Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Kỹ năng sống của học sinh trung học cơ sở thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.11 KB, 20 trang )

THƯ
VIỆN

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN HỮU LONG

KỸ NĂNG SỐNG CỦA HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60.31.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ THU MAI

Thành phố Hồ Chí Minh - 2010


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
dữ liệu và kết quả được trình bày trong luận văn là trung thực và
chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác

Tác giả luận văn


Nguyễn Hữu Long


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời biết ơn chân thành đến:
Ban Giám hiệu 2 trường: Trung học cơ sở Tân Kiên – Huyện Bình Chánh và Trung học cơ sở
Đoàn Thị Điểm – Quận 3 – Thành phố Hồ Chí Minh cùng Quý Thầy, Cô giáo đang giảng dạy tại 2
trường trên đã tạo điều kiện, nhiệt tình hỗ trợ và tích cực tham gia cùng chúng tôi trong quá trình
thực hiện đề tài, góp phần quan trọng để đề tài nghiên cứu triển khai có kết quả. Kính gửi lời cảm
ơn chân thành đến Quý anh chị là giảng viên của các trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương Thành
phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, Trường
Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, … đã hỗ trợ tích cực chúng tôi khi thực hiện đề tài.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến quý Thầy, Cô đã giảng
dạy, hướng dẫn, góp ý khoa học cho lớp cao học tâm lý K 18 cùng với Tiến sĩ Trần Thị Thu Mai –
người hướng dẫn khoa học, đã luôn tận tình, ân cần hướng dẫn, giúp đỡ và luôn động viên tôi
trong quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin gửi lời cảm ơn các anh, chị cùng khóa học, các đồng nghiệp, người thân đã động viên,
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như khi thực hiện luận văn này.

NGUYỄN HỮU LONG


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội ngày càng văn minh – hiện đại, thế giới đang bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên
của khoa học công nghệ và những tiến bộ vượt bậc của nó đã, đang và sẽ mang lại cho loài người
những “tiện ích” hữu dụng. Nhưng, cũng chính ở thế kỷ 21 này, con người đang phải đối diện với
những thách thức to lớn từ môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và đặc biệt là mối quan hệ giữa
người với người. Với sự thay đổi đó, xã hội nói chung và ngành giáo dục nói riêng đang từng ngày
phải đối mặt với những thách thức và cần phải có những thay đổi để phù hợp với những mục tiêu và

hoàn cảnh mới. Giáo dục cần phải liên tục đổi mới để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã
hội. Đào tạo ra những con người vừa có tri thức khoa học, vừa có kỹ năng làm việc nhưng cũng phải
vừa có những thái độ, hành vi tích cực trước những sự thay đổi của môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội.
Trước đây, trong bối cảnh xã hội truyền thống, người trẻ học cách đối nhân xử thế thông qua
đại gia đình, làng xã, văn hóa dân gian, các chương trình giáo dục chính quy và không chính quy, …
Nhưng dưới những chuyển biến kinh tế xã hội diễn ra quá nhanh chóng đã hạn chế phần nào chức
năng của giáo dục gia đình và các thiết chế truyền thống. Hơn thế nữa những biến động kinh tế xã
hội ngày càng to lớn do quá trình hiện đại hóa đem lại cho lứa tuổi thiếu niên quá nhiều thử thách.
Để giải quyết những thử thách mà thiếu niên phải đối mặt thì thiếu niên không những chỉ chuẩn bị
các kỹ năng để lĩnh hội kiến thức (nghe, nói, đọc, viết, …) mà đó còn là khả năng ứng phó một cách
có hiệu quả trước những thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá nhân để duy trì
một trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện cụ thể bởi các hành vi phù hợp và tích cực với
người khác, với nền văn hóa và với môi trường xung quanh.
Bước vào tuổi thiếu niên, một mặt, các em bước đầu đòi hỏi thoát khỏi sự giám sát của bố mẹ
và có được địa vị bình đẳng trong gia đình. Mặt khác, các em bắt đầu bước ra khỏi khuôn khổ gia
đình, đi vào xã hội, nếm trải giao tiếp với mọi người với tư cách một cá thể tồn tại độc lập. Thiếu
niên bắt đầu muốn tự mình xác định mục tiêu và kế hoạch cuộc đời, dùng lý trí phán đoán của mình
xem xét mọi sự việc, không muốn có sự can thiệp của bất cứ ai, kể cả bố mẹ. Sự phát triển của tự ý
thức đòi hỏi thiếu niên luôn muốn thoát khỏi sự ràng buộc của mối quan hệ phụ thuộc trước kia,
khỏi sự giám sát từng ly từng tý của bố mẹ, trở thành cá thể độc lập, …. Nhưng giữa những mong
muốn mang tính cá nhân và những thách thức của cuộc sống đôi lúc không có sự tương ứng nên các
em sẽ dễ rơi vào trạng thái có thái độ phản kháng bằng các hình thức lì lợm, lạnh nhạt, lầu bầu, bất
hợp tác và thậm chí là tỏ thái độ sống “bất cần đời”.
Thực tế cho thấy trong những năm gần đây, tình trạng thanh thiếu niên, đặc biệt là trẻ ở độ
tuổi trung học cơ sở, phạm pháp ngày càng gia tăng và mức độ nghiêm trọng của nó đã đến mức báo


động. Học sinh trung học cơ sở dễ rơi vào những tệ nạn xã hội và góp phần ảnh hưởng xấu đến môi
trường học đường. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng một trong những

nguyên nhân chính đó chính là học sinh ngày nay rất thiếu về các kỹ năng sống cần thiết. Để hóa
giải vấn đề này đã có rất nhiều trung tâm đào tạo kỹ năng sống ra đời, nhằm giúp các em học sinh
trung học cơ sở tập trải nghiệm trong những tình huống giả định, nhằm hình thành một số kỹ năng
cần thiết để tự tổ chức cuộc sống của cá nhân trở nên hiệu quả hơn. Mặt khác ngành Giáo dục và
đào tạo cũng đã và đang có những định hướng tích cực để đưa kỹ năng sống vào giảng dạy tại các
bậc học nhằm góp phần nâng cao định hướng giá trị và tạo lập hành vi phù hợp ở lứa tuổi thanh
thiếu niên. Nhưng có lẽ do đây là một lĩnh vực khoa học còn khá mới mẻ và với nhiều nguyên nhân
khác nhau nên việc giảng dạy, huấn luyện kỹ năng sống vẫn còn nhiều điều bỏ ngỏ và chưa được
quan tâm đúng mức.
Vấn đề kỹ năng sống dưới góc độ tâm lý là lĩnh vực chưa được nghiên cứu nhiều. Mặt khác,
bản thân đã và đang có nhiều hoạt động nghiên cứu thực tiễn về vấn đề kỹ năng sống ở học sinh
trung học cơ sở.
Từ những lý do nêu trên chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài : “KỸ NĂNG SỐNG CỦA HỌC
SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH”
2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu làm rõ thực trạng kỹ năng sống của học sinh trung học cơ sở Thành phố Hồ Chí
Minh, qua đó đề xuất những biện pháp tác động tâm lý phù hợp nhằm hình thành và phát triển kỹ
năng sống cho học sinh trung học cơ sở.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Kỹ năng sống của học sinh trung học cơ sở
3.2. Khách thể nghiên cứu:
+ Khách thể nghiên cứu thực trạng:
-

