VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN THANH
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 62 38 01 04
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN NGÔN NGỮ ỌC XÁC HỘI V
NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. VÕ KHÁNH VINH
Phản biện 1: PGS.TS. Trần Đình Nhã
Phản biện 2: PGS.TS. Cao Thị Oanh
Phản biện 3: PGS.TS. Trần Hữu Tráng
Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,
họp tại Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã
hội Việt Nam, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
Vào hồi .... giờ ... ngày .... tháng ..... năm 2016
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Trao đổi những vấn đề có liên quan đến tình tiết định tội và tình
tiết định khung hình phạt của tội cướp tài sản quy định tại Điều
133 BLHS năm 1999, Tạp chí Nghề luật, số 6, tháng 11 năm 2014.
2. Đặc điểm các tội xâm phạm sở hữu ở Thành phố Hồ Chí Minh
những năm gần đây, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 10 (283),
tháng 10 năm 2015.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là thành phố lớn, nằm ở trung tâm của khu vực Đông Nam
Bộ và trong vùng tứ giác kinh tế trọng điểm phía Nam, với nhiều
đầu mối giao thông lớn như: Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, ga
Sài Gòn, bến xe Miền Đông, bến xe Miền Tây, Thành phố Hồ
Chí Minh là khu vực giao thoa kinh tế, xã hội giữa các tỉnh miền
Tây Nam Bộ, miền Đông Nam Bộ và các tỉnh Nam Bộ. Những
điều kiện thuận lợi đó đã thúc đẩy kinh tế thành phố phát triển
nhanh chóng và ổn định. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động
tích cực thì với mật độ dân số cao, dân số trẻ, số người trong độ
tuổi lao động nhiều, trong số đó không ít người không có việc
làm hoặc có việc làm nhưng không ổn định đây chính là những
đối tượng có nguy cơ phạm tội cao, là nguồn “bổ sung” cho tội
phạm nói chung trong đó có các tội phạm xâm phạm sở hữu.
Theo số liệu thống kê, từ năm 2011 đến năm 2015, trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh xảy ra 30344 vụ án xâm phạm sở
hữu. Cụ thể, năm 2011 xảy ra 6057 vụ, năm 2012 xảy ra 6098 vụ,
năm 2013 xảy ra 6138 vụ, năm 2014 xảy ra 6301 vụ, năm 2015
xảy ra 5750 vụ. Như vậy, số vụ án xâm phạm sở hữu qua các năm
tăng giảm không theo quy luật mà chủ yếu là tăng lên, chỉ cá biệt
trong năm 2015 số vụ án xâm phạm sở hữu giảm đáng kể so với
năm 2014 (với 551 vụ). Thực tế này phần nào đã phản ánh tính
chất manh động, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của người phạm tội và
cả những yếu tố thuộc về người bị hại như sự nhẹ dạ cả tin, sự lơi
lỏng, sơ hở trong quá trình quản lý, chiếm giữ và sử dụng tài sản đã
1
tạo điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện hành vi phạm
tội xâm phạm quyền sở hữu tài sản. Mặc dù trong thời gian qua, đã
có rất nhiều hoạt động phòng ngừa, đấu tranh được triển khai
trong thực tế của các cơ quan bảo vệ pháp luật, nhưng tội phạm
xâm phạm sở hữu vẫn đang hiện hữu và là mối lo ngại lớn của
toàn xã hội, đòi hỏi sự quan tâm của các ngành, các cấp tại Thành
phố Hồ Chí Minh.
