Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Khảo sát đặc điểm truyện ngắn đồng bằng sông cửu long từ 1975 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.24 KB, 20 trang )

THƯ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRẦN MẠNH HÙNG

Chuyên ngành
Mã số

: Văn học Việt Nam
: 62 22 34 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. PHÙNG QUÝ NHÂM

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011


LỜI CAM ĐOAN CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
được trình bày trong luận án này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận án

Trần Mạnh Hùng


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


- Đồng bằng sông Cửu Long ( ĐBSCL)
- Nhân vật (NV)


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước bước sang một giai đoạn
lịch sử mới. Văn học cả nước nói chung, văn học đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói
riêng cũng có sự vận động và phát triển, kịp thời phản ánh đời sống xã hội trước yêu cầu mới
của thời đại.
1.2. Truyện ngắn ĐBSCL gắn liền với nhiều nhà văn được người đọc mến mộ như: Sơn
Nam, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức,…và gần đây là Nguyễn Ngọc Tư. Họ
viết hết mình về vùng đất nơi họ sinh ra, lớn lên và trải nghiệm suốt cả cuộc đời từ nhiều góc
độ, phương diện cảm nhận cũng như cách thể hiện.
Thật sự thì gần đây có nhiều tác giả truyện ngắn viết về ĐBSCL khá thành công và có
nhiều triển vọng sẽ đi xa hơn. Điều đó đã mở ra nhiều hướng đi mới đầy triển vọng cho văn
chương vùng ĐBSCL.
1.3. Văn học cũng đòi hỏi có sự tổng kết ở từng giai đoạn để tạo thế đi lên. Mọi phương
pháp, mọi phong cách sáng tác đều cần được khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm.
So với các thể loại văn học khác, truyện ngắn ĐBSCL sau 1975 phát triển nhanh về số
lượng và có những đóng góp đặc sắc về nội dung cũng như nghệ thuật, nhất là việc thể hiện
đời sống, tâm hồn, tính cách của người ĐBSCL trong thời kỳ này.
Thế nhưng đến nay các công trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở một số tác giả như
Sơn Nam, Trang Thế Hy, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng … và chủ yếu là những sáng tác
của họ trước 1975, và gần đây là một số công trình nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư.
Ngoài ra, cũng có một vài công trình nghiên cứu truyện ngắn ở một số địa phương, như
truyện ngắn An Giang, Đồng Tháp,…mà chưa có công trình nghiên cứu mang tính hệ thống,
toàn diện về truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay.
Sinh ra và lớn lên ở vùng đồng bằng Bắc bộ, nhưng phần lớn cuộc đời tôi lại gắn bó sâu

nặng với ĐBSCL. Vẻ đẹp của ‘‘nắng chói chang vàng tươi lúa hát’’ và ‘‘những con người
mặt đẹp như hoa’’ (Lê Anh Xuân) cùng cái trong trẻo mát lành của một dòng sông quê đỏ
nặng phù sa, rồi tình đất, tình người, hương rừng, hương biển... Ở nơi đây đã tạo nên một


hương vị rất riêng, cũng như làm cho chúng tôi thêm gắn bó sâu nặng với vùng đất này, vừa
gần gũi, thân quen, song cũng vừa độc đáo mới mẻ đến vô chừng.
Với những lẽ trên, chúng tôi đi vào nghiên cứu vấn đề Khảo sát đặc điểm truyện ngắn
đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 đến nay.
Vẫn biết rằng muốn đạt được sự thành công ở vấn đề này, chúng tôi sẽ gặp không ít khó
khăn.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tổng hợp, đánh giá dựa trên các nguồn tư liệu
sau:
Các tham luận trong Hội thảo bàn tròn Văn xuôi đồng bằng lần thứ 1 tại thành phố Mỹ
Tho, tỉnh Tiền Giang.
Lời giới thiệu ở các Tập truyện ngắn và Tuyển tập truyện ngắn từ 1975 đến nay của các
nhà văn ở ĐBSCL.
Một số luận văn Cao học thực hiện đề tài về truyện ngắn ĐBSCL trong phạm vi một
tỉnh hoặc một tác giả cụ thể.
Trên các báo Văn nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam), Văn nghệ trẻ, Tạp chí Nghiên cứu văn
học, Tạp chí Nhà văn…
Trên các website như:
- ;
- , ...
Từ những tư liệu thu thập được, chúng tôi tạm chia thành hai loại ý kiến sau:
- Ý kiến bàn về những đóng góp nổi bật của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay.
- Ý kiến bàn về hạn chế của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay.
2.1. Ý kiến bàn về những đóng góp của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay
2.1.1. Những đóng góp về nội dung truyện ngắn ĐBSCL

Trong bài Truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ năm 1975 đến nay - Thành tựu và
những điều trăn trở, Hoài Phương nhìn nhận:“Truyện ngắn đã có những cách tân và đạt
nhiều thành tựu đáng tự hào về nội dung lẫn hình thức thể hiện”[123]. Còn trong bài Đi tìm
‘‘chân dung’’ truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long, Võ Tấn Cường nhận xét: “Phác thảo
chân dung truyện ngắn ĐBSCL, tôi cảm nhận được tính cách con người, sắc màu văn hóa