Học sinh ở 2 trường: THCS Tân Kiên – Huyện Bình Chánh và THCS Đoàn Thị Điểm –
Quận 3 – TP Hồ Chí Minh

-

Giáo viên chủ nhiệm tại các Trường THCS và nhà nghiên cứu về lĩnh vực Kỹ năng sống


+ Khách thể nghiên cứu thực nghiệm:
-

Học sinh ở 2 trường: THCS Tân Kiên – Huyện Bình Chánh và THCS Đoàn Thị Điểm –
Quận 3 – TP Hồ Chí Minh

4. Giới hạn nghiên cứu:


4.1 . Nội dung:
Do đây là lĩnh vực khoa học mới tại Việt Nam và kinh nghiệm thực tế của người nghiên cứu
nên chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu: Một số kỹ năng sống của học sinh trung học cơ sở dựa trên
những phẩm chất tâm lý của cá nhân như: kỹ năng tự đánh giá bản thân, kỹ năng giao tiếp - ứng xử,
kỹ năng hợp tác và chia sẽ, kỹ năng phân biệt hành vi hợp lý và hành vi chưa hợp lý như là những
kỹ năng sống cơ bản của học sinh lứa tuổi trung học cơ sở; thực trạng kỹ năng sống hiện nay của
học sinh dưới góc độ tâm lý và tìm ra một số biện pháp cơ bản trong việc rèn kỹ năng sống cho học
sinh.
4.2. Địa điểm:
-

Trường THCS Tân Kiên – Huyện Bình Chánh và THCS Đoàn Thị Điểm – Quận 3 – TP Hồ
Chí Minh. Khoa Tâm lý, Giáo dục Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP HCM,
Trường Đại học Sài Gòn và Trường Cao đẳng Sư phạm TW Tp. Hồ Chí Minh
4.3. Đối tượng khảo sát:
150 học sinh Trường THCS Tân Kiên – Huyện Bình Chánh
150 học sinh Trường THCS Đoàn Thị Điểm – Quận 3 – TP Hồ Chí Minh.
30 Giáo viên chủ nhiệm 2 Tân Kiên – Huyện Bình Chánh và THCS Đoàn Thị Điểm – Quận

3 – TP Hồ Chí Minh

20 giảng viên Khoa Tâm lý, Giáo dục Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP
HCM, Trường Đại học Sài Gòn và Trường Cao đẳng Sư phạm TW Tp. Hồ Chí Minh
5. Giả thuyết khoa học
Với hệ thống kỹ năng sống được đưa vào nghiên cứu của đề tài thì kỹ năng sống của học sinh
Trường THCS Tân Kiên – Huyện Bình Chánh và THCS Đoàn Thị Điểm – Quận 3 – TP Hồ Chí
Minh tuy bước đầu đã có những nhận thức đúng đắn nhưng nhìn chung vẫn còn những khó khăn và
chưa ở mức cao.
Nếu giáo viên tổ chức nhiều hoạt động ngoài giờ tích cực (học sinh được làm chủ hoạt động,
giáo viên chỉ là người đề xuất ý tưởng và biện pháp thực hiện) và các hoạt động trong giờ học tích
cực thì học sinh ở lớp đó có kỹ năng sống cao hơn.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về kỹ năng sống, biện pháp rèn kỹ năng sống.
6.2. Tìm hiểu thực trạng kỹ năng sống và biện pháp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh
trung học cơ sở TP. HCM
6.3. Tổ chức thực nghiệm một số biện pháp tác động tâm lý nhằm hình thành và phát triển
kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sở TP. HCM


7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
-

Mục đích: Thu thập những tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu nhằm làm rõ các vấn đề
lý luận của đề tài cần nghiên cứu

-

Cách tiến hành: Đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu,
nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho việc triển khai, nghiên cứu thực tiễn.
7.2. Phương pháp điều tra:

7.2.1. Bằng bảng hỏi: Dành cho học sinh

-

Mục đích: Thu thập thông tin từ phía học sinh về:
+ Nhận thức hệ thống danh mục các kỹ năng sống
+ Năng lực giải quyết các vấn đề đòi hỏi sử dụng kỹ năng sống.

-

Cách tiến hành: Cho học sinh trả lời những câu hỏi và giải quyết các bài tập tình huống trên
các phiếu điều tra. Đây là một trong những phương pháp chính của đề tài.
7.2.2. Bằng bảng thăm dò ý kiến: Dành cho chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực Kỹ năng

sống và giáo viên chủ nhiệm
-

Mục đích: Thu thập thông tin từ phía giáo viên chủ nhiệm và nhà nghiên cứu để :
+ Đánh giá sơ bộ về thực trạng kỹ năng sống hiện nay của học sinh Trung học cơ sở
+ Đề xuất một số biện pháp hình thành kỹ năng sống cho học sinh Trung học cơ sở

-

Cách tiến hành: Cho đối tượng khảo sát trả lời những câu hỏi (bao gồm cả câu hỏi mở và câu
hỏi đóng) trên các phiếu thăm dò ý kiến.
7.3. Phương pháp quan sát

-

Mục đích: Nắm được thực trạng giải quyết vấn đề có vận dụng kỹ năng sống của học sinh.


-

Cách tiến hành: Đi thực tế tại 2 trường Trung học cơ sở và quan sát giờ chơi, giờ học (đặc
biệt là các giờ hoạt động ngoài giờ lên lớp) nhằm nắm bắt thực trạng kỹ năng sống của học
sinh.
7.4. Phương pháp thực nghiệm


-

Mục đích: Nhằm so sánh, đối chiếu kết quả trước và sau khi tiến hành các biện pháp hình
thành kỹ năng sống cho học sinh Trung học cơ sở. Đây là một trong những phương pháp
chính của đề tài.

