Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Những trận hải chiến trong chiến tranh thế giới thứ hai dưới góc nhìn địa chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.41 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Đậu Thị Anh

NHỮNG TRẬN HẢI CHIẾN TRONG
CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI
DƯỚI GÓC NHÌN ĐỊA - CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Đậu Thị Anh

NHỮNG TRẬN HẢI CHIẾN TRONG CHIẾN
TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI DƯỚI GÓC NHÌN
ĐỊA - CHÍNH TRỊ
Chuyên ngành : Lịch sử thế giới
Mã số

: 60 22 03 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGÔ MINH OANH


Thành phố Hồ Chí Minh - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực
và chưa từng công bố ở các công trình nghiên cứu khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng
Sau Đại học, quý thầy cô Khoa Lịch Sử đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho
tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.
Phó giáo sư, Tiến sĩ Ngô Minh Oanh. Thầy đã tận tình chỉ bảo, động viên và
hướng dẫn cho tôi với sự cẩn trọng, nghiêm túc và trung thực trong quá trình nghiên
cứu và thực hiện luận văn này.
Các thầy cô tại thư viện trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh và
tập thể các anh chị, các bạn học viên khóa 23, chuyên ngành Lịch sử thế giới đã ủng
hộ nhiệt tình và giúp đỡ chân thành cho tôi về mặt tư liệu.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình là nguồn động viên lớn nhất cho tôi
trong thời gian học tập và hoàn thành luận văn này.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2014
Đậu Thị Anh


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
Chương 1. LÝ LUẬN VỀ ĐỊA - CHÍNH TRỊ VÀ VẤN ĐỀ ĐỊA CHÍNH TRỊ TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II ............ 8
1.1. Khái quát về khoa học địa - chính trị ................................................................ 8
1.1.1. Khái niệm địa - chính trị............................................................................. 9
1.1.2. Địa - chiến lược ........................................................................................ 13
1.2. Các học thuyết địa - chính trị ảnh hưởng đến chiến lược của các nước trong
chiến tranh thế giới thứ 2 ............................................................................... 15
1.2.1. Tư tưởng địa – chính trị ở Hoa Kỳ ........................................................... 15
1.2.2. Tư tưởng địa – chính trị ở Anh................................................................. 24
1.2.3. Tư tưởng địa – chính trị ở Đức ................................................................. 26
1.2.4. Tư tưởng địa – chính trị ở Nhật Bản ........................................................ 31
1.3. Tiêu chí lựa chọn các trận hải chiến ............................................................... 33
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................... 34
Chương 2. NHỮNG TRẬN HẢI CHIẾN Ở ĐẠI TÂY DƯƠNG VÀ ĐỊA
TRUNG HẢI TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI II ................... 35
2.1. Bối cảnh lịch sử .............................................................................................. 35
2.1.1. Quan hệ giữa các cường quốc trước chiến tranh thế giới thứ II............... 35
2.1.2. Chiến lược hải quân của các nước trước cuộc chiến tranh thế giới thứ II .... 40
2.1.3. Sự phát triển về kỹ thuật Hải quân trước cuộc chiến tranh thế giới
lần thứ II................................................................................................... 44
2.1.4. Quan hệ quốc tế trực tiếp dẫn đến chiến tranh thế giới thứ II .................. 47
2.2. Hải chiến trên Đại Tây Dương và những phân tích địa chính trị ................... 52



2.3. Hải chiến Địa Trung Hải và những phân tích địa chính trị ............................ 61
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 67
Chương 3. NHỮNG TRẬN HẢI CHIẾN Ở THÁI BÌNH DƯƠNG TRONG
CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II .................................................. 68
3.1. Bối cảnh lịch sử .............................................................................................. 68
3.1.1. Chiến lược Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, Nhật Bản ............................. 68
3.1.2. Quan hệ Hoa Kỳ và Nhật Bản trước thế chiến II ..................................... 72
3.2. Những trận hải chiến ở Thái Bình Dương trong chiến tranh thế giới thứ II và
những phân tích địa – chính trị....................................................................... 81
3.2.1. Giai đoạn 1: Nhật Bản chiếm ưu thế ........................................................ 82
3.2.2. Giai đoạn 2: Quân Đồng minh phản công .............................................. 100
3.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến cuộc chiến tranh Thái Bình Dương.............. 109
Tiểu kết chương 3 .................................................................................................. 118
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 119
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 123
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
U-Boat

:

Tàu ngầm

CTTG

:

Chiến tranh thế giới


TLKHVCN

:

Tiềm lực khoa học công nghệ

TLKT

:

Tiềm lực kinh tế

QS

:

Quân sự


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Sức mạnh hải quân của các cường quốc, tháng 1 năm 1939 ....................43
Bảng 3.1. Bảng thống kê lực lượng tham gia trận Leyte ........................................106


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử đã cho thấy rằng những con người đứng trước biển là những người vĩ

đại, nói đến biển là nói đến con đường lớn đúng hơn là 1 đồng bằng cực kì rộng, đi
theo hướng nào cũng được. Mặc dù biển có tiềm ẩn đầy hiểm nguy nhưng nhìn
chung vận tải đường biển bao giờ cũng dễ dàng hơn và rẻ hơn so với đường bộ.
Lịch sử thế giới cho thấy rằng, trong những giai đoạn quan trọng thì sức mạnh trên
biển đá có ý nghĩa chiến lược và sức nặng nắm giữ tác nhân quyết định. Ngày nay,
vấn đề kiểm soát biển là một vấn đề cực kì quan trọng, khống chế được biển có thể
làm chủ được con đường hàng hải huyết mạch. Biển như là tiêu chí quan trọng đối
với sự giàu mạnh và phồn vinh của một quốc gia. Chính vì thế mà trong trong thập
niên đầu của thế kỉ XXI trên thế giới đã diễn ra những cuộc tranh chấp lãnh thổ trên
biển ở vùng biển Đông giữa Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á trong đó có
Việt Nam, tranh chấp các đảo giữa Nga – Nhật, Trung Quốc – Nhật Bản…đều đang
trở nên là điểm nóng của thế giới. Quay trở lại với lịch sử trong cuộc chiến tranh thế
giới thứ hai thì những cuộc hải chiến giữa Đồng Minh và Phát xít đã nổ ra khốc liệt
trên các đại dương: Đại Tây Dương, Địa Trung Hải, Ấn Độ Dương, Thái Bình
Dương. Đó là những cuộc chiến tàn khốc của lịch sử nhân loại, diễn ra trên 1 diện
rộng thể hiện sức mạnh hải quân, chiến lược và chiến thuật hải quân không ngừng
thay đổi. Những trận chiến đó còn là cuộc đấu tranh của các nội các các bên tham
gia, cuộc chiến đấu giữa các tướng lĩnh, cuộc chiến đấu của nhiệm vụ tình báo…Tất
cả đã làm nên 1 kết cục của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai – mà phần thắng thuộc
về những kẻ ít sai lầm nhất. Nghiên cứu những trận hải chiến trong chiến tranh thế
giới thứ II dưới góc nhìn địa chính trị để thấy được tầm quan trọng của yếu tố biển
đối với những quốc gia chịu phụ thuộc vào môi trường biển và phòng thủ biển đối
với những quốc gia có bờ biển. Qua đó thấy được sự phát triển của lực lượng làm
nhiệm vụ phòng thủ biển – lực lượng hải quân phụ thuộc vào chính sách của chính
quyền. Đồng thời để người viết có thể tìm hiểu sâu về những trận hải chiến và vai
trò của nó đối với toàn bộ cuộc chiến – phần mà trong chương trình lịch sử ở Việt
Nam chưa đề cập nhiều đến. Với những lí do trên người nghiên cứu quyết định