của vùng đất này’’[24]. Trong bài Văn xuôi đồng bằng sông Cửu Long: một khu vực văn xuôi
có nhiều đặc sắc, Chiêm Thành cũng đề cập đến: “tính cách con người Nam bộ trong thời
hiện đại đa diện và rất phức tạp, chứ không phải đơn giản là phóng khoáng, hào hiệp, giàu
tình nghĩa như cái nhìn bất di bất dịch của một số người”[135, tr.53]. Còn ở bài Cá tính và
bản lĩnh văn xuôi Nam bộ, Hồ Tĩnh Tâm đã chỉ ra những đóng góp của truyện ngắn ĐBSCL
từ 1975 đến nay về nội dung phản ánh: ‘‘Dựng nên bức chân dung về tâm linh, tình cảm của
con người Nam bộ trong cuộc sống. Đó là những vấn đề luôn tạo nên niềm trăn trở, thao
thức trong đời sống hôm nay như: nỗi đau sau khi chiến tranh qua đi; thân phận con người
bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh; khát vọng tình yêu và hạnh phúc; tự vấn lương tâm trước
những những gì đã và đang diễn ra trong cuộc sống’’[147].
Với bài Văn xuôi đồng bằng sông Cửu Long - một chặng đường phát triển, tác giả đánh
giá cao một số tác phẩm có giá trị đích thực đáng được quan tâm với hai mảng đề tài lớn
trong sáng tác văn học sau 1975 là ‘‘chiến tranh cách mạng và quá trình xây dựng, đổi mới
của đất nước’’. Trong đó, vấn đề tự vấn lương tâm diễn ra xuyên suốt ở hai mảng đề tài này
“Thân phận nhân vật trong các tác phẩm thường gởi một phần cuộc đời trong chiến tranh
bom đạn, một phần thao thức vươn tới cuộc sống mới. Trong kháng chiến, văn học hướng
con người vươn tới giành chiến thắng; ngược lại thời bình, văn học rộng đường khai thác
hơn, khắc họa hình tượng con người với nhiều mối quan hệ, con người trong đời thường,
trong nghịch cảnh, bất hạnh, niềm vui và nỗi đau,…”[134, tr.57].
Trong bài Một phong vị truyện ngắn đồng bằng riêng biệt trên trang Web Văn nghệ
sông Cửu Long, Tường Vi nhận xét: “Có truyện ngắn còn đi vào tâm trạng phức tạp của
những con người thành thị, bị dằn vặt giữa những mâu thuẫn tiền tài và khát vọng tình
yêu,... hoặc câu hỏi lớn về căn bệnh quan liêu của các quan chức…Dù dưới góc nhìn nào,

các tác giả cũng mở cho nhân vật một lối thoát, chứa đựng nhân sinh quan: Cuộc sống vốn
sẽ không quá khắc nghiệt với những ai biết vươn lên và phục thiện”[195].
Còn qua bài Truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 đến nay - thành tựu và
những điều trăn trở, Hoài Phương cho rằng: ‘‘Truyện có sự vận động và phát triển rất
nhanh, đáp ứng kịp thời sự chuyển đổi của xã hội và con người sau chiến tranh. Chính nhờ
sự chuyển tải nhanh và kịp thời nhiều vấn đề bức xúc, gần gũi với đời sống xã hội, cùng với


giọng văn trầm lắng, nhẹ nhàng, tâm tình như len lỏi vào tận đáy sâu tâm hồn con
người’’[123].
Với bài Nhà văn Nguyễn Thanh - người nặng nợ văn chương, tác giả khái quát nội dung
phản ánh trong sáng tác của ông: “Truyện của ông nhiều chi tiết nhỏ nhít mà sống động lạ
lùng, đọc lên cứ như mình đang ở đó, trong hoàn cảnh đó, nói mấy câu dân dã đó…nếu ngày
xưa ông say mê xây dựng hình tượng người lính thì sau này, nhân vật của ông chủ yếu là
nông dân. Họ hào sảng, tốt bụng, nhân nghĩa nhưng phải trăn trở, day dứt rất nhiều trong
cuộc mưu sinh. Và những người phụ nữ luôn hiện ra với tất cả vẻ đẹp, cái đẹp lấp lánh từ
đau khổ, hy sinh, từ sự vùi dập…”[173, tr.29].
Trong lời giới thiệu tập truyện ngắn Bóng chiều hôm - Nguyễn Thanh, Nguyễn Thị
Thanh Xuân đưa ra nhận xét đối với cảm hứng về con người và cuộc sống ở vùng đất cực
Nam của Tổ quốc: ‘‘Cảm hứng kín đáo xuyên suốt tác phẩm của Nguyễn Thanh là cái
thường ngày của cuộc đời. Bằng một bút pháp trầm tĩnh, chân tình, đôi khi còn có phần chân
phương trong cách viết, Nguyễn Thanh đưa chúng ta đến với những cuộc sống và thế giới
tinh thần của những con người bình thường ở vùng đất cực Nam của Tổ quốc. Bằng những
chi tiết nhỏ tươi nguyên, trang viết của Nguyễn Thanh phản ánh cuộc sinh sôi thầm lặng hay
cuộn chảy ào ạt ở Cà Mau trong dịp xây dựng. Ở đó có những con người làm việc không mệt
mỏi với một ý thức lao động đẹp đẽ không hề nhân danh cho những giá trị lớn lao. Ở đó đầy
ắp tiếng cười con trẻ, tiếng sóng biển, ánh lửa đốt đồng, tiếng vịt gọi bầy, tiếng xuồng lao
trong đêm trên kênh rạch thoảng mùi bùn nồng ấm’’[133].
Bàn về Thế giới truyện ngắn Bích Ngân, Huỳnh Phan Anh nhận định: “Qua từng trang
toát ra hơi thở và nhịp đập của vùng đất thân thương nơi tận cùng của đất nước, tác giả đã

đưa người đọc đến hoặc đến gần hơn, với những mảnh đời và cảnh đời làm nên hồn đất lẫn
hồn người, hiền hoà và mãnh liệt, đã mở ra nhiều cánh cửa nhưng còn đó bao điều bí ẩn.
Ngôn ngữ và phong cách Bích Ngân in rõ những nét đặc trưng Nam bộ… Nhưng điều đáng
nói và cũng hiện rõ trong tài năng của cô là chất giọng Nam bộ vẫn in đậm trên từng trang
viết nhưng không nặng phần câu nệ hay cứng nhắc đến cường điệu trong từng câu, từng chữ
mà vẫn toát ra nét tinh tế và trữ tình riêng mở toang mọi giới hạn…Truyện ngắn Bích Ngân
thường dung dị, với những con người và cuộc sống thật bình thường, gần gũi, dễ tìm tới
nhất, dễ bắt gặp nhất…”[7].