-

Cách tiến hành: Sau khi rút ra kết luận về thực trạng kỹ năng sống của học sinh Trung học
cơ sở và thăm dò được các biện pháp hình thành kỹ năng sống, người nghiên cứu lựa chọn từ
5 – 10 kỹ năng sống cơ bản và từ 3 – 5 biện pháp tổ chức tác động. Sau khi tổ chức các biện
pháp tác động, người nghiên cứu dùng phiếu điều tra về kỹ năng sống để đo lại kỹ năng sống
của học sinh
7.5. Phương pháp thống kê toán học

-

Nhằm xử lý, phân tích, đánh giá kết quả nghiên cứu
7.6. Ngoài ra còn thực hiện một số phương pháp khác như: Trò chuyện, phỏng vấn, lấy ý

kiến chuyên gia… nhằm thu thập thêm những thông tin phục vụ cho đề tài.

8. Đóng góp mới của đề tài
Đây là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên về lĩnh vực kỹ năng sống dành cho
học sinh trung học cơ sở tại Việt Nam. Vì thế, kết quả nghiên cứu sẽ góp phần:

8.1. Về lý luận:
-

Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về: kỹ năng sống, biện pháp rèn kỹ năng sống, …
8.2. Về thực tiễn:

-

Góp phần làm sáng tỏ thực trạng kỹ năng sống hiện nay của học sinh Trung học cơ sở.

-

Chứng minh rằng nếu thiết lập được các biện pháp rèn luyện (tác động tâm lý) tích cực và
phù hợp sẽ trang bị và nâng cao được kỹ năng sống cho học sinh.

-

Là căn cứ để tìm ra các phương pháp phù hợp trong việc giảng dạy và huấn luyện kỹ năng
sống cho học sinh.

9. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm có 2 phần chính:
Phần I: Mở đầu
Phần II: Nội dung nghiên cứu



Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Thực trạng kỹ năng sống và biện pháp rèn luyện kỹ năng sống cho học
sinh trung học cơ sở TP. HCM
Chương 3: Biện pháp tác động tâm lý nhằm hình thành và phát triển kỹ năng sống cho
học sinh trung học cơ sở TP. HCM
Kết luận và kiến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA KỸ NĂNG SỐNG
VÀ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG SỐNG
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Năm 1989, Bộ Lao động Mỹ cũng đã thành lập một Ủy ban Thư ký về Rèn luyện các Kỹ
năng Cần thiết (The Secretary’s Commission on Achieving Necessary Skills - SCANS). Thành viên
của ủy ban này đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau như giáo dục, kinh doanh, doanh nhân, người lao
động, công chức… nhằm mục đích “thúc đẩy nền kinh tế bằng nguồn lao động kỹ năng cao và công
việc thu nhập cao”. Cũng trong khoảng thời gian này, tại Úc, Hội đồng Kinh doanh Úc (The
Business Council of Australia - BCA) và Phòng thương mại và công nghiệp Úc (the Australian
Chamber of Commerce and Industry - ACCI) với sự bảo trợ của Bộ Giáo dục, Đào tạo và Khoa học
(the Department of Education, Science and Training - DEST) và Hội đồng giáo dục quốc gia Úc
(the Australian National Training Authority - ANTA) đã xuất bản cuốn “Kỹ năng hành nghề cho
tương lai” (năm 2002). Cuốn sách cho thấy các kỹ năng và kiến thức mà người sử dụng lao động
yêu cầu bắt buộc phải có. Kỹ năng hành nghề (employability skills) là các kỹ năng cần thiết không
chỉ để có được việc làm mà còn để tiến bộ trong tổ chức thông qua việc phát huy tiềm năng cá nhân
và đóng góp vào định hướng chiến lược của tổ chức. [ 36, tr.3].
Những năm đầu thập niên 90, một số nước Châu Á như: Ấn Độ, Lào, Campuchia, Indonexia,
Malaysia, Thái Lan, … cũng đã nghiên cứu và triển khai chương trình dạy kỹ năng sống ở các bậc
học phổ thông từ mầm non cho đến Trung học phổ thông. Những nội dung giáo dục chủ yếu ở hầu

hết các nước này đó là trang bị cho người trẻ tuổi những kỹ năng sống cần thiết để giúp họ thích
nghi dần với cuộc sống sau này, mục đích chính là dạy – trang bị và hình thành. Mục tiêu chung của
giáo dục kỹ năng sống được xác định là: “Nhằm nâng cao tiềm năng của con người để có hành vi
thích ứng và tích cực nhằm đáp ứng nhu cầu, sự thay đổi, các tình huống của cuộc sống hằng ngày,
đồng thời tạo ra sự đổi thay và nâng cao chất lượng cuộc sống”. Với một đích nhắm đến yếu tố cá
nhân của người học, các nước cũng đã đưa ra cách thiết kế chương trình giáo dục và trang bị kỹ
năng sống như: lồng ghép vào chương trình dạy chữ, học vấn, vào tất cả các môn học và các chương
trình ở những mức độ khác nhau. Dạy các chuyên đề cần thiết cho người học như: kỹ năng nghề, kỹ
năng hướng nghiệp, … và được chia làm ba nhóm chính là: Kỹ năng cơ bản (gồm các kỹ năng đọc,
viết, ghi chép, …), nhóm kỹ năng chung (gồm các kỹ năng tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra
quyết định, giải quyết vấn đề, …) và nhóm kỹ năng cụ thể (gồm các kỹ năng bình đẳng giới, bảo vệ
sức khỏe, nâng cao đời sống tinh thần, …)[ 36, tr.4].


