở
những đơn vị có kích thước vật chất không lớn, tức là có thành phần ngữ âm
không phức tạp. Vì vậy, ta chỉ có đồng âm giữa từ với từ là chủ yếu, và đây là nét
chủ đạo. Còn đồng âm giữa từ với cụm từ hoặc cụm từ với cụm từ thì rất hiếm hoi.
- Hiện tượng từ đồng âm có mặt trong ngôn ngữ là một tất yếu vì số lượng âm
thanh mà con người phát ra được và dùng làm vỏ ngữ âm cho các từ, dù có nhiều
đến mấy cũng chỉ có giới hạn của nó.
- Từ đồng âm trong tiếng Việt, do đặc trưng loại hình đơn lập của tiếng Việt
quy định, có những đặc điểm riêng. Trước hết, vì tiếng Việt không biến hình nên
những từ nào đồng âm với nhau thì luôn luôn đồng âm trong tất cả mọi bối cảnh
được sử dụng.
Trong tiếng Việt có một số cách phân loại từ đồng âm như sau:
*Đồng âm từ với từ: Ở đây tất cả các đơn vị tham gia vào nhóm đồng âm đều
thuộc cấp độ từ. Loại này lại được chia thành hai loại nhỏ hơn.
+ Đồng âm từ vựng (đồng âm ngẫu nhiên): Tất cả các từ đều thuộc cùng một

từ loại. Ví dụ:
- đường1 (đắp đường - DT) - đường2 (đường phèn DT).
- đường kính1 (một loại đường để ăn - DT) - đường kính2 (dây cung lớn nhất
của đường tròn - DT).
- cất1 (cất vó - ĐT) - cất2 (cất tiền vào tủ - ĐT) - cất4 (cất rượu - ĐT)
13


+ Đồng âm từ vựng-ngữ pháp (đồng âm chuyển loại): Các từ trong nhóm
đồng âm với nhau chỉ khác nhau về từ loại. Ví dụ:
- chỉ1 (cuộn chỉ - DT) - chỉ2 (chỉ tay năm ngón - ĐT)
- câu1 (nói vài câu - DT) - câu2 (rau câu - DT) – câu3 (câu cá - ĐT)
Loại từ đồng âm này chiếm số đông trong tiếng Việt.
*Đồng âm từ với tiếng: Ở đây, các đơn vị tham gia vào nhóm đồng âm khác
nhau về cấp độ, và kích thước ngữ âm của chúng đều không vượt quá một tiếng.
Ví dụ:
- Con trai Văn Cốc lên dốc bắn cò, đứng lăm le cười khanh khách. Con gái
Bát Chàng bán hàng thịt ếch, ngồi châu chẫu nói ương ương.
- Nhà cửa để lầm than con thơ trẻ lấy ai rèn cặp.
- Cơ đồ đành bỏ bễ vợ trẻ trung lắm kẻ đe loi.
- Con công đi qua chùa kênh, có nghe tiếng cồng nó kềnh cổ ra.
- Con cóc leo cây võng cách, nó rơi phải cọc nó cạch đến già.
Đại bộ phận các từ đồng âm không được giải thích về nguồn gốc, nhưng có một
số từ, nhóm từ người ta có thể phát hiện ra con đường đã hình thành nên chúng.
*Một số trường hợp đặc biệt: Đối với tiếng Việt, ngoài những nhóm đồng âm
nói trên còn có một con đường rất đáng chú ý là sự biến đổi ngữ âm của từ do kết
quả của một quá trình biển đổi ngữ âm lịch sử nào đó. Chẳng hạn:
- hoà → và (từ nối) đồng âm với động từ và (và cơm).
- mấy → với (từ nối) đồng âm với động từ với (giơ tay với thử trời cao thấp).
- lời → lời (lời nói) đồng âm với lợi → lời (buôn bán có lời).

