Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Luận văn cao học đổi mới công tác cán bộ nữ của thị xã từ sơn, tỉnh bắc ninh trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.68 KB, 60 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN XÂY DỰNG ĐẢNG

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Đề tài:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI CÔNG TÁC CÁN BỘ NỮ
CỦA THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Người hướng dẫn khoa học:
Người thực hiện:


2

Bắc Ninh, tháng 6/2013
CHƯƠNG I. ĐỔI MỚI CÔNG TÁC CÁN BỘ NỮ CỦA THI XÃ TỪ SƠN –
TỈNH BẮC NINH - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THỊ XÃ TỪ SƠN VÀ ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ NỮ THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY
1.2. ĐỐI MỚI CÔNG TÁC CÁN BỘ NỮ CỦA THỊ XẰ TỪ SƠN, TÌNH BẮC
NINH - QUAN NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ, TẦM QUAN TRỌNG, NỘI DUNG CỦA
ĐỐI MỚI CÔNG TÁC CÁN BỘ NỮ
CHƯƠNG II. ĐỔI MỚI CÔNG TÁC CÁN BỘ NỮ CỦA THỊ XÃ TỪ SƠN
TỈNH BẮC NINH – THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM
2.1. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN Bộ NỮ THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH
2.2. THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI CÔNG TÁC CÁN BỘ NỮ CỦA THỊ XÃ TỪ


SƠN, TỈNH BẮC NINH GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.3. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM
ĐỚI MỚI ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NỮ CỬA THỊ XÃ TỪ SƠN, TÌNH BẮC NINH
CHƯƠNG III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
TĂNG CƯỜNG ĐỔI MỚI CÔNG TÁC CÁN BỘ NỮ CỦA THỊ XÃ TỪ SƠN,
TỈNH BẮC NINH GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. DỰ BÁO TÌNH HÌNH
3.2. PHƯƠNG HƯỚNG
3.3. GIẢI PHÁP NHẰM ĐỔI MỚI CÔNG TÁC CÁN BỘ NỮ CỦA THỊ XÃ
TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
KẾT LUẬN
KIẾN NGHỊ


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước phụ nữ Việt Nam giữ một vị trí và vai trò
quan trọng. Giải phóng và phát triển toàn diện phụ nữ là một trong những mục tiêu của
Cách mạng Việt Nam, có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến sự phát triển của đất nước.
Bồi dưỡng lực lượng phụ nữ, phát huy sức mạnh và chăm lo sự phát triển mọi mặt của
phụ nữ là nhiệm vụ thường xuyên, rất quan trọng của Đảng trong mọi thời kỳ cách
mạng. Là người lao động và người mẹ, người thầy đầu tiên của con người, người phụ
nữ phải chăm lo đến nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Tiếng nói của phụ nữ đại diện cho
hơn một nửa dân số. Phụ nữ tham gia lãnh đạo là sự bảo đảm để đưa vấn đề phụ nữ, trẻ
em và gia đình vào trong chính sách, luật pháp, góp phần thực hiện quyền bình đẳng,
phát triển của phụ nữ. Trong đó, xây dựng đội ngũ cán bộ nữ là một khâu quan trọng,
tất yếu khách quan của cách mạng Việt Nam, là yêu cầu để phát huy quyền bình đẳng,
dân chủ của phụ nữ, phát huy tiềm năng, trí tuệ và nâng cao địa vị của phụ nữ.
Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn coi trọng đến công tác cán bộ.
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 3 khóa VIII về "Chiến lược cán bộ

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" đã khẳng định: "Cán bộ là
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của
đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng Đội ngũ cán bộ
của ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta dày công xây dựng đã không ngừng
trưởng thành và có nhiều cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những thế hệ lớn tuổi đang thực hiện việc bàn giao dần
trọng trách cho thế hệ nối tiếp, đó là một quy luật tất yếu, song cần có sự tiến hành
một cách chủ động, tích cực tạo ra sự phát triển đội ngũ cán bộ có đủ khả năng hoàn
thành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong điều kiện
mới, trong đó có đội ngũ cán bộ nữ.
Ngày nay trong tiến trình đổi mới đất nước, vì mục tiêu xây dựng xã hội “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, việc xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ
cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu
khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng. Thực
hiện tốt công tác cán bộ nữ chính là nhằm tạo những cơ hội mở cho phụ nữ cống hiến và
phát triển, góp phần tích cực vào việc thúc đẩy bình đẳng giới ở nước ta.


4

Thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã đưa người phụ nữ Việt Nam lên địa vị
làm chủ xã hội, có quyền bình đẳng như nam giới, có vai trò quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Muốn phát huy sức mạnh của phụ nữ, không thể
không đặt đúng vị trí, vai trò nòng cốt của đội ngũ cán bộ nữ, nhất là trong giai đoạn
hiện nay, trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Tuy nhiên trên thực tế đội ngũ cán bộ nữ của ta còn thiếu về số
lượng, yếu về chất lượng, đặc biệt đội ngũ cán bộ nữ ở cơ sở.
Nhận thức rất rõ về vị trí, vai trò của phụ nữ, với hơn 50% dân số và chiếm vị trí
quan trọng trong lực lượng lao động, vì vậy trong những năm qua, trên cơ sở thực
hiện các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, công tác cán bộ nữ có những kết quả đáng kể.

Theo đánh giá tình hình thế giới thì Việt Nam là một trong những nước dẫn đầu thế
giới về tỷ lệ nữ tham gia các hoạt động kỉnh tế và dẫn đầu khu vực Châu Á Thái Bình
Dương về tỷ lệ nữ trong Quốc hội. Có thể nói, phụ nữ Việt Nam có những thuận lợi
rất cơ bản để tham gia ngày càng có hiệu quả hơn trong công tác lãnh đạo quản lý.
Tuy nhiên khi bước vào quá trình đổi mới đất nước đòi hỏi người lao động phải có trí
tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có sức khoẻ, cỏ phẩm chất tốt thì nhũng hạn chế về
trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, những tác động tiêu cực của tư
tưởng trọng nam hơn nữ, những tệ nạn xã hội đang là những khó khăn và th ách thức
lớn đối với phụ nữ mà đòi hỏi phụ nữ phải nỗ lực phấn đấu.
Đối với thị xã Từ Sơn, tinh Bắc Ninh là thị xã trẻ mới được thành lập đang tích cực
thực hiện chuyển đồi cơ cấu kinh tế theo hướng phát triên nhanh, toàn diện và bền vững,
thì việc đổi mới công tác cán bộ, quy hoạch, đào tạo để có một đội ngũ cán bộ nói chung
và đội ngũ cán bộ nữ nói riêng có đủ sức lãnh đạo, ngang tầm với nhiệm vụ hiện nay cả về
số lượng và chất lượng là một vấn đề càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Là cán bộ làm công tác vận động phụ nữ, với mong muốn được góp phần nhỏ bé
của mình vào việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói
riêng đáp ứng với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội
nhập quốc tế, bằng một số kinh nghiệm thực tiễn của bản thân và những kiến thức lý
luận đã được trang bị qua học tập nghiên cứu cùng với sự lãnh đạo của Thị uỷ Từ
Sơn, tôi chọn đề tài “Một số vấn đề về đổi mới công tác cán bộ nữ của thị xã Từ Sơn,
tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay” để làm luận văn tốt nghiệp của mình.


2. Mục đích và nhỉệm vụ nghỉên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ cơ sở lý luận về công tác cán bộ nữ.
- Đánh giá đúng thực trạng công tác cán bộ nữ cùa thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh
trong những năm qua.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần đổi mới công tác cán bộ nữ tại địa
phương trong thời gian tới.

*Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hoá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ nữ.
- Tìm hiểu thực trạng công tác cán bộ nữ tại thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh thời
gian qua.
- Đề xuất giải pháp nhằm đổi mới công tác cán bộ nữ tại địa phương trong
những năm tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đội ngũ cán bộ nữ ở thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Trong đó tập trung đi sâu
vào nghiên cứu đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý là nữ tham gia cấp ủy Đảng, Hội
đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, trưởng, phó các phòng, ban, ngành, đoàn thể thị xã
Từ Sơn; lãnh đạo chù chốt, trưởng các đoàn thể xã, phường thuộc thị xã.
- Nghiên cứu về công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ nữ
tại địa bàn thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
- Thời gian nghiên cứu từ năm 2008 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghỉên cứu
- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lên in, tư tường Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về công tác cán bộ nói chung, công tác cán bộ nữ nói riêng.
- Phương pháp luận được sử dụng trong luận văn là phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Phương pháp cụ thể: Phân tích và tồng hợp tài liệu, thống kê số liệu..., trong đó
phương pháp phân tích và tổng hợp được xem là phương pháp chủ đạo.
- Đặc biệt luận văn kế thừa phương pháp tiếp cận giới trong công tác cán bộ.


6

5. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kiến nghị, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận

văn được kết cấu thành 3 chương. Trong đó:
Chương 1: Đổi mới công tác cán bộ nữ của thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh Những vấn đề lý luận và thực tiễn.
Chương 2: Đổi mới công tác cán bộ nữ của thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh - Thực
trạng, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu tăng cường đổi mới công tác cán
bộ nữ của thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh giai đoạn hiện nay.


CHƯƠNG I. ĐỔI MỚI CÔNG TÁC CÁN BỘ NỮ CỦA THỊ XÃ TỪ SƠN,
TỈNH BẮC NINH - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
NỮ THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY
1.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội
* Điều kiện tự nhiên: Từ Sơn là vùng đất địa linh nhân kiệt, có vị trí địa lý thuận
lợi: Nằm ở cửa ngõ phía của thành phố Hà Nội và tam giác kinh tế Hà Nội - Hải
Phòng - Quảng Ninh. Là thị xã trẻ được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành
lập ngày 24 tháng 9 năm 2008. về đơn vị hành chính, toàn thị xã được chia thành 12
đơn vị, trong đó có 7 phường và 5 xã với 81 thôn, khu phố với diện tích đất tự nhiên
là 61,33 km2, dân số trên 143.000 người, mật độ dân số khá đông đúc.
Từ Sơn, phía Bắc tiếp giáp với các huyện Yên Phong (Bắc Ninh), phía Đông
Bắc và Đông tiếp giáp với huyện Tiên Du (Bắc Ninh), phía Nam và Tây Nam tiếp
giáp vói huyện Gia Lâm (Hà Nội), phía Tây giáp với huyện Đông Anh (Hà Nội). Từ
Sơn có tuyến quốc lộ 1A, 1B, đường sắt huyết mạch giao thông từ Hà Nội lên biên
giới Lạng Sơn chạy qua. Từ trung tâm Thị xã còn có nhiều đường bộ nối liền các
vùng kinh tế trong và ngoài tỉnh.
Từ Sơn là quê hương có truyền thống văn hiến và cách mạng, nơi đã sản sinh ra
nhiều thế hệ anh hùng tô đẹp thêm truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của
dân tộc Việt Nam. Xưa có Vua Lý Thái Tổ - Người có công khai sáng Thành Thăng
Long, những ngày đầu thành lập Đảng cộng sản Việt Nam có đồng chí cố Tổng bí thư
Nguyễn Văn Cừ. Nay, Từ Sơn còn là địa bàn mở rộng của Thủ đô Hà Nội - thành phố

vệ tinh trong tương lai.
*Tình hình kinh tế: Kinh tế được tăng trưởng với nhịp độ cao và phát triển theo
hướng toàn điện. Bình quân đặt 16,2%. Trong đó, công nghiệp - xây dựng cơ bản tăng
16,5%; dịch vụ tăng 16,9%, nông nghiệp tăng 2,1%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng cơ bản tăng từ 70,3% lên 74,5%, dịch
vụ tăng từ 21,5% lên 21,7%, nông nghiệp giảm từ 8,2% còn 3,8% năm 2010.
Giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp năm 2010 đạt 4.752 tỷ đồng.
Hiện nay, trên 800 doanh nghiệp và cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn đã góp
phần giải quyết việc làm, tạo thu nhập ổn định cho trên 14.000 lao động, đóng góp
lớn vào ngân sách Nhà nước.


8

Giá trị sản xuất nông, lâm ngư nghiệp năm 2010 đạt 174,1 tỷ đồng. Các hoạt
động dịch vụ, thương mại trên địa bàn thị xã phát triển khá đa dạng, phong phú. Tổng
mức hàng hoá bán lẻ và dịch vụ trên địa bàn năm 2010 đạt 3.333,7 tỷ đồng. Kim
ngạch xuất nhập khẩu tăng cao; giá trị xuất khẩu ước đạt 77,2 triệu USD, giá trị nhập
khẩu đạt 120,7 triệu USD. Hoạt động du lịch có những chuyển biến tích cực, du lịch
làng nghề, lễ hội truyền thống cùng với việc nâng cấp mở rộng khu du lịch Đen Đô
và các khu di tích lịch sử văn hoá đã thu hút hàng vạn lượt khách đến thăm quan.
Quy hoạch và đầu tư phát triển được đẩy mạnh, bộ mặt đô thị và nông thôn đổi
mới rõ nét. Công tác đầu tư xây dựng tập trung ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội, chỉnh trang đô thị và cơ sở hạ tầng nông thồn, các tuyến đường trung tâm
được nâng cấp.
Công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực đất đai được quan tâm đã lập quy hoạch
sử dụng đất thời kỳ 2007 - 2015 cho 100% xã, phường. Công tác thu hồi đất giải
phóng mặt bằng phát triển công nghiệp, đô thị, dịch vụ được thực hiện cơ bản đúng
theo quy định của pháp luật.
Xác định được trọng tâm, trọng điểm trong xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế

- xã hội và xác định lộ trinh thực hiện cụ thể, sát với tình hình thực tiễn. Năm 2010,
tổng thu ngân sách Nhà nước đạt 629,5 tỷ đạt 149,1% kế hoạch, đáp ứng tốt nhu cầu
chi cho các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng thị xã.
*Tình hình văn hoá, xã hội:
Từ Sơn là địa phương có nền kinh tế sôi động, trên địa bàn hiện có 88 di tích
lịch sử văn hoá được Nhà nước xếp hạng, tiêu biểu như Đen Đô (Đình Bảng), Chùa
Tiêu (Tương Giang), di tích lưu niệm danh nhân có khu lưu niệm đồng chí Ngô Gia
Tự, Nguyễn Văn Cừ,... Từ Sơn còn có nhiều làng nghề truyền thống nổi tiếng như đồ
gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ, Phù Khê, Hương Mạc, dệt Tương Giang, sản xuất sắt thép
Châu Khê... ngày càng được mở rộng và phát triển tạo thành một trong những địa
danh có khả năng khai thác phục vụ tham quan du lịch và các dịch vụ khác.
Sự nghiệp gỉáo dục - đào tạo ngày càng được nâng cao toàn diện. Học sinh trong
độ tuổi tiểu học đến trường đạt 100%, trung học cơ sở đạt 98,75%; tỷ lệ học sinh lớp
5 hoàn thành chương trình Tiểu học đạt bình quân 99,9%; tốt nghiệp Trung học cơ sở
đạt 99,4%, Trung học phổ thông đạt 99,43%. Duy trì vững chắc phổ cập giáo dục