Đánh giá về nhà văn Trang Thế Hy, Chiêm Thành trong bài văn xuôi ĐBSCL có nhiều
đặc sắc đã nhận xét: ‘‘Ông đã ý thức được sức nặng của từng con chữ - sức nặng ấy có được
là nhờ sự chiêm nghiệm về cuộc đời mà trên hết là nhờ nỗi đau đớn trong ý thức trả những
món nợ nước mắt của thế gian”[135].
Nhà văn Nguyên Ngọc cũng có nhận xét khá thú vị về Nguyễn Ngọc Tư, ông ví: “Cô
ấy như một cái cây tự nhiên mọc lên giữa rừng tràm hay rừng đước Nam bộ vậy, tươi tắn lạ
thường, đem đến cho văn học một luồng gió mát rượi, tinh tế mà chân chất, đặc biệt Nam
bộ”[115].
Trong Bài học văn chương từ cánh đồng bất tận, Bùi Việt Thắng đã có những nhận xét
khá sắc sảo về nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư: “Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng biểu tượng văn
chương và ngôn ngữ văn chương, trong đó cánh đồng là một biểu tượng giàu ý nghĩa. Cánh
đồng không phải là cánh đồng mẹ, nơi lưu giữ tâm thức của cộng đồng, nơi truyền tình thân
yêu nước, là bằng chứng về sự cố kết máu thịt giữa con người và đất đai… mà là cánh đồng
chết”[144].
Nguyễn Lâm Điền - Huỳnh Hải Đăng cũng đã khái quát những dấu ấn văn hóa của
vùng đất ĐBSCL được Nguyễn Ngọc Tư thể hiện sinh động trong các truyện ngắn của chị
mà nổi bật nhất là: “Cách nhà văn miêu tả một trong những nét đẹp về đời sống tinh thần
của người ĐBSCL mà những vùng miền khác không có đó là đờn ca tài tử, cải lương”[46].
Nghiên cứu truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay (qua Tuyển tập truyện ngắn đồng
bằng sông Cửu Long 1975-1995 và Tuyển tập 18 Nhà văn đồng bằng sông Cửu Long), Trần

Mạnh Hùng cho rằng: “Cùng với sự đổi mới và phát triển của văn học Việt Nam từ sau 1975,
truyện ngắn ĐBSCL đã thể hiện được tâm hồn và tính cách của người ĐBSCL trong thời kỳ
này” và “Với hương sắc riêng, truyện ngắn ĐBSCL đã lặng lẽ góp phần làm nên vẻ đẹp đa
dạng và phong phú cho nền văn học dân tộc”...‘‘Sự mộc mạc, chân thật, bộc trực mà luôn
thắm đượm tình nghĩa” của con người nơi đây. Người đọc cũng:“nhận ra phần nào đặc
điểm nổi bật của cảnh quan địa lý, lịch sử, văn hoá và tâm hồn tính cách con người của vùng
đất này”[74, tr.702-703].
Giới thiệu về Truyện ngắn Ba tác giả nữ ĐBSCL, Nguyễn Anh Vũ có nhận xét rất chính
xác thể hiện được nét đặc trưng của thiên nhiên vùng sông nước: “Có một điều đặc biệt thú
vị khi đọc truyện ngắn của ba tác giả nữ ĐBSCL, đó là người đọc luôn bắt gặp một không


gian đầy quyến rũ và thơ mộng của vùng sông nước Cửu Long với những bờ kênh, con rạch,
với hình ảnh những miệt vườn, những cù lao xanh hút tầm mắt và những thú vui điền dã
mang đậm đặc trưng của miền đất Nam bộ”[196, tr.11].
Trong bài giới thiệu truyện ngắn trên Website Văn nghệ sông Cửu Long với tựa đề Một
phong vị đồng bằng riêng biệt, Tường Vi viết: “Tập truyện đã gợi lên cho người đọc hình
ảnh sông nước, làng quê với cảm giác nhớ nhung, khắc khoải về một vùng đất, đặc biệt là
trầm buồn trong những ngày mưa lũ,… cho người đọc những câu chuyện thú vị về một vùng
đất hào sảng, nơi có những tay “sát cá”, những buổi “ăn ong”, những vùng nước cá tôm
nhiều vô kể’’[195].
Còn ở bài Thiên nhiên và con người Nam bộ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Tiền
Văn Triệu nhận định: ‘‘Dòng sông và cánh đồng rộng là không gian phù hợp để những câu
hò, câu ca vọng cổ cất lên mỗi khi gặp nỗi buồn’’
Nguyễn Thanh lại có cái nhìn khái quát hơn về sự trù phú của thiên ĐBSCL: “Vốn là
một vùng châu thổ nhiệt đới, được tạo thành do phù sa Cửu Long bồi tụ…đây là vùng đất
trẻ, đất mới với điều kiện địa lý đặc thù thiên nhiên ưu đãi”[134, tr.59].
Từ những ý kiến trên, chúng tôi nhận thấy, mỗi công trình nghiên cứu có cách tiếp cận
khác nhau. Hướng tiếp cận chủ yếu của các công trình trên là hướng tiếp cận nhân học và
hướng tiếp cận văn hóa học (đương nhiên không thể thiếu hướng tiếp cận ngữ văn học).

Theo những hướng tiếp cận này, các nhà nghiên cứu trên khai thác tập trung vào đặc trưng
tính cách con người và đặc trưng văn hóa mà các truyện ngắn ĐBSCL đã vẽ nên qua lăng
kính đạo đức - thẩm mỹ và cá tính của mỗi nhà văn. Nhìn chung, các công trình trên đã đề
cập đến những đóng góp nổi bật ở phương diện nội dung của truyện ngắn ĐBSCL sau 1975.
2.1.2. Những đóng góp nổi bật về nghệ thuật
Trong tham luận hội thảo Bàn tròn văn xuôi ĐBSCL, lần I, Hồ Tĩnh Tâm có nhận xét:
“Một số cây bút văn xuôi ĐBSCL đã sử dụng thành thục các giá trị đặc trưng ngôn ngữ Nam
bộ, thậm chí còn nâng cao ngôn ngữ Nam bộ lên tầm cao của ngôn ngữ nghệ thuật”[147].
Ông còn cho rằng truyện ngắn ĐBSCL đã dựng được“chân dung về tâm linh, tình cảm của
người Nam bộ đúng thứ ngôn ngữ rất thuần Nam bộ”[147].