Cách phát âm của tiếng địa phương, (như phương ngữ Bắc Bộ) cũng dẫn đến
những trường hợp đồng âm trong phương ngữ đó, dù là phương ngữ phổ biến.
Ví dụ:
- che (tre) đồng âm với che (che đầu).
- da (ra) đồng âm với da (lột da, da thịt).
- xâu (sâu) đồng âm với xâu (xâu cá).
14


Ngoài dựa vào tiêu chí nguồn gốc, có thể thấy hiện tượng đồng âm xảy ra giữa
các yếu tố sau:
-Yếu tố thuần Việt - Yếu tố thuầnViệt
- Yếu tố thuần Việt - Yếu tố vay mượn.
-Yếu tố vay mượn - Yếu tố vay mượn.
2.3.2.3. Nguyên nhân xuất hiện hiện tượng đồng âm.
Có thể kể ra 4 nguyên nhân chính sau:
- Do sự tiếp nhận từ ngữ nước ngoài.
- Do sự biến đổi ngữ âm.
- Do sự rút gọn các từ đa âm tiết.
- Do sự phân hóa của từ đa nghĩa.
Tóm lại, đồng âm là một hiện tượng xảy ra phổ biến trong tiếng Việt, nó đã
được người Việt khai thác một cách hiệu quả, đặc biệt trong thơ văn đấu tranh
giai cấp, trong các áng văn thơ yêu nước chống ngoại xâm, trong các câu đối,...
Hiện tượng đồng âm tạo ra những ngữ cảnh trong đó mỗi từ có thể được hiểu nước
đôi để ngầm ẩn ý nghĩa tố cáo, châm biếm hay đả kích.
2.3.3. Tìm hiểu về “Từ nhiều nghĩa” và cách phân loại.
2.3.3.1. Khái niệm “Từ nhiều nghĩa”:
Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển. Các
nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau. (SGK Tiếng Việt 5
- trang 67)

Ví dụ:
- Từ “mắt” trong câu “Đôi mắt của bé mở to.” (bộ phận quan sát của con người
mọc ở trên mặt - Nghĩa gốc)
- Từ “mắt” trong câu “Quả na mở mắt.” (quả na bắt đầu chín, có những vết nứt
rộng ra giống hình con mắt - Nghĩa chuyển).
Đối với giáo viên có thể hiểu: Một từ có thể gọi tên nhiều sự vật hiện tượng,
biểu thị nhiều khái niệm (khái niệm về sự vật, hiện tượng) trong thực tế khách
15


quan thì từ ấy được gọi là từ nhiều nghĩa. Các nghĩa trong từ nhiều nghĩa có mối
liên hệ mật thiết với nhau.
2.3.3.2. Phân loại “Từ nhiều nghĩa”:
Các từ lúc mới xuất hiện đều chỉ có một nghĩa (nghĩa gốc, nghĩa đen), trải quan
thời gian có thêm nhiều nghĩa mới (nghĩa phái sinh, nghĩa bóng) được tạo ra từ
nghĩa cơ sở (nghĩa gốc, nghĩa đen) đó, trên cơ sở những biểu tượng nhất định.
Biểu tượng làm hình ảnh về hình dáng, kích thước, đặc điểm, tính chất của sự
vật được phản ánh trong ngôn ngữ từ nghĩa gốc của từ, dưới dạng các nét nghĩa trở
thành cơ sở để tự phát triển thêm nghĩa mới. Nhờ vào quan hệ liên tưởng tương
đồng (ẩn dụ) và tương cận (hoán dụ) người ta liên tưởng từ sự vật này đến sự vật
kia trên những đặc điểm, hình dáng, tính chất giống nhau hay gần nhau giữa các
sự vẩt ấy. Từ chỗ gọi tên sự vật, tính chất, hành động này (nghĩa 1) chuyển sang
gọi tên sự vật, tính chất, hành động khác nghĩa (nghĩa 2), quan hệ đa nghĩa của từ
nảy sinh từ đó.
Ví dụ:
- Chín(1): Chỉ quả đã qua một quá trình phát triển, đạt đến độ phát triển cao
nhất, hoàn thiện nhất, độ mềm nhất định, màu sắc đặc trưng. (Quả đã chín - nghĩa
gốc).
- Chín(2): Chỉ quá trình vận động, quá trình rèn luyện, từ đó đạt đến sự phát
triển cao nhất. (Suy nghĩ chín, tình thế cách mạng đã chín, tài năng đã chín).

