Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Kết cấu thơ trữ tình (nhìn từ góc độ loại hình)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.57 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HÀ NỘI
…o0o…

PHAN HUY DŨNG

KẾT CẤU THƠ TRỮ TÌNH
(NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LOẠI HÌNH)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Hà Nội 1999


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HÀ NỘI
…o0o…

PHAN HUY DŨNG

KẾT CẤU THƠ TRỮ TÌNH
(NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LOẠI HÌNH)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Chuyên ngành: Lý thuyết và Lịch sử văn học
Mã số: 50401

Người hướng dẫn khoa học:
GS.PTS. Trần Đình Sử

Hà Nội 1999




LỜI CẢM ƠN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các dẫn liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án

Phan Huy Dũng


MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... 3
MỤC LỤC ............................................................................................................ 4
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 5
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 5
2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................................... 7
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................................... 12
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 12
5. Đóng góp mới của luận án ................................................................................. 13
6. Cấu trúc của luận án .......................................................................................... 13

Chương 1: KHÁI NIỆM KẾT CẤU THƠ TRỮ TÌNH ................................ 14
1.1. Khái niệm kết cấu tác phẩm văn học ............................................................ 14
1.2. Thơ trữ tình và kết cấu thơ trừ tình. ............................................................. 17
1.3. Kết cấu hình tượng của thơ trữ tình ............................................................. 25
1.4. Kết cấu văn bản ngôn từ thơ trữ tình ........................................................... 41


Chương 2: LOẠI HÌNH KẾT CẤU THƠ TRỮ TÌNH ................................. 62
2.1. Khái niệm loại hình kết cấu thơ trữ tình ...................................................... 62
2.2. Loại hình kết cấu thơ trữ tình dân gian ........................................................ 77
2.3. Loại hình kết cấu thơ trữ tình cổ điển........................................................... 83
2.4. Loại hình kết cấu thơ trữ tình hiện đại ......................................................... 93

Chương 3: LOẠI HÌNH KẾT CẤU CỦA THƠ MỚI 1932 – 1945 ............ 106
3.1. Những nguyên tắc kết cấu của Thơ mới 1932 -1945 .................................. 106
3.2. Kết cấu hình tượng của Thơ mới ................................................................. 123
3.3. Kết cấu văn bản ngôn từ của Thơ mới ........................................................ 146

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 168


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Kết cấu là một phạm trù phổ quát cả trong đời sống xà hội lẫn trong văn
học. Ở đâu có sự chế tác sản phẩm mới từ những vật liệu, chất liệu khác nhau, ở đó
người ta thấy vai trò của kết cấu. Trong xây dựng, kiến trúc, vai trò của kết cấu càng
nổi bật và dễ nhận ra. Không phải ngẫu nhiên mà thuật ngữ kết cấu xuất hiện đầu tiên
trong lĩnh vực hoạt động này của con người. Sang tác văn học, xét theo một phương
diện nào đó cũng chính là kết cấu. Trong một tác phẩm văn học bao giờ cũng có sự
dung hợp, quyện hòa giữa những yếu tố khác loại như tinh thần và vật chất, chủ quan
và khách quan, tĩnh tại và vận động, vô hạn và hữu hạn... Ở đó, chúng ta tìm thấy mối
liên hệ giữa các không gian khác nhau và điểm gặp gỡ của những thời gian khác nhau.
Chính kết cấu chứ không phải cái gì khác là phương tiện đảm bảo cho những
mối quan hệ và liên hệ đó trở thành hiện thực - những mối quan hệ và liên hệ có thể
giúp nhà văn phát biểu được cách cảm thụ, cách nhìn cuộc sống, con người của mình
một cách sáng rõ nhất theo kiểu của nghệ thuật. Do tầm quan trọng của nó, vấn đề kết
cấu của tác phẩm văn học đã từ lâu dành được sự quan tâm chú ý đặc biệt của giới

nghiên cứu. Người ta đã nghiên cứu nó từ góc độ lý luận chung cũng như đã đi sâu
nghiên cứu kết cấu của từng thể loại. Tuy nhiên, trong khi đã có những khám phá rất
quan trọng về kết cấu của kịch, của tự sự (đặc biệt là của tiểu thuyết hiện đại), việc
nghiên cứu kết cấu thơ trữ tình vẫn còn dừng bước trước không ít vấn đề cơ bản. Còn
ít những công trình thể hiện một cái nhìn toàn diện về kết cấu của thơ trữ tình mà ở đó
có sự phối hợp nghiên cứu kết cấu thơ trữ tình cả về mặt hình tượng lẫn mặt tổ chức
văn bản, cũng như còn thiếu những công trình khái quát về sự phát triển tiếp nối của
các loại hình kết cấu thơ trữ tình xuất hiện trong lịch sử văn học. Bởi vậy, nghiên cứu
kết cấu thơ trữ tình vẫn còn là một công việc nhiều ý nghĩa, hứa hẹn nhiều khám phá
mới.
1.2. Nối một cách khái quát, kết cấu tác phẩm văn học là toàn bộ tổ chức độc
đáo, sinh động gợi cảm của tác phẩm dưới sự chi phối của một quan niệm nghệ thuật
nhất định. Đề cập vấn đề kết cấu, lẽ dĩ nhiên là phải đề cập hàng loạt yếu tố kết cấu từ


nhỏ đến lớn như câu, đoạn, mở đầu, kết thúc, hình tượng, cốt truyện... và các nguyên
tắc, các quy luật liên kết những yếu tố đó. Nói cách khác, khi nghiên cứu kết cấu, ta
phải nghiên cứu hệ thống toàn bộ phương diện hình thức của tác phẩm văn học (tất
nhiên là trong mối liên hệ với nội dung). Lau nay, ở nước ta, các nghiên cứu còn
nghiêng về phía khám phá phương diện nội dung của văn học, còn phương diện hình
thức được đề cập tương đối ít. Thêm nữa, đôi khi sự nghiên cứu về hình thức vẫn chưa
thoát khỏi sự khống chớ của quan niệm cho rằng nó chỉ là cái bình chứa, là chiếc áo
khoác ngoài của nội đung, có thể ngay chính lúc người ta không ngớt nói về mối quan
hệ biện chứng giữa hai phạm trù này. Đặt vấn đề nghiên cứu kết cấu thơ trữ tình ở đây
chính là nhằm mục đích góp phần vào việc khắc phục những bất cập vừa nói, tiến tới
xây dựng một cách nhìn hiện đại hơn về hình thức văn học, phá bỏ quan niệm nhị
phân hình thức và nội dung tồn tại quá lâu dài của thi pháp học huyền thống. Rõ ràng,
đã đến lúc những nghiên cứu về hình thức thơ trữ tình theo quan niệm của thi pháp
học hiện đại cần phải được đẩy mạnh, song song với những nghiên cứu thơ trữ tình
trên bình diện tư tưởng, bình diện ý thức hệ, và trong khi nghiên cứu phương diện