Tóm lại, dù xuất phát từ quan điểm chung về kỹ năng sống từ Tổ chức Y tế thế giới hay
UNESCO, nhưng ở mỗi quốc gia trên thế giới đều có sự khác biệt về quan niệm và nội dung, có
nước thực hiện theo đúng chuẩn kỹ na8gn nhưng cũng có nước mở rộng thêm chứ không chỉ bao
hàm kỹ năng sống là những khả năng về tâm lý, xã hội. Kỹ năng sống được lồng ghép ở cá giáo dục
chính quy (giáo dục trong chương trình đào tạo) và cả giáo dục không chính quy (hoạt động ngoại
khóa – hoạt động ngoài giờ lên lớp). Những quan niệm, nội dung giáo dục kỹ năng sống được triển
khai vừa thể hiện nét chung vừa thể hiện nét đặc thù, những nét riêng của từng quốc gia. Nhìn
chung các quốc gia cũng mới bước đầu triển khai chương trình và biện pháp giáo dục kỹ năng sống
nên chưa thật toàn diện và sâu sắc, vì chưa có quốc gia nào đưa ra được kinh nghiệm hoặc hệ thống
tiêu chí đánh giá chất lượng kỹ năng sống ở người học sau khi được trang bị hay huấn luyện kỹ
năng sống. [1, tr. 40 - 43].
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước.
Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, nội dung giáo dục con người biết đối nhân xử thế, kinh
nghiệm làm ăn để đáp ứng và biến ứng với những thách thức của thiên tai, … đã được phản ánh khá
phong phú qua hệ thống danh ngôn, ca dao, tục ngữ và những lời dạy của người xưa. Còn đối với
chức năng của giáo dục thì mục tiêu học để làm người hay nói cách khác là học để biết đối nhân xử

thế, học để sống tốt hơn và học để phục vụ bản thân – gia đình và xã hội đã được quan tâm ngay từ
những ngày đầu tiên của giáo dục Việt Nam. Nhưng có lẽ với mục tiêu và nội dung như thế vẫn
chưa được gọi là kỹ năng sống mà tất cà như là những lời giáo dục để ứng phó với sự thay đổi của
môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Thuật ngữ “Kỹ năng sống”bắt đầu được quan tâm tại Việt Nam vào những năm đầu thập niên
90 – khi xã hội bắt đầu có những chuyển biến phức tạp – nền kinh tế thị trường và việc du nhập các
nền văn hóa từ các nước bên ngoài vào Việt Nam hay đó là sự biến đổi của môi trường tự nhiên đã
tác động rất lớn đến con người vì lẽ đó đòi hỏi mỗi người phải học cách thích nghi với những sự
thay đổi đó, từ đây những kỹ năng khác ngoài trình độ học vấn, tư cách đạo đức, năng lực làm việc
bắt đầu được xem xét và quan tâm – đó chính là điều kiện để giáo dục Việt Nam quan tâm đến thuật
ngữ kỹ năng sống trong chương trình và triển khai một số dự án của các tổ chức khác trên thế giới.
Tại Viêt Nam đầu những năm 90, Thủ tướng chính phủ cũng đã có văn bản chỉ đạo tại Quyết
định 1363/TTg về việc “Đưa nội dung giáo dục môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân”, tuy
quyết định này chưa thấy rõ về việc phải rèn luyện kỹ năng sống ở các bậc học, tuy nhiên nội dung
của quyết định cũng đã có đề cập đến việc trang bị cho người học những vấn đề về văn hóa ứng xử,
về thái độ sống, …. Chỉ thị 10/GD&ĐT năm 1995 hay Chỉ thị 24/CT&GD năm 1996 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và đào tạo đã có những chỉ đạo về công tác phòng chống HIV/AIDS hay tăng cường


công tác phòng chống ma túy tại trường học ít nhiều cũng đã đề cập đến nội dung của thuật ngữ kỹ
năng sống. [1, tr. 40 - 43].
Năm 1996 thông qua chương trình của UNICEF “Giáo dục kỹ năng sống để bảo vệ sức khỏe
và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường”. Giai đoạn 1 của
chương trình chỉ dành cho một số đối tượng của ngành giáo dục và Hội chữ thập đỏ và được trang
bị một số kỹ năng như: kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng kiên định, kỹ năng đặt mục
tiêu, kỹ năng xác định giá trị, … Sang giai đoạn 2 của chương trình đối tượng tập huấn được mở
rộng và thuật ngữ kỹ năng sống được hiểu một cách rộng rãi hơn “Kỹ năng sống là các kỹ năng thiết
thực mà con người cần đến để có cuộc sống an toàn và khỏe manh”. Cuối cùng khái niệm kỹ năng
sống thực sự được hiểu với nội hàm đầy đủ và đa dạng sau hội thảo “Chất lượng giáo dục và kỹ
năng sống” do UNESCO tài trợ vào năm 2003. Và chính từ đây ngành giáo dục đã bắt đầu quan tâm

đến kỹ năng sống và cách thức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, một số bộ Luật của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam sửa đổi cũng đã có những định hướng và điều khoản liên quan đến việc trang bị kỹ năng
sống cho học sinh như: Luật chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 hay Luật giáo dục năm 2005.
Mặt khác, Giáo dục Việt Nam bắt đầu quan tâm đến nhiều vấn đề liên quan đến người học – đặc
biệt là vấn đề phát triển toàn diện cho người học nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội và
của nền kinh tế tri thức. Từ năm 2001, Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh phổ thông qua dự án “Giáo dục sống khoẻ mạnh, kỹ năng sống cho trẻ và vị thành niên”
với sáng kiến và hỗ trợ của UNICEF tại Việt Nam. Tham gia dự án có học sinh THCS và trẻ em
ngoài trường học ở một số tỉnh thuộc nhiều khu vực như: Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hải
Phòng, Hà Nội, Gia Lai, Kon Tum, TP. Hồ Chí Minh, An Giang, Kiên Giang. Các em được rèn
luyện kỹ năng sống thiết thực để ứng phó với những vấn đề ảnh hưởng đến cuộc sống an toàn, mạnh
khoẻ của trẻ em như: phòng chống HIV/AIDS, ma tuý, sức khoẻ sinh sản, vấn đề quan hệ tình dục
sớm… Mục tiêu của Dự án là hình thành thái độ tích cực của học sinh đối với việc xây dựng cuộc
sống khoẻ về thể chất, mạnh về tinh thần, hiểu biết về xã hội; Nâng cao nhận thức của cha mẹ học
sinh về kỹ năng sống…để họ chủ động trong việc truyền thụ kiến thức kỹ năng cho con em mình.[2,
tr. 37,38,43,44].
Năm học 2007 – 2008, Bộ Giáo dục và đào tạo đã đưa ra phong trào thi đua “Xây dựng
trường học thân thiện , học sinh tích cực”. Phong trào này bắt đầu được triển khai mạnh mẽ trong
hầu hết tất cả các bậc học từ mầm non cho đến đại học. Ngày 22 tháng 7 năm 2008, một lần nữa Bộ
giáo dục và đào tạo đã ra Chỉ thị về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân
thiện , học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008 – 2013. Kèm với Chỉ thị này là


một thông báo về hướng dẫn triển khai phong trào “Xây dựng trường học thân thiện , học sinh tích
cực” năm học 2008 – 2009 và giai đoạn 2008 – 2013 với mục tiêu liên quan đến kỹ năng sống là:
“Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm
việc, sinh hoạt theo nhóm; Rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai
nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác; Rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa,
chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội”.

