Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

SỰ BIẾN đổi TRONG văn hóa ỨNG xử với môi TRƯỜNG tự NHIÊN NHÌN từ HOẠT ĐỘNG sản XUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.67 KB, 7 trang )

SỰ BIẾN ĐỔI TRONG VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ
NHIÊN: NHÌN TỪ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT
Tóm tắt: Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên trong hoạt động sản xuất của con
người đã có sự thay đổi theo nhiều hình thái kinh tế - xã hội: từ chỗ lệ thuộc hoàn toàn vào
môi trường tự nhiên, con người đã chuyển sang tác động vào môi trường tự nhiên, coi tự
nhiên là đối tượng khai thác phục vụ các nhu cầu phát triển. Quá trình biến đổi đó đã tạo ra
nhiều mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên đòi hỏi con người phải thay đổi cách ứng xử với
tự nhiên sao cho hợp lý để giải quyết xung đột giữa nhu cầu sống, nhu cầu về một môi trường
an toàn và đạt hiệu quả kinh tế cao nhất, với nguyên tắc, con người là trung tâm của phát triển
bền vững: phát triển bền vững cần lấy con người làm đích của sự phát triển.
1. Mở đầu
Khẳng định về vai trò của môi trường trong quá trình phát triển của nhân loại, ngay từ
những năm 1972, Tuyên bố Stockholm về Môi trường và Con người, Liên hợp quốc (UN) đã
khẳng định1: "Con người vừa là sinh vật vừa là người nhào nặn môi trường của mình. Môi
trường tạo cho con người phương tiện sinh nhai về mặt thể chất và ban cho con người cơ hội
phát triển trí tuệ, đạo đức, xã hội và tinh thần. Trong suốt quá trình tiến hóa quanh co và lâu
dài của nhân loại trên hành tinh này, con người với sự thúc đẩy nhanh của khoa học và công
nghệ đã tiến đến một giai đoạn giành được sức mạnh làm biến đổi môi trường của mình bằng
hằng hà xa số những cách và qui mô chưa từng có. Tất cả các khía cạnh về môi trường của
con người, về thiên nhiên và nhân tạo đều mang tính chất cốt yếu đối với phúc lợi của con
người, thiết yếu cho việc được hưởng các quyền cơ bản và ngay cả quyền bản thân cho cuộc
sống" và "Bảo vệ và cải thiện môi trường con người là một vấn đề lớn có ảnh hưởng tới phúc
lợi của mọi dân tộc và phát triển kinh tế trên toàn thế giới; đó là khao khát khẩn cấp của các
dân tộc trên khắp thế giới và là nhiệm vụ của mọi Chính phủ".
Như vậy, từ lâu giữa con người và môi trường tự nhiên luôn luôn tồn tại mối quan hệ
tương tác hữu cơ chặt chẽ, hay nói cách khác, chúng có ảnh hưởng và chi phối lẫn nhau tạo
nên một hệ thống, một chỉnh thể toàn vẹn. Môi trường tự nhiên giữ vai trò quan trọng trong
việc đáp ứng các nhu cầu căn bản của con người để sinh tồn và phát triển – môi trường nào thì
hình thành phương thức khai thác và sử dụng tương ứng, dần dần quy định lối sống tức là văn
hóa của xã hội ấy; ngược lại, văn hóa tác động trở lại đến môi trường tự nhiên thông qua các
hành vi ứng xử của con người một cách hài hòa với tự nhiên.


Tuy nhiên, cùng với tiến trình phát triển kinh tế xã hội đã làm cho mối quan hệ này
ngày càng căng thẳng và hình thành những mâu thuẫn sâu sắc trong khai thác, sử dụng tài
nguyên thiên nhiên; dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng cho cả tự nhiên và con người bởi sự
ứng xử thiếu văn hóa của con người với môi trường tự nhiên. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra là
cần phải thay đổi cách ứng xử với tự nhiên theo hướng hài hòa và hợp lý nhằm khai thác, sử
dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên thiên nhiên, đồng thời giải quyết các mâu thuẫn giữa
nhu cầu sống và nhu cầu về một môi trường an toàn cho con người. Để đạt được mục đích này
đòi hỏi phải tiến hành những nghiên cứu so sánh về các phương thức khai thác, sử dụng môi
trường tự nhiên, từ đó làm rõ mức độ thích nghi, hiệu quả kinh tế xã hội, môi trường trong sử
dụng.
1 Cục Môi trường - Hành trình vì sự phát triển bền vững 1972-1992-2002. NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002.