hình thức thơ trữ tình, khái niệm kết câú thơ trữ tình lẽ dĩ nhiên phải được xem là một
khái niệm trung tâm, một khái niệm có khả năng lý giải được tính độc đáo và ý nghĩa
cách tân thi pháp của nhiều hiện tượng thơ trong lịch sử văn học.
1.3- Hiện nay, văn học Việt Nam nói chung và thơ trữ tình Việt Nam nói riêng
đang đứng trước một thời kỳ phát triển mới. Yêu cầu đổi mới cái nhìn, cách cảm xúc
và hình thức thể hiện được đặt ra một cách riết róng. Những tìm tòi được mở ra nhiều
hướng, nhưng vì có lẽ chưa có điều kiện đẩy tới độ cần thiết mà thành quả xem ra có
vẻ dở dang, bừa bộn. Từ đây, người sáng tác và người nghiên cứu có nhu cầu soi
ngắm lại các thành tựu văn học đã có, đánh giá chung một cách toàn diện, mong rút ra
những bài học có ý nghĩa cho sự phát triển, đổi mới . Đặt vấn đề nghiên cứu kết cấu
thơ trữ tình (nhìn từ góc độ loại hình và gắn liền với việc đánh giá cuộc cách tân về
hình thức nghệ thuật của phong trào Thơ mới 1932 - 1945) vào lúc này là một việc
làm không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn. Ít nhất nó cho thấy
nhũng thể nghiêm mới về thơ bây giờ đang xuất phát từ truyền thống nào. Nó cũng chỉ
rõ con đường phát triển của thơ là con đường của sự phủ định biện chứng đối với
những hệ thống thi pháp cũ đã từng đóng một vai trò tích cực trong lịch sử văn học.


Bao trùm hơn, nó có ý nghĩa nêu thêm những tiêu chí đánh giá mới đối với các loại
hình thơ: dù thế nào cũng không thể bỏ qua tiêu chí kết cấu (với toàn bộ tính chất sâu
sắc và phức tạp của nó).
2. Lịch sử vấn đề
Trong các công trình nghiên cứu lý luận hiện đại về thơ ca, vấn đề kết cấu thơ
trữ tình rất được chú ý đề cập. Có sự chú ý đó bởi theo một cái nhìn chung thông
thường, một trong những yếu tố cơ bản quy định tính đặc thù của một thể loại văn học
là đặc điểm kết cấu của nó. Không nghiên cứu kết cấu thể loại thì cũng gần như là
chưa bắt đầu nghiên cứu bản thân thể loại đó. Nhưng kết cấu là một phạm trù rất
rộng, có khi được nhìn nhận như là toàn bộ đặc điểm hình thức của một thể loại, có
khi lại được đánh đồng với một số thủ pháp tổ chức tác phẩm, lại có khi được nghiên
cứu như một cấu trúc ổn định, bất biến của một thể loại hay loại hình sáng tác nào đó.

Những kết quả nghiên cứu khác nhau về kết cấu có mối quan hệ hữu cơ với những
quan niệm không hẳn giống nhau về văn học, về thơ ca. Nhiều khi chúng là những
điều được rút ra từ việc khẳng định, đề cao một mẫu hình sáng tác nhất định xuất hiện
trong lịch sử tiến hóa không ngừng của hình thức nghệ thuật.
Những nhà nghiên cứu ngữ văn học thuộc trường phái hình thức Nga vào đầu
thế kỷ XX đã có nhũng khám phá quan trọng về kết cấu của thư trữ tình. Toàn bộ
những hiện tượng xác định tính đặc thù của thơ trong sự phân biệt với văn xuôi
như âm luật, vần, những hình thức cố định (như sonnet, triolet, rondeau...) đã được
khảo sát, toàn bộ những đơn vị cấu thành một bài thơ như câu thơ, đoạn thơ
đã được mổ xẻ tường tận, tường tận tới mức để bàn về câu thơ chẳng hạn, R.Jakobson
đã đưa ra bốn thuật ngữ khác nhau nhưng có quan hệ tương liên: mô hình thơ; v í
dụ về câu thơ, mô hình thực hiện, ví dụ thực hiện [37]. Đặc biệt, các nhà Hình
thức chủ nghĩa Nga đã rất chú ý nghiên cứu các mối quan hệ trong bài thơ, đã đi sâu
vào nghiên cứu nhịp điệu như là cái cơ sở có tính chất xây dựng của thơ, và từ đó mở
rộng khái niệm nhịp điệu đến một loại yếu tố ngôn ngữ tham dự vào việc cấu tạo câu
thơ, đoạn thơ, bài thơ [44]. Trong công trình Kết cấu những tác phẩm thơ trữ
tình (M.1921), V. Zhirmunski đi sâu khảo sát các thủ pháp kết cấu đã trở thành điển
phạm trong nghệ thuật trữ tình và đề xuất cách phân lọai chúng theo các tiêu chí như


đề tài, hình thức kết cấu, phương thức biểu đạt, truyền đạt. Ông cho rằng sự xuất hiện
của một loạt thủ pháp kết cấu ít nhiều xác định kia là kết quả của những nổ lực muốn
đạt tới sự hoàn thiện hình thức của tác phẩm (theo lược thuật của [188]). Nhìn chung,
những nghiên cứu về kết cấu thơ trữ tình của trường phái hình thức Nga còn nghiêng
về phía ngôn ngữ học, và ở đây, ta vẫn thấy thiếu những công trình bao quát, trong khi
số lượng công trình nghiên cứu từng mặt, từng cấp độ của kết cấu thì rất phong phú
Sự thiếu bao quát đó, xét cho cùng, có lẽ là hệ quả của định hướng nghiên cứu gạt ra
bên ngoài những sự kiện thuộc về lịch sử văn hóa hoặc đời sống xã hội và tâm lý, chỉ
coi trọng tính độc lập, tự chủ của văn bản. Hiển nhiên, một quan điểm nghiên cứu như
thế là cực đoan và phiến diện, bỏei trên vấn đề được bàn ở đây, thơ không phải là một