2


chọn đề tài “Những trận hải chiến trong cuộc chiến tranh thế giới thứ II dưới góc
nhìn địa chính trị” để làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về các vấn đề về địa - chính trị, và cuộc chiến tranh thế giới thứ 2
có nhiều công trình:
Ở nước ngoài, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài khá đồ sộ và
chuyên sâu. Có thể kể đến những công trình sau.
- Ảnh hưởng của sức mạnh trên biển đối với lịch sử, 1660 – 1783 của Alfred
Thayer Mahan. Tác giả được coi là nhà chiến lược quan trọng nhất của Mỹ thế kỉ
XIX. Quan điểm của ông về “quyền lực trên biển” ảnh hưởng rất lớn đối với quá
trình hình thành tư tưởng chiến lược hải quân cũng như chính sách đối ngoại của
nhiều quốc gia ven biển trên khắp thế giới đặc biệt là ở Mỹ, Đức, Nhật, Anh. Cuốn
sách gồm 14 chương trong đó phần dẫn nhập và chương 1: những thành tố của sức
mạnh biển, tác giả đã đưa ra khái niệm “quyền bá chủ biển” và “sức mạnh trên
biển” những khái niệm mà sau này trở thành những tác nhân quan trọng nhất của
cuộc chiến tranh trên biển trong đó có cuộc chiến tranh thế giới thứ II, trình bày
những điều kiện chính ảnh hưởng đến sức mạnh trên biển của các quốc gia tác động
lớn đến những chính sách đối ngoại của các nước. Dù đây là công trình của thế kỷ
trước, thế kỷ mà nền kỹ thuật công nghệ chưa phát triển những những tư tưởng của
ông đã ảnh hưởng đến chính sách kinh tế quốc phòng, an ninh của các trước trong
những năm trước chiến tranh thế giới thứ II. Cách trình bày, lý giải về những trận
hải chiến của ông đã giúp ích cho tác giả rất nhiều.
- Abraham Rothberg (2009), Lịch sử sống động của đệ nhị thế chiến, ng.d
Nguyễn Quốc Dũng, Nxb Từ điển bách khoa. Cuốn sách được các học giả Âu, Mỹ
đánh giá là một cuốn sách có giá trị. Các tư liệu khá sinh động, chi tiết, cận cảnh
các mặt trận của Anh, Mỹ. Cuốn sách bao gồm 4 chương (chương 1: Tấn công,
chương 2: Bao Vây, chương 3: Phản công. Chương 4: Chiến thắng). Trình bày khác
ngắn gọn song có nhiều tư liệu về cuộc hải chiến như các số liệu về sức mạnh của
nền kinh tế quân sự của đồng mình. Giúp tác giả có cơ sở để lý giải được 1 phần về

thắng lợi cuối cùng của đồng minh.


3

- Robin Cross (2011), Bách khoa toàn thư về chiến tranh, ng.d Thế Anh, Nxb
Văn hóa thông tin. Cuốn sách không trình bày chi tết diễn biến của cuộc chiến mà có
những phân tích chung, đánh giá chung. Đặc biệt là có những phần về cuộc chiến tranh
trên biển, phân tích những yếu tố chiến lược, chiến thuật và những tác nhân ảnh hưởng
đến hải chiến. Mặc dù không có đi vào phân tích địa chính trị ở các trận hải chiến.
Nhưng những phân tích gần gũi với đề tài, cũng như tư liệu bản đồ của cuốn sách.
- The Two Ocean war a short history of the United states navy in the second
world war, của Samuel Eliot Mirison xuất bản năm 1963. Cuốn sách được đánh giá
là tác phẩm kinh điển chứa đựng khối lượng tư liệu đồ sộ về hải quân Mỹ trong
vòng 15 năm của cuộc chiến tranh thế giới thứ 2. Cuốn sách gồm 15 chương: trình
bày về giới hạn hải quân từ 1922 đến 1937, những chiến lược Thái Bình Dương, sức
mạnh hải quân dưới thời Roosevelt 1933 – 1939; thảm họa Trân châu cảng, trận Đại
Tây Dương, trận Midway, Guadalcanal, Lyte. Tác giả đã sử dụng phần kiến thức về
chiến lược Thái Bình Dương cũng như một số đoạn ở phần kết luận của sách.
- The second world war: vol 3: the war at sea của Phillip D. Grove, Mark J
Grove xuất bản năm 2002. Tác giả đã trình bày toàn diện về các trận hải chiến trên
Đại Tây Dương, Địa Trung Hải, Ấn Độ dương – tuyến đường được xem như động
mạch hậu cần của Anh và quân đội đồng minh tiếp tế cho chiến trường châu Phi,
châu Á, châu Âu. Đưa ra nhận định rằng cuộc chiến tranh trên biển là một chiến
quan trọng làm thay đổi sự cân bằng lực lượng quân sự trên đất liền, những thắng
lợi của cuộc chiến tranh trên biển có ý nghĩa lớn đối với thắng lợi cuối cùng của phe
đồng minh.
- Trận Midway là trận chiến bản lề trong cuộc chiến tranh Thái Bình Dương
trong cuốn The Battle of Midway của Craig L Symonds xuất bản năm 2011 được
đánh giá là cuốn sách hay nhất năm 2011 của lịch sử quân sự, là một công trình

nghiên cứu sâu, lập luận sắc sảo, là tác phẩm tuyệt với của nhà sử học Symonds.
Cuốn sách đã nhận mạnh vào vai trò của những quyết định quan trọng của chỉ huy,
mô tả bức chân dung của các nhân vật lãnh đạo, những cá tính, nhược điểm làm ảnh
hưởng đến thắng lợi. Chiến thắng Midway được mô tả như phép lạ, một thành công
mà phụ thuộc vào thời gian của cuộc tấn công máy bay ném bom bổ nhào. Mặt khác