1


Trong phạm vi bài báo này, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu so sánh văn hóa ứng xử với
môi trường tự nhiên trong hoạt động sản xuất ở các vùng miền khác nhau. Trên cơ sở đó, đề
xuất các định hướng khai thác, sử dụng hiệu quả và bền vững môi trường tự nhiên.
2. Một số hướng tiếp cận trong nghiên cứu văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
Trong bất cứ một hoàn cảnh nào, con người đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của những
điều kiện địa lí và lịch sử. Con người phải học cách sống hài hòa và thích nghi với môi trường
tự nhiên để điều hòa nhịp sống của mình. Quá trình này đã hình thành các yếu tố văn hóa, gọi
là " văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên" - được thể hiện rõ trong đời sống sinh hoạt và
sản xuất của con người. Để tìm hiểu và lý giải mối quan hệ giữa con người và môi trường tự
nhiên đã xuất hiện nhiều hướng tiếp cận nghiên cứu khác nhau, mỗi hướng tiếp cận đều có cơ
sở khoa học và lịch sử phát triển riêng. Nổi bật như:
Thuyết quyết định luận môi trường (Environmental determinism) cho rằng chính các
điều kiện môi trường vật chất có ảnh hưởng quyết định đến văn hóa. Điều kiện tự nhiên, nhất
là điều kiện khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động sản xuất và xã hội của con người.
Tuy nhiên, quan điểm này bị chỉ trích gay gắt bởi nó nhìn nhận con người ở vai trò thụ động

trong mối quan hệ với tự nhiên và trở thành công cụ bào chữa cho tình trạng bóc lột thuộc địa
và chiến tranh xâm lược của các đế quốc 2. Sự ra đời của thuyết khả năng môi trường
(Environmental possibilism) được coi như là một sự phản biện của thuyết quyết định luận môi
trường. Các học giả cho rằng mặc dù môi trường có ảnh hưởng nhất định đến văn hóa, nhưng
con người mới là nhân tố quyết định nên bản sắc của một nền văn hóa. Cơ sở để lý giải cho
nhận định này là: (i) Có thể tìm thấy nhiều nền văn hóa khác nhau trong cùng một điều kiện
môi trường; (ii) cũng có thể tìm thấy nhiều nền văn hóa tương đồng với nhau ở những điều
kiện môi trường khác nhau3.
Sang thế kỷ 20, đã xuất hiện một số trường phái nghiên cứu mối quan hệ giữa con
người và môi trường theo các tiếp cận chuyên ngành, như: nhân học sinh thái với 5 hướng
tiếp cận: sinh thái học linh trưởng, sinh thái học văn hóa, sinh thái học lịch sử, sinh thái học
chính trị, sinh thái học tín ngưỡng. Các hướng nghiên cứu này được thực hiện ở những cộng
đồng nhỏ, nơi có sự thống nhất cao hơn về tri thức môi trường và biên độ đa dạng của môi
trường cũng nằm trong khả năng nhận thức, điều chỉnh của con người. Đồng thời, nhấn mạnh
vai trò của văn hóa trong quá trình thích nghi với môi trường tự nhiên và kêu gọi sự thay đổi
trong lối sống, hướng con người tới thái độ thân thiện hơn đối với môi trường4.
Hướng tiếp cận nghiên cứu nổi bật tiếp theo đó là tiếp cận nghiên cứu lịch sử môi
trường - hướng tiếp cận liên ngành và được thực hiện trong một không gian rộng hơn, xuyên
suốt một quá trình lịch sử xác định. Ngoài ra, sự ra đời của Triết học Mác – Lênin đã tạo ra
bước ngoặt trong lý giải mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên với quan điểm
duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy mới giúp chúng ta nhận thức một cách khoa
học về mối quan hệ hữu cơ này qua các quan niệm về con người, tự nhiên, vị trí của con
người trong mối quan hệ với tự nhiên, sự tác động biện chứng giữa con người và tự nhiên.
2 Phạm Quang Anh & nnk (2002), Địa lý học hiện đại với cơ sở khoa học cho bước công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông thôn miền núi Việt Nam, Thông báo khoa học của các trường Đại học.
3 Terry Rambo (1986), Conceptual Approaches to Human Ecology, Research Report No.14, East-West
Environment and Policy Institute.
4 Vũ Quế Hương &nnk (2011), Một số vấn đề cơ bản về văn hóa môi trường nhằm thực hiện chiến lược PTBV ở
Việt Nam giai đoạn 2011-2020, Đề tài cấp Bộ Viện KHXHVN