hiện tượng thuần túy ngôn ngữ mà chủ yếu là một phát ngôn, một mặt mang những
thông điệp hướng ra bên ngoài và kêu gọi sự đối thoại, mặt khác, bao giờ cũng xuất
hiện trên nền một bối cảnh,một truyền thống nào đó.
Trong số những công trình nghiên cứu về thơ theo quan niệm cấu trúc chủ
nghĩa, bài viết "Những con mèo” của Ch.Baudelaire của hai tác gỉa R.Jakobson và
L.Strauss (1962) có một vị trí đặc biệt. Có thể xem đây là một ví dụ điển hình của việc
phân tích chức năng thơ (fonction poétique) của ngôn ngữ và làm sang tỏ cấu trúc
hình thức của thơ ca. Các mô hình âm luật, cú pháp, các quan hệ song hành, đối chọi
của bài thơ đã được hai nhà nghiên cứu mổ xẻ một cách tỉ mỉ [71]. Tuy nhiên, theo
cảm nhận của nhiều người (trong đó có các nhà cấu trúc chủ nghĩa) một sự phân tích
như thế còn chứa đựng không ít điều khiên cưỡng (như sự mặc nhiên thừa nhận nhân
tố thi pháp giống đực trong thi luật học lại có một hàm nghĩa tính dục nào đó ...), đặc
biệt là chưa chú ý đúng mức tới ý nghĩa của bài thơ [193], [124, 488-490]. Từ ví dụ cụ
thể về việc phân tích kết cấu một bài thơ trữ tình như thế, có thể nhận diện
được phần nào khuynh hướng nghiên cứu thơ (cũng như văn học nói chung) của
trừơng phái cấu trúc là đánh đồng những quy luật của thơ ca, của văn học với những
quy luật của ngôn ngữ, để trên cơ sở đó áp dụng những phương pháp chính xác vào
nghiên cứu hình tượng và dường như có tham vọng “đo lường hình tượng bằng con
số" (I.Repzin). Ở đây cách nghiên cứu đồng đại đã đóng vai trò chủ chốt, một mặt cho
phép đi rất sâu vào những cắt đoạn của một hệ thống, nhưng mặt khác, đã hạn chế


những khám phá về chức năng của hệ thống, do vậy, chưa thể xem là một cách phân
tích tác phẩm thơ (một kết cấu, một hệ thống) hoàn toàn hữu hiệu.
Năm 1973, nhà ngữ văn học thuộc trường phái cấu trúc ký hiệu học Xô viết là
Ju. Lotman cho ra đời cuốn Phân tích văn bản thơ. Trong tác phẩm này, Ju. Lotman
quán triệt quan điểm nghiên cứu văn bản thơ như một kết cấu, một ký hiệu văn hóa
hoàn chỉnh có tính chất đã mở. Theo đó, một sự phân tích tĩnh tại, cô lộp các thành tố
của hệ thống và sự bỏ qua những hình thái trước đây của chúng là không có triển
vọng, không dẫn tới sự khám phá ra ý nghĩa đích thực của bản thân từng thành tô. Ju.

Lotman cũng dành những chương mục riêng cho việc nghiên cứu các thành tố tổ chức
của văn bản thơ như từ, dòng thư, đoạn thơ, “từ xa lạ” ... nhưng với ý thức thường
xuyên đua chúng vào trạng thai đối lập, chẳng hạn đối lập nghĩa của từ trong từ điển
với nghĩa của từ trong thơ, đối lập nghĩa của dòng thơ trong tư cách một tập họp của
nhiêu từ hướng tới chức năng thông tin bình thường với nghĩa của dòng thơ trong tư
cách siêu nghĩa (như là nghĩa của một từ được cấu tạo đặc biệt) hướng tới chức năng
thông tin thẩm mỹ ... Thao tác đối lập này sẽ giúp cho nhà nghiên cứu một mặt khảo
sát được kỹ lưỡng từng thành tố mang nghĩa cơ bản nhất của một kết cấu (với những
dấu hiệu riêng biệt của nó), mặt khác phát hiện ra được nguyên tắc kết hợp của chúng
vào những thành tố mang nghĩa phức tạp, toàn diện hơn, từ đó nhìn ra cách mô hình
thế giới của tác giả [19l]. Rõ ràng, bằng công trình này, Ju. Lotman đã phác ra một
quan niệm mới về kết cấu văn bản văn học nói chung và kết cấu văn bản thơ nổi tiếng
trên cơ sở chú ý mối quan hệ giữa chủ quan và khách quan trong sáng tạo nghệ thuật
cũng như sự chuyển hóa tác phẩm của nhà văn trong ý thức độc giả với các hình thức
và quy luật của nó.
Ở nước ta, trong mấy chục năm qua, đã có một số chuyên luận về thơ ca ít
nhiều đề cập vấn đề kết cấu thơ trữ tình của các tác giả Bùi Văn Nguyên, Hà Minh
Đức, Bùi Công Hùng, Nguyễn Phan Cảnh, Trần Đình Sử, Hữu Đạt... Do các tác giả
không nhằm nghiên cứu riêng về kết cấu nên các kết luận khoa học về vấn đề này còn
lan man, chưa nổi bật. Ở Thơ ca Việt Nam (hình thức và thể loại) (1965), kế thừa
những kết quả nghiên cứu rất đáng quý về hình thức thơ ca dân tộc trong những tác
phẩm như Việt Hán văn khảo (1918) của Phan Kế Bính. Quốc văn cụ thể (1932) của
Bùi Kỷ, Việt Nam văn học sử yếu (1943) của Dương Quảng Hàm, Bùi Văn Nguyên và