Trung học cơ sở. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia năm 2010 là 72,3% tăng 23% so
với năm 2005, năm 2012 đạt 96%. Tỷ lệ kiên cố hoá trường, lớp cả 3 bậc học đạt
94%. Công tác khuyến học được các cấp, các ngành quan tâm và thu được nhiều kết
quả đáng khích lệ, 12/12 xã, phường có hội khuyến học, dòng họ khuyến học góp
phần tạo nên một xã hội học tập đem lại hiệu quả thiết thực.
Các chương trình y tế quốc gia triển khai thực hiện đồng bộ, đạt hiệu quả. Mạng lưới
y tế cơ sở được tăng cường cả về cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ, 12/12 xã, phường đạt
chuẩn Quốc gia về y tế, chất lượng khám chữa bệnh ngày càng được nâng lên.
Công tác quản lý Nhà nước về văn hoá dược tăng cường; phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ” được duy tì nền nếp. Hàng năm thu hút được
100% khu dân cư đăng ký tham gia thực hiện, 90% gia đình đăng ký xây dựng gia
đình văn hóa. Việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội theo tinh
thần Nghị quyết 20 và 22 của HĐND tỉnh Bắc Ninh khoá XVII ngày càng được nhân

rộng, 100% xã, phường có quy định cụ thể và bước đầu thực hiện tốt việc cưới, việc
tang, lễ hội; công tác quàn lý, tổ chức các lễ hội ở các làng, khu dân cư diễn ra theo
đúng quy định, an toàn, lành mạnh, tiết kiệm, phong phú, trang trọng cả về phần lễ và
phần hội. Năm 2010, toàn thị xã có 51/81 làng, thôn khu phố đạt danh hiệu văn hoá,
65 cơ quan, đơn vị đạt công sờ văn hoá và 29.358 hộ đạt danh hiệu gia đình văn hóa
bằng 97,8% so với số hộ đăng ký.
Thực hiện tốt các chế độ, chính sách xã hội. Tỷ lệ hộ nghèo đầu nhiệm kỳ 2005 2010 là 3,74%, đến năm 2010 giảm xuống còn 1,64%. Tích cực thực hiện các chính
sách cho các đổi tượng được hưởng chính sách như trợ cấp hộ nghèo, hỗ trợ tiền điện
cho hộ nghèo, chi trả trợ cấp cho đối tượng hường chính sách theo Nghị định 13/NĐCP cho người cao tuổi từ 75 trờ lên, tiếp nhận và cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho nguời có
công, người nghèo, người cao tuổi, thanh niên xung phong. Triển khai các dự án vay
vốn giải quyết việc làm cho lao động mới, xây dựng và triển khai Đe án đào tạo nghề
cho lao động nông thôn giai đoạn 2011 - 2015 hàng năm giải quyết việc làm cho
2.500 - 3.000 lao động.
*Quốc phòng-An ninh:
Cấp uỷ, chính quyền các cấp thường xuyên quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo và tạo
được sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quân sự, công an với các cơ quan, đoàn thể,


10

đơn vị, sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân đạt được nhiều kết quả trong việc
thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
*Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân:
Công tác xây dựng Đảng được quan tâm trú trọng. Tổ chức quán triệt đầy đủ,
nghiêm túc các quan điểm, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật
của nhà nước cho cán bộ, đảng viên, gắn với thực hiện cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh Quan tâm chú trọng đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ các cấp. Nhiệm kỳ 2005 - 2010 đã tổ chức 19 lớp đối tượng kết nạp
đảng cho 1.325 quần chúng, mở 11 lớp bồi dưỡng đảng viên mới cho 611 đảng viên,

04 sơ cấp và 02 lớp trung cấp lý luận chính trị cho 297 học viên, 120 lớp chuyên đề
bồi dưỡng kiến thức cho hơn 24.000 lượt cán bộ cấp uỷ cơ sở, cán bộ làm công tác
mặt trận, các đoàn thể nhân dân và cán bộ, công chức viên chức... Cừ 46 cán bộ đi
học cử nhân, cao cấp lý luận chính trị, góp phần nâng cao kiến thức chuyên môn phù
hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới. Bình quân hàng năm có trên 83% tổ chức Đảng đạt
trong sạch vững mạnh và 10% hoàn thành tốt nhiệm vụ, không có tổ chức Đảng yếu
kém. Kết nạp được 621/4.223 đảng viên, đạt bình quân 14,7% so vói tổng số đảng
viên. Tổ chức thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng
theo Điều 30, 32 của Điều lệ Đảng. Đã thực hiện kiểm tra 272 tổ chức Đảng, 165 cá
nhân; giám sát 44 tổ chức và 272 lượt tổ chức đảng cấp dưới; xử lý kỷ luật các hình
thức đối với 147 đảng viên và 05 tổ chức Đảng.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân thị xã có nhiều đổi mới theo hướng công khai,
dân chủ, đúng luật. Chất lượng các kỳ họp ngày càng được nâng cao, cán bộ chủ chốt
của Hội đồng và Uỷ ban nhân dân được kiện toàn đúng quy trình và quy hoạch. Các
nghị quyết của Hội đồng nhân dân có chất lượng, định hướng rõ mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương. Công tác giám sát được tăng cường và hiệu quả thiết thực.
Hoạt động tiếp xúc cử tri được đổi mới về phương thức, nội dung, mở rộng về địa bàn
và thành phần; nhiều ý kiến đề nghị của cử tri được phản ánh, đôn đốc giải quyết.
Ủy ban nhân dân thị xã và các xã, phường hoạt động có nhiều tiến bộ, cải cách
hành chính được quan tâm; các phòng, ban, đơn vị, các phường mới thành lập được
sắp xếp, kiện toàn theo đúng quy định của Nhà nước; hoàn thành việc quản lý chất


lượng ISO 9001 trong giải quyết hành chính ở nhiều lĩnh vực; bộ phận "Một cửa liên
thông hiện đại” được thành lập, từng bước đi vào nề nếp; công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức được chú trọng, nền nếp làm việc, kỳ cương, kỷ luật, ý thức trách
nhiệm của cán bộ công chức, hiệu lực, hiệu quả làm việc của bộ máy chính quyền
được nâng lên rõ rệt. Công tác thi đua khen thường được quan tâm chú trọng, tạo
động lực thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước trên mọi lĩnh vực.
Công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo và thực hiện các quyết

định, kết luận sau thanh tra, kiểm tra được duy trì theo quy định góp phần hạn chế
tình trạng đơn thư khiếu kiện vượt cấp và tụ tập đông người, tạo sự chuyển biến bước
đầu về chấp hành kỷ luật, kỷ cương trong đảng và các cơ quan nhà nước.
Công tác dân vận có nhiều chuyển biến tích cực. Nội dung, hình thức, phương
pháp tuyên truyền, vận động quần chúng thực hiện các chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị địa phương của Mặt trận tổ quốc và
các đoàn thể cỏ nhiều đổi mới. Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 13-NQ/TU của
Ban Chấp hành Đảng bộ tinh Bắc Ninh về “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động cùa Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong giai đoạn mới”; khối
đại đoàn kết toàn dân tiếp tục được củng cố, tăng cường; dân chủ ở cơ sở được phát
huy; các phong trào thi đua, các cuộc vận động được phát động sâu rộng, tạo sự đồng
thuận cao trong xã hội và thu được những kết quả thiết thực. Tỷ lệ thu hút hội viên,
đoàn viên tham gỉa các tổ chức đoàn thể năm sau cao hơn năm trước. Đến nay tỷ lệ
thu hút của Liên đoàn lao động đạt trên 90%; Hội Cựu chiến bỉnh 88,5%; Hội Nông
dân 91,3%; Đoàn Thanh niên 55,0% và Hội Phụ nữ đạt 83,1%.
Với những nét khái quát về điều kiện tự nhiên, tỉnh hình kinh tế, văn hoá, xã hội
trình bày trên đây vừa tạo ra cơ hội, vừa đặt ra thách thức đối với phụ nữ nói chung,
công tác cán bộ nữ nói riêng tại thị xã Từ Sơn hiện nay.
1.1.2. Sự trưởng thành và những đóng góp của phụ nữ Từ Son Phụ nữ Từ Sơn
chiếm 51% dân số, 60% lực lượng lao động xã hội. Dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ
Đảng các tầng lớp phụ nữ thị xã Từ Sơn đã từng bước trưởng thành và đóng góp cho
sự phát triển của thị xã trên mọỉ lĩnh vực. Cụ thể:
*Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo:
Công tác giáo dục - đào tạo thị xã Từ Sơn trong những năm qua tiếp tục phát
triển, chất lượng ngày càng được nâng lên. Với 92% tỷ lệ giáo viên là nữ và trên 84%