2


Thực chất, quan hệ giữa con người và tự nhiên được hình thành thông qua lao động sản xuất
và các hoạt động cải biến, vận dụng tự nhiên để tạo ra các điều kiện sinh hoạt phù hợp. Điều
đó cho thấy, chính lao động đã nâng con người lên cao hơn giới động vật, nó cũng nâng con
người lên cao hơn giới tự nhiên; đồng thời liên kết chặt hơn với tự nhiên.
Trên cơ sở phân tích trên đây, có thể rút ra những điểm cốt lõi sau, đó là:
- Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên là một bộ phận của văn hóa nói chung.
- Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên là tổng hòa các qui tắc, nguyên tắc, chuẩn
mực mang tính bản sắc và tính trường tồn; nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của
mình với môi trường sao cho phù hợp với lợi ích của con người, với tiến bộ xã hội và với sự
phát triển môi trường một cách bền vững.
Như vậy, văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên thể hiện hành vi của con người đối
với môi trường vừa mang tính bắt buộc và vừa mang tính tự giác. Nó mang tính bắt buộc vì
đó là chuẩn mực và quy tắc xã hội. Nó mang tính tự giác vì ở đây khi cá nhân và cộng đồng
thực hiện các quy tắc và chuẩn mực đối với môi trường do bị thôi thúc của lương tâm, do tự ý
thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với môi trường. Họ nhận thức được sự cần
thiết phải bảo vệ môi trường vì cuộc sống của mình, của cộng đồng và xã hội.
3. Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên trong hoạt động sản xuất
3.1. Môi trường tự nhiên Việt Nam
Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, nơi tiếp giáp với các lục địa và đại
dương, có tọa độ trên đất liền 23o23’ Bắc trên sơn nguyên Đồng Văn và 8 o31’ Bắc tại mũi Cà
Mau, 102o10’ Đông trên núi Pulasan và 109o24’ Đông tại bán đảo Hòn Gốm. Phần đất liền
kéo dài 15 vĩ tuyến và tương đối hẹp ngang, bù lại phần trên biển mở khá rộng về phía đông,
đồng thời xuống thêm một ít về phía nam. Diện tích phần đất liền là 330.991km 2 còn phần
lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế trên biển khoảng gần 1.000.000 km 2. (theo quyển bản đồ
hành chính Việt Nam)
Do vị trí địa lý, thiên nhiên Việt Nam mang đậm tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa, nền
nhiệt - ẩm cao, nắng lắm, mưa nhiều, có tính biến động cao bởi ảnh hưởng của bão về mùa hè

và các đợt gió lạnh dẫn đến sự giảm nhiệt độ vào mùa đông, lượng mưa phân hóa không đều
cả về không gian và thời gian, điều đó làm nên mật độ sông ngòi dày đặc (0,12 km/km2), bao
gồm: 124 hệ thống sông với tổng diện tích lưu vực là 292.470km 2 ; nhưng, hầu hết các lưu
vực sông lớn đều ngoài lãnh thổ Việt Nam. Nước ta có sự đa dạng và phức tạp về điều kiện
địa hình với ¾ diện tích lãnh thổ là đồi núi thấp dần từ Tây Bắc sang Đông Nam, từ miền núi
đến miền đồng bằng; bờ biển dài kéo dài từ Bắc chí Nam với rất nhiều đảo, quần đảo đã tạo
nên điều kiện thuận lợi để phát triển một nền kinh tế tổng hợp và đa dạng phục vụ các mục
đích phát triển, nhưng cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai và các vấn đề môi trường.
Thực vậy, những điều kiện môi trường tự nhiên đa dạng và phong phú, nhất là điều
kiện sinh - khí hậu đã tạo ra những khác biệt trong tập quán sản xuất và đời sống sinh hoạt
mang nét đặc thù của từng vùng miền của người Việt. Người dân đã có những phương thức
sinh sống khác nhau trong những thời kỳ lịch sử nhất định, để có thể thích nghi và khai thác
có hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên. Điều này được thể hiện rất rõ trong văn hóa
ứng xử của người Việt với môi trường tự nhiên.
3.2.
Văn hóa ứng xử truyền thống với môi trường tự nhiên trong hoạt động sản xuất
Văn hóa ứng xử truyền thống của người dân Việt Nam với môi trường tự nhiên chính
là thái độ sống hài hòa và nương nhờ vào thiên nhiên. Điều này được thể hiện trước hết trong
3