Hà Minh Đức đã nghiên cứu khá toàn diện hình thức thơ ca trong văn học Việt Nam
cùng đặc trưng hình thức của các thể thơ tiếng Việt. Tuy nhiên trong cuốn sách này,
khái niệm kết cấu vẫn chưa được xem như một khái niệm trung tâm của việc
nghiên cứu hình thức thơ ca. Vẫn còn thấy thiếu những ý kiến khái quát về
các loại hình kết cấu (một hiện tượng bao trùm, rộng hơn hiện tượng kết cấu của một

thể thơ cụ thể), trong khi bức tranh thể loại của từng thời kỳ văn học, cũng như kết
cấu bề mặt của các thể thơ (nhất là các thể thơ cổ) đã được miêu tả một cách tỉ mỉ, chi
tiết [112].
Trong Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại (1974), Hà Minh Đức
đã bắt đầu đặt vấn đề tìm hiểu kết cấu thơ trữ tình một cách toàn diện hơn. Trong
chương IV và VI của cuốn sách, tác gia đã cố gắng chỉ ra những mạch ngầm chi
phối cách tổ chức tác phẩm thơ do liên tưởng, do mạch cảm xúc, do tứ thơ tạo nên.
Đặc biệt ở chương VII là chương bàn về Hình thức của thơ, tác giả đã có một phần
viết riêng về Kết cấu trong thơ trữ tình. Ở đó tác giả đã có những nhận xét khái quát
rất cơ bản về vai trò của kết cấu trong thơ trữ tình cũng như đã phác qua mấy nét về
vị trí của tứ thơ, của điểm sáng thẩm mỹ (tâm điển của cảm xúc) của cách mở đầu
và kết thúc bài thơ trong kết cấu. Tuy nhiên, một quan niệm thực sự toàn diện và có
hệ thống về kết cấu thơ trữ tình vẫn chưa được xây dựng [38].
Năm 1983, với cuốn Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca, tác giả Bùi Công
Hùng có mong muốn tìm hiểu tòan bộ vấn đề kết cấu thơ (dựa vào tư liệu thơ Việt
Nam hiện đại) trên cơ sở áp dụng lý thuyết hệ thống và phương pháp tổng hợp.
Nhưng trên thực tế , kết quả nghiên cứu còn chênh so với nhiệm vụ đề ra. Quả là tác
giả đã liệt kê khá đầy đủ các thành tố cấu trúc của tác phẩm thơ, đã bước đầu phân
loại chúng và mô tả khá chi tiết đặc điểm của chúng, nhưng sự thực ông chưa làm rõ
được sự tương tác giữa các yếu tố tạo nên hệ thống, chẳng hạn chưa làm rõ được hệ
thống tư tưởng chủ đề đã chi phối hệ thống hình tượng, hệ thống cấu tạo, hệ thống
ngôn ngữ như thế nào. Ớ chương III và IV dù tác giả thu hẹp diện khảo sát vào Các
thành phần của câu thơ và Câu thơ tronq bài thơ, các mối liên hệ giữa từ ngữ với nhịp
điệu, vần, ngữ điệu vẫn chưa được làm rõ và chức năng của câu thơ, đoạn thơ trong
chỉnh thể của tác phẩm vẫn còn bị lướt qua. Tuy vậy, khi đề cập những đặc trưng của


nhịp điệu, vần, ngữ điệu, tác giả đã nêu được một số luận điểm về sự liên kết các yếu
tố cấu tạo trong bài thơ nhờ vào nhịp điệu, vần và ngữ điệu ấy [63].
Dựa vào lý thuyết của K.Jakobson về chức năng thi ca của ngôn ngữ, Nguyễn

Phan Cảnh trong Ngôn ngữ thơ (1987) đã triển khai nghiên cứu về thơ một cách khá
toàn diện dưới góc độ ngôn ngữ. Khi quan sát cách tổ chức kép các lượng ngữ nghĩa,
sự lắp ghép, nhạc thơ, nét dư trong ngôn ngữ thơ, vận động tạo vần vv..., tác giả chỉ
đưa ra một số ý kiến đáng chú ý liên quan đến vấn đề kết cấu tác phẩm thư:
các phương tiện ngôn ngữ phải được tổ chức theo cách nào để ngôn ngữ thơ có được
chất thơ, để "ngôn ngữ thành nghệ thuật" [13].
Trần Đình Sử trong một số chuyên luận như Thi pháp thơ Tố
Hữu (1987), Những thế giới nghệ thuật thơ (1995) đã khảo sát khá công phu đặc điểm
của các loại hình thơ xuất hiện trong lịch sử văn học. Tuy chưa đặt vấn đề nghiên cứu
riêng về kết cấu thơ trữ tình nhưng nhiều kết luận về các loại hình thơ trong đó có khả
năng gợi mở một cái nhìn mới về vấn đề kết cấu, đặt kết cấu thành một phạm trù cùa
thi pháp học lịch sử, gắn việc tìm hiểu kết cấu thơ với việc tìm hiểu loại hình thơ
[136],[138].
Nhìn chung, chung quanh việc nghiên cứu kết cấu thơ trữ tình còn có
một số vấn đề sau:
Khái niệm kết cấu và tiếp đó là khái niệm kết cấu thơ trữ tình chưa có được sự
phân biệt đúng mức với các khái niệm kề cận như cấu trúc, bố cục, thủ pháp liên kết...
Trong một số công trình nghiên cứu, nhiều khi các khái niệm này được dùng như
nhau. Chính sự thiếu phân hóa đó tạo nên sự nhùng nhằng nhất định trong một số kết
quả nghiên cứu, chưa cho phép người ta thực sự đi sâu vào vấn đề.
Kết cấu thơ trữ tình chưa được xem là một khái niệm trung tâm của việc
nghiên cứu hình thức thơ ca. Điều này ở mức độ nhất định dẫn đến việc nhìn nhận
không đúng mức vai trò của kết cấu, chưa làm rõ được các thành tố, các cấp độ của
kết cấu cùng những mối quan hệ giữa chúng. Sự thực là việc khảo sát riêng biệt các
thành tố, các cấp độ của kết cấu thơ trữ tình như tứ thơ, nhịp, vần, câu thơ, khổ thơ ...
sẽ khó đi vào bề sâu, sẽ khó vượt qua được giới hạn của sự phân tích ngôn ngữ học


nếu tư duy người nghiên cứu chưa nhận thức được đầy đủ về vai trò phối thuộc của
chúng trong một phạm trù bao quát hơn - phạm trù kết cấu thơ trữ tình.