Bàn về nghệ thuật truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay, Võ Tấn Cường cho rằng:
“Truyện ngắn ĐBSCL có diện mạo riêng với những phong cách nghệ thuật mang đậm nét
đặc điểm của văn hoá truyền thống”[24].
Nhận xét về cách viết của một số tác giả truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay, Hoài
Phương nhận định: “Đa số các nhà văn ở ĐBSCL có cách viết uyển chuyển và nhẹ nhàng
hơn, ít tuân thủ theo các kết cấu truyền thống là phải có hậu, thậm chí nhiều truyện không có
phần kết giống như một cánh cửa khép hờ. Đặc biệt, có một số tác giả đi sâu vào thế giới nội
tâm của nhân vật giúp cho người đọc cảm thấy thích thú”[123].
Nhận định về nghệ thuật sử dụng phương ngữ Nam bộ trong truyện ngắn của ba tác giả
nữ ĐBSCL, Nguyễn Anh Vũ viết: ‘‘Ngôn ngữ của vùng đất Nam bộ với những phương ngữ,
thổ ngữ độc đáo hay những đặc trưng trong lời ăn, tiếng nói của người Nam bộ luôn được sử
dụng nhuần nhị, tự nhiên trong mỗi tác phẩm đã tạo nên cho truyện ngắn của ba tác giả nữ
một bản sắc riêng, tạo ấn tượng đối với người đọc’’[196, tr.12].
Nhận xét về nghệ thuật sử dụng phương ngữ Nam bộ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư, Huỳnh Công Tín viết: “Nhìn từ phương diện nghệ thuật, chị đã sử dụng ngôn từ của
phương ngữ Nam bộ khá thành công trong sáng tác của mình. Điều này góp phần làm nên
một văn phong riêng ở chị. Tất nhiên có thể có người không đồng tình với những nhận định
này vì cho rằng, trong tác phẩm văn chương mà sử dụng quá nhiều từ địa phương thì sẽ gây

trở ngại cho người đọc, hạn chế độc giả. Nhưng, để có được những sáng tác phản ánh sinh
động thực tại, không gì tốt hơn là phải dùng được chất liệu ngôn từ của thực tại cần phản
ánh”[152, tr.4].
Bàn về phong cách diễn đạt của Nguyễn Ngọc Tư qua Cánh đồng bất tận, Đặng Vũ
nhận xét: “Nhà văn có lối viết truyện thật hay, không theo khuôn phép nào, cũng chẳng theo
chủ nghĩa này nọ, không gò bó, trái lại rất tự nhiên, thoải mái,“viết như chơi”[184].
Trần Phỏng Diều bàn về Thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư: “Có thể
nói, thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư chính là hình tượng người nghệ sỹ,
hình tượng người nông dân và hình tượng con sông đưa mình uẩn khúc, chở nặng tình
người”[31].


Còn ở bài Điểm nhìn và lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Ông Thiềm Thừ của Trần
Kim Trắc, Đỗ Thị Hiền nhận định: Truyện ngắn này “gửi đến chúng ta một thông điệp về
nhân cách con người từ góc nhìn văn hoá”[69].
Trong bài Yếu tố giọng điệu trong truyện ngắn Sơn Nam, Trần Phỏng Diều nhận xét:
“Điều dễ nhận thấy nhất trong giọng điệu truyện ngắn Sơn Nam đó là giọng ngậm ngùi,
giọng tâm tình, hoài niệm, giọng rề rà, chậm rãi. Có thể nói giọng rề rà, chậm rãi là một đặc
trưng trong truyện ngắn của ông...”[30].
Bàn về phong cách Sơn Nam, có ý kiến cho rằng: ‘‘Văn Sơn Nam không ồn ào như gió
chướng, lại không trong veo như nước cất trong phòng thí nghiệm, mà nó là thứ nước chất
lỏng hồng hào có tên phù sa, chỉ cần vốc lên đã thấy mỡ màu cả bàn tay... Những cảnh,
những đời, những tâm sự của ông dù với tính cách hảo hớn, hào hùng nhất, sảng khoái và
chịu chơi nhất bao giờ cũng pha một giọng kể trầm buồn, u hoài, xa vắng’’[58].
Ở bài Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đậm sâu một phong cách Nam Bộ, Trần Vệ Giang
đã viết: “Không phải kiểu Nam bộ quê rặt, địa phương tính, văn chương của Nguyễn Quang
Sáng có cái hơi thở đồng bằng, phù sa dòng sông, cái khoáng đạt, giản đơn của con người
miền sông nước. Và quan trọng hơn hết là, ông thâu tóm vào tác phẩm cái hồn cốt Nam
bộ”[187].
Ngoài các công trình đã đề cập trên đây, trong các trường đại học ở khu vực và thành

phố Hồ Chí Minh sinh viên, học viên cao học ngành ngữ văn đã thực hiện luận văn với đề tài
về truyện ngắn ĐBSCL sau 1975. Trong số đó đáng chú ý là đề tài Thế giới nhân vật trong
truyện ngắn Đồng Tháp giai đoạn 1975 đến 2005 (Luận văn thạc sĩ - Nguyễn Anh Dân). Tác
giả luận văn đã phát hiện sự đa dạng, phong phú của thế giới nhân vật, sự đặc sắc trong nghệ
thuật xây dựng nhân vật của truyện ngắn Đồng Tháp trong cách thể hiện xung đột, sự kiện,
trong lựa chọn chi tiết và sử dụng ngôn ngữ… Đề tài Những đặc điểm nổi bật của truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Luận văn thạc sĩ - Nguyễn Thị Thu Thuỷ) là một công trình nghiên
cứu công phu và nghiêm túc về truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Tác giả luận văn khẳng định:
‘‘Mọi sự ồn ào rồi sẽ qua đi, những giá trị đích thực sẽ ở lại, có thể nói Nguyễn Ngọc Tư là
gương mặt của văn học Việt Nam đương đại, chất nhân văn trong sáng tác của chị là điều
làm đọc giả say mê và thích thú. Phải chăng đó là do tình nhân ái, tính nhân bản là gốc rễ
phẩm chất của một nhà văn tài năng’’...