tâm thức của người dân dưới dạng quan niệm vừa mang tính bác học, vừa mang đậm tính triết
lý sống dân gian: “Thiên –Nhân hợp nhất”, “Thiên – Địa – Nhân hòa”… được thể hiện đậm
nét qua nếp ăn, xây cất nhà cửa, đi lại, tín ngưỡng,… và cả trong tập quán sản xuất. Con
người đã phát triển nhiều phương thức sử dụng, khai thác tài nguyên thiên nhiên phù hợp với
điều kiện tự nhiên của từng vùng miền, từng dân tộc.
Vùng đồng bằng được hình thành nhờ sự bồi đắp phù sa của các con sông với những
ưu điểm: đất đai màu mỡ, nguồn nước ngọt dồi dào kết hợp với khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa
rất thích hợp cho hoạt động nông nghiệp đặc biệt là trồng lúa nước. Trong những buổi đầu sơ
khai, đất rộng - người thưa thì cách ứng xử của con người với môi trường tự nhiên chủ yếu là

thích nghi và tận dụng tự nhiên bằng phương thức canh tác và sử dụng hài hòa.
Trước hết, chọn vị trí canh tác theo nguyên tắc: vùng có địa thế tương đối bằng phẳng
với độ dốc thích hợp nhất là <3 o, đất có thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến trung bình, tầng đất
càng dày càng phù hợp, có điều kiện tưới tiêu chủ động. Thông thường là các thềm sông cổ,
các bãi bồi ven sông, suối,…. Tiếp theo, kỹ thuật thủy lợi - yếu tố quyết định đến hiệu quả và
năng suất cây trồng, đặc biệt là cây lúa nước, nước phải đủ và cũng vừa cho cây lúa sinh
trưởng, để cân bằng lượng nước. Người dân còn tận dụng thủy triều làm nâng hay hạ mực
nước sông để dẫn nước vào ruộng và tháo nước ra sông biển hay đắp bờ ruộng, dẫn nước theo
kênh, mương; đặc biệt với đòi hỏi phải mở rộng diện tích canh tác, các hình thức quai đê lấn
biển đã được phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người dân do sức ép dân
số, đồng thời ứng phó hiệu quả với thiên tai, bão lũ. Kỹ thuật thâm canh, tăng vụ - kết hợp
giữa sử dụng đa dạng, có sàng lọc, lựa chọn các loại giống tốt với kỹ thuật sử dụng phân bón
hữu cơ phù hợp với từng môi trường, từng giống loài đã tạo ra năng suất và sản lượng cao,
đồng thời tạo cơ cấu cây trồng phong phú hơn.
Bên cạnh, tận dụng nguồn nước cho phát triển trồng trọt, người dân đã phát triển chăn
nuôi và nuôi trồng, đánh bắt thủy sản với mô hình canh tác truyền thống là kết hợp giữa làm
ruộng với làm vườn, chăn nuôi gia súc, gia cầm với thả cá vừa tận dụng được tối đa các nguồn
tài nguyên thiên nhiên vừa tăng năng suất, đa dạng hóa sản phẩm trao đổi với thị trường và
đáp ứng các nhu cầu cho cuộc sống. Đặc biệt, tận dụng thời gian nông nhàn, người dân đã
phát triển nhiều nghề thủ công dựa vào các nguồn tài nguyên sẵn có.
Vùng miền núi – điều kiện địa hình cao, dốc, hiếm đất bằng để canh tác phù hợp trồng
lúa nước; người dân đã khắc phục bằng các phương thức canh tác phù hợp, đó là: làm ruộng
bậc thang và canh tác nương rẫy. Đối với ruộng bậc thang, vị trí canh tác được chọn thường
là các sườn đồi, núi có đất màu, bạt tam cấp với độ dốc < 10 0 . Người H’Mông có thể xây
dựng ruộng bậc thang ở độ cao trên 1.500m và độ dốc > 25 0 để tạo thành những vạt đất bằng.
Ruộng bậc thang - phương thức canh tác chủ yếu đã được bảo tồn và phát triển bền vững, vừa
đảm bảo cung cấp lương thực cho người dân, vừa tạo cảnh quan tuyệt sắc cho núi rừng, nhất
là vùng Tây Bắc. Kỹ thuật thủy lợi - người dân đã biết tận dụng lợi thế của địa hình và dòng
chảy làm mương để “dẫn thuỷ nhập điền”. Trong đó, nổi bật là hệ thống thủy lợi của người
Thái được gói gọn trong bốn từ “Mương – Phai – Lái – Lịn”, trong đó chiếc cọn nước là công