4

Symonds còn làm rõ may mắn chỉ đóng một phần, chiến thắng ở Midway chủ yếu là
kết quả của sự chuẩn bị đầy đủ, kế hoạch cẩn thận, hiểu quả của việc sử dụng radar
(thứ mà Nhật Bản không có) và sự vượt trội của chỉ huy.
- Về trận hải chiến Guadalcanal kéo dài từ tháng 8 – 1942 đến tháng 2 – 1943
là cuộc phản công lớn đầu tiên của Mỹ chống lại Nhật Bản ở Thái Bình Dương.
Thắng lợi của trận Guadalcanal đã làm bước ngoặt lớn của cuộc chiến tranh Thái
Bình Dường. Trong cuốn sách “The naval Battles for Guadalcanal, 1942, clash for
supremacy in the pacific “ của Mark Stille xuất bản năm 2013. Tác giả đã trình bày
chi tiết về cuộc chiến giữa hải quân Nhật và hải quân Mỹ nhằm kiểm soát mặt biển
theo trình tự thời gian, cho rằng sở hữu sân bay Henderson vào Guadalcanal là chìa
khóa để chiến thắng, sự đối lập của các chỉ huy, kế hoạch tác chiến từ đó đánh gia
thẳng thắn sai lầm của 2 bên. Tác giả kết luận thắng lợi cuối cùng là phụ thuộc vào
khả năng chiến đấu của một số ít tàu.
- The Pacific Campaign in World War II: From Pearl Harbor to Guadalcanal
của William Bruce Johnson được xuất bản năm 2006 cuốn sách gồm 15 phần trình
bày tỉ mỉ từ bối cảnh của cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, giải thích vì sao Nhật
Bản lại mạo hiểm và những thay đổi chiến lược liên tục từ trận Trân Châu cảng đến
trận Guadalcanal.
- The Defeat of the German U-Boats: the battle of the atlantic của David
Sysett trong cuốn sách này tác giả đã phân tích chi tiết những nỗ lực để ngăn chặn
các cuộc tấn công tàu ngầm của Đức đối với tàu buôn của phe đồng minh. Năm

1943 thì vấn đề ngăn chặn tàu U- Boat trở thành vấn đề chiến lược hàng đầu của
Đồng minh để đánh bại lực lượng của Hitler. Cuốn sách đã mô tả chi tiết U-Boat,
đồng thời Syrett thảo luận về các loại vũ khí được phát triển bởi các nước Đồng
minh. Nhấn mạnh vai trò quan trọng của trận Đại Tây Dương đối với thắng lợi của
cuộc chiến tranh.
Ở Việt Nam có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài. Có thế đề
cập đến một số công trình sau:
- Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương 1941 – 1945 của TS. Lê Vinh Quốc và
Huỳnh Văn Tòng biên soạn cuốn sách gồm 2 phần, 8 chương trình bày sự kiện dưới


5

hình thức kí sự, rõ ràng. Những cuộc Hải chiến trong cuộc chiến tranh Thái Bình
Dương được tác giả trình bày khá chuyên sâu.
- Chiến lược và chiến thuật trong đệ nhất và đệ nhị thế chiến, quyển II của
Hoàng Ngọc Thành xuất bản năm 1973. Nội dung của cuốn sách đã được tác giả
tham khảo nhiều tư liệu lịch sử quý bằng những ngôn ngữ: Anh, Pháp, Đức. Cuốn
sách gồm 2 phần: Phần III, Phần IV (tiếp sau phần II của quyển I). Trong đó, phần
III tác giả đã đề cập đến các chủ thuyết quân sự và sự võ trang của các cường quốc
cuối thập niên 1930 – 40 trong đó có sức mạnh hải quân của các nước. Phần IV:
trình bày chiến lược và chiến thuật qua các trận đánh lớn của hải lục không quân.
Trong phạm vi đề tài của mình, người viết sẽ khai thác những tư liệu về mối quan
hệ giữa các cường quốc, sức mạnh hải quân cũng như chiến lược và chiến thuật hải
chiến mà cuốn sách có đề cập đến.
- Nhiều tác giả, Nhật Bản trong chiến tranh Thái Bình Dương (2004), ng.d Lê
Kim NXB Công an nhân dân. Cuốn sách được biên soạn chủ yếu từ các nguồn sử
liệu chính của Nhật Bản, cùng với những hồi kí của nhiều nhân chứng lịch sử của
các nước có liên quan. Bao gồm 15 phần, nêu lên sự hình thành tư tưởng bành
trướng, ý đồ chính trị của giới quân phiệt Nhật Bản trong việc bá chủ châu Á – Thái