12

số chị em nữ tham gia quản lý lãnh đạo, chị em phụ nữ ngành giáo dục luôn phấn đấu

trong nhiệm vụ chuyên môn và thực hiện phong trào thi đua “Giỏi việc trường - đảm
việc nhà ” và cuộc vận động “Kỳ cương - tình thương - trách nhiệm ” do ngành phát
động. Các chị luôn tích cực học tập, không ngừng trau dồi phẩm chất đạo đức nghề
nghiệp, tham gia các lớp đào tạo, bồỉ dưỡng về lý luận chính trị, quản lý nhà nước,
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để chuẩn hoá cán bộ đáp ứng với yêu cầu
giáo đục trong giai đoạn hiện nay. Với sự cố gắng, nỗ lực của các chị đến năm 2010 tỷ
lệ nữ giáo viên đạt danh hiệu “Giỏi việc trường - đảm việc nhà các cấp đạt 85%, nhiều
chị đạt Chiến sỹ thi đua cơ sở nhiều năm liên tục và giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, thị xã,
những đóng góp của các chị đã góp phần quan trọng cho sự nghiệp “trồng người của
thị xã, góp phần to lớn trong việc đào tạo và bồi dưỡng nhân tài cho quê hương.
*Trong lĩnh vực kinh tế, lao động và việc làm:
- Trong lĩnh vực kinh tế: chị em luôn cố gắng vượt qua những khó khăn, cần cù
trong lao động sản xuất, tích cực học tập, nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật mới vào sản xuất. Nhiều chị đã mạnh dạn xây dựng mô hình phát triển kinh tế gia
đình, tự tạo việc làm nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập. Trong 5 năm (2005 2010), nhiều chị là những cá nhân điển hình tiên tiến đi đầu trong việc ứng dụng các tiến
bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất phát triển kinh tế gia đình, hiện nay trên địa bàn thị xã
có nhiều mô hình phát triển mang lại hiệu quả kinh tế cao. Trong lĩnh vực công nghiệp,
dịch vụ thương mại các tầng lớp phụ nữ thị xã luôn phát huy tính tự chủ, chủ động và
nhanh nhạy nắm bắt thông tin giá cả thị trường trong kinh doanh. Nhiều chị đã tự chủ
trong quản lý kinh tế mạnh dạn đưa các ngành nghề Tiểu thủ công nghiệp vào sản xuất
tạo ra nhiều sản phẩm có uy tín cung ứng ra thị trường trong và ngoài tỉnh góp phần làm
chuyển biến nền kinh tế của thị xã theo hướng phát triển dịch vụ, thương mại.
- Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Trong 5 năm (2005 - 2010), có 8.120 chị em
nữ được đào tạo các ngành nghề và giới thiệu tư vấn giải quyết việc làm cho 5.684 lao
động nữ[20]. Phát huy thế mạnh các ngành nghề truyền thống địa phương không những
tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động nữ tại địa phương mà còn cho các lao động nữ
trong và ngoài tỉnh, khẳng định được vai trò của người phụ nữ trong mọi lĩnh vực.
*Trong lĩnh vực văn hoá, thông tin - thế thao và chăm sóc sức khoẻ:



- Lĩnh vực văn hoá thông tin, thể thao: Phong trào văn hoá, thể thao của thị xã
luôn thu hút đông đảo phụ nữ tham gia, các chị luôn tích cực tham gia các hoạt động
văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao ở địa phương. Cụ thể như: tham gia cảc Câu lạc
bộ văn nghệ, Câu lạc bộ hát Quan họ, CLB khiêu vũ... thực hiện khẩu hiệu "Mọi phụ
nữ cần chọn cho mình một môn thể thao thích hợp để luyện tập hàng ngày”, các
phong trào cầu lông, bóng chuyền hơi, đi bộ, xe đạp... được đông đảo chị em tham
gia. Chị em phụ nữ còn là lực lượng nòng cốt trong công tác tuyên truyền thực hiện
phong trào "Toàn dân xây dựng đời sống văn hoả ở khu dãn cư” từng bước làm
chuyển biến tích cực nếp sống văn minh, thực hành tiết kiệm trong việc cưới, việc
tang và lễ hội. Trong nhũng năm qua các chi tiêu làng, khu phố, cơ quan văn hoá của
thị xã cơ bản hoàn thành theo kế hoạch.
* Lĩnh vực Y tế: Chị em phụ nữ ngành Y tế luôn nêu cao y đức “Lương y như từ
mẫu” với tinh thần trách nhiệm, đội ngũ cán bộ y tế nữ từ thị xã đến cơ sở luôn tận
tụy khám, chữa bệnh chăm sóc sức khoẻ phục vụ nhân dân. Chị em nữ y tế tuyến cơ
sở, cộng tác viên y tế thôn, khu phố, cộng tác viên dân số đã làm tốt công tác tuyên
truyền và tư vấn về chăm sóc sức khoẻ sinh sản - kế hoạch hóa gia đình tại cơ sở nên
góp phần giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên hàng năm; tỷ suất sinh hàng năm giảm
0,4%o; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm còn 11,6%.
*Trong lĩnh vực gia đình và xã hội:
Nhận thức rõ tầm quan trọng cùa gia đình là tế bào của xã hội, là nơi nuôi dưỡng
và hình thành nhân cách của con người. Chị em phụ nữ ở mọi lĩnh vực luôn làm tốt
trách nhiệm của người vợ, người mẹ, biết tổ chức tốt cuộc sống gia đình: Vừa chăm
chỉ lao động, vừa lo toan cuộc sống gia đình, các chị đã cùng chồng chăm sóc, nuôi
dạy con tốt; tham gia tích cực phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá ở khu dân cư” gắn với xây dựng "Gia đình no ấm, bình đằng, tiến bộ, hạnh phúc”
bền vũng, nhiều chị đạt gia đình văn hoá tiêu biểu nhiều năm liền, gương điển hình
tiên tiến trong phong trào xây dựng gia đình hạnh phúc. Vai trò của phụ nữ trong xây
dựng tổ ấm gia đình đã trở thành giá trị truyền thống tốt đẹp được xã hội công nhận.
Chị em nữ công nhân viên chức và lao dộng đã cố gắng vươn lên, tích cực học
tập nâng cao trình độ mọi mặt; tiếp cận nhanh với công nghệ mới, với cơ chế thị

trường, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh cũng như hoàn thành tốt
chức trách, nhiệm vụ được phân công. Chị em đã có nhiều sáng kiển mới đưa vào áp