cụ tiêu biểu cho việc tận dụng sức nước để đưa nước từ thấp lên cao, bằng phương pháp
"Hoả- Canh-Thuỷ- Nậu".
Canh tác nương rẫy – phương thức canh tác quan trọng của người dân vùng Tây
Nguyên với nguyên tắc chọn rẫy: độ dốc thấp, hình thể đất ít lồi lõm, cây to vừa phải, gần
nước, ẩm độ cao, đón nắng buổi sáng, khuất nắng buổi chiều. Kỹ thuật canh tác chủ yếu là
4


xen canh và luân canh nhằm tiết kiệm đất, hạn chế xói mòn do mưa và nâng cao hiệu quả sử
dụng đất với chế độ luân khoảnh đã đảm bảo được độ phì của đất.
Trong quá trình canh tác người dân rất coi trọng việc bảo vệ rừng – nơi con người
nương tựa để tồn tại, nơi duy trì nguồn nước, nơi hình thành những bản sắc văn hóa đặc trưng.
Điển hình như: cách ứng xử với rừng ban trong văn hóa người Thái nói riêng, Tây Bắc nói
chung đã thể hiện tính nhân văn trong cái nhìn sinh thái học, thể hiện trình độ khoa học cao
trong khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên. Thực vậy, chỉ có ban mới mọc được ở
nơi đất cằn. Nhờ có ban giữ lại mùn từ trên cao chảy xuống mà đất cằn tái sinh, ngăn lũ ống
bảo vệ ruộng vườn, đảm bảo quyền lợi lâu dài của tất cả các dân tộc trong vùng.
Như vậy, phương thức sản xuất truyền thống của người Việt, dù ở miền đồng bằng
hay miền núi đều hòa hợp với thiên nhiên, nương tựa vào thiên nhiên. Nhưng với sự gia tăng
của dân số và các phương thức khai thác triệt để tài nguyên, nhằm đáp ứng những nhu cầu
ngày càng tăng của con người đang làm cho thiên nhiên ngày càng biến đổi và suy thoái.
3.3. Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên trong những năm gần đây
Việt Nam đang thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới kinh tế là trung
tâm, nhằm tạo đòn bẩy đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, đảm bảo an sinh xã
hội và phát triển bền vững. Để đạt được mục tiêu này, các ngành kinh tế đang tăng cường khai
thác và tận dụng tối đa tài nguyên thiên nhiên sẵn có. Nhưng, sự tăng tiến và gia tốc đó đã sử
dụng các phương thức khai thác, chế biến và sử dụng còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với
nguyên tắc phát triển bền vững tức là chưa “hài hòa” và “thân thiện”với môi trường tự nhiên.
Chẳng hạn, trong nông nghiệp, kỹ thuật canh tác thiên về hóa chất đã làm ô nhiễm, sơ
cứng và độ phì của đất giảm; như đối với đất lúa vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH), việc