Nhìn chung, các ý kiến đã chỉ ra được một số đóng góp ở phương diện nghệ thuật như
phong cách, thị hiếu thẩm mỹ, giọng điệu, ngôn ngữ truyện,... đặc biệt nghệ thuật sử dụng
phương ngữ Nam bộ trong tác phẩm. Vốn ngôn từ địa phương dưới bàn tay nhào nặn, sắp đặt
câu chữ khéo léo của nhà văn đã góp phần quan trọng cho thành công về mặt nghệ thuật của
các nhà văn ĐBSCL.
2.2. Bàn về hạn chế của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay
Trong bài Đi tìm‘‘chân dung’’ truyên ngắn ĐBSCL, Võ Tấn Cường nhận xét về sự hạn
chế trong việc xây dựng nhân vật và phong cách diễn đạt: “Đọc hàng trăm truyện ngắn
ĐBSCL, tôi nhận ra sự đóng băng trong việc miêu tả tâm lý, tính cách nhân vật của một số
tác giả... Truyện ngắn ĐBSCL chưa có nhiều tác phẩm tạo dựng được những điển hình nhân
vật có tầm nhìn, có khả năng ý thức về cái tôi của con người trong mối quan hệ với cuộc đời
và vũ trụ. Các nhà văn chưa đào sâu vào miền bí ẩn của tâm linh con người với nhưng xung
đột giữa cái thiện và cái ác, giữa cao thượng và thấp hèn... Các nhà văn ĐBSCL chưa xây
dựng được những nhân vật có tính cách, tầm vóc ngang tầm hoặc cao hơn những người mẫu
trong cuộc sống. Hầu hết các truyện ngắn viết theo lối kể chuyện truyền thống, nhịp điệu và
mạch truyện chậm thiếu độ căng về cấu trúc’’[24, tr.14].

Cũng trong bài Đi tìm ‘‘chân dung’’ truyện ngắn ĐBSCL, khi bàn về ngôn ngữ truyện,
Võ Tấn Cường có những nhận xét khá thẳng thắn: ‘‘Ngôn ngữ kể chuyện trong nhiều truyện
ngắn pha tạp nhiều khẩu ngữ, thiếu sự gọt giũa, chắt lọc....’’[24, tr.14].
Bàn về phong cách diễn đạt của Nguyễn Ngọc Tư, Bùi Việt Thắng nhận xét: “Văn viết
Nguyễn Ngọc Tư gần với văn nói”[146].
Trong bài Bàn tròn văn xuôi ĐBSCL khi nhìn nhận về hạn chế của truyện ngắn, nhà văn
Nguyễn Ngọc Tư đã dẫn ý kiến của Nguyên Tùng: ‘‘Thừa tả thực mà thiếu tưởng tượng.
Truyện ngắn của các tác giả ĐBSCL chúng ta dễ gây cho người đọc cảm giác: ‘‘Đó là câu
chuyện có thật’’. ‘‘Nguyên liệu thô’’ còn đan bện quá nhiều trong tác phẩm hư cấu. Chính
điều này đã làm giảm sự hứng thú cho người đọc...’’[147, tr.41].
Nhìn chung các nghiên cứu về truyện ngắn ĐBSCL sau 1975 đều có được những tìm
tòi, khám phá đáng quý, đáng trân trọng. Lẽ dĩ nhiên công trình của chúng tôi sẽ được thừa
hưởng nhiều ý kiến quý báu mà các nghiên cứu trước đó đã gợi ra hoặc khẳng định. Trên cơ


sở đó, chúng tôi có điều kiện để đi sâu hơn, phát hiện thêm những điều mới mẻ về truyện
ngắn ĐBSCL sau năm 1975.
3. Mục đích nghiên cứu
Văn chương nói chung, truyện ngắn nói riêng cũng đòi hỏi có sự tổng kết ở từng giai
đoạn. Vì vậy, khi thực hiện đề tài Khảo sát đặc điểm truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long
từ 1975 đến nay, chúng tôi có điều kiện tiếp cận toàn diện vấn đề. Qua đó, luận án làm rõ
quan niệm truyện ngắn về ĐBSCL cũng như nhận diện diện mạo, sự vận động và những đặc
điểm chủ yếu của thể loại này.
4. Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu
Sở dĩ chúng tôi chọn mốc thời gian từ 1975, vì đây là năm đánh dấu sự chuyển biến
lớn lao của đất nước. Văn học nói chung, văn học ĐBSCL cũng bắt đầu vận động theo qui
luật đời thường.
So với các thể loại khác, truyện ngắn ĐBSCL sau 1975, có bước phát triển nhanh cả
về số lượng và chất lượng. Vì vậy, luận án chọn thể loại truyện ngắn để khảo sát. Cụ thể các
tuyển tập sau:

- Tuyển tập truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 - 1995, Nhà xuất bản
Hội Nhà văn.
- Tuyển tập 18 Nhà văn đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản Mũi Cà Mau.
- Truyện ngắn Ba tác giả nữ đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản Văn học.
- Truyện ngắn miền Tây, Nhà xuất bản Trẻ Tp. Hồ Chí Minh.
- Truyện ngắn Đồng Tháp, An Giang và truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.
Nghiên cứu văn học phạm vi một vùng lãnh thổ, do vậy, ngoài khảo sát truyện ngắn
của tác giả truyện ngắn ĐBSCL là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, chúng tôi còn chọn khảo
sát truyện ngắn của tác giả là hội viên Hội Văn học - Nghệ thuật ở các địa phương, để có cái
nhìn toàn diện hơn về diện mạo cũng sự vận động của thể loại truyện ngắn ở ĐBSCL từ 1975
đến nay.
Bên cạnh đó, luận án còn mở rộng phạm vi khảo sát một số truyện ngắn ĐBSCL
trước năm 1975 và ở vùng miền khác để có cơ sở đối chiếu, so sánh góp phần làm rõ hơn
những nét riêng của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay.