- Chín(3): Sự thay đổi màu sắc nước da. (ngượng chín cả mặt).
- Chín(4): Trải qua một quá trình đã đạt đến độ mềm. (cơm chín).
Như vậy muốn phân tích được nghĩa của từ đa nghĩa, trước hết phải miêu tả
thật đầy đủ các nét nghĩa của nghĩa gốc để làm cơ sở cho sự phân tích nghĩa.
Nghĩa của từ phát triển thường dựa trên hai cơ sở:
*Theo cơ chế ẩn dụ nghĩa của từ thường có các dạng sau:
+ Dạng 1: Nghĩa của từ phát triển dựa vào sự giống nhau về hình thức giữa các
sự vật, hiện tượng hay nói cách khác là dựa vào các kiểu tương quan về hình dáng.
16


Vớ d:

Mi1 (mi ngi) v Mi2 (mi thuyn);
Ming1 ( ming xinh) v ming2 (ming bỏt)

+ Dng 2: Ngha ca t phỏt trim trờn c s n d v cỏch thc hay chc
nng, ca cỏc s vt, i tng.
Vớ d:

ct1 (ct c) vi ct2 (ct quan h )

+ Dng 3: Ngha ca t phỏt trim trờn c s n d kt qu do tỏc ng ca cỏc
s vt i vi con ngi.
Vớ d:

au1 (au vt m) v au2 (au lũng)

*Theo c ch hoỏn d ngha ca t thng cú cỏc dng sau:
+ Dng 1: Ngha ca t phỏt trin trờn c s quan h gia b phn v ton th.

Vớ d: Chõn1, Tay1, mt1 l nhng tờn gi ch b phn c chuyn sang ch
cỏi ton th (Anh y cú chõn2 trong i búng; Tay2 bo v ca nh mỏy s ba cú
mt2 trong hi ngh)
+ Dng 2: Ngha ca t phỏt trin trờn quan h gia vt cha vi cỏi c
cha.
Vớ d :

Nh1 - L cụng trỡnh xõy dng (Anh trai tụi ang lm nh.)
Nh2 - L gia ỡnh (C nh cú mt ụng .)
Thỳng1 - vt dựng ng an bng tre hoc na (Cỏi thỳng ny

an khộo quỏ)
Thỳng2 - Ch n v (Hai thỳng lỳa)
+ Dng 3: Ngha ca t phỏt trin da trờn nguyờn liu hay cụng c vi sn
phm c lm ra t nguyờn liu hay cụng c ú hoc hnh ng dựng nguyờn
liu hay cụng c ú.
Vớ d:

Mui1 - Nguyờn liu (Mt kg mui);
Mui2 - Hnh ng lm cho thc n chớn hoc lờn men (Ch y mui

da ngon lm)
2.3.4. Nắm vững phơng pháp dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa

17


- Bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là loại bài khái niệm. Giáo viên có
thể tổ chức các hình thức dạy học cho học sinh như sau:
+ Bước 1: Giải quyết các bài tập ở phần nhận xét, giúp học sinh phát hiện các

hiện tượng về từ ở các bài tập từ đó rút ra được những kiến thức về từ đồng âm và
từ nhiều nghĩa.
+ Bước 2: Giáo viên tổng hợp và chốt kiến thức của bài học (như nội dung
phần ghi nhớ), cho HS học thuộc nội dung cần ghi nhớ.
+ Bước 3: Giáo viên cho các em lấy ví dụ về hiện tượng đồng âm, nhiều nghĩa
giúp các em nắm sâu và chắc phần ghi nhớ.
- Chuyển sang phần luyện tập, giáo viên tiếp tục tổ chức các hình thức dạy học
để giúp học sinh giải quyết các bài tập phần luyện tập. Sau mỗi bài tập giáo viên
lại củng cố, khắc sâu kiến thức liên quan đến nội dung bài học, liên hệ thực tế và
liên hệ tới các kiến thức đã học của phân môn LTVC nói riêng và tất cả các môn
học nói chung.
* Tóm lại khi dạy khái niệm về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, cần thực hiện
theo quy trình các bước:
+ Cho học sinh nhận biết ngữ liệu để phát hiện những dấu hiệu bản chất của từ
đồng âm và từ nhiều nghĩa.
+ Học sinh rút ra các đặc điểm của từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
+ Nêu ví dụ củng cố về nội dung bài học.
+ Luyện tập để nắm khái niệm trong ngữ liệu mới.
- Đối với các tiết dạy luyện tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, giáo viên chủ
yếu thông qua việc tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh củng cố, nắm
vững kiến thức, nhận diện, đặt câu, xác định đúng nghĩa…
* Quy trình làm bài tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
- Làm một bài tập về nhận diện, đặt câu, xác định nghĩa…của từ đồng âm và từ
nhiều nghĩa thường theo quy trình sau: (Để thực hành có hiệu quả thì GV và HS
vận dụng linh hoạt các bước sau tùy theo yêu cầu của mỗi bài)
18