Cũng trong thời điểm này, một số nhà chuyên môn cũng bắt đầu nghiên cứu và viết một số
tài liệu liên quan đến lĩnh vực kỹ năng sống. Tác giả Nguyễn Thanh Bình khi tham gia dự án Đào
tạo giáo viên Trung học cơ sở đã cho ra đời Giáo trình Giáo dục kỹ năng sống – Nhà xuất bản Đại
học Sư phạm Hà Nội năm 2007. Giáo trình đề cập chủ yếu đến những vấn đề đại cương về kỹ năng
sống, một số biện pháp nhằm giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, … Năm 2009 tác giả Huỳnh Văn
Sơn cùng Nhà xuất bản Giáo dục cho ra đời tài liệu Nhập môn kỹ năng sống với các nội dung cơ
bản: những vấn đề chung về kỹ năng sống và một số kỹ năng sống cơ bản, … Năm 2009, Trung tâm
hỗ trợ sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức diễn đàn Những kỹ năng thực hành xã hội dành
cho sinh viên và thông qua diễn đàn này tài liệu Những kỹ năng thực hành xã hội dành cho sinh
viên cũng đã được xuất bản. Tài liệu là cẩm nang gồm một số kỹ năng sống và làm việc dành cho
những người trẻ trong thời kỳ hội nhập và phát triển của đất nước.
Tóm lại, cho đến nay, kỹ năng sống vẫn còn là một trong những vấn đề mới mẽ trong khoa
học cũng như trong hệ thống giáo dục Việt Nam. Nghiên cứu kỹ năng sống tại Việt Nam hay triển
khai chương trình rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh chỉ mới thể hiện rõ ở chương trình giáo dục
ngoài khung chương trình đào tạo. Chưa có văn bản, tài liệu khoa học hay giáo trình về giảng dạy
kỹ năng sống cho học sinh. Đây cũng là một nguyên nhân hạn chế việc giáo dục kỹ năng sống tại
Việt Nam hiện nay.
1.2. Khái niệm kỹ năng, kỹ năng sống.
1.2.1. Khái niệm kỹ năng
Có nhiều tác giả trong nước và ngoài nước đã đưa ra những quan niệm khác nhau về kỹ
năng. Với mỗi quan niệm, với mỗi cách nhìn khác nhau, các tác giả đã cố gắng minh chứng một
cách sinh động nhất về khái niệm kỹ năng.
Quan niệm thứ nhất: xem kỹ năng như là kỹ thuật thao tác:
Tác giả Trần Trọng Thủy quan niệm rằng kỹ năng là mặt kỹ thuật của hành động, con người
nắm được cách hành động tức là có kỹ thuật hành động, có kỹ năng. [25, tr.49].


Từ điển tâm lý học (1983) của Liên Xô (cũ) định nghĩa “Kỹ năng là giai đoạn giữa của việc
nắm vững một phương thức hành động mới – cái dựa trên một quy tắc (tri thức) nào đó và trên quá
trình giải quyết một loạt các nhiệm vụ tương ứng với tri thức đó, nhưng còn chưa đạt đến mức độ kỹ

xảo”. [16, tr.376].
Còn tác giả N.D.Levitovxam xét kỹ năng gắn liền với kết quả hành động. Theo ông, người có
kỹ năng hành động là người phải nắm được và vận dụng đúng đắn các cách thức hành động nhằm
thực hiện hành động có kết quả. Ông nhấn mạnh, muốn hình thành kỹ năng con người vừa phải nắm
vững lí thuyết về hành động, vừa phải vận dụng lý thuyết đó vào thực tế.
Quan niệm thứ hai: xem kỹ năng như là một năng lực của con người:
Tác giả A.V.Petrovski cho rằng: Kỹ năng chính là năng lực sử dụng các dữ kiện, các tri thức
hay khái niệm đã có, năng lực vận dụng chúng để phát hiện những thuộc tính bản chất của các sự
vật và giải quyết thành công những nhiệm vụ lí luận hay thực hành xác định.
Đồng quan điểm này, thì các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Ánh Tuyết, Trần Thị Quốc
Minh cũng quan niệm kỹ năng là một mặt của năng lực con người thực hiện một công việc có kết
quả.
Các tác giả Đức Minh, Phạm Cốc, Đỗ Thị Xuân cho rằng kỹ năng là cách vận dụng tri thức
vào thực tiễn, kỹ xảo là kỹ năng được củng cố và tự động hóa.
Tác giả Huỳnh Văn Sơn cho rằng là khả năng thực hiện có kết quả một hành động nào đó bằng
cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp với những điều kiện
cho phép [24, tr.6].
Như vậy, với cả hai quan niệm này chúng ta thấy rằng: nếu có kỹ năng thì con người làm
việc một cách có hiệu quả hơn. Kỹ năng sẽ giúp mỗi người thực hiện công việc có thứ tự, kế hoạch
và tổ chức được quá trình làm việc cách chuyên nghiệp và hiệu quả. Kỹ năng là khả năng thực hiện
một công việc nhất định, trong một hoàn cảnh, điều kiện nhất định, đạt được một chỉ tiêu nhất định.
Trên cơ sở những quan niệm của các tác giả về kỹ năng ở cả hai góc độ, chúng tôi quan
niệm rằng: kỹ năng là cách thức con người thực hiện một hành động dựa trên sự hiểu biết và
kinh nghiệm của cá nhân trong những hoàn cảnh nhất định.
1.2.2. Khái niệm kỹ năng sống
Quan niệm của “Tổ chức văn hóa – khoa học và giáo dục của Liên hợp quốc” (UNESCO)
cho rằng: là năng lực cá nhân giúp cho việc thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc
sống hằng ngày.