bón phân chỉ bù đắp được có 30% lượng dinh dưỡng lấy từ đất; ở miền núi thì vòng quay đốt
rừng làm rẫy ngày càng ngắn dần, đất đai trở nên cằn cỗi; kỹ thuật thủy lợi - việc trị thủy các
con sông đã được tiến hành tổng hợp nhưng chưa đạt hiệu quả cao trong điều tiết lũ mà chủ
yếu làm nhiệm vụ sản xuất điện năng. Ngoài thay đổi phương thức canh tác, còn đòi hỏi mở
rộng diện tích trồng trọt đã làm cho nhiều cánh rừng bị chặt phá thay vào đó là cây công
nghiệp không đảm bảo được mức độ che phủ và điều hòa môi trường. Đây là một trong những
nguyên nhân chính gây ra các tai biến thiên nhiên, ảnh hưởng rất lớn tới đời sống của người
dân Việt Nam.
Các khu công nghiệp tập trung và các làng nghề được khôi phục là nhân tố động lực
đóng góp quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, biến vùng thuần
nông thành vùng kinh tế trọng điểm có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, phổ biến trên
10%/năm… Bên cạnh mặt tích cực là giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động
thì hoạt động sản xuất tại các khu công nghiệp và làng nghề đã tác động xấu tới môi trường
sống. Bởi quy hoạch phân bố và phương thức sản xuất công nghiệp chưa hợp lý. Các khu
công nghiệp và đô thị được xây dựng chủ yếu trên đất nông nghiệp, nhất là đất canh tác lúa
nước của vùng đồng bằng khiến cho quỹ đất nông nghiệp bị thu hẹp, như: ĐBSH có tỷ lệ đất
chuyên dùng và đất thổ cư cao nhất trong cơ cấu sử dụng đất, chiếm 21,8% năm 2014; trong
khi đó bình quân đất sản xuất nông nghiệp trên đầu người lại thấp nhất cả nước
(0,04ha/người, năm 2014)5. Tính đến tháng 12/2015, cả nước có 304 KCN, trong đó vùng
ĐBSH với 79 KCN (chiếm 26,1% cả nước) và vùng Tây Nam Bộ với 51 KCN (chiếm 17,1%
5 Tổng cục Thống kê (2014), Niên giám thống kê, Nxb. Thống kê

5


cả nước)6. Ngoài ra, sản xuất công nghiệp với quy trình sản xuất lạc hậu kéo theo tỷ suất phát
thải cao. Theo đánh giá, chi phí tài nguyên và mức phát thải trung bình của các doanh nghiệp
Việt Nam đều cao hơn so với mức trung bình của khu vực và thế giới. Mức sử dụng nước ở
nhiều ngành công nghiệp là rất cao và lãng phí. Đặc biệt, thất thoát nước trong sản xuất không
thể kiểm soát được. Rõ rệt nhất là ngành giấy: để sản xuất được một đơn vị sản phẩm đạt mức

trên 500 m3/ 1 tấn giấy, gấp 5 lần so với chỉ tiêu trên thế giới (xấp xỉ 100 m 3/tấn). Nước thải
của công nghiệp chế biến thực phẩm cũng tương tự cao gấp 3-4 lần. Ngoài ra, chi phí năng
lượng cao cũng phổ biến trong các ngành công nghiệp: ngành giấy tiêu hao 1.200 kwh và
1.500 kg than/ 1 tấn giấy tẩy trắng, ngành thép cần 700.000 kwh/ 1 tấn thép thỏi và 25kwh/ 1
tấn gang tinh luyện. Công nghiệp chi phí tài nguyên và phát thải cao, hơn nữa lại phân bố
thiếu hợp lý xen lẫn với dân cư, gần các đô thị đã để lại hậu quả môi trường nặng nề ảnh
hưởng đến sinh hoạt cộng đồng7.
Bên cạnh đó, các mô hình tiêu dùng của phương Tây đang du nhập rất nhanh vào nước
ta- đặc biệt là thế hệ trẻ ở các đô thị, đây là nhân tố chính của kiểu sống hưởng thụ đáng lưu ý,
một kiểu sống khác xa với nền tảng văn hoá truyền thống. Lối sống này đã tác động mạnh tới
khả năng chịu tải của môi trường tự nhiên, mở rộng khoảng cách giữa giàu và nghèo và góp
phần vào sự xuống cấp của môi trường.
Có thể thấy rằng, phương thức khai thác và sử dụng môi trường tự nhiên của con người
đã có sự thay đổi vô cùng to lớn từ chỗ tương đối hài hòa với thiên nhiên, con người đã
chuyển sang tác động “thô bạo” vào thiên nhiên. Sự can thiệp của con người vào thiên nhiên
cùng với sự ứng xử thiếu văn hóa với môi trường tự nhiên đã làm cho môi trường cảnh quan
bị biến đổi, ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng môi trường sống; sự phụ thuộc lẫn nhau,
sự cân bằng giữa con người và tự nhiên bị phá vỡ. Càng ngày, chúng ta phá hoại môi trường
của mình càng trầm trọng hơn, làm cho sức tải và chức năng tự điều chỉnh của môi trường
không phát huy hiệu quả, dẫn đến ô nhiễm môi trường. Các chất thải gây ô nhiễm môi trường
đã trực tiếp hoặc gián tiếp đi vào cơ thể con người làm ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.
4. Kết luận
Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên trong hoạt động sản xuất của con người đã
có sự thay đổi theo nhiều hình thái kinh tế - xã hội: từ chỗ sống hòa mình vào với tự nhiên,
phụ thuộc mù quáng vào giới tự nhiên đã chuyển sang đối lập với tự nhiên, bắt đầu coi tự
nhiên là đối tượng để khai thác và bóc lột nhằm đáp ứng các nhu cầu kinh tế - xã hội ngày
càng cao của mình. Quá trình biến đổi này đã tạo ra nhiều mâu thuẫn giữa con người và tự
nhiên đòi hỏi con người cần phải thay đổi cách ứng xử với tự nhiên, phải lựa chọn cách ứng
xử cho hợp lý để giải quyết xung đột giữa nhu cầu sống, nhu cầu về một môi trường an toàn
và đạt hiệu quả kinh tế cao nhất, với nguyên tắc, con người là trung tâm của phát triển bền