Bình Dương, quá trình chuẩn bị và những hành động của Nhật Bản để bắt đầu cuộc
chiến. Cuốn sách trình bày khá đầy đủ về diễn biến của cuộc chiến song sự trình
bày chỉ mang tính lược dịch, lược thuật chưa đi sâu vào phân tích chi tiết trận chiến.
Với tư liệu mà cuốn sách có được, tác giả đã sử dụng vào phần những yếu tố ảnh
hưởng đến cuộc chiến thông qua nhận xét của Philippe Masson.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu nhằm dựng lại diễn biến của những trận hải chiến
trong chiến tranh thế giới thứ II. Bên cạnh đó luận văn mong muốn góp phần làm rõ
sự ảnh hưởng, tác động của yếu tố địa chính trị đến những quyết định dẫn tới trận
chiến và kết quả của những kêt những trận hải chiến trong chiến tranh thế giới
thứ II.


6

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những trận hải chiến trong chiến tranh thế giới thứ II
diễn ra ở Đại Tây Dương, Địa Trung Hải, Thái Bình Dương dưới góc nhìn địa chính
trị.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian:
Những trận hải chiến xảy ra ở Đại Tây Dương, Địa Trung Hải, Thái Bình Dương.
- Về thời gian:
Từ năm 1939 đến 1945, tương đương với thời gian diễn ra cuộc chiến tranh
thế giới thứ hai. Tuy nhiên, giai đoạn trước đó cũng sẽ được đề cập tới trong những
để làm rõ hơn nội dung nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa Mác –Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử, phương pháp logic,

phương pháp định lượng và phương pháp liên ngành giữa quan hệ quốc tế và địa lý
học.
6. Nguồn tư liệu
- Các tài liệu sách viết về đề tài và có liên quan đến đề tài.
- Các bài báo, tạp chí có liên quan đến đề tài.
- Các website lớn ở nước ngoài viết về đề tài.
- Phim, bô sưu tập tranh ảnh có liên quan đến đề tài.
7. Đóng góp của luận văn
Đây là lĩnh vực chưa có sự quan tâm nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trong
nước nên đề tài được tiến hành nghiên cứu nhằm có thể thu thập và hệ thống hóa
nguồn tài liệu tạo thành tập tin, nguồn tài liệu đáng tin cậy về là tài liệu có ích đối
với những người quan tâm đến đề tài.
8. Bố cục của luận văn và các vấn đề cần giải quyết
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phần phụ lục luận văn
có ba chương nội dung chính:


7

Chương 1: Lý luận về địa chính trị và vấn đề địa chính trị trong chiến tranh thế
giới thứ II
Chương 2: Những trận hải chiến ở Đại Tây Dương và Địa Trung Hải trong
chiến tranh thế giới thứ II
Chương 3: Những trận hải chiến ở Thái Bình Dương trong chiến tranh thế giới
thứ II