Trong thời gian qua, dưới góc độ khoa học Luật hình sự, đã
có nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu về các chế định tài
sản và quyền sở hữu cũng như những vấn đề pháp lý và thực tiễn
đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu với mục tiêu
làm sáng tỏ các quy định của pháp luật nhằm nâng cao nhận thức
về mặt lý luận cũng như năng lực thực tiễn của các chủ thể trong
việc áp dụng pháp luật hình sự đạt được hiệu quả tốt nhất. Tuy
nhiên, cho đến nay, quy định về các tội xâm phạm sở hữu trong
BLHS chưa mang tính toàn diện, nhiều vấn đề nảy sinh trong điều
kiện tình hình mới đã gây khó khăn cho các cơ quan chức năng
trong việc áp dụng pháp luật hình sự đòi hỏi chúng ta phải có
những nhận thức mới, tư duy mới đối với các tội phạm này. Mặt
khác, trong phạm vi các tư liệu mà tác giả đã nghiên cứu thì chưa
thấy có một công trình nghiên cứu khoa học nào của nước ta đề
cập một cách toàn diện đến các tội xâm phạm sở hữu trong pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. Cho
nên tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Các tội xâm phạm sở hữu
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí
Minh” làm luận án tiến sĩ.
2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Mục đích của luận án: Nghiên cứu một số vấn đề lý luận
và quy định của pháp luật hình sự cũng như thực tiễn áp dụng quy
định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu tại Thành
phố Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó đề xuất những phương hướng và
giải pháp cụ thể cho việc nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của
pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu tại Thành phố Hồ
Chí Minh trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ của luận án: Để đạt được mục đích nêu trên,
luận án đặt ra và phải giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
+ Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến
các tội xâm phạm sở hữu;
+ Kiến giải làm rõ những vấn đề lý luận về các tội xâm phạm
sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam như khái niệm và dấu
hiệu pháp lý đặc trưng của các tội phạm cụ thể thuộc chương các
tội xâm phạm sở hữu, tiến hành phân biệt các tội phạm cụ thể
thuộc chương này. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam
đối với các tội xâm phạm sở hữu. Đồng thời, nghiên cứu quy định
của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về các tội xâm
phạm sở hữu nhằm so sánh, đối chiếu với quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam ở khía cạnh hình thức pháp lý, kỹ thuật lập
pháp, cơ sở và nội dung của từng quy phạm pháp luật;
+ Đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ thực trạng áp dụng
quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu tại
Thành phố Hồ Chí Minh, đánh giá kết quả đạt được, hạn chế,
thiếu sót và nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót.
3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu của luận án: Là những vấn đề lý
luận và quy định của pháp luật hình sự cũng như thực tiễn áp dụng
quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu tại
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu của luận án:
+ Phạm vi nội dung: Trong phạm vi nội dung nghiên cứu
luận án, tác giả tập trung làm rõ những vấn đề lý luận và pháp lý
về các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam.
Đồng thời, tiến hành đánh giá một cách khách quan, toàn diện,
đầy đủ thực trạng áp dụng quy định của pháp luật hình sự về các
tội xâm phạm sở hữu tại Thành phố Hồ Chí Minh, phát hiện
những vấn đề đặt ra và từ đó đề xuất những phương hướng và giải
pháp cụ thể cho việc nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của
pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu trong thực tiễn công
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
+ Phạm vi không gian: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn
đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự cũng như thực tiễn áp
dụng quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu tại
Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Phạm vi thời gian: Các số liệu thống kê sử dụng trong luận
án được tiến hành thu thập từ năm 2011 đến năm 2015.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu luận án
- Phương pháp luận: Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở
phương pháp luận biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
4
Nam về đường lối đổi mới đất nước, tinh thần cải cách tư pháp,
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hoạt động
đấu tranh phòng, chống tội phạm. Trong quá trình nghiên cứu, luận
án đã sử dụng phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành Luật
hình sự, Luật tố tụng hình sự, Tội phạm học, Tâm lý học, Xã hội
học, Khoa học điều tra hình sự với các phương pháp nghiên cứu cụ
thể để làm sáng tỏ bản chất của vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu luận
án tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
+ Phương pháp phân tích tài liệu;
+ Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh số liệu thống kê;
+ Phương pháp tổng kết thực tiễn;
+ Phương pháp so sánh pháp luật;
+ Phương pháp chuyên gia;
+ Phương pháp điều tra điển hình.