+ Bước 1: Đọc và tìm hiểu đề bài (đây là bước quan đầu tiên cần thực hiện).
+ Bước 2: Giải nghĩa từ và xác định từ loại, nghĩa đen, nghĩa chuyển… (Đây là

bước rất quan trọng. thực hiện tốt nội dung này giúp các em phân loại từ đồng
nghĩa và từ nhiều nghĩa chính xác)
+ Bước 3: Phân loại, nhận diện, tìm từ, câu theo yêu cầu.
+ Bước 4: Đưa ra kết luận và chốt kiến thức của bài.
2.3.5. Dùng bảng hệ thống để so sánh, phân biệt từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa:
Phân biệt và nhận biết từ đồng âm và từ nhiều nghĩa tương đối khó. Thực tế
học sinh thường nhầm lẫn giữa từ nhiều nghĩa, từ đồng âm và không nắm được
nghĩa của chúng bởi vì định nghĩa về từ nhiều nghĩa, từ đồng âm chưa đầy đủ dẫn
đến sự khó khăn cho học sinh trong việc nhận diện.
Tôi đã lập bảng so sánh về từ đồng âm và từ nhiều cho HS nghĩa như sau:
*Giống nhau:
- Từ nhiều nghĩa và từ đồng âm đều có hình thức âm thanh giống nhau
Ví dụ:

ba - ba: (1) bố: Ba tôi rất thích đọc báo.
(2) số từ: Số ba là con số không may mắn.

Học sinh có thể nhầm lẫn từ“ba” là từ nhiều nghĩa vì có hình thức âm thanh
giống nhau. Khi gặp trường hợp này tôi đã phân biệt để HS thấy được giữa các nét
nghĩa của từ nhiều nghĩa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau còn ở đây các nét
nghĩa không có quan hệ với nhau vì thế không phải là từ nhiều nghĩa
Từ đồng âm

Từ nhiều nghĩa
- Từ đồng âm là những từ - Từ nhiều nghĩa là những từ giống nhau về
giống nhau về âm nhưng khác âm, từ có một nghĩa gốc và một hay một số
nghĩa chuyển. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa
hẳn nhau về nghĩa. Ví dụ:
a. Anh Hùng ngồi câu cá: Bắt cá

bằng móc sắt nhỏ (thường có

bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau. Ví dụ:
- Từ “mắt” trong câu “Đôi mắt của bé mở
to.” (bộ phận quan sát của con người mọc ở
19


mồi), buộc ở đầu một sợi dây.
b. Đoạn văn này có 5 câu: Đơn
vị của lời nói, diễn đạt một trọn
vẹn.
- Cách phân loại từ đồng âm:
- Cơ sở tạo ra từ đồng âm là do
tính chất tiết kiệm. Thường xẩy
ra ở những từ có cấu trúc đơn
giản
- Các từ đồng âm trong Tiếng
Việt chỉ xẩy ra trong ngữ cảnh
vì Tiếng Việt là ngôn ngữ không
biến hình
+ Đồng âm từ vựng (đồng âm
ngẫu nhiên): Tất cả các từ đều
thuộc cùng một từ loại. Ví dụ:
- đường1 (đắp đường - DT)
- đường2 (đường phèn DT).
- đường kính1 (một loại đường
để ăn - DT) - đường kính2 (dây
cung lớn nhất của đường tròn DT).
+ Đồng âm từ vựng-ngữ pháp