14

dụng trong lao động, sản xuất, công tác, nhiều chị trở thành nhà quản lý, nhà khoa
học giỏi, họ cũng là những lao động chịu khó, năng động, nhiệt tình có tinh thần trách
nhiệm cao trong công việc, vỉ vậy hàng năm các chị luôn được đảnh giá là hoàn thành
tốt nhiệm vụ.
Phụ nữ trong khối Đảng, chính quyền, đoàn thể từ thị xã đến cơ sở đã tích cực
trong công tác tuyên truyền các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách, luật pháp
cùa Nhà nước, nhiệm vụ phát triển kinh tể - xã hội của địa phương tới hội viên, đoàn
viên và nhân dân, vận động đoàn viên, hội viên và toàn thể nhân dân hăng hái tham gia
phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng, chính quyền vững
mạnh và thực hiện qui chế dân chủ. Vì vậy nhiều chương trình công tác đã đem lại hiệu
quả tốt, thu hút đông đào các tầng lớp nhân dân tham gia, đồng thời là cảc chị còn là
những người gương mẫu thực hiện các phong trào như: Phong trào toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hoá ờ khu dân cư, phong trào đền ơn đáp nghĩa, phong trào xây
dựng quỹ phúc lợi, từ thiện, khuyến học, khuyến tài,... Chính họ là lực lượng quan
trọng góp phần thực hiện thẳng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của thị xã.
*Trong lĩnh vực an ninh - quốc phòng
Chị em phụ nữ thị xã Từ Sơn luôn tich cực tham gia giữ gìn an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, chủ động phòng chống các loại tội phạm tệ nạn xã hội, đấu
tranh chống những âm mưu diễn biến hoà bình. Đặc biệt chị em phụ nữ luôn làm tốt
công tác tuyên truyền, vận động tới mọi tâng lớp nhân dân trong việc chấp hành tốt
các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tham gia tích cực vào
việc giải quyết những vấn đề an ninh trên địa bàn thôn, xóm, khu phố góp phần tích
cực vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tạo môi trường ổn đinh
phát triển kinh tế, xã hội của thị xã.

Trong tình hình hiện nay, tuy có nhiều diễn biến phức tạp của tình hình chính trị
thế giới, sự biến động cùa cơ chế thị trường nhưng phụ nữ thị xã vẫn tin tưởng vào sự
lãnh đạo cùa Đảng, giữ vững phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, thê hiện tinh
thần tận tụy, trách nhiệm cao, luôn đề cao cảnh giác với mọi thủ đoạn, âm mưu phá
hoại, chống phá cách mạng của các thế lực thù địch. Phát huy truyền thống yêu nước,
lao động sáng tạo, đoàn kết, không ngại khó, ngại khổ, khắc phục mọi khó khăn hoàn
thành tốỉ nhiệm vụ mà Đảng, chính quyền, đoàn thể giao phó, chủ động lo toan cuộc


sống gia đình, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế - xã hội của thị xã không
thua kém gì nam giới và ngày càng tự khẳng định vai trò và khả năng to lớn của mình
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương, đất nước.
Với sự quan tâm của Đảng bộ, sự tham mưu chủ động, tích cực của Hội Liên hiệp
phụ nữ thị xã Từ Sơn, đội ngũ cán bộ nữ trong những năm qua đã nỗ lực cố gắng vươn
lên, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, từng bước trưởng thành, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới. Nhiều cán bộ nữ được giao giữ những cương
vị lãnh đạo của Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể; nhiều chị trở thành
những cán bộ quản lý các doanh nghiệp thành đạt. Trong thử thách của nền kinh tế thị
trường và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phần lớn cán bộ nữ được đào tạo
cơ bản, có chuyên môn nghỉệp vụ; nhạy bén, năng động, sáng tạo; có trách nhiệm cao
trong công tác và tinh tế trong ứng xử; giữ được lối sống lành mạnh, có phẩm chất tốt,
có bản lĩnh chinh trị vững vàng, tôn trọng kỷ luật, tuân thủ pháp luật, hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ là những tấm gương lao động sáng tạo tiêu biểu cho
phụ nữ. Đó là kết quả quá trình đào tạo, bồi dưỡng, giúp đỡ và chăm lo của các cấp ủy,
sự phấn đấu của chính bản thân mỗi cán bộ nữ, thể hiện sự nỗ lực của các cấp ủy, chính
quyền các cấp trong nhận thức và hành động nhằm phát huy vị trí, vai trò của đội ngũ
cán bộ nữ của thị xã Từ Sơn nói riêng, tỉnh Bắc Ninh nói chung.
1.2. ĐỔI MỚI CÔNG TÁC CÁN BỘ NỮ CỦA THỊ XẲ TỪ SƠN, TỈNH BẮC
NINH - QUAN NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ, TẰM QUAN TRỌNG, NỘI DUNG CỦA
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC CÁN BỘ NỮ

1.2.1. Quan niệm:
+ Quan niệm về cán bộ:
Theo từ điển tiếng Việt, do nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản năm 1998, cán bộ là
những người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước. Có
nghĩa là, thoả mãn hai điều kiện:
Một là: Người đó phải làm những công việc thuộc lĩnh vực riêng hoặc có liên
quan đến kiến thức riêng của một nghề hay một ngành khoa học, kỹ thuật.
- Hai là: Người đó phảỉ làm việc trong một cơ quan Nhà nước (nằm trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước).
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cán bộ là
những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu


16

rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính
phủ rõ, để đạt chính sách cho đúng”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó nhấn mạnh: “cán bộ là nhân
tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất
nước và chế độ”.
Theo khoản 1 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008: Cán bộ là công dân
Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ
trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở
Trung ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh),
ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong
biên chế và hường lương từ ngân sách nhà nước [36).
+ Quan niệm về cán bộ nữ:
Cán bộ nữ thực chất là một bộ phận của đội ngũ cán bộ nói chung được tách ra để
xem xét với những tính chất hết sức đặc thù so với cán bộ nam. Cùng một lúc họ phải

đảm nhận rất nhiều vai trò khác nhau: tham gia vào quá trình lao động xã hội, đảm nhận
vai trò chính trong việc tái sản xuất sức lao động, do đó họ có những đặc điểm riêng biệt
ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình công tác. Chính vì vậy, để đảm bảo cho phụ nữ có
thể thực hiện tốt cả hai chức năng trên, trong lực lượng lao động nói chung và trong đội
ngũ cán bộ nói riêng, người ta đã tách lao động nữ và cán bộ nữ thành một bộ phận để có
những chính sách đặc thù dành cho họ, nhằm tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt cả ba
vai trò là người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người.
+ Quan niệm về công tác cán bộ nữ:
Là hoạt động lãnh đạo của Đảng nhằm tập hợp, quy tụ đội ngũ cán bộ, tri thức
nữ. Là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và từng gia đình. Trong
đó, hạt nhân lãnh đạo là các cấp ủy đảng, trách nhiệm trực tiếp và chủ yếu là cơ quan
quản lý nhà nước các cấp, vai trò chủ thể là phụ nữ.
+ Quan niệm về đổi mới công tác cán bộ nữ:
Là hoạt động nâng cao nhận thức, quan điểm của Đảng, quy hoạch, tạo nguồn,
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ. Nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ trong các cấp các ngành, xây


dựng chính sách, tạo điều kiện cho cán bộ nữ làm việc và khuyến khích tài năng nữ
phát triển, đẩy mạnh công tác phát triển đảng trong phụ nữ.
1.2.2. Vị trí, vai trò, tầm quan trọng của phụ nữ và đội ngũ cán bộ nữ: Chủ
nghĩa Mác - Lênin đánh giá cao vị trí, vai trò của phụ nữ và cán bộ nữ. Theo các nhà
kinh điển thi trong lịch sử nhân loại, không có một phong trào to lớn nào của những
người bị áp bức mà lại không có phụ nữ lao động tham gia. Bởi vì phụ nữ lao động là
những người bị áp bức nhất trong tất cả những người bị áp bức nên không bao giờ họ
đứng ngoài và không thể đứng ngoài các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong thời
kỳ Công xã, phụ nữ sát cánh củng nam giới chiến đấu để đánh đổ giai cấp tư sản. Từ
thực tế đó Các Mác đã khái quát: “Ai đã biết lịch sử của phụ nữ thì sẽ biết rằng, muốn
sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào thì chắc chắn không làm nỗi. Rõ ràng
mỗi bước chuyển mình của lịch sử xã hội, mỗi nấc thang tiến bộ của nhân loại đều in
đậm công lao của phụ nữ. Vì vậy, cuộc đấu tranh cho sự nghiệp bình đẳng của phụ nữ