vững: phát triển bền vững cần lấy con người làm đích của sự phát triển.
Trước hết, phải ứng xử hài hòa với môi trường tự nhiên, đó là khai thác hợp lý, sử
dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái
vào bảo vệ môi trường lâu bền. Từng bước thực hiện nguyên tắc “mọi mặt: kinh tế, xã hội,
môi trường đều cùng có lợi”. Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường phải được coi là một
6 />7 Trần Thị Tuyết (2011), Sản xuất và tiêu dùng bền vững – giải pháp ưu tiên nhằm thích ứng với biến đổi khí
hậu, Tạp chí Phát triển bền vững, số 4

6


yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triển. Tích cực và chủ động phòng ngừa, ngăn
chặn những tác động xấu đối với môi trường do hoạt động của con người gây ra8.
Đồng thời, nâng cao nhận thức đối với mọi tầng lớp xã hội, nhất là tầng lớp tiêu dùng
trẻ, thúc đẩy lối sống lành mạnh, khuyến khích sử dụng các nguồn tài nguyên hiệu quả hơn;
ứng dụng các công nghệ ít gây ô nhiễm môi trường; áp dụng các biện pháp canh tác thân thiện
với môi trường và sử dụng các nguyên vật liệu và năng lượng có khả năng tái sinh, các thiết bị
tiết kiệm năng lượng, các tòa nhà và phương tiện vận chuyển có lượng phát thải cacbon thấp.
Ngoài ra, Chính phủ cũng cần có các chính sách xây dựng con người mới, văn hóa
mới ứng xử với môi trường tự nhiên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế
đất nước trước bối cảnh hội nhập quốc tế và sự biến đổi khí hậu toàn cầu, nước biển dâng;
nhằm đưa nước ta tiến nhanh, tiến mạnh, nhưng bền vững cả ba mặt: “kinh tế, xã hội và môi
trường”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Quang Anh & nnk (2002), Địa lý học hiện đại với cơ sở khoa học cho bước
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn miền núi Việt Nam, Thông báo khoa học của các
trường Đại học.
2. Cục Môi trường - Hành trình vì sự phát triển bền vững 1972-1992-2002. NXB.
Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2002.

3. Vũ Quế Hương &nnk (2011), Một số vấn đề cơ bản về văn hóa môi trường nhằm
thực hiện chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020, Đề tài cấp Bộ
Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Lưu trữ tại thư viện Viện Địa lí nhân văn
4. Quyết định số 432/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ : Phê duyệt Chiến lược Phát
triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020
5. Terry Rambo (1986), Conceptual Approaches to Human Ecology, Research Report
No.14, East-West Environment and Policy Institute.
6. Tổng cục Thống kê (2014), Niên giám thống kê, Nxb. Thống kê.
7. Phan Anh Tú (2014), Ứng xử với môi trường tự nhiên của người Khmer ở Nam Bộ:
Nhìn từ sinh thái học phật giáo, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo,số 05 (131), tr.61-69
8. Trần Thị Tuyết (2011), Sản xuất và tiêu dùng bền vững – giải pháp ưu tiên nhằm
thích ứng với biến đổi khí hậu, Tạp chí Phát triển bền vững, số 4.
9. Trần Quốc Vượng (1996), Văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. />
8 Quyết định số 432/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ : Phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam
giai đoạn 2011 – 2020

7



×