Chọn vấn đề Khảo sát truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay, chúng tôi đã tiếp cận với
một đối tượng khá rộng và chưa ổn định. Vì vậy, luận án chỉ khảo sát những vấn đề chủ yếu
về nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi xuất phát từ quan điểm Mác - xít để nhìn nhận và lí giải mối quan hệ giữa
thực tiễn đời sống ở ĐBSCL với cảm hứng sáng tạo nghệ thuật và những vấn đề được các
nhà văn phản ảnh trong tác phẩm; đồng thời, người viết sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu sau:
5.1. Phương pháp hệ thống
Nghiên cứu truyện ngắn ĐBSCL phải đặt trong sự vận động phát triển của truyện ngắn
Việt Nam sau 1975, và bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hoá của vùng ĐBSCL.
5.2. Phương pháp loại hình
Với phương pháp này, luận án tìm hiểu đặc điểm của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến
nay dựa trên những đặc trưng của thể loại truyện ngắn.

5.3. Phương pháp miêu tả, so sánh
Để làm rõ diện mạo và đặc điểm riêng của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay.
5.4. Phương pháp liên ngành
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài có sự liên quan chặt chẽ đến vấn đề và lịch
sử, xã hội, văn hoá và địa lý tự nhiên của vùng đất Nam bộ, vì vậy sự kết hợp phương pháp
nghiên cứu liên ngành giữa các lĩnh vực là sự cần thiết.
6. Những đóng góp của luận án
6.1. Về giá trị khoa học
Đóng góp của luận án là làm rõ quan niệm về truyện ngắn ĐBSCL, cũng như nhận diện
diện mạo, sự vận động và đặc điểm chủ yếu của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay.
6.2. Về giá trị thực tiễn
Chúng tôi hi vọng luận án phần nào sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích đối với các nhà
nghiên cứu và những ai quan tâm đến truyện ngắn ĐBSCL sau 1975.
Mặt khác, kết quả luận án đạt được có thể là cơ sở cho các nhà biên soạn lựa chọn được
những truyện ngắn ĐBSCL tiêu biểu để đưa vào sách giáo khoa hoặc tài liệu tham khảo phục
vụ cho giảng dạy và nghiên cứu môn văn học ở bậc học phổ thông và đại học.


7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án có ba chương:
Chương 1: Nhìn chung về truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 đến nay.
Chương 2: Những cảm hứng trong truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 đến
nay.
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật của truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long
từ 1975 đến nay.


Chương 1
NHÌN CHUNG VỀ TRUYỆN NGẮN
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ 1975 ĐẾN NAY

1.1.Vài nét về lịch sử, xã hội và văn hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long
1.1.1. Vài nét về lịch sử, xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long
Nam bộ bao gồm hai vùng đất có nét riêng là Đông Nam bộ và Tây Nam bộ - Đồng
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Theo Mạc Đường, trong bài viết: Vấn đề dân cư và dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long
thì ‘‘Khái niệm ‘‘đồng bằng sông Cửu Long’’ được phổ dụng rộng rãi từ sau chiến tranh thế
giới lần thứ hai cho đến nay. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất miền Tây Nam Bộ, là
nơi có sông Tiền, sông Hậu và các chi lưu nhỏ của sông Mêcông chảy ra biển mà nhân dân
ta từ xưa quan niệm là chín rồng (Cửu Long) phun nước để tưới vùng đất đai này’’[162,
tr.54].
ĐBSCL là vùng đất tiếp nối địa hình bán sơn địa với một đồng bằng châu thổ phẳng và
thấp. Với diện tích khoảng 39.568 km2, ĐBSCL gồm 13 tỉnh thành: An Giang, Bạc Liêu, Bến
Tre, Cà Mau, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Long An, Tiền Giang, Sóc Trăng, Trà
Vinh, và thành phố Cần Thơ, với dân số trên 21 triệu người, nơi đây:
Ruộng đồng mặc sức chim bay
Biển bờ lai láng, cá bầy đua bơi
Nói đến ĐBSCL là nói đến một thực tại lịch sử - lịch sử khai phá vùng đất đất Nam bộ
nói chung và ĐBSCL nói riêng. Trước thế kỷ XVII, vùng đất này ngủ yên trong vẻ hoang sơ
u tịch, với dân số bản địa ít ỏi và thưa thớt. Sang thế kỷ XVII, dưới thời các Chúa Nguyễn cư
dân người Việt ở miệt ngoài di cư vào đây lập nghiệp khai phá. Và thực dân Pháp tiếp nối
tiếp nối quá trình đó trong chính sách khai thác thuộc địa.
ĐBSCL trong suốt tiến trình lịch sử của mình luôn trải qua những biến cố liên quan đến
vận mệnh của cả dân tộc.
Điểm đặc trưng nhất khi nói đến ĐBSCL là người ta dễ dàng liên tưởng đến một vùng
sông nước. Ở đây những dòng sông xẻ ngang, xẻ dọc, những con rạch chằng chịt ôm lấy
những cánh đồng lúa bao la, ôm lấy xóm ấp tạo nên một hình thái giao thông hết sức đa
dạng. ĐBSCL được coi là vương quốc của sông rạch. Chính vì vậy mà người dân miền Tây


có thể ngồi trên ghe đi khắp vùng đồng bằng, qua các thành phố, thị trấn, xóm ấp, miệt