Việc nghiên cứu loại hình kết cấu thơ trữ tình còn chưa được chú ý đúng mức.
Kết cấu thơ trữ tình không chỉ là vấn đề của từng bài hay từng thể loại cụ thể.
Vả chăng, để nhận ra đặc sắc của kết cấu một bài, cần phải đặt nó vào trong bối cảnh
kết cấu của cả một loại hình thơ vốn là sản phẩm của một giai đoạn văn học, một trình
độ tư duy văn học. Rõ ràng, ở đây, phương pháp nghiên cứu của thi pháp học lịch sử
văn còn ít được vận dụng.
Do có những vấn đề bị để ngỏ như trên, việc nghiên cứu kết cấu thơ trữ tình
vẫn cần phải được tiếp tục trên một quy mô lớn hơn và theo một góc nhìn mới hơn.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Xác định kết cấu thơ trữ tình như một khái niệm trung tâm của lý luận về
thơ và của việc nghiên cứu phương diện hình thức thơ trữ tình - một khái niệm cho
phép lý giải được mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trên một tinh thần mới của
thi pháp học hiện đại. Đi sâu miêu tả, nhận diện các cấp độ kết cấu thơ trữ tình và
những yếu tố tham gia vào kết cấu một bài thơ trữ tình.
3.2. Xây dựng khái niệm loại hình kết cấu thơ trữ tình làm tiền đề cho những
sự nghiên cứu hệ thống về đóng góp trên phương diện hình thức của các loại hình thơ
trữ tình trong lịch sử. Mô lả khái quát đặc trưng của loại hình kết cấu thơ trữ tình dân
gian, loại hình kết cấu thơ trữ tình cổ điển và loại hình kết cấu thơ trữ tình hiện đạị.
3.3. Vận dụng lý thuyết về loại hình kết cấu thơ trữ tình vào nghiên cứu đặc
điểm loại hình kết cấu của Thơ mới 1932-1945 để có được một cái nhìn toàn diện hơn
đối với những đóng gấp to lớn của phong trào thơ này trên bình diện thi pháp. Phân
tích những nguyên tắc kết cấu cơ bản của Thơ mới cũng như chỉ ra những đặc điểm
lớn trong kết cấu hình tượng và kết cấu văn bản của Thơ mới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án kết hợp vận dụng nhiền phương pháp nghiên cứu: phương pháp hệ
thống, phương pháp cấu trúc, phương pháp so sánh, đặc biệt là phương pháp loại hình


với ưu thế của nó trong việc khám phá ra tính cộng đồng về văn học - thẩm mỹ của
các hiện tượng văn học phong phú.

5. Đóng góp mới của luận án
Đây là công trình đầu tiên tập trung nghiên cứu kết cấu thơ trữ tình một cách
toàn diện với các cấp độ của nó. Đặc biệt, luận án đã đề xuất và thực sự đã vận dụng
tư tưởng nghiên cứu loại hình kết cấu trên cơ sở đi sâu đánh giá cuộc cách mạng của
Thơ mới trên bình diện lâu nay gần như bị bỏ quên này (có so sánh, đối chiếu với loại
hình kết cấu thơ trữ tình dân gian và loại hình kết cấu thơ trữ tình cổ điển). Những
khái niệm tứ thơ, nhịp điệu, loại hình kết cấu, nguyên tắc kết cấu... đã được luận giải
một cách kỹ lưỡng, trở thành những khái niệm hữu dụng, có khả năng phục vụ công
việc nghiên cứu, phân tích thơ trữ tình một cách hiệu quả.
6. Cấu trúc của luận án
Tương ứng với những nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, ngoài phần Mở đầu và
phần Kết luận, nội dung luận án được triển khai trong 3 chương:
Chương 1. Khái niệm kết cấu thơ trữ tình.
Chương 2. Loại hình kết cấu thơ trữ tình.
Chương 3. Loại hình kết cấu của Thơ mới 1932 - 1945.
Sau cùng là phần Tài liệu tham khảo.


Chương 1: KHÁI NIỆM KẾT CẤU THƠ TRỮ TÌNH
1.1. Khái niệm kết cấu tác phẩm văn học
Khái niệm kết cấu tác phẩm văn học là một khái niệm cư bản của nghiên cứu
văn học nói chung và của lý luận văn học nói riêng. Nó phản ánh quy luật chỉnh thể
của tác phẩm đơn vị trung tâm của đời sống văn học và là đối tượng nghiên cứu hoặc
trực tiếp hoặc gian tiếp của các bộ môn thuộc khoa nghiên cứu văn học. Chính vì vậy,
hầu như trong tất cả các bộ sách lý luận văn học và các cuốn từ điển thuật ngữ văn
học, khái niệm kết cấu tác phẩm văn học đã được luận giải khá kỹ lưỡng. Sau đây, xin
đơn cử một số giới thuyết mang tính chất giáo khoa thuộc loại tiêu biểu về khái niệm
này.
Từ điển bách khoa văn học của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, xuất bản năm
1987 viết: "Kết cấu (từ tiếng Latinh compositio có nghĩa là sự sắp xếp, sự liên kết), là

sự xếp đặt và phân bố các yếu tố của hình thức tác phẩm nghệ thuật, nói đúng hơn, là
sự tổ chức tác phẩm trong một nội dung và thể loại xác định (...). Kết cấu cố kết các
yếu tố hình thức và chi phối ý nghĩa của chúng. Các quy tắc kết cấu đó là tổng số
những tri thức mỹ học phản ánh những mối liên hệ bên trong của thực tại. Kết cấu có
một nội dung ý nghĩa tự thân. Các phương thức và phương tiện kết cấu làm cải biến
và đào sâu ý nghĩa của sự mô tả (...). Kết cấu đưa lại cho tác phẩm sự hoàn chỉnh,
nhất quán và "sự hoàn mỹ của cái trật tự" (Horacius)" [189,164]. Trong đoạn giới
thuyết trên, có thể thấy rõ các vấn đề như những thành tố tham gia vào kết cấu, chức
năng và vai trò của kết cấu, các quy tắc kết cấu đã được đồng thời đề cập.
Tiếp thu quan niệm về kết cấu được thể hiện trong các bộ sách: Lý luận văn
học của L.I. Timofeev, Dẫn luận nghiên cứu văn học của G.N. Pospelov (chủ biên)
v.v.. trong Lý luận văn học tập hai (II.1987), Trần Đình Sử đã trình bày về kết cấu tác
phẩm văn học qua các tiểu mục như sau: 1. Kết cấu là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh
động của tác phẩm. 2. Kết cấu là phương tiện khái quát nghệ thuật. 3. Các bình diện và
cấp độ kết cấu. Trong mục 3 này, tác giả đã chỉ rõ: "Khái niệm kết cấu dược mở rộng
theo chiều ngang được xem xét ở bình diện quy luật tổ chức thể loại: kết cấu tự sự, kết
cấu kịch, kết cấu trữ tình (...) Kết cấu còn được xem xét ở chiều dọc, tức là nghiên cứu


mối quan hệ quy định và tùy thuộc của các cấp độ tác phẩm như một chỉnh thể. Kết
cấu tồn tại ở hai cấp độ cơ bản: cấp độ hình tượng và cấp độ trần thuật” [142, 95].
Để đi tới một nhận thức đầy đủ về kết cấu tác phẩm văn học, chúng tôi nghĩ
ngoài những điều đã được các sách trên nói tới, vẫn cần phải lưu ý thêm vấn đề loại
hình kết cấu. Trong các loại hình văn học khác nhau, việc tổ chức tác phẩm được thực
hiện theo những cách, những nguyên tắc khác nhau. Nói cách khác, vấn đề kết cấu tuy
phải xét trên đơn vị tác phẩm nhưng nó không đơn giản chỉ là vấn đề của riêng tác
phẩm, vấn đề của thể loại mà còn là vấn đề của những loại hình sáng tác. Nếu không
có ý thức rõ về điều vừa nói, nhiều khi đi vào nghiên cứu, tìm hiểu kết cấu của một
tác phẩm cụ thể nào đó, ta sẽ không chỉ ra được những cách tân có thể có của nó trên
phương diện này, mà những cách tân như thế đôi khi có ý nghĩa báo hiệu cả một thời