8

Chương 1. LÝ LUẬN VỀ ĐỊA - CHÍNH TRỊ VÀ VẤN ĐỀ

ĐỊA - CHÍNH TRỊ TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II
Trong hầu hết lịch sử quốc tế, kiểm soát lãnh thổ là tiêu điểm dẫn đến những
xung đột chính trị. Sự tự mãn dân tộc khi đã chiếm hữu được một lãnh thổ rộng
hơn, hoặc cái cảm tưởng của cả dân tộc bị tước đoạt mất mảnh đất “thiêng” là
nguyên nhân của hầu hết các cuộc chiến tranh đẫm máu xảy ra từ khi xuất hiện chủ
nghĩa dân tộc. Đòi hỏi cấp bách về lãnh thổ là là động lực chính đựa tới thái độ hiếu
chiến của các quốc gia dân tộc. Các đế chế cũng đã được xây dựng thông qua sự
chiếm đoạt và giữ vững các vị trí điạ lý thiết yếu như Gibraltar hay kênh đào Suez
hoặc Singapore là những điểm nghẽn then chốt trong hệ thống kiểm soát mang tính
đế quốc.
Mối quan hệ giữa chủ nghĩa dân tộc với sở hữu lãnh thổ được Đức Quốc xã và
đế quốc Nhật thể hiện rất rõ. Nỗ lực xây dựng “đế chế Đức ngàn năm” đã vượt ra
ngoài mục tiêu đoàn kết tất cả các dân tộc nói tiếng Đức dưới một mái nhà chính trị
và cũng tập trung vào tham vọng khống chế những “vựa lúa” Urcaina và các nước
Slavo khác để có lao động nô lệ rẻ mạt cho lãnh địa của đế quốc. Người Nhật cũng
bị ám ảnh bởi khái niệm cho rằng trực tiếp sỡ hữu lãnh thổ Mãn Châu và sau đó là
các cùng Đông Ấn thuộc Hà Lan sản xuất nhiều dầu hỏa là thiết yếu để hoàn thành
sứ mệnh tìm kiếm sức mạnh quốc gia và vị thế toàn cầu. [2, tr43] Vị trí địa lý đôi
khi mang lại cho họ vai trò đặc biệt, như nó là cửa ngõ vào các khu vực quan trọng,
như là một lá chắn phòng thủ cho một quốc gia trọng yếu, hoặc thậm chí cho cả một
khu vực. Sự tồn tại của yếu tố điểm then chốt địa chính trị có thể mang lại những
hậu quả chính trị và văn hóa rất có ý nghĩa đối với địa chính trị láng giềng.

1.1. Khái quát về khoa học địa - chính trị
Nghiên cứu mối quan hệ giữa chính trị với môi trường địa lí đã được nhiều
người thực hiện từ thời Trung cổ. Địa chính trị đã phát triển từ thời kì cổ đại đến
giữa thế kỉ XIX. Trong đó, nhà địa chính trị người Đức Friedrich Ratzel là một
trong những người đi tiên phong đánh dấu thời kì của địa chính trị hiện đại. Nhắc
đến địa chính trị thời kì trước đó, mỗi chúng ta không thể không kể đến các tên tuổi



9

nổi tiếng như Aristote, Jean Bodin, Montesquieu và Thucydide. Thời kì phát triển
mạnh mẽ của địa chính trị là giai đoạn nửa sau thế kỉ XIX và nửa đầu thế kỉ XX.
Môi trường tri thức thuận lợi đã tạo điều kiện cho ngành địa chính trị phát triển.
Giai đoạn này ghi đậm dấu ấn bằng sự chiến thắng của chủ nghĩa khoa học và việc
con người công nhận thuyết tiến hóa của Darwin được áp dụng trong các lĩnh vực
xã hội. Mặc dù, tư tưởng của địa chính trị được sử dụng từ rất sớm, nhưng với cấu
tạo từ ghép vì vậy quan niệm địa chính trị từ khi mới ra đời cho đến tận ngày nay
vẫn chưa được thống nhất.
1.1.1. Khái niệm địa - chính trị
Có thể nói rằng, tư tưởng địa chính trị có từ lâu đời, khi những quốc gia, dân
tộc trên thể giới hình thành. Nhưng khái niệm địa chính trị thì tới ngày nay vẫn
chưa có một khái niệm thống nhất. Tùy vào quan điểm, nhận thức của mỗi nhà khoa
học mà có những định nghĩa khác nhau, cũng như tùy vào từng giai đoạn lịch sử mà
thuật ngữ địa chính trị được hình thành.
Theo từ điển bách khoa Le Petit Larousse illustre của Pháp (năm 2000) đã
định nghĩa “Địa chính trị nghiên cứu các mối quan hệ giữa các dữ liệu đía lý với
nền chính trị của các quốc gia” [dẫn theo 4, tr.17].
Từ điển bách khoa Britannica (2004 CD –ROM) định nghĩa địa chính trị là
“sự phân tích những ảnh hưởng của địa lý đến các mối quan hệ quyền lực trong
chính trị quốc tế. Trong việc hoạch định các chính sách quốc gia, các nhà lý thuyết
địa chính trị đã tìm cách chứng minh tầm quan trọng của những điều đáng chú ý
như việc xác lập các đường biên giới quốc gia, quyền tiếp cận các đường biển quan
trọng và quyền kiểm soát những khu vực đất liền có tầm quan trọng chiến lược”
[dẫn lại theo 4, Tr.17].
Đây là hai định nghĩa kinh điển của giới khoa học. Bên cạnh đó, trong lịch sử
thuật ngữ địa chính trị được hình thành như sau:
Năm 1900, Rudolf Kjellen (1864 – 1922) là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ

“địa chính trị” với định nghĩa như sau: “Địa chính trị là lý thuyết về quốc gia với tư
cách là một cơ thể địa lý hoặc một hiện tượng trong không gian, tức là đất đai, lãnh
thổ, khu vực hoặc đặc biệt nhất là một đất nước, hay nghiên cứu các chiến lược của


10

các cơ thể chính trị trong không gian” [Dẫn lại theo 4, tr.18]. Như vậy, theo định
nghĩa này, Kjellen chú trọng đến 2 yếu tố chủ chốt của địa chính trị là quyền lực và
không gian.
Tướng Đức Karl Haushỏe (1869 – 1946) thì bổ sung thêm các tiến trình chính
trị cho định nghĩa về địa chính trị: “Địa chính trị là một ngành khoa học quốc gia
mới nghiên cứu về nhà nước,… một học thuyết về quyết định luận không gian của
các tiến trình chính trị, dựa trên cơ sở rộng rãi của địa lý học, đặc biệt là địa lý học
chính trị” [dẫn theo 4, tr. 18].
Thời hiện đại, nhiều nhà khoa học đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về địa
chính trị.
Saul Bernard Cohen một tác giả người Anh, vào năm 1964 đã đưa ra định
nghĩa địa chính trị như sau: Địa chính trị là khoa học nghiên cứu về “mối quan hệ
giữa quyền lực chính trị quốc tế với khung cảnh địa lý” [dẫn theo 4 , tr.18].
Năm 1988, Oyvind Osterud đã định nghĩa địa chính trị là: “Nói một cách tóm
tắt, theo truyền thống thì địa chính trị được dùng để chỉ các mối liên hệ và quan hệ
nhân quả giữa quyền lực chính trị với không gian địa lý; nói một cách cụ thể, nó
thường được coi là một khối tư duy có nhiệm vụ thử nghiệm những yêu cầu chiến
lược đặc thù dựa trên tầm quan trọng tương đối của sức mạnh trên đất liền và sức
mạnh trên biển trong lịch sử thế giới…Truyền thống địa chính trị có một số quan
ngại thường xuyên, ví dụ như những nhân tố tương quan sức mạnh trong nền chính
trị thế giới, như việc xác định các khu vực chủ chốt của quốc tế, và các mối quan hệ
giữa khả năng hải quân và khả năng trên bộ” . [dẫn theo, 4, tr.18]
Năm 1993, trong cuốn sách Political Geography [Địa lý học chính trị”,

Longman, xuất bản lần 3], tác giả Peter J.Taylor viết rằng sự phục hồi của địa chính
trị đã được định hình theo 3 cách:
1. Địa chính trị đã trở thành một thuật ngữ thông dụng để mô tả sự cạnh tranh
toàn cầu trong nền chính trị thế giới”
2. “Hình thức thứ hai (…) là một hình thức hàn lâm, một địa chính trị mới
mang tính phê phán hơn. Các nghiên cứu lịch sử mang tính phê phán đối với địa
chính trị trong quá khứ đã trở thành một thành tố cần thiết của ngành địa chính trị


11

của nhà địa lý học”
3. Hình thức thứ ba (…) liên quan đến phong trào vận động hành lang mang
tính tân bảo thủ, có thiên hướng quân sự, cũng cấp các luận cứ địa chính trị cho lối
nói khoa trương của phòng trào nào về chiến tranh lạnh. Những công trình nghiên
cứu như thế đang nói đến những thúc bách về địa chính trị và chúng coi địa lý học
là nhân tố thường trực mà mọi tư tưởng chiến lược cần phải xoay quanh. [4, tr 20]
Tác giả Marisol Touraine (Pháp) trong cuốn Le bouleversement du monde –
Géopolitique du XXI siecle (“Sự đảo lộn thế giới: Địa chính trị thể kỉ XXI”) đã ghi
ngoài bìa hai chữ: “Sience politique” (“khoa học chính trị”) cho thấy tác giả coi lĩnh
vực địa chính trị là thuộc ngành chính trị học.
Năm 1999, trong công trình Introdution à l’analyse geopolitique [“nhập môn
phân tích địa chính trị”] nhà nghiên cứu người Pháp Aymeric Chauprade đã phát
triển một phương pháp luận địa chính trị chặt chẽ. Ông định nghĩa địa chính trị như
sau:
“Khoa học địa chính trị là việc nghiên cứu nội hàm của các thực tế địa chính
trị và sự vận động của chúng, thông qua việc nghiên cứu diện mạo, hình thức và
những vị trí địa chính trị”. Ông xác định rõ thêm: “..Nói quốc là là trung tâm và
con bài của các tham vọng địa chính trị không có nghĩa quốc gia là các tác nhân
thế giới duy nhất; khác với lĩnh vực quan hệ quốc tế,…()Khoa học địa chính trị