vườn... mà không phải đặt chân lên bờ. Các hoạt động sản xuất, sinh hoạt hàng ngày của
người dân luôn gắn bó với mọi biến động của dòng nước, của con nước. Nếu ngoài Bắc
người dân bám lấy mặt đường để làm ăn buôn bán, ở ĐBSCL người dân bám lấy mặt sông,
mặt kênh mà sinh sống. Có chỗ một dãy dài vài ba cây số, dân làm nhà chen chúc hai bờ
sông, sàn nhà mấp mé mặt nước. Nhà nào cũng hướng ra mặt sông, mở cửa là bước xuống
xuồng. Sông rạch ở đây còn đem phù xa nước ngọt bồi đắp, tưới mát cho những miệt vườn
đầy ắp trái cây, những cánh đồng lúa tươi tốt và cá tôm nhiều vô kể. Dường như con người
nơi đây đã gắn chặt cuộc đời mình với sông nước, nơi nào có sông, rạch là có ghe, xuồng. Có
chiếc ghe để làm ăn sinh sống là là nhu cầu và ước vọng của người dân. Nhiều gia đình đời
này qua đời khác lập nghiệp bằng chiếc ghe, coi nó như ngôi nhà của mình. Nhiều ghe
thuyền tụ lại tạo nên khu dân cư nổi, chợ nổi trên sông.
Người xưa đã nói Thiên - Địa - Nhân hợp nhất, nghĩa là trời, đất, con người luôn có mối
giao kết liên quan đến nhau. Vùng đất, thời tiết nào con người ở đó có phong cách, sắc thái
riêng của vùng đó, nó cũng như trái cây, con vật đặc sản ấy.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, ĐBSCL cùng cả nước hân hoan mừng chiến thắng. Thế
nhưng vết thương chiến tranh chưa lành, người dân các tỉnh biên giới lại phải đối đầu với
chiến tranh biên giới Tây Nam. Bên cạnh đó là muôn vàn khó khăn khác : nền kinh tế nghèo
nàn lạc hậu, nhiều vùng nông thôn bị hoang hoá, công nghiệp không đáng kể, nạn thiếu ăn
xảy ra nghiêm trọng, rồi lũ lụt, dịch bệnh... Nhưng với ý chí quyết tâm và tinh thần không sợ
gian khổ, người dân ĐBSCL từng bước tạo nên những thành tựu rất đáng tự hào trên nhiều
lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hoá xã hội. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
từng bước được cải thiện, trình độ dân trí được nâng lên.
Sau ngày giải phóng ĐBSCL các Đài truyền thanh huyện, thị; Báo, Đài phát thanh truyền hình tỉnh, thành phố đi vào hoạt động, kịp thời phục vụ đời sống tinh thần cho các
tầng lớp nhân dân trong vùng. Các Hội văn học nghệ thuật, Tạp chí văn nghệ là nơi phát
hiện, đào tạo đội ngũ sáng tác và giới thiệu tác phẩm của họ đến công chúng.
Từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới, các lĩnh vực văn hoá, xã hội, đời sống có
những biến chuyển khá rõ nét. Phong trào văn nghệ quần chúng được duy trì và chất lượng
hoạt động ngày càng được nâng cao. Các lễ hội truyền thống được khôi phục có chọn lọc,



phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Các loại hình hoạt động văn hoá truyền thống như
đờn ca tài tử, sân khấu cải lương cũng được duy trì và phát triển ở nhiều địa phương.
1.1.2. Vài nét về văn hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long
Nhà nhiên cứu văn hoá Ngô Đức Thịnh chia đất nước ta thành bảy vùng văn hoá, trong
đó văn hoá Nam bộ là vùng thứ bảy và có đặc điểm là vùng đất mới. Việc phân vùng văn
hoá được xác định trên cơ sở mối quan hệ giữa văn hoá lịch sử và địa lý của một vùng và gọi
tắt là vùng văn hoá. ‘‘Vùng văn hoá là một vùng lãnh thổ, có những tương đồng về hoàn
cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống ở đó từ lâu có mối quan hệ nguồn gốc và lịch sử có những
tương đồng về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, giữa họ đã trải qua các mối quan hệ giao
lưu, ảnh hưởng văn hoá qua lại mật thiết, nên từ lâu đã hình thành những sắc thái văn hoá
chung, thể hiện trong sinh hoạt văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, có thể phân biệt với
những vùng văn hoá khác’’[150, tr.64]. Trong mỗi vùng như vậy lại có những tiểu vùng và
có những đặc trưng riêng lẻ.‘‘Vùng văn hoá Nam bộ, xét trên cả phương diện địa lý và lịch
sử, đều là vùng thứ bảy và có ba tiểu vùng Đông Nam bộ, Tây Nam bộ và tiểu vùng Sài Gòn
- Gia định’’[154, tr.17].
Điều kiện địa lý và lịch sử làm cho ĐBSCL có những nét đáng lưu ý về mặt văn hoá.
Đây là nơi cộng cư của nhiều tộc người như Việt, Hoa, Khmer, Chăm trong đó người Việt
đóng vai trò chính. Ngay người Việt cũng là dân ‘‘tứ chiếng’’ gồm nhiều lớp người với nhiều
nguyên nhân từ Bắc và Trung bộ hội nhập về đây. Cho nên, đây là nơi diễn ra quá trình giao
lưu văn hoá giữa các tộc người, là vùng văn hoá với nhiều sắc thái đặc trưng. Những người
Việt đầu tiên đến định cư ở vùng đất mới đều từ miền Bắc và miền Trung. Họ đến và mang
theo vốn văn hóa gốc rễ của mình. Bốn nguồn văn hóa cộng lại thành một nền văn hóa cộng
cư đặc trưng của ĐBSCL trong nền văn hóa Việt Nam. Đó là một nền văn hóa vô cùng
phong phú và lạ lẫm. Nếu người Việt có những làn điệu cải lương hay những câu hò, điệu lý
thì người Khmer lại thể hiện bản sắc của mình trong điệu múa roăm - vuông, hát đối đáp
Aday hay nhịp trống Chay - dăm. Nếu người Chăm có những hoạt động nghệ thuật sôi động
trong những ngày kết thúc tháng Ramada sinh nhật Muhamed hoặc các dịp hôn nhân cưới
hỏi thì người Hoa lại góp vào đời sống văn hóa Nam bộ những câu hát Tiêu, hát Quảng...
Nhưng sức hấp dẫn mãnh liệt nhất của mảnh đất này vẫn là những trang sử đấu tranh
chói lọi thể hiện tinh thần bất khuất và ý chí quật cường của những người nông dân lưu tán