Quan niệm của “Tổ chức Y tế thế giới” (WHO) coi kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý xã
hội và kỹ năng giao tiếp được vận dụng trong những tình huống hằng ngày để giải quyết có hiệu quả
các vấn đề, các tình huống của cuộc sống nhằm tương tác có hiệu quả với người khác.
Tác giả X.Kommi thì cho rằng: là khả năng con người thực hiện những hành vi thích ứng với
những thách thức và những đòi hỏi của cuộc sống.
Tác giả Huỳnh Văn Sơn quan niệm: là những kỹ năng tinh thần hay những kỹ năng tâm lý, kỹ
năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng với cuộc sống. Tác giả cho rằng
kỹ năng sống nhìn dưới góc độ năng lực tâm lý là những những kỹ năng giúp con người tồn tại về
mặt thể chất và mặt tâm lý [24, tr.7-9].
Từ góc độ tâm lý học tác giả Nguyễn Quang Uẩn khẳng định: là một tổ hợp phức tạp của một
hệ thống kỹ năng nói lên năng lực sống của con người, giúp con người thực hiện công việc và tham
gia vào cuộc sống hằng ngày có kết quả, trong những điều kiện xác định của cuộc sống. [28, tr.2-4].
Trên cơ sở những quan niệm của các tác giả về kỹ năng sống, chúng tôi quan niệm rằng:
kỹ năng sống là những hành vi mà con người thể hiện để ứng phó với những tình huống diễn ra
trong đời sống dựa trên những phẩm chất tâm lý cơ bản của nhân cách và kinh nghiệm của cá
nhân.
1.2.3. Khái niệm nhân cách
Đứng ở góc độ quan điểm sinh vật hóa nhân cách coi bản chất nhân cách nằm trong các đặc
điểm hình thể, ở góc mũi, ở thể tạng, ở bản năng vô thức [5, tr.92]. Dưới góc độ phân tâm học, tác
giả Sigmund Freud quan niệm nhân cách – tâm lý con người gồm 3 khối: vô thức, ý thức và siêu
thức tương ứng với ba khối đó là cái ấy, cái tôi và cái siêu tôi. Ông lý giải thêm cái ấy là bản năng
của con người, cái tôi là cái được hình thành do áp lực từ bên ngoài đến toàn bộ cái bản năng. Cái
tôi có tính chất tự chủ còn cái siêu tôi là tổ chức bên trong bao gồm tất cả các phạm trù xã hội, đạo
đức, nghệ thuật, giáo dục [4, tr.55,56].
Một số nhà tâm lý học Phương Tây dưới góc độ xã hội hóa nhân cách như nhà tâm lý như:
A.G. Côvaliov quan niệm: “Nhân cách là một cá thể có ý thức, chiếm một vị trí nhất định trong xã
hội và đang thực hiện một vai trò xã hội nhất định”. Hay nhà tâm lý E.V Sôdrôkhôva cho rằng:
“Nhân cách là con người với tư cách là kẻ mang toàn bộ thuộc tính và phẩm chất tâm lý, quy định
của hình thức hoạt động và hành vi có ý nghĩa xã hội” [16, tr.67]. Như vậy, khái niệm nhân cách là
một phạm trù xã hội, có bản chất xã hội – lịch sử, nghĩa là nội dung của nhân cách là nội dung của

những điều kiện lịch sử cụ thể, của một xã hội chuyển vào thành đặc điểm nhân cách của từng
người.


Các nhà tâm lý học Việt Nam thì quan niệm: “Nhân cách là sự tổng hòa không phải các đặc
điểm cá thể của con người mà chỉ là những đặc điểm quy định con người như là một thành viên của
xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý – xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá nhân” [5, tr.93].
Tác giả Lê Xuân Hồng và các cộng sự quan niệm: “Nhân cách là tổ hợp các đặc điểm tâm lý
ổn định của con người, quy định giá trị xã hội hành và hành vi xã hội của họ. Nó vừa biểu thị bản
sắc riêng của cá nhân, vừa biểu thị những đặc trưng chung của một nhóm người mà người ấy là đại
diện” [10, tr.198].
Tác giả Nguyễn Ngọc Bích cho rằng: “ Nhân cách là hệ thống những giá trị xã hội của cá
nhân thể hiện những phẩm chất bên trong của cá nhân, mối quan hệ qua lại của cá nhân với cá nhân
khác, với tập thể, với xã hội, với thế giới xung quanh và mối quan hệ của cá nhân với công việc
trong quá khứ, hiện tại và tương lai” [4, tr.233].
Từ điển Tiếng Việt cho rằng: Nhân cách là hệ thống những phẩm giá của một người được
đánh giá từ mối quan hệ qua lại của người đó với những người khác, với tập thể, với xã hội và cả
với thế giới tự nhiên xung quanh trong mọi cái nhìn xuyên suốt quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhân
cách là một thứ giá trị được xây dựng và hình thành trong tòan bộ thời gian con người tồn tại trong
xã hội, nó đặc trưng cho mỗi con người, thể hiện những phẩm chất bên trong con người nhưng lại
mang tính xã hội sâu sắc.
Ở Việt Nam tuy rằng chưa có một định nghĩa nhân cách nào một cách chính thống, song cách
hiểu của người Việt Nam về nhân cách ó thể theo các mặt sau: thứ nhất, nhân cách được hiểu là con
người có đức và tài hay là tính cách và năng lực hoặc là con người có các phẩm chất: đức, trí, thể,
mĩ, lao (lao động); Thứ hai: Nhân cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người;
Thứ ba: Nhân cách được hiểu như các phẩm chất của con người mới: làm chủ, yêu nước, tinh thần
quốc tế vô sản, tinh thần lao động; Thứ tư: Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm người
của con người [4, tr.226].
Tóm lại, khi bàn đến nhân cách chúng ta phải khẳng định rằng: nhân cách là một cấu trúc tâm
lý ổn định và có những đặc điểm nổi bật như: chúng luôn đảm bảo tính thống nhất, tính ổn định,

tính tích cực và tính giao lưu của nhân cách. Muốn tìm hiểu một người nào đó ta phải tìm hiểu họ
trong các mối quan hệ xã hội và phải bao gồm tất cả các nét, các mặt, các phẩm chất có ý nghĩa xã
hội trong một con người. Những thuộc tính này được hình thành trong quá trình tác động qua lại giữ
con người và con người trong xã hội… Khi nói tới nhân cách, cần nhấn mạnh đến một trong những
yếu tố quan trọng nhất của nó, đó là các giá trị, bao gồm: Các giá trị tư tưởng. Các giá trị đạo đức và
các giá trị nhân văn. Hệ thống các giá trị này được hình thành và cũng cố bởi năng lực nhận thức


kinh nghiệm sống của mỗi cá nhân trong quá trình thể nghiệm lâu dài. Nội dung của định hướng giá
trị là niềm tin, thế giới quan đạo đức, nguyên tắc sống… của con người.
1.3. Hệ thống kỹ năng sống cơ bản đối với học sinh.
Có rất nhiều cách phân loại hệ thống kỹ năng sống cơ bản:
1.3.1. Cách phân loại theo WHO: Chia kỹ năng sống thành 3 nhóm:
-