chấp nhận cả các tác nhân khác và các thực tế địa chính trị khác nữa” [dẫn lại theo,
4, Tr.21]
Như vậy, khác với các nhà địa chính trị cổ điển, Chauprade phân biệt rõ ràng
giữa địa chính trị với quan hệ quốc tế.
Năm 2003, trong cuốn sách Geopolitics of the World System [“Địa chính trị
của hệ thống thế giới”, Rowman and Littlefield ], Saul Bernard Conhen lại định
nghĩa rõ thêm về địa chính trị: “Địa chính trị là việc phân tích mối tương quan giữa
một bên là môi trường và bối cảnh địa lý với một bên là các tiến trình chính trị.(…)
Cả môi trường địa lý lẫn tiến trình chính trị đều mang tính năng động và có ảnh
hưởng lẫn nhau. Địa chính trị sẽ quan tâm đến mối tương quan này.” [dẫn lại theo,
4, tr.21]..Tác giả nhìn nhận địa chính trị dưới góc độ mối tương quan năng động


12

giữa quyền lực và không gian.
Dưới góc độ tài nguyên Giáo sư người Mỹ Michael T.Klare một chuyên gia về
các vấn đề an ninh thế giới đã quan niệm địa chính trị là “sự tranh giành giữa các
đại cường quốc và giữa những đại cường quốc có tham vọng đối với việc kiếm soát
lãnh thổ, kiểm soát các nguồn tài nguyên và những vị trí địa lý quan trọng như hải
cảng, kênh đào, hệ thống sông ngòi, ốc đảo, cũng các nguồn của cải và nguồn ảnh
hưởng khác”; (…)ông cho rằng sự tranh giành này chính là động lực của nền chính
trị thế giới và đặc biệt là của xung đột thế giới trong nhiều thế kỷ qua (…). [dẫn lại
theo 4, tr.22]
Trong cuốn sách “Địa chính trị, một lịch sử lâu dài” xuất bản 2006 Yves
Lacoste đã tuyên bố như sau: “Thuật ngữ địa chính trị là cái là ngày nay người ta đã
sử dụng cho nhiều việc khác nhau, thực tế được dùng để chỉ tất cả những gì liên
quan đến sự cạnh tranh quyền lực hoặc ảnh hưởng đối với những vùng lãnh thổ và
dân chúng sống trên đó: đó là sự cạnh tranh giữa đủ loại thế lực chính trị chứ không
phải chỉ là giữa các quốc gia, mà còn giữa các phong trào chính trị hoặc các nhóm

vũ trang ít nhiều bất hợp pháp – đó là sự tranh giành quyền kiểm soát hoặc thống trị
đối với các vùng lãnh thổ có quy mô lớn hoặc nhỏ” [dẫn lại theo, 4, tr.23] ….trong
định nghĩa này Lacoste nhấn mạnh tầm quan trọng của quy mô của cả quyền lưc lẫn
của không gian.
Tác giả Conlin Flint, trong cuốn Nhập môn địa chính trị năm 2006 nhấn mạnh
đến khía cạnh thực tiễn của lĩnh vực khoa học này: giành giật quyền lực: “Địa chính
trị, với tư cách là cuộc đấu tranh nhằm kiểm soát không gian và địa điểm, tập trung
chú ý vào quyền lực (…) Trong những quá trình thực hành địa chính trị ở thế kỷ
XX, quyền lực được nhìn đơn giản như là quyền lực tương đối của các quốc gia
trong các hoạt động đối ngoại. Đến thế kỉ 20, (…) các định nghĩa về quyền lực đều
tập trung vào khả năng tiến hành chiến tranh của một nước chống lại nước khác”
[dẫn lại theo 4, tr.23]
Tác giả Nguyễn Văn Dân trong cuốn Địa - chính trị trong chiến lược và chính
sách phát triển quốc gia đã tổng kết lại như sau: Có hai loại quan niệm về địa chính
trị: Quan niệm thứ nhất cho rằng, địa chính trị là một phân nhánh của môn địa lý



×