(đồng âm chuyển loại): Các từ
trong nhóm đồng âm với nhau
chỉ khác nhau về từ loại. Ví dụ:
- chỉ1 (cuộn chỉ - DT) - chỉ2 (chỉ

trên mặt - Nghĩa gốc)
- Từ “mắt” trong câu “Quả na mở mắt.”
(quả na bắt đầu chín, có những vết nứt rộng ra
giống hình con mắt - Nghĩa chuyển).
- Cách phân loại từ nhiều nghĩa:
- Từ nhiều nghĩa được phân loại theo 2 cơ chế:
* Theo cơ chế ẩn dụ nghĩa của từ thường có
các dạng sau:
+ Dạng 1: Nghĩa của từ phát triển dựa vào sự
giống nhau về hình thức giữa các sự vật, hiện
tượng hay nói cách khác là dựa vào các kiểu
tương quan về hình dáng.
Ví dụ: Mũi1 (mũi người) và Mũi2 (mũi thuyền);
Miệng1 ( miệng xinh) và miệng2 (miệng bát)
+ Dạng 2: Nghĩa của từ phát triểm trên cơ sở
ẩn dụ về cách thức hay chức năng, của các sự
vật, đối tượng.
Ví dụ: cắt1 (cắt cỏ) với cắt2 (cắt quan hệ )
+ Dạng 3: Nghĩa của từ phát triểm trên cơ sở
ẩn dụ kết quả do tác động của các sự vật đối
với con người.
Ví dụ: đau1 (đau vết mổ) và đau2 (đau lòng)
*Theo cơ chế hoán dụ nghĩa của từ thường
có các dạng sau:
+ Dạng 1: Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở

quan hệ giữa bộ phận và toàn thể.
Ví dụ: Chân1, Tay1, mặt1 là những tên gọi chỉ
bộ phận được chuyển sang chỉ cái toàn thể
20


tay năm ngón - ĐT)

(Anh ấy có chân2 trong đội bóng; Tay2 bảo vệ

+ Đồng âm từ với tiếng: Ở đây, của nhà máy số ba có mặt2 trong hội nghị)
các đơn vị tham gia vào nhóm + Dạng 2: Nghĩa của từ phát triển trên quan hệ
đồng âm khác nhau về cấp độ, giữa vật chứa với cái được chứa.
và kích thước ngữ âm của chúng Ví dụ : Nhà1 - Là công trình xây dựng (Anh
đều không vượt quá một tiếng. trai tôi đang làm nhà.)
Ví dụ:

Nhà2 - Là gia đình (Cả nhà có mặt đông đủ.)

- Con trai Văn Cốc lên dốc bắn cò Thúng1 - Đồ vật dùng để đựng đan bằng tre
đứng lăm le cười khanh khách.

hoặc nứa (Cái thúng này đan khéo quá)

+ Một số trường hợp đặc biệt: Thúng2 - Chỉ đơn vị (Hai thúng lúa)
Do do kết quả của một quá trình + Dạng 3: Nghĩa của từ phát triển dựa trên
biển đổi ngữ âm lịch sử nào đó. nguyên liệu hay công cụ với sản phẩm được
Chẳng hạn:

làm ra từ nguyên liệu hay công cụ đó hoặc


- hoà → và (từ nối) đồng âm với hành động dùng nguyên liệu hay công cụ đó.
động từ và (và cơm).

Ví dụ: Muối1 - Nguyên liệu (Một kg muối);

- mấy → với (từ nối) đồng âm Muối2 - Hành động làm cho thức ăn chín hoặc
với động từ với (giơ tay với thử lên men (Chị ấy muối dưa ngon lắm)
trời cao thấp).
Để giúp HS có thể phân biệt được là từ nhiều nghĩa hay là từ đồng âm cần
giúp HS xác định quan hệ về các nét nghĩa chính xác (đối với từ nhiều nghĩa), nêu
loại trừ được các quan hệ về các nét nghĩa thì đó là từ đồng âm còn ngược lại, nếu
đồng âm nhưng có quan hệ về các nét nghĩa nữa thì đó là từ nhiều nghĩa.
2.3.6. Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa bằng cách đặt từ vào văn
cảnh để hiểu đúng nghĩa của từ.
Trong quá trình hướng dẫn học sinh phân loại từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
cần giúp các em hiểu rõ nghĩa của các từ, biết đặt từ vào trong câu, trong hoàn
cảnh giao tiếp để hiểu đúng nghĩa của từ. Từ đa nghĩa khác từ đồng âm ở chỗ các