5. Những đóng góp mới của luận án
Có thể khẳng định, luận án là một trong những công trình
nghiên cứu chuyên khảo dưới góc độ Luật hình sự và tố tụng hình
sự, có sự tiếp thu tri thức của các công trình khoa học đã được
công bố trước đây về các tội xâm phạm sở hữu, đi sâu phân tích,
luận giải một cách có hệ thống và khoa học về những khía cạnh
khác nhau có liên quan đến lý luận và thực tiễn định áp dụng quy
định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu tại Thành
phố Hồ Chí Minh. Vì thế những đóng góp mới của luận án được
thể hiện ở kết quả của việc giải quyết các nhiệm vụ của luận án.
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội
phạm xâm phạm sở hữu nói riêng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Về
mặt lý luận, luận án cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho hoạt
động lập pháp, hành pháp và đặc biệt trong lĩnh vực định tội danh và
quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Thành phố
Hồ Chí Minh của Tòa án nhân dân các cấp.
Về mặt thực tiễn, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
cán bộ nghiên cứu về xây dựng pháp luật, cán bộ hoạt động thực tiễn,
tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật. Đồng thời, đây còn là tài liệu
bổ ích cho việc nghiên cứu giảng dạy môn học Luật hình sự, Luật tố
tụng hình sự, Luật thi hành án hình sự, Tội phạm học, Khoa học Điều
tra hình sự trong các học viện, trường đại học đào tạo về Luật.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung luận án gồm 4 chương:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến các
tội xâm phạm sở hữu
Chƣơng 2: Những vấn đề lý luận và pháp lý về các tội xâm
phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam
Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình Việt
Nam về các tội xâm phạm sở hữu tại Thành phố Hồ Chí Minh
Chƣơng 4: Giải pháp nâng cao hiệu áp dụng quy định của pháp
luật hình Việt Nam về các tội xâm phạm sở hữu tại Thành phố Hồ
Chí Minh
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài
Thông qua việc nghiên cứu, tìm hiểu tình hình nghiên cứu ở
nước ngoài liên quan đến các tội xâm phạm sở hữu tác giả nhận
thấy đây là nhóm tội phạm xảy ra phổ biến ở hầu hết các quốc gia,
chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số các vụ phạm pháp hình sự, đồng thời
pháp luật hình sự các nước đều có những quy định cụ thể về tội
phạm và hình phạt đối với các hành vi xâm phạm sở hữu. Ngoài
ra, trong các tài liệu đã thu thập được có rất nhiều nghiên cứu
chuyên khảo, bài viết phân tích, đánh giá dưới những khía cạnh
khác nhau về nhóm tội phạm này. Liên quan đến nội dung của
luận án và cũng nhằm tham khảo thêm về cách tiếp cận vấn đề, tác
giả đã lựa chọn, tóm lược trình bày một số lý thuyết cũng như
những công trình khoa học của các nhà nghiên cứu nước ngoài về
các tội xâm phạm sở hữu.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Trong thời gian qua, tác giả nhận thấy liên quan đến đề tài
luận án đã có một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học,
các tác giả đề cập đến dưới những khía cạnh và góc độ khác nhau.
Nhưng dưới góc độ một công trình nghiên cứu khoa học thì chưa
có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn
diện và mang tính hệ thống tất cả các vấn đề về tội phạm xâm
phạm sở hữu từ thực tiễn một địa bàn cụ thể như Thành phố Hồ
Chí Minh nhằm đánh giá thực trạng tội phạm, hoạt động định tội
danh và quyết định hình phạt cũng như nội dung và hình thức của
7
các điều luật cụ thể về các tội xâm phạm sở hữu, từ đó đề xuất
giải pháp góp phần hoàn thiện về mặt kỹ thuật lập pháp và nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật.