“từ thửa mang gươm đi mở cõi” để chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt trên vùng đất
“muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lền như bánh canh”.
ĐBSCL cũng là vùng đất hội nhập nhiều luồng văn hóa Đông - Tây khác nhau nên cốt
cách con người và nghệ thuật hấp thu được những sắc thái và linh khí của văn hóa các dân
tộc. Quá trình đó đã bồi đắp nên những giá trị nhân văn, hình thành những giá trị văn hoá
mang sắc thái riêng cho vùng đất này.
ĐBSCL còn là khu vực sinh thái và địa lý có sức hấp dẫn mạnh mẽ bởi cảnh quan thiên
nhiên của vùng sông nước. Vì thế đặc điểm nổi bật của văn hoá ĐBSCL là văn hoá sông
nước. Điều này được thể hiện qua tập quán, các lễ hội về nước và đặc biệt là ngôn ngữ giao
tiếp có liên quan đến sông, rạch.
Các tộc người ở ĐBSCL chủ yếu sống bằng nông nghiệp. Trong công cuộc khẩn hoang
để khai phá đất đai và phát triển nghề trồng lúa nước cũng như trong cuộc sống, ảnh hưởng
và giao lưu văn hóa giữa các tộc người diễn ra thường xuyên. Từ công cụ sản xuất, nhà ở đến
cách ăn mặc, nếp sống, lễ nghi...đều có thể tìm thấy sự đan xen giữa các truyền thống văn
hóa. Trong quá trình đó, người Việt cũng tiếp nhận các yếu tố văn hóa Khmer. Chiếc khăn
rằn của người Khmer Nam bộ đã trở nên phổ biến và trở thành một biểu tượng quen thuộc
của người Nam bộ.
Cuộc sống, sinh hoạt của người dân miền Tây đơn giản, gắn với địa hình sông nước.
Văn hoá ăn, mặc, ở, đi lại,...cũng mang đặc thù riêng và phù hợp, hài hòa với môi trường
sinh thái tự nhiên. Vùng cao thì cất nhà trệt, vùng ngập lụt thì cất nhà sàn. Món ăn quen
thuộc của người dân ĐBSCL là canh chua cá đồng nấu với bông điên điển, bông súng, bông
lục bình..., mắm kho, chuột khìa, cá lóc nướng trui, rắn hầm nước dừa, rùa rang muối, cá linh
nhúng giấm,...các món cá khô nổi tiếng như khô lóc, khô sặc rằn trộn với xoài bằm, khô cá
kèo, cá khoai thì chấm nước mắm me... Xuồng, ghe là phương tiện di chuyển phổ biến và
thuận tiện của người dân vùng sông nước. Vì vậy, hình ảnh chiếc xuồng ba lá là một biểu
tượng văn hóa vùng sông nước. Nếu trang phục truyền thống của người miền Bắc là áo tứ
thân thì Nam bộ là áo bà ba. Hình ảnh chiếc áo bà ba đã đi vào âm nhạc, văn chương, trở
thành biểu tượng của văn hóa mặc Nam bộ. Đối với vùng ĐBSCL, chợ nổi không đơn thuần

là nơi buôn bán trao đổi hàng hóa mà đã trở thành nét văn hóa riêng của vùng sông nước.


Bàn tới văn hoá vùng đất này, chúng ta không thể không nói tới tính cách Nam bộ. Sơn
Nam, Trịnh Hoài Đức khi bàn về tính cách người khẩn khoang ở vùng đất phương Nam
hoang sơ và khắc nghiệt, đã dùng cụm từ ‘‘sĩ khí hiên ngang’’ để chỉ những con người ‘‘kiến
nghĩ bất vi vô dõng giả’’, chuộng công bằng lẽ phải’’[104]. Trong cuốn Văn hoá vùng và
phân vùng văn hoá ở Việt Nam có nhận xét về con người Nam bộ ‘‘Họ cởi mở, chan hoà, dễ
kết thân, dễ hoà vào cộng đồng mới lạ, không sĩ diện kiểu kẻ sĩ, không coi trọng môn đăng
hậu đối’’[154, tr.50]. Dương Hoàng Lộc nhìn nhận con người Nam bộ ở tính khoan dung:
‘‘Người Việt đến từ một nền văn hoá nông nghiệp lúa nước lâu đời,... tinh thần tương trợ,
thương yêu, nhân ái và thấm đượm tính khoan dung hết sức nhân bản của 4000 năm văn hoá
dân tộc’’[92, tr.69].
Tính cách Nam bộ là một khía cạnh văn hoá ứng xử và để lại dấu ấn rõ rệt trong mọi
mặt đời sống văn hoá. Ở vùng đất mới, người dân phải trải qua biết bao khó khăn gian khổ
trong cuộc sống. Vì thế, ngay từ buổi đầu gặp gỡ, họ đã biết yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ
nhau trong cuộc sống. Mối quan hệ giữa người với người, giữa con người với thiên nhiên trở
nên gắn bó chặt chẽ hơn. Mặt khác, sống trong điều kiện sông nước mênh mông, nhiều kênh
rạch, không bị giới hạn bởi sự ngăn cách từ đó hình thành nếp sống, cách cư xử, nét sinh
hoạt và một phần tính cách con người ĐBSCL. Lưu dân người Việt ở vùng đất này đa số
xuất thân từ những gia cảnh nghèo khó, ít chữ nghĩa. Hơn nữa, khi vào vùng đất mới, họ
cũng ít chịu ảnh hưởng của nho giáo, không rành ngôn ngữ thánh hiền, không quen dùng văn
chương hoa mỹ, thích nói ngắn gọn, nôm na dễ hiểu... Đặc điểm riêng đặc sắc đó của mỗi tộc
người ngày một phát triển và hội nhập vào nhau tạo nên nét đặc trưng không dễ trộn lẫn của
văn hóa vùng Nam bộ, tạo nên tính cách chung của con người Nam bộ trọng nghĩa, khinh tài,
phóng khoáng và hiếu khách... Và vượt lên trên tất cả là từ rất sớm các cộng đồng cư dân
Nam bộ đã có truyền thống đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau, không phân biệt người đến trước,
người đến sau, không kỳ thị dân tộc. Truyền thống quý báu này được hình thành và phát triển
trong nhiều thế kỷ. Càng đi sâu, ta càng thấy thú vị và đầy cảm hứng văn chương. Người
Nam bộ cũng để lại sắc thái rất riêng biệt trong cách diễn xướng dân gian theo kiểu nói nói

như nói vè, nói thơ, nói tuồng... Họ còn được biết đến là những con người yêu thích âm nhạc
và ca hát. Đặc biệt là sân khấu cải lương, hát bội, đờn ca tài tử.



×