21


từ đa nghĩa thường có một nét nghĩa chung hay nói cách khác chúng có cùng một
nguồn gốc. Còn từ đồng âm lại khác hẳn nhau hoàn toàn về nghĩa.
Nói cách khác, nếu hai từ khác nhau về nguồn gốc, trùng nhau về ngữ âm thì
đó là hai từ đồng âm. Ngược lại, nếu giống nhau cả về ngữ âm lẫn nguồn gốc thì
cần nghĩ tới khả năng đó là hiện tượng nhiều nghĩa.
Ví dụ về từ đồng âm:
+ Anh em như thể tay chân/ Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần. (chân - DT Một trong hai bộ phận đối xứng, ở phía dưới thân người, từ đùi trở xuống, dùng để
đứng và đi trong tư thế thẳng. Từ điển TV, trang 130)

+ Chân dung. (chân - DT – Hình chụp hay vẽ rõ nét dung mạo của một
người. Từ điển TV, trang 130)
+ Tôi chân thành chúc bạn mau chóng bình phục. (chân - TT – Với những
tình cảm thực có. Từ điển TV, trang 131)
+ Chân cứng đá mềm. (chân - TT - Mạnh khỏe và có khả năng khắc phục
những khó khăn lớn. Từ điển TV, trang 130)
+ Chân ướt chân ráo. (chân - TT – Bỡ ngỡ vì mới tới. Từ điển TV, trang 130)
+ Anh đã có chân trong hội đồng khoa học. (chân - DT - Là thành viên của
một tổ chức. Từ điển TV, trang 130)
Ví dụ về từ nhiều nghĩa:
+ Bé bị đau chân. (chân - DT - Một trong hai bộ phận đối xứng, ở phía dưới
thân người, từ đùi trở xuống, dùng để đứng và đi trong tư thế thẳng. Từ điển TV,
trang 130). Nghĩa gốc.
+ Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân. (chân - DT - Bộ phận dưới cùng của
đồ dùng, có tác dụng đỡ cho bộ phận khác. Từ điển TV, trang 131). Nghĩa chuyển.
+ Chân núi, chân tường. (chân - DT - Phần dưới cùng của vật, tiếp giáp và
bám chặt vào mặt nền. Nghĩa chuyển)
+ Chân vịt. (chân - DT – Bộ phận cánh quạt nắp ở phía dưới tàu thủy. Từ điển
TV, trang 131). Nghĩa chuyển.
22


+ Mây đen đang tụ ở phía chân trời. (chân - DT – Vùng không gian giới hạn
tầm mắt từ đó vòm trời như liền với mặt đất hay mặt biển. Từ điển TV, trang 130).
Nghĩa chuyển.
2.3.7. Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa bằng hình ảnh cụ thể.
Đây là hình thức rất hiệu quả và phù hợp với đặc điểm tâm lí, nhận thức của
học sinh Tiểu học. Quá trình nhận thức của học sinh Tiểu học từ cảm tính đến lí
tính, từ chi tiết cụ thể đến khái quát, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng... Nên việc hình thành kiến thức cho học sinh từ sự vật và hình ảnh cụ thể

khiến các em dễ tiếp thu và nhớ lâu hơn, bền vững hơn.
Ví dụ về từ đồng âm:

Hòn đá (đá - DT)

Nước trà đá mát lạnh. (đá - DT)

Cầu thủ đang đá bóng. (đá - ĐT)

Thi đấu bóng đá. (đá - DT)

ngựa đá (đá - ĐT)

ngựa đá (đá - DT)
23


cái cuốc (cuốc - DT)

chim cuốc (cuốc - DT)

Mọi người đang cuốc đất. (cuốc - ĐT)

Đi cuốc bộ. (cuốc - ĐT)

ơ

Ví dụ về từ nhiều nghĩa:

đầu (đầu - DT - nghĩa gốc)


đầu bếp (đầu - DT - nghĩa chuyển)

đầu nấm (đầu - DT - nghĩa chuyển)

đầu trọc (đầu - DT - nghĩa chuyển)

24


đầu nối ống nước
(đầu - DT - nghĩa chuyển)

đầu sư tử (đầu - DT - nghĩa chuyển)

đầu hàng (đầu - DT - nghĩa chuyển)

đầu đọc thẻ (đầu - DT - nghĩa chuyển)

đầu cầu (đầu - DT - nghĩa chuyển)

đầu gối (đầu - DT - nghĩa chuyển)

đầu báo (đầu - DT - nghĩa chuyển)

đầu DVD (đầu - DT - nghĩa chuyển)

25



×