đại văn học mới.
Khi tiến hành xác định khái niệm kết cấu tác phẩm văn học, thì theo một
logic tự nhiên, ta phải chú ý phân biệt khái niệm này với một số khái niệm gần gũi,
tương liên như bố cục, cấu trúc - những khái niệm đôi khi đã được dùng để thay thế
cho khái niệm kết cấu và ngược lại. Nhiều bộ sách lý luận văn học và từ điển thuật ngữ
văn học cũng đã ít nhiều chú ý vấn đề này, ở đây xin được tổng hợp lại và làm rõ thêm
một số điểm.
Bố cục thực ra chỉ là một biểu hiện của kết cấu trên bề mặt của tác phẩm. Ta có
thể dễ dàng nhận ra bố cục của tác phẩm căn cứ vào sự phân chia chương, đoạn,
phần, sự phân chia các khổ (đối với bài thơ) của tác giả. Sự phân chia đó thường được
thể hiện bằng những dấn hiệu có thể nhận biết được bằng trực quan như số (chữ số La
mã hoặc Ả rập), dấu hoa thị, những dòng để trống v.v... Những nghiên cứu về
chương pháp trong lý luận văn học cổ điển Trung Hoa và Việt Nam đã rất chú ý làm
sáng rõ phương diện này của kết cấu, tức bố cục. Trong văn bản với tư cách đối tượng
nghiên cứu ngôn ngữ học, I.R. Galperin, khi nói tới cơ sở của tính khả phân trong văn
bản có nêu 4 điểm: 1/ Quy mô các phần. 2/Thông tin nội dung sự việc. 3/ Mục đích
thực tế của người tạo dựng văn bản. 4/ Khả năng chú ý đến đối tượng của con người
trong mọi đơn vị thời gian [45, 103]. Vận dụng vào đây, có thể xem 4 điểm đó cũng
chính là cơ sở của bố cục, và là những thông tin tối đa (đối với 3 điểm đầu) mà người


đọc, người nghiên cứu có thể tiếp nhận được thông qua bố cục của tác phẩm (tất
nhiên, thông tin về mục đích thực tế qua người tạo dựng văn bản lúc này chỉ mới đạt
tới mức độ rất hạn chế). Như vậy, không thể đồng nhất bố cục với kết cấu.
Cấu trúc (structure) là khái niệm hay bị đồng nhất với khái niệm kết cấu hơn
cả. Thực ra, từ khi Chủ nghĩa cấu trúc kéo vấn đề kết cấu vào tầm nhìn của mình thì
khái niệm cấu trúc đã được cấp cho một nội hàm rất xác định. Người ta dùng nó để chỉ
những yến tố và quan hệ hữu hạn, những liên kết quen thuộc, phi cá tính trong tác
phẩm văn học. Nó trở thành công cụ hữu hiệu giúp các nhà nghiên cứu tìm ra cái bất
biến trong những mối liên hệ phức tạp giữa các yếu tố thuộc tác phẩm. Đặc biệt, nó có

ý nghĩa đối với việc tìm hiểu những sáng tác văn học dân gian và văn học trung đại
(tức là những sáng tác mà ở đó tính công thức và tính quy phạm nổi lên như một đặc
trưng thẩm mỹ quan trọng). Những công trình nghiên cứu có tiếng vang lớn của
V.Ja.Propp về hình thái học truyện cổ tích, của C. Lévi – Strauss về huyền thoại đã
chứng tỏ điều này. Thực tế cho thấy hiện nay việc phân biệt hai khái niệm cấu trúc và
kết cấu có ý nghĩa, rất cần thiết. Khái niệm kết cấu rộng hơn khái niệm cấu trúc. Cấu
trúc chỉ là phần bất biến, ổn định, vững bền của mối quan hệ giữa các yếu tố tham gia
vào tổ chức tác phẩm. Việc đánh đồng kết cấu với cấu trúc sẽ hạn chế khám phá của
người nghiên cứu về tính nghệ thuật sinh động của hình thức tác phẩm, không cho
phép ta cảm nhận được đầy đủ về tính toàn vẹn, đa dạng của nó. Sự thật thì ngay cả
khi sáng tác văn học chịu sự ràng buộc của những quy phạm thì giá trị của sáng tác đó
vẫn không thể bị đánh đồng vào một cấu trúc bất biến mang tính phổ quát. Ví dụ, khi
đi vào một bài thơ luật Đường tuyệt tác như bài Đăng cao của Đỗ Phủ chẳng hạn, sự
thẩm định giá trị của nó không thể chỉ dừng lại ở việc ghi nhận về tính nhất khí, về
cách khai, thừa, chuyển, kết, về đối ngẫu ... rất đúng phép theo đòi hỏi ngặt nghèo của
thể thơ này. Dù sao, đó mới chỉ là một phần (dù là phần khá quan trọng) làm nên cái
hay của bài thơ chứ chưa phải là cả bài thơ. Theo cái nhìn này, dễ dàng nhận thấy
khám phá của R. Ingarden về tính hai chiều, bốn tầng lớp của kết cấu tác phẩm văn
học [66] thực ra mới chỉ hướng vào phương diện cấu trúc chung của tác phẩm mà thôi.
Tóm lại, khái niệm kết cấu là một khái niệm (buộc phạm trù hình thức của tác
phẩm văn học. Toàn bộ các yếu tố thuộc về hình thức (tức là các yếu tố biểu hiện nội