1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Căn cứ vào mục đích nghiên cứu, qua khảo sát về tình hình
nghiên cứu tác giả thấy một số vấn đề sau đây cần phải đặt ra để
thực hiện trong đề tài Luận án: Những vấn đề lý luận và pháp lý
về các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam;
Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về các tội xâm phạm sở hữu tại Thành phố Hồ Chí Minh; Đề
xuất một số giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm sở hữu
và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật hình sự về
các tội xâm phạm sở hữu tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết luận chƣơng 1
Trong chương 1 của luận án tác giả đã tập trung nghiên cứu,
phân tích, kiến giải, làm sáng tỏ những kết quả đạt được, những
hạn chế, thiếu sót cũng như những khoảng trống về mặt khoa học
thể hiện trong các công trình nghiên cứu liên quan đến các tội xâm
phạm sở hữu. Thông qua việc nghiên cứu này tác giả cho rằng, tội
phạm xâm phạm sở hữu là loại tội phạm phổ biến trong thực tiễn
đấu tranh phòng, chống tội phạm các nước trên thế giới. Chính vì
vậy, những công trình khoa học đề cập đến lĩnh vực điều tra, truy
tố, xét xử, phòng ngừa tội phạm xâm phạm sở hữu là khá phong
phú. Tuy nhiên, các công trình này hầu như chỉ dừng lại ở việc
phân tích, đánh giá thực trạng các tội xâm phạm sở hữu, đưa ra
8
các giải pháp phòng ngừa cụ thể gắn liền với điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội của mỗi quốc gia và mỗi địa phương, vùng lãnh
thổ nhất định mà chưa tập trung phân tích, kiến giải làm sáng tỏ
những nội dung cụ thể của các quy định pháp luật hình sự có liên
quan, thực tiễn định tội danh cũng như các loại hình phạt áp dụng
đối với chủ thể phạm tội. Ngoài ra, vì phần lớn các công trình chủ
yếu tiếp cận dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa xã hội cho
nên ít nhiều chỉ có ý nghĩa tham khảo về mặt phương pháp luận và
hướng triển khai vấn đề nghiên cứu cũng như một số đặc điểm tội
phạm học của các tội xâm phạm sở hữu chứ chưa gắn sát với đối
tượng nghiên cứu của luận án này. Mặc dù vậy, các công trình
khoa học nêu trên đã chứa đựng những hàm ý khoa học cho việc
hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội
xâm phạm sở hữu cũng như đề xuất giải pháp đấu tranh phòng,
chống tội phạm trong thực tiễn ở Việt Nam nói chung và Thành
phố Hồ Chí Minh nói riêng.
9
Chƣơng 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ
VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
2.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm
sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam
2.1.1. Khái niệm các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật
hình sự Việt Nam
Trước hết về mặt nhận thức phải thống nhất ở việc khái niệm
các tội xâm phạm sở hữu cũng bao gồm những dấu hiệu chung
của khái niệm tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS
năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Theo đó, các tội xâm
phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và
đạt độ tuổi Luật hình sự quy định thực hiện một cách cố ý hoặc vô
ý xâm phạm đến quan hệ sở hữu được BLHS quy định.
2.1.2. Dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm sở hữu theo
pháp luật hình sự Việt Nam
Về mặt lý luận, cấu thành tội phạm được hiểu là tổng hợp
những dấu hiệu pháp lý đặc trưng cho từng loại tội phạm cụ thể
được quy định trong BLHS. Cũng giống như loại tội phạm khác,
tội xâm phạm sở hữu có bốn yếu tố cấu thành tội phạm đó là:
khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, mặt chủ
quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm. Trong mục này, tác giả
phân tích làm sáng tỏ nội dung của 4 yếu tố cấu thành tội phạm
xâm phạm sở hữu.