là một bộ phận của cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ của xã hội, vì sự phát triển của nhân
loại.
Các Mác lấy mức độ giải phóng phụ nữ để làm một trong những tiêu chuẩn để
đánh giá trình độ văn minh của nhân loại: “Xem tư tưởng và việc làm của đàn bà, con
gái thì biết xã hội tiến bộ ra thế nào. Lực lượng phụ nữ là một trong những nhân tố
quyết định sự thành công của cách mạng. Coi giải phóng phụ nữ là một trong những
điểm để phân biệt cách mạng vô sản với các cuộc cách mạng xã hội khác.
Các Mác còn nói: “Nếu không có sự tham gia tích cực của phụ nữ thì cách mạng
xã hội chủ nghĩa không thể có được”.
Lênin cho rằng: “Chừng nào mà phụ nữ không những chưa được tự do tham gia
đời sống chính trị nói chung, mà cũng chưa được quyền gánh vác một công việc
thường xuyên và chung cho cả mọi người. Thì chừng ấy không những chưa nói đến
chủ nghĩa xã hội được, mà cũng chua thể nói đến ngay cả một chế độ dân chủ toàn
vẹn và bền vững được . Trải qua thực tiễn phong trào cách mạng trên toàn thế giới,
Lênin đã kết luận: “Cách mạng thành công hay bại là do mức độ phụ nữ tham gia
phong trào giải phóng quyết định. Đây là một quan điểm cách mạng và khoa học mà
chỉ có Mác và Lênin mới là người nghiên cứu, phát hiện và đánh gỉá đúng mức vai
trò của phụ nữ trong xã hội.


18

Thật vậy, trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, phụ nữ Việt Nam đó có những đóng
góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Ngay từ
những buổi đầu lập nước, khi gặp nạn ngoại bang xâm lược, bà Trưng, bà Triệu đã dấy
binh khởi nghĩa đánh đuổi quân thù. Đến thế kỷ XX, qua hai cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ, lịch sử ghi nhận hàng vạn tấm gương phụ nữ không ngại gian khổ,
không tiếc máu xương, sẵn sàng chiến đấu, lao động, hy sinh, cống hiến không chi cuộc
đời mình mà cả con em cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Phụ nữ không chỉ chiến đấu anh
hùng mà đã lao động cần cù, gian khổ để vượt lên cảnh đói nghèo và lạc hậu, góp phần

xây dựng đất nước ngày càng to đẹp và đàng hoàng hơn như mong ước của Bác Hồ kính
yêu. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho nhân dân, cho
đất nước, Người luôn đánh giá cao vai trò của phụ nữ Việt Nam: “Non sông gấm vóc
Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ...”.
Người cũng đã đánh giá cao vai trò của người phụ nữ trong gia đình, Người nói: “Nhân
dân ta rất biết ơn các bà mẹ cả hai miền nam - bắc đã sinh đẻ và nuôi dạy những thế hệ
anh hùng của đất nước ta”. Trong Di chúc của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn
dặn: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng cất nhắc và giúp
đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc lãnh đạo...
Phụ nữ là một nửa của một thể thống nhất, không thể tách rời của xã hội. Khó có
thể đưa một đất nước nào đó thoát khỏi lạc hậu trở nên thịnh vượng mà ở đó lại xem
nhẹ phụ nữ. Cho đến nay vị trí, vaỉ trò của người phụ nữ ngày càng được đánh giá
một cách đầy đủ hơn, đặc biệt là thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
kinh tế thị trường, hội nhập nền kinh tế trí thức và hội nhập kinh tế quốc tế. Ngày
nay, khi giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đang thực sự trở thành động lực
quan trọng của sự phát triển thì việc đầu tư để nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn
nghiệp vụ, phát triển trí tuệ cho con người, trong đó có phụ nữ là sự đầu tư có hiệu
quả thiết thực, lâu dài và có tầm quan trọng chiến lược đối với sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, các quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản
Việt Nam đã đảm bảo và phát huy vị trí và vai trò tham gia của phụ nữ vào mọi mặt
của đời sống xã hội, trong đó có khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, bởi các
quan điểm và đường lối này là những tuyên bố chính thức làm cơ sở đảm bảo hành


lang pháp lý cho sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động của đòi sống xã hội. Hơn
nữa, các quan điểm và đường lối của Đảng được coi là một công cụ hữu hiệu làm
thay đổi nhận thức xã hội về vai trò và khả năng của phụ nữ trong việc tham gia các
hoạt động xã hộỉ. Các quan điểm đó đều khẳng định một cách xuyên suốt và nhất
quán: Phụ nữ có quyền bình đẳng tham gia mọi mặt của đời sống xã hội. Vị trí và vai

trò của phụ nữ được đặt trong mối quan hệ biện chứng với sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Đảng ta, một mặt đánh giá cao khả năng và sự cần thiết tham gia
của phụ nữ, coi đó không chỉ là yếu tố quan trọng đàm bào sự thành công của cách
mạng, sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, mà đó còn là điều kiện để thông qua
đỏ phụ nữ cải thiện được vị trí xã hội của mình. Việc thực hiện bình đẳng giới là một
công việc khó khăn, lâu dài và phức tạp. Sự nghiệp giải phóng phụ nữ, tạo ra điều
kiện để phát huy tiềm năng của phụ nữ, từ đó nâng cao vị thế cùa phụ nữ không thể coi
chỉ là trách nhiệm của bản thân họ, mà là của toàn xã hội, của Đảng, của Nhà nước.
Nghị quyết số 153-NQ/TW, ngày 10/01/1967 của Ban Bí thư về “công tác cán bộ
nữ” khẳng định trách nhiệm đối vói việc phát huy vai trò phụ nữ là sự nghiệp của toàn
Đảng, là trách nhiệm của xã hội: “Sự nghiệp giải phóng phụ nữ là trách nhiệm chung
của toàn Đảng, của nhà nước, của xã hội, song lực lượng phụ nữ, trong đó đội ngũ
xung kích là lực lượng cán bộ nữ ở tất cả các lĩnh vực, phát huy vai trò chủ động của
mình; phong trào phụ nữ càng phát triển thì đội ngũ cán bộ nữ càng có điều kiện để
phát triển mạnh mẽ, và ngược lại, sự phát triển cùa đội ngũ cán bộ nữ sẽ có tác động
lớn đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ và phải là đội ngũ đi đầu phong trào phụ nữ”.
Chỉ thị số 44-CT/TW, ngày 07/6/1984 của Ban Bí thư về “Một số vấn đề cấp
bách trong công tác cán bộ nữ” đánh giá tình hình đội ngũ cán bộ như sau: “Đội ngũ
cán bộ nữ phát triển chậm, thiếu vững chắc và tỷ lệ cán bộ nữ trong bộ máy lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước quá thấp, không tương ứng với sự phát triển của lực lượng lao
động nữ, đã ảnh hưởng không tốt đến việc phát huy quyền làm chủ của đông đảo
quần chúng phụ nữ. Chỉ thị cũng chỉ rõ: “Đảng, Chính phủ và các đoàn thể nhân dân
cần quan tâm hơn nữa đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ để có thật nhiều cán
bộ nữ đủ năng lực giữ trọng trách quan trọng trong công tác lãnh đạo và quản lý các
ngành, các cấp, đồng thời nêu rõ quan điểm của Đảng về công tác cán bộ nữ.
“Tăng cường cán bộ nữ không phải chỉ để làm công tác vận động phụ nữ mà
chính là để phát huy khả năng trí tuệ của chị em đóng góp vào sự lãnh đạo toàn diện