dung có thể chỉ ra và phân tích được) nằm trong hai nhóm gọi ước lệ là hình tượng và
văn bản như hệ thống nhân vật, sự kiện, không gian, thời gian, câu, đoạn, hệ thống
điểm nhìn, mở đầu, kết thúc v.v... đều tham gia vào kết cấu. Kết cấu đảm nhiệm vai
trò tổ chức các yếu tố trên thành một chỉnh thể theo phương thức: dùng một chuỗi
phương tiện ngôn từ kế tiếp nhau theo thời gian làm sáng dậy thế giới hình tượng trong
mọi chiều kích và thiết lập một trật tự nghệ thuật cho nó. Cơ sở của kết cấu là những
khả năng to lớn, tiền tàng của các phương tiện ngôn từ, là quy luật thể loại và ý đồ

nghệ thuật của nhà văn. Mục đích của kết cấu là xây dựng nên một thế giới nghệ thuật
bộc lộ rõ cảm quan của nhà văn về đời sống, đồng thời vạch ra con đường giúp độc giả
có thể theo đó mà nhận ra ý nghĩa của thế giới nghệ thuật, vừa đựơc tạo nên và tự xác
lập được một cách nhìn đổi mới theo gợi ý của tác giả. Trong kết cấu của mỗi một tác
phẩm văn học cụ thể có hai mặt gắn bó với nhau và chuyển hóa lẫn nhau. Mặt thứ nhất
là tính độc đáo, không lặp lại của những mối quan hệ và liên kết giữa các yếu tố, bộc
lộ tài năng sáng tạo của tác giả khi nhắm tới một mục tiêu nghệ thuật nhất định. Mặt
này sẽ tạo nên tính đơn nhất của tác phẩm văn học. Mặt thứ hai là tính phổ biến của
một kiểu tổ chức tác phẩm, phản ánh đặc trưng thể loại, loại hình và phẩm chất dân tộc
của chính tác phẩm đó. Chính sự tồn tại của mặt thứ hai này trong kết cấu cho phép ta
nói tới các vấn đề như kết cấu thể loại, kết cấu của một loại hình sáng tác.
Khái niệm kết cấu được xác định như trên sẽ đặt cơ sở cho việc tìm hiểu về
khái niệm kết cấu thơ trữ tình - khái niệm cho phép ta tiến xa hơn trong việc nắm bắt
kiểu tổ chức nghệ thuật đặc thù của một thể loại văn học quan trọng: thơ trữ tình.

1.2. Thơ trữ tình và kết cấu thơ trừ tình.
1.2.1. Thơ trữ tình
Để tạo cơ sở cho việc xây dựng một khái niệm về thơ trữ tình và kết cấu thơ
trữ tình phù hợp với góc nhìn của luận án, trước hết xin đi vào xác định một số yếu tố
cơ bản tạo nên đặc trưng thể loại của thơ trữ tình mà những nghiên cứu về thơ lâu nay
không thể bỏ qua.


Cách nay khoảng 1.500 năm, trong Văn tâm điêu long, ở thiên Tình thái, Lưu
Hiệp đã đề xuất ba khái niệm quan trọng là hành văn y thanh văn và tình văn có khả
năng khái quát được một bài thơ [57]. Đến đời Đường, Bạch Cư Dị, trong Thư gửi
Nguyễn Chẩn đã đề ra thuyết “cây thơ” nêu lên các yếu tố then chốt tạo thành điều
kiện tồn tại của thơ: “Cái cảm hóa được lòng người chẳng gì trọng yếu bàng tình cảm ,
chẳng gì đi trước được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm thanh, chẳng gì sâu sắc
bằng ý nghĩa. Với thơ gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý

nghĩa. Trên thì bậc thánh hiền, dưới là kẻ ngu si, nhỏ bé như lợn cá, thần bí như quỷ
thần, chủng loại bất đồng nhưng tinh thần tương tự, hình trạng khác biệt nhưng tình
cảm tương thông, không một thứ gì nghe được âm thanh mà không đáp ứng, không
một thứ gì tiếp nhận được tình cảm mà không rung động" [23]. Lý thuyết của Bạch
Cư Dị có phần kế thừa quan niệm của Lưu Hiệp. Nếu theo cái nhìn hiện đại thì có thể
xem các yếu tố tình (tình cảm), nghĩa (ý nghĩa) (cũng là yếu tố tình văn) tương đương
với phương diện nội dung của tác phẩm thơ, còn các yến tố ngôn (ngôn ngữ) (cũng là
yếu tố tạo nên cái gọi là hình văn), thanh (âm thanh) (cũng là yếu tố thanh văn) lại
tương đương với phương diện hình thức. Nhưng điều đáng chú ý là Bạch Cư Dị không
chỉ dừng lại ở việc nêu lên các yếu tố cấu thành tác phẩm mà còn chỉ ra mối quan hệ
gắn bó giữa chúng, giống như gốc rễ, mầm lá, hoa, quả gắn liền với nhau trong một
"cây thơ" hoàn chỉnh và sống động.
Nhà nghiên cứu người Hoa Lương Xuân Phương trong Cựu thi lược luận đã
giải thích cặn kẽ về lý thuyết thơ của Bạch Cư Dị như sau: "Cái gọi là "Căn tình" đó
chính là cái “nhân tâm" trong câu “nhân tâm chi cảm vật" của Chu Hy (bài tựa Kinh
Thi), cũng là, văn theo Chu Hy cái "dục" do nhân tâm cảm ứng với vật giới mà sinh
ra, đó là nói chung tất cả những cái tư tưởng, cảm tình, tưởng tượng trong đời sống
nội giới con người. Mà cái đối tượng làm cho con người cảm ứng ấy chẳng phải chỉ
giới hạn ở hiện tượng chính trị, luân lý, mà còn tòan thể những gì tự nhiên hay nhân vi
bao quanh con người, tạo ra cái hoàn cảnh, đủ khiến cho nhà thơ rung cảm khởi hứng.
Cái gọi là "Miêu ngôn"đó tức cũng như bài tựa Kinh Thi nói: "Tại tâm vi chí, phát
ngôn vi thi". Cái gọi là "Hoa thanh" đó cũng tức như bài tựa Kinh Thi nói: "Tình phát
ư thanh, thanh thành văn", hoặc thêm nữa: "Tất hữu tự nhiên chi âm hưởng tiết tấu".
Sau hết, cái gọi là "Thực nghĩa" đó cũng tựa như nay ta nói cái nội dung, mà nội dung