Nhóm 1: Kỹ năng nhận thức: Tự nhận thức, đặt mục tiêu xác định giá trị, óc tư duy, óc sáng
tạo, giải quyết vấn đề, …

-

Nhóm 2: Kỹ năng cảm xúc: Có trách nhiệm về cảm xúc của mình, kiềm chế và kiểm soát
cảm xúc, điều chỉnh cảm xúc bản thân, …

-

Nhóm 3: Kỹ năng xã hội: Giao tiếp - ứng xử, tạo thiện cảm, làm việc nhóm, …
1.3.2. Cách phân loại theo UNESCO: chia kỹ năng sống thành 2 nhóm:

-


Nhóm 1: Bao gồm các kỹ năng: kỹ năng nhận thức, kỹ năng thể hiện cảm xúc, kỹ năng giao
tiếp, …(kỹ năng xã hội)

-

Nhóm 2: Bao gồm: Nhận thức về giới tính, nhận thức về sức khỏe, nhận thức các mối quan
hệ xung quanh, … (kỹ năng chuyên biệt)
1.3.3. Theo Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF): chia kỹ năng sống thành 3 nhóm:

-

Nhóm thứ nhất: Kỹ năng tự nhận thức và sống với chính mình gồm các kỹ năng như: tự nhận
thức và đánh giá bản thân, kỹ năng xây dựng mục tiêu cuộc đời, kỹ năng bảo vệ bản thân…

-

Nhóm thứ hai: Kỹ năng tự nhận thức và sống với người khác bao gồm các kỹ năng như: kỹ
năng thiết lập quan hệ, kỹ năng hợp tác, kỹ năng làm việc nhóm…

-

Nhóm thứ ba: Kỹ năng ra quyết định và làm việc hiệu quả bao gồm các kỹ năng như: phân
tích vấn đề, nhận thức thực tế, ra quyết định, ứng xử, giải quyết vấn đề…
1.3.4. Tác giả Nguyễn Quang Uẩn: chia kỹ năng sống thành 3 nhóm chính [28, tr.1-3]:

-

Nhóm thứ nhất: Kỹ năng về cuộc sống cá nhân bao gồm các kỹ năng: kỹ năng sinh hoạt cá
nhân, kỹ năng rèn luyện giữ sức khỏe, kỹ năng tự nhận thức bản thân, kỹ năng tự ý thức và
có trách nhiệm với bản thân, kỹ năng tự xác định mục đích, kế hoạch cuộc sống…


-

Nhóm thứ hai: Kỹ năng quan hệ với người khác, với cộng đồng, xã hội bao gồm các kỹ năng:
kỹ năng giao tiếp, ứng xử, kỹ năng thiết lập và duy trì các mối quan hệ liên nhân cách, kỹ
năng thực hiện các hành vi văn hóa xã hội, kỹ năng thích ứng xã hội…


-

Nhóm thứ ba: Kỹ năng thực hành công việc bao gồm các kỹ năng: kỹ năng xác định mục tiêu
công việc, kỹ năng lựa chọn và xác định các giá trị, kỹ năng hoạch định công việc, kỹ năng
giải quyết các vấn đề nảy sinh trong công việc, kỹ năng tổ chức thực hiện công việc có kết
quả, kỹ năng đánh giá công việc và rút kinh nghiệm về công việc, kỹ năng chuẩn bị cho các
công việc tiếp theo…
Từ những nhận định của các tác giả trên, chúng tôi quan niệm về việc phân chia kỹ năng

sống thành 3 nhóm chính:
-

Nhóm thứ nhất: Kỹ năng quản lý bản thân bao gồm một số kỹ năng: Kỹ năng xây dựng hình
ảnh bản thân, kỹ năng xác lập mục tiêu cuộc đời, kỹ năng đánh giá bản thân, …

-

Nhóm thứ hai: Kỹ năng giao tiếp - ứng xử với các mối quan hệ xung quanh bao gồm một số
kỹ năng: Kỹ năng ứng xử trong giao tiếp, kỹ năng thấu cảm, kỹ năng thiết lập và duy trì các
mối quan hệ gia đình – xã hội, kỹ năng kiềm chế cảm xúc, kỹ năng hợp tác, kỹ năng chia sẽ,
kỹ năng truyền thông, kỹ năng giải quyết xung đột, …


-

Nhóm thứ ba: Kỹ năng nhận thức các vấn đề liên quan đến cuộc sống bao gồm một số kỹ
năng: Kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề sáng tạo, kỹ năng phân biệt hành vi lạm
dụng và hành vi yêu thương, kỹ năng vượt qua khó khăn, kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng
tổ chức cuộc sống, …
Thông qua việc phân chia kỹ năng sống thành ba nhóm chính, căn cứ vào khoa học tâm

lý và giáo dục cũng như các khoa học nghiên cứu về con người, căn cứ vào thực tế cuộc sống và
dặc điểm phát triển lứa tuổi thiếu niên, đề tài xin phân tích một số kỹ năng sống có giá trị và cần
thiết đối với học sinh lứa tuổi học sinh trung học cơ sở:
-

Kỹ năng tự phục vụ bản thân:
Khái niệm: Mỗi cá nhân tự xác định và trang bị cho mình những kỹ năng phục vụ chính mình

là một việc làm có giá trị cho cuộc sống mỗi người. “Ta chính là người đi trên bước chân của mình
chứ không phải của ai khác”. Để đi được trên chính đôi chân của mình thì mỗi cá nhân sẽ trang bị
các kỹ năng tự phục vụ bản thân như: kỹ năng sống tự lập, kỹ năng quản lý bản thân tránh một số
hành vi tiêu cực, … [17, tr.52-55].
Cách thức rèn luyện: Mỗi người cần tự học thông qua việc cá nhân tham gia tích cực vào các
hoạt động trong cuộc sống. Chủ động tìm những kiến thức từ sách báo, tài liệu khoa học hay tham
gia vào các lớp huấn luyện kỹ năng để thiết lập các kỹ năng cống cho bản thân. Mặt khác, mỗi cà
nhân phải tuân thủ một cách có kỷ luật trong quá trình rèn luyện mà người lớn đã lưu ý và tạo điều
kiện cho chúng ta ngay từ khi bắt đầu thâm nhập vào cuộc sống