20


của Đảng và công việc quản lý của Nhà nước”. Chỉ thị nhấn mạnh rằng, đội ngũ cán
bộ nữ đã được đào tạo, bồi dưỡng ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng.
Chi thị cũng đề ra yêu càu ừong công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ cần tính đến các
cán bộ nữ: “Tiếp tục thực hiện nam nữ bình đẳng, nâng cao vai trò cán bộ nữ trong
quản lý kinh tế, quản lý nhà nước...Vấn đề cán bộ nữ phải đặt trong việc xây dựng và
thực hiện chủ trương quy hoạch cán bộ nói chung của Đảng và nhà nước” .
Trong thời kỳ đổi mới, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 04-NQ/TW (khóa VII) ngày
12/7/1993 về “Tăng cường và đổi mới công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới" và
Chi thị số 37-CT/TW, ngày 16/5/1994 "về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình
hình mới” trong đó nêu ra một số quy định, biện pháp cụ thể, đó là: Xây dựng chiến lược
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ nữ, tăng cường tỷ lệ nữ tham gia quản lý, lãnh đạo
và khuyến khích tiềm năng tham gia cùa phụ nữ, đặc biệt là đội ngũ trí thức, nữ làm
khoa học. Những ngành đông nữ và những ngành mà chức năng nhiệm vụ có liên quan
đến vấn đề nữ phải có tỉ lệ nữ cán bộ tương xứng, phải có cán bộ nữ giữ vị trí lãnh đạo
chủ chốt các cấp. Nhũng nữ cán bộ khoa học có tài, những nữ cán bộ quản lý giỏi cần
được khuyến khích sử dụng, khi cần thiết có thể nghỉ hưu ở tuổi 60 như nam giới.
Ngày 27/4/2007, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW “về công tác
phụ nữ thời kỳ đay mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Nghị quyết đã thể
hiện sự quan tâm lãnh đạo của Đảng với công tác phụ nữ và thực hiện mục tiêu bình
đẳng giới. Nghị quyết xác định những mục tiêu quan trọng về công tác phụ nữ nói
chung, trong có có công tác cán bộ nữ: "Phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ
trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao
địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tể, văn hóa,
xã hội là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam
trong thời kỳ mới”.
Nghị quyết đặt ra mục tiêu: "Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao
trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn, chụyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện
rõ rệt về đời sống vật chất, văn hóa, tình thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công

việc xã hội, bình đẳng trên mọi tĩnh vực; đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và


gia đình. Phấn đấu đế nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới
tiến bộ nhất của khu vực.
Đường lối của Đảng về cán bộ nữ và nữ trí thức được thể chế hóa bằng các văn
bản pháp quy của Nhà nước. Chính phủ đã có nhiều văn bản nhằm tạo điều kiện phát
triển cán bộ như: Nghị định số 174/CP ngày 29-9-1994 quy định cơ cấu thành viên
UBND và số Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp; Quyết định số 82/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ ngày 10/10/1997 “Đưa quan điểm bình đẳng giới vào các lĩnh
vục hoạch định chính sách phát triền kinh tế, các chương trình quốc gia của các
ngành, các cấp”', Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đã được thành lập ở Trung
ương đến các đia phương và cơ sở; công tác đảm bảo bình đẳng giới, chăm lo đến sự
phát triển của phụ nữ không còn là riêng của Hội phụ nữ mà là của cả hệ thống chính
trị; Quyết định số 19/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 21/01/2002 về
Phê duyệt “Chiến lược quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Vĩệt Nam đến 2010”, trong
đó nêu rõ: “Mục tiêu 4: Năng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của phụ nữ trên
các lĩnh vục chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội để tăng số phụ nữ được giới thiệu và
bầu tham gia lãnh đạo các cấp, các ngành”.
Quyết định số 2351/2010/QĐ-TTg của Thủ tưởng Chính phủ ngày 24/12/2010
về Phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 với mục
tiêu tổng quát là: “Đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam
và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa
và xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Chiến lược
đặt ra 7 mục tiêu và 22 chỉ tiêu cụ thể hướng đến tăng cường sự tham gia của phụ nữ
vào các vị trí quản lý, lãnh đạo từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực
chính trị, kinh tế, lao động, việc làm, văn hóa thông tin. Đặc biệt trong mục tiêu 1 nêu
rõ: "Chỉ tiêu phấn đấu đạt tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy Đảng nhiệm kỳ 2016 - 2020 từ
25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011- 2015 đạt
tỷ lệ từ 30% trở lên và nhiệm kỳ 2016 - 2020 trên 35%; phấn đấu đến năm 2015 đạt

80% và đến năm 2020 đạt trên 95% Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
UBND các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ; Phấn đấu đến năm 2015 đạt 70% và đến
năm 2020 đạt 100% cơ quan của Đảng, Nhà nuớc, tổ chức chính trị - xã hội có lãnh
đạo chủ chốt là nữ nếu ở cơ quan, tổ chức có tỷ lệ 30% trở lên nữ cán bộ, công chức,
viên chức, người lao động.


22

Nghị định số 19/2003/NĐ-CP ngày 07/3/2003 quy định trách nhiệm của cơ quan
hành chính nhà nước các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam tham gia quản lý nhà nước, ngày 16/7/2012 đã được thay thế bằng Nghị
định số 56/2012/NĐ-CP;
Ngày 11/10/2002, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã được Thủ tướng Chính
phủ đồng ý cho Hội thành lập Quỹ “Giải thưởng Phụ nữ Việt Nam" với các nguồn lực
do Hội vận động từ các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước;
Luật Bình đẳng giới được Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá XI, Kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 21/11/2006 xác định mục tiêu bình đẳng giới
là: "xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát
triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất
giữa nam, nữ và thiết lập, củng cổ quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
Tại Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XI, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
đã khẳng định: "Công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chinh trị, của toàn xã
hội và từng gia đình. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ngành cần quán triệt sâu sắc
các quan điểm, mục tiêu công tác phụ nữ trong tình hình mới, tổ chức lãnh đạo cũng
như xây dựng các chương trình, kế hoạch hoạt động cụ thể để tạo bước chuyển biến rõ
rệt về hiệu quả công tác phụ nữ ở từng ngành, địa phương, đơn vị; quan tâm xây dựng,
củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cấp hội.
Quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách cùa Đảng và Nhà nước ta về công

tác cán bộ nữ; phát huy vai trò, khả năng, trí tuệ và quyền làm chủ của phụ nữ Việt
Nam là sự kế thừa và phát huy sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề giải phóng phụ nữ và thực hiện quyền nam, nữ bình đẳng. Trong mỗi
giai đoạn lịch sử nhất định, thực tế đường lối, chù trương chính sách đó của Đảng và
Nhà nước ta đã và đang đi vào cuộc sống. Vai trò, vị trí và khả năng to lớn của phụ
nữ và đội ngũ cán bộ nữ ngày càng được khẳng định và phát huy, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.23. Nội dung đỗi mới công tác cán bộ nữ của thị xã Từ Sơn
Nắm vững quan điểm Nghị quyết 04, Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị và Chỉ thị
37 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa


XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dụng Đảng hiện nay" đã được các cấp ủy Đảng
trong toàn thị xã triển khai thực hiện nghiêm túc vói sự đồng thuận và quyết tâm cao,
bước đầu mang lại những kết quả đáng ghi nhận. Đặc biệt, công tác cán bộ đã được
Ban Thường vụ Thị ủy lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, toàn diện, đồng bộ, tiếp tục có
nhiều đổi mới theo tinh thần Nghị quyết, đảm bảo nguyên tắc tập trung, dân chủ,
khách quan, công khai, từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói
chung, đội ngũ cán bộ nữ nói riêng vừa có đức, vừa có tài, được rèn luyện, thử thách
qua thực tiễn, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ
và năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai
đoạn hiện nay, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển chung của thị xã.
Về phương thức đổi mới đồng bộ các khâu trong công tác cán bộ, trước hết là
đổi mới công tác đánh giá cán bộ, làm tốt công tác đánh giá cán bộ để bố trí, sử dụng
đúng người, đúng việc, để cán bộ phát huy được năng lực, sở trường, coi trọng đánh
giá của cấp trưởng đối với cấp phó, đánh giá củã người đứng đầu tổ chức đối với lãnh
đạo các cơ quan, đơn vị trực thuộc; gắn đánh giá cán bộ theo định kỳ với việc kiểm
điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI);
khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, cục bộ, bè phái...
Thực hiện nền nếp công tác rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ hằng năm, đảm

bảo phương châm “động” và “mờ”; thông qua thực tiễn kip thời phát hiện, bổ sung
những cán bộ nữ, cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản, có triển vọng phát triển đưa vào
quy hoạch. Quan tâm cử cán bộ nữ, cán bộ trẻ có triển vọng phát triển, đồng thời có
chính sách khuyến khích, động viên cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng, góp phần xây dựng
đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị
trong mỗi giai đoạn.
Đẩy mạnh công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý để đào tạo, thử thách;
tiếp tục thực hiện chủ trương luân chuyển, bố trí một số chức danh cán bộ chủ chốt thị
xã không phải là người địa phương. Các cấp uỷ, tập thể lãnh đạo các cơ quan, đơn vị
cũng đã tiến hành rà soát, bỗ sung, sửa đổi quy chê làm việc, nội quy, quy định của cơ
quan, đơn vị theo đúng chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền; phân công rõ trách
nhiệm, quyền hạn của tập thể, từng cá nhân, nhất là người đứng đầu và mối quan hệ
công tác trong thực hiện nhiệm vụ; bố trí, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ trong cơ quan,
đơn vị để phát huy tốt năng lực, sở trường công tác của từng cán bộ. Đặc biệt quan tâm


24

nắm chắc nguồn cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản, có triển vọng phát triển, cán bộ nữ để
có kế hoạch giới thiệu vào nguồn quy hoạch, cử đi đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố
trí, sắp xếp lại cho phù hợp với năng lực, sở trường của cán bộ.... Trong những năm
qua, các cấp uỷ Đảng thị xã Từ Sơn đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác cán bộ nữ
cũng như phong trào phụ nữ thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, Nghị
quyết Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ X, XI; Nghị quyết Đại hội phụ nữ thị xã Từ
Sơn lần thứ XV, XVI cùng với những nỗ lực của đội ngũ cán bộ nữ cho nên trong thời
gian qua công tác cán bộ nữ thị xã Từ Sơn đã có nhiều chuyển biến:
*Cán bộ nữ cấp thị xã:
Bảng 1: Phụ nữ tham gia cấp uỷ Đảng và chính quyền
S
TT


Cương vị tham gia

NK Đảng: 2005 -2010

NK Đảng: 2010 - 2015

HĐND : 2004 - 2011

HĐND: 2011- 2016

Nữ/TS
04/33

Tỷ lệ %
12,1%

Nữ/TS
04/37

Tỷ lệ %
10,8%

1

BCH Đảng bộ Thị xã

2

Ủy viên BTV Thị uỷ


0

0

01/11

9,09%

3

HĐND Thị xã

05/30

16,6%

09/33

27,3%

(Nguồn: Ban tổ chức Thị ủy, Phòng Nội vụ thị xã Từ Sơn)
Qua bảng số liệu trên cho thấy tỷ lệ tham gia cấp uỷ Đảng và chính quyền thị xã
đã có sự chuyển biến, thể hiện: Nữ tham gia Ban chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 2010 2015 tỷ lệ tuy có giảm, nhưng đã có 01 nữ Ban Thường vụ Thị ủy nhiệm kỳ 2005 2010 không có; Đại biểu Hội đồng nhân dân thị xã nhiệm kỳ 2011 - 2016 tăng 10,7%
so với nhiệm kỳ 2004 - 2011.
Hiện nay thị xã Từ Sơn có 02/03 đồng chí nữ giữ cương vị là Phó chủ tịch ủy
ban nhân dân thị xã đạt 66,6% (01 đồng chí tham gia Uỷ viên Ban Thường vụ Thị
ủy). Cản bộ nữ giữ cương vị trưởng, phó ban, ngành, đoàn thể thị xã: Trưởng ban,
ngành, đoàn thể 05/30 đạt 8,33%; phó ban, ngành, đoàn thể: 19/57 đạt 33,33%[15].
Về chất lượng, đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo quản lý hiện nay cũng được nâng lên

rõ rệt: 100% có trình độ học vấn Trung học phổ thông; trình độ chuyên môn Đại học.
Trong đó: có 03/24 đạt 12,5% có trinh độ cao học; Trình độ lý luận chính trị: Trung
cấp 24/24 đạt 100%; cao cấp 09/24 đạt 37,5%.
Nhìn vào số liệu trên cho thấy trình độ của đội ngũ cán bộ nữ cấp thị xã đã đạt
chuẩn chức danh cán bộ. Để đội ngũ cán bộ nữ không những có trinh độ chuyên môn,


lý luận chính trị mà còn có cả những kiến thức và kinh nghiệm trong hoạt động thực
tiễn, Hội Liên hiệp phụ nữ thị xã thường xuyên phối hợp với Ban Vì sự tiến bộ phụ
nữ, Trung tâm Bồi dưỡng chính trị thị xã tổ chức các lớp tập huấn nâng cao kiến thức,
kỹ năng cho cán bộ nữ, cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp.
*Cán bộ nữ chủ chốt cấp cơ sở:
Bảng 2: Phụ nữ tham gia cấp uỷ Đảng xã, phường:
Ơ
1
2
3
4

Cương vị tham gia

Nhiệm kỳ 2005- 2010
Nữ/TS
0
0
0
12/110

Bí thư Đảng uỷ
Phó Bí thư Đảng uỷ

Uỷ viên BTV Đảng uỷ
Ủy viên BCH Đảng ủy

Nhiệm kỳ 2010 - 2015

Tỷ lệ %
0
0
0
11,0

Nữ/TS
0
02/12
02/12
18/125

Tỷ lệ %
0
16,66%
16,66%
14,40%

(Nguồn: Ban Tổ chúc Thị ủy Từ Sơn)
Qua bảng số liệu cho thay trong những năm qua công tác cán bộ nữ đã được các
cấp uỷ Đảng quan tâm, cho nên tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp uỷ đảng tăng hơn rõ rệt,
thể hiện: Phó bí thư; Uỷ viên Ban thường vụ Đảng uỷ nhiệm kỳ 2005- 2010: không
có nữ đến nhiệm kỳ 2010 - 2015: 02/12 nữ Uỷ viên Ban thường vụ Đảng uỷ Phó bí
thư chiếm 16,66%; nữ Phó bí thư 02/12 chiếm 16,66%; Uỷ viên Ban Chấp hành
Đảng uỷ cơ sở nhiệm kỳ 2005 - 2010: 12/110 chiếm 11,0%; nhiệm kỳ 2010 - 2015:

18/128 chiếm 14,4% (tăng 3,4%).
Bảng 3: Phụ nữ tham gia chính quyền cơ sở
Nhiệm kỳ
TT

Cương vị tham gia

Nhiệm kỳ

2004 - 2011
2011-2016
Nữ/TS Tỷ lệ % Nữ/TS
Tỷ lệ %

1

Hội đồng nhân dân xã, phường

60/294

20,4%

58/311

18,64%

2

Chủ tịch HĐND xã, phường


0

0

0

0

3

Phó chủ tịch HĐND xã, phường

02/12

16,7%

3/12

25,0%

4

Chủ tịch UNND xã, phường

0

0

0


0

4,54%

3/23

13,04%

5

Phó chủ tịch UBND, phường
01/22
(Nguồn: Phòng Nội vụ thị xã Từ Sơn)

Bảng 4: So sánh 4 chức danh chủ chốt các xã, phường Nhiệm kỳ 2004 - 2011;
Nhiệm kỳ 2011 - 2016
STT

Nhiệm kỳ

Tổng số (Nữ/nam)

Tỷlệ(%)

So sánh


×