đó không nhất định chỉ là những ý khuyên răn, giáo huấn vô chính trị, luân lý" [127].
Trong lời giải thích trên, một mặt Lương Xuân Phương đã chỉ ra được nguồn mạch
quan niệm của Bạch Cư Dị, mặt khác, đã nói lên được tính chất toàn diện và cởi mở
của quan niệm này, nhưng ở một mức độ nào đó, nhà nghiên cứu đã hơi hiện đại hóa

hoặc đã mở rộng ý kiến của cổ nhân. Thực ra, cái mà Bạch Cư Dị gọi là thực
nghĩa trong thơ văn còn nằm trong vòng khống chế của quan niệm Nho gia là thơ phải
có chức năng giáo hóa. Cũng như thế, cái gọi là căn tình trong quan niệm của Bạch
Cư Dị chưa phản ánh được hết khả năng nội cảm hóa thế giới to lớn của cái tôi trữ
tình, một khi như chính Bạch Cư Dị đã nói rõ: “chí của tôi là ở chỗ kiêm tế, hành của
tôi là ở nơi độc thiện. Giữ chí nguyện và hành động đó đến cùng là đạo, dùng lời để
nói rõ ra là thơ [23].
Dù sao, trong nền lý luận văn học cổ điển Trung Hoa, quan niệm về thơ nói
trên của Bạch Cư Dị thuộc loại toàn diện và sâu sắc nhất, đã cho ta thấy những nỗ lực
nhằm khái quát lại tất cả những gì tạo nên chất thơ của một bài thơ.
Trong các công trình nghiên cứu của nhiều nhà Cấu trúc chủ nghĩa, câu hỏi
trực diện thơ là gì đã được thay thế bằng một câu hỏi khác: tính thơ (poéticité) là gì và
nó được thể hiện ra như thế nào? Để trả lời được câu hỏi mới này, tức cũng để xác
định được đâu là "yếu tố xác định chủng loại" của thơ, các nhà nghiên cứu hầu hết
hướng sự tìm tòi vào đặc trưng Cấu trúc của ngôn ngữ thơ. Thao tác phổ biến của họ
là phân biệt, đối lập ngôn ngữ thông thường với ngôn ngữ mang tính thơ. R. Jakobson
viết: "Nhưng tính thơ được thể hiện ra như thế nào? Theo cái cách từ ngữ được cảm
nhận như là từ ngữ chứ không phải như vật thay thế đơn giản của đối tượng được chỉ
định, theo cách những từ, những cú pháp, những ngữ nghĩa của chúng, hình thức bên
trong và bên ngoài của chúng không phải là các dấu hiệu vô hồn của hiện thực mà còn
có trọng lượng riêng, giá trị riêng của chúng" [68]. Quan niệm này của R. Jakobson
cũng gần như trùng hợp với quan niệm của một số nhà thơ, nhà văn khác như p.
Valéry, A. Breton, J.p. Sartie khi họ đối sánh ngôn ngữ văn xuôi (hay là văn xuôi) với
ngôn ngữ thơ (hay là thơ) ... Tiếp tục triển khai lý thuyết về tính tự quy chiếu của
ngôn ngữ thơ nói trên, trong tiểu luận Ngôn ngữ và thi ca, R. Jakobson, sau khi nhắc
lại về hai kiểu sắp xếp (hay là thao tác) cơ bản của hoạt động ngôn ngữ là tuyển chọn


và kết hợp (điều đã được F.de Saussure phát hiện từ trước), đã có một kết luận rất
trọng yếu: "Chức năng thi ca đem nguyên lý tương đương của trục tuyển lựa chiếu lên

trục kết hợp". Hoạt động của nguyên lý tương đương này (le principe d' équivalence
đôi khi được dịch là "nguyên tắc đồng đẳng" hoặc "nguyên tắc tương đồng") chủ yếu
được R. Jakobson quan sát từ phương diện âm vận. Tuy nhiên, R. Jakobson cũng đã
có chú ý ít nhiều tới nguyên lý tương đương về phương diện ý nghĩa: "Đương nhiên
câu thơ bao giờ trước hết vẫn là một hình tượng âm thanh được láy lại; nhưng nó
không phải chỉ là thế. Nếu quy những ước lệ thi ca như khổ thơ, sự điệp âm, vần thơ
vào mỗi một bình diện âm thanh thì sẽ rơi vào tình trạng suy lý tư biện một cách
không hề có căn cứ kinh nghiệm. Việc chiếu nguyên lý tương đương lên chuỗi kế tiếp
có ý nghĩa rộng và sâu hơn nhiều. Cái công thức của P.Valéry -"bài thơ là một sự
phân vân kéo dài giữa âm thanh và ý nghĩa" có cơ sở thực tế hơn nhiều và có tính
khoa học hơn nhiều so với mọi hình thái của chủ nghĩa biệt lập ngữ âm học" [70].
Mặc dù đã có lưu ý tới hoạt động của nguyên lý tương đương về mặt ý nghĩa, nhưng
trong tư duy nghiên cứu của R. Jakobson, cái ý nghĩa ở đây chỉ là ý nghĩa đối tượng
gọi tên và ý nghĩa ngữ pháp nảy sinh từ những mối quan hệ giữa các thành tố cấu trúc
có tính chất khép kín của điều đó cũng có nghĩa là khái niệm ý nghĩa đã được hiểu
một cách hạn hẹp .Trong khi đó, như ta thấy trong thực tế, để thực sự hiểu được hoạt
động của nguyên lý tương đương trong thơ trữ tình, nhiều khi người nghiên cứu vượt
qua giới hạn của văn bản hay tiến đến một cách đọc "liên văn bản” (intertexttualité),
cách đọc đặt văn bản trong một truyền thống nhất định. Rõ ràng, trước những hiện
tượng phổ biến của thơ ca như điển cố hay ẩn dụ (trong trường hợp giữa cái dụ thể và
cái dụ chỉ chỉ có quan hệ hàm ẩn) thì dứt khoái sự nghiên cứu phương diện ý
nghĩa của nguyên lý tương đương phải được mở rộng ra ngoài văn bản. Những điểm
bất cập này trong lý thuyết về thơ của Jakobson, cụ thể là lý thuyết về nguyên lý
tương đương như nguyên tắc tổ chức cơ bản của thơ đã được phân tích một cách khá
thuyết phục bởi Cao Hữu Công và Mai Tổ Lân trong cuốn Sức hấp hẫn của thơ
Đường [124, 493-493]
Trong tiểu luận Thơ là gì?. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc đã viết: "Thơ là một
cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm
xúc và phải suy nghĩ do chính hình thức ngôn ngữ này [108, 23]. Nhìn chung, định




×