Ý nghĩa: Khi mỗi người tự phục vụ được cho chính bản thân mình không những làm cho gia
đình, những người thân xung quanh và xã hội không còn lo lắng hay bất an. Bên cạnh đó, bản thân
của mỗi người sẽ thấy tự tin hơn, cuộc sống trở nên dễ dàng và biết giúp đỡ người khác một cách

thật lòng và hiệu quả
-

Kỹ năng xác lập mục tiêu cuộc đời
Khái niệm: Kỹ năng thiết lập mục tiêu cuộc đời là kỹ năng mà ở đó cá nhân tự đề ra kế hoạch

và thời gian thực hiện kế hoạch muốn thực hiện trong tương lai một cách rõ ràng, hợp lý mang lại
hiệu quả cao.
Mục tiêu được chia làm: mục tiêu ngắn hạn, mục tiêu trung hạn và mục tiêu dài hạn [17,
tr.61].
Cách thức xác lập mục tiêu: Mục tiêu sống của mỗi cá nhân khác nhau nên không thể áp
dụng mục tiêu của người này cho người khác và ngược lại. Mục tiêu được xác lập dựa trên nhu cầu
của mỗi cá nhân, dựa trên năng lực thực sự của mỗi người cũng như nhiều điều kiện khác có liên
quan. Vì thế việc xác lập mục tiêu phải dựa trên việc tìm hiểu và đánh giá đúng bản thân mình [17,
tr.21].
Một số nguyên tắc lưu ý khi thực hiện mục tiêu: mục tiêu phải rõ ràng, thiết thực, cụ thể và
đảm bảo tính nhất quán, hệ thống.
Quá trình xác lập mục tiêu được chia làm các giai đoạn: Giai đoạn xác định mục tiêu; giai
đoạn tìm ra những lợi ích; giai đoạn tìm ra những rào cản (cản trở) khi thực hiện mục tiêu; giai đoạn
xác định những việc làm cụ thể và những cách thức để tiến hành thực hiện; giai đoạn tìm thấy
những cá nhân khác liên quan và hỗ trợ việc thực hiện mục tiêu; giai đoạn xác định thời gian cụ thể;
giai đoạn thực thi kế hoạch và giai đoạn cuối cùng là lượng giá kết quả thực hiện, kế hoạch và hoàn
chỉnh mục tiêu
Ý nghĩa: Xác lập được mục tiêu sẽ là điều kiện phát huy hết được những điểm mạnh và
những điểm yếu của bản thân từ đó sẽ dần bước lên những nấc thang thành công trong cuộc sống.
Xác lập mục tiêu cuộc đời là cách giúp mỗi cá nhân định hướng được cuộc đời của mỗi người. Giúp
cá nhân sống có mục đích, lý tưởng và sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.

-


Kỹ năng quản lý thời gian hiệu quả:
Khái niệm: Là kỹ năng nhận định, ước lượng và phân bố thời gian hợp lý cho từng công việc

nhằm đạt hiệu quả cao nhất và cân bằng cuộc sống của bản thân.


Một cuộc sống ngày nay với sự đòi hỏi ngày càng cao trong công việc bắt buộc chúng ta phải
có kỹ năng làm việc tốt để có thể thích nghi được với nó, đạt được kết quả cao trong công việc cũng
như cân bằng được cuộc sống cá nhân và gia đình. Tuy nhiên, với quỹ thời gian bất biến thì không
phải lúc nào chúng ta cũng có thể giải quyết hài hoà được việc này. Vậy tại sao trong một chừng
mực thời gian nhất định, có người chẳng làm nên trò trống gì trong khi một số người làm được vô
khối việc lớn lao to tát? Phải chăng họ có một khả năng siêu phàm và quỹ thời gian nhiêu hơn so
với những người bình thường khác?
Quỹ thời gian của mọi người là như nhau, vì thế, câu trả lời không nằm ở chỗ chúng ta có
bao nhiêu thời gian để làm các công việc đó như thế nào cho hiệu quả. Để sử dụng thời gian của
mình một cách tốt nhất, trước hết, mỗi cá nhân phải nhận định năng lực làm việc của bản thân dựa
trên phân tích những điểm mạnh, điểm yếu đối với công việc mình đang đảm nhiệm, từ đó mà biết
mình mong muốn điều gì trong sự nghiệp ở thời điểm hiện tại cũng như trong tương lai. Đây chính
là công việc đặt cho bản thân mình một mục tiêu để hướng tới.
Cách thức xác lập việc quản lý thời gian hiệu quả:
Tiến trình tổ chức thực hiện và rèn luyện kỹ năng tổ quản lý thời gian hiệu quả: trước hết mỗi
người hãy học cách làm việc có tổ chức bằng cách: lên kế hoạch cho những việc cần làm, xác định
việc ưu tiên. Sau đó hãy khẳng định xem đâu là những việc mình làm tốt nhất, tập trung toàn bộ
công việc lại thành một mối, chia nhỏ công việc theo thứ tự cần làm và cuối cùng tập cho mình tính
kỹ luật bằng cách “chưa hết việc chưa nghĩ – hết việc hết hãy đi nhanh”
Vận dụng nguyên tắc SMART trong thiết lập và quản lý thời gian tức là mục tiêu được xây
dựng dựa trên những tiêu chí sau: S-Specific: Cụ thể, rõ ràng và dễ hiểu; M-Measurable: Đo đếm
được; A-Achievable: Có thể đạt được bằng chính khả năng của mình; R-Realistic: Thực tế, không
viển vông; Time bound; Thời hạn để đạt được mục tiêu đã vạch ra [12, tr.78].
Ý nghĩa: Những người quản lý thời gian hiệu quả sẽ có tư duy rành mạch hơn, rõ ràng hơn,

họ là những người sáng tạo hơn và làm việc tốt hơn. Biết cách quản lý thời gian sẽ làm cho cuộc
sống dễ dàng hơn. Cá nhân sẽ tránh được căng thẳng, tăng năng suất và hiệu quả công việc. Đặc biệt
khi quản lý đượca bản thân kình, cá nhân đó sẽ có cảm giác được tận hưởng một không gian và thời
gian dành cho bản thân, làm tăng giá trị sống cho bản thân
-

Kỹ năng điều chỉnh và quản lý cảm xúc
Khái niệm: Là kỹ năng nhận diện, biết, hiểu và điều chỉnh cảm xúc của bản thân một cách

hợp lý nhằm duy trì trạng thái cân bằng của cơ thể để tránh những căng thẳng vốn không cần thiết
trogn cuộc sống.



×