2.2. Khái quát về lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam đối
với các tội xâm phạm sở hữu
Điểm qua vài nét về lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam đối với
các tội xâm phạm sở hữu cho thấy Nhà nước ta luôn quan tâm đến
công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này, kiên quyết đấu
10
tranh với các hành vi xâm phạm sở hữu nhằm bảo vệ tài sản của Nhà
nước, công dân trên cơ sở trừng trị kết hợp với khoan hồng, lấy việc
giáo dục, cải tạo người phạm tội là mục đích chính. Mặt khác,
nguyên tắc nhân đạo cũng được thể hiện thông qua việc thu hẹp
phạm vi áp dụng hình phạt tử hình ở một số tội phạm cụ thể.
2.3. Pháp luật hình sự một số quốc gia trên thế giới về các tội
xâm phạm sở hữu
Qua nghiên cứu pháp luật hình sự các quốc gia trên thế giới,
tác giả nhận thấy pháp luật hình sự của các quốc gia đều trực tiếp
quy định những vấn đề có liên quan đến tội phạm và trách nhiệm
hình sự, dù mức độ phản ánh có khác nhau nhưng tựu trung lại
đều thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền đối với việc bảo vệ
những quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, cũng như những quan hệ xã hội khác đảm bảo cho sự
phát triển của đời sống chính trị, xã hội, pháp lý của một quốc gia,
dân tộc. Liên quan đến đề tài luận án, trong mục này, tác giả đã
tiến hành phân tích việc quy định các tội xâm phạm sở hữu trong
pháp luật hình sự ở mỗi quốc gia thể hiện ở các khía cạnh như
hình thức pháp lý và kỹ thuật lập pháp cũng như nội dung pháp lý.
Kết luận chƣơng 2
Bằng việc sử dụng phương pháp phân tích tài liệu và phương
pháp so sánh pháp luật nhằm hệ thống hóa những vấn đề lý luận
về các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam, trên
cơ sở tiếp thu hệ thống tri thức và phương pháp tiếp cận khoa học
của các công trình đề cập đến các tội xâm phạm sở hữu, trong
chương 2 của luận án tác giả đã tiến hành nghiên cứu, kiến giải
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về các tội xâm phạm sở hữu
theo pháp luật hình sự Việt Nam, cụ thể:
11
Nghiêu cứu vài nét về lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam đối
với các tội xâm phạm sở hữu, qua đó thấy rằng, pháp luật hình sự
Việt Nam từ năm 1945 đến nay luôn có các quy định liên quan
đến các tội xâm phạm sở hữu từ những sắc lệnh, sắc luật, dụ số,
pháp lệnh cho đến việc pháp điển hóa thành những quy định của
BLHS thể hiện rõ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước trong
công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này;
Tìm hiểu, kiến giải những vấn đề khoa học có liên quan đến
chế độ sở hữu, tài sản và quyền sở hữu với tư cách là những chế
định pháp luật, tạo cơ sở cho việc phân tích toàn diện, đầy đủ dấu
hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm sở hữu, đưa ra những
định hướng và căn cứ cơ bản cho việc nhận biết, phân biệt các tội
phạm này trong thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân các
cấp góp phần nâng cao ý thức pháp luật, tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa trên tinh thần thượng tôn pháp luật;
Khái lược quy định đối với các tội xâm phạm sở hữu trong
pháp luật hình sự một số quốc gia trên thế giới, việc làm này theo lẽ
tự nhiên đã hàm chứa những ý nghĩa thiết thực cho việc tiếp thu,
lĩnh hội và đề xuất các mô hình góp phần hoàn thiện pháp luật hình
sự Việt Nam trong thời gian sắp tới, thể hiện sự hòa nhập của pháp
luật Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng như hiện nay.
12
Chƣơng 3
THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Tổng quan tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến năm 2015
Qua nghiên cứu cho thấy, trong những năm qua tình hình tội
phạm nói chung và tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục có những diễn biến phức tạp
theo chiều hướng ngày càng gia tăng về số vụ và số đối tượng
phạm tội, hậu quả thiệt hại gây ra hết sức nghiêm trọng, không chỉ
ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự mà còn trực tiếp xâm
phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người dân, đe dọa đến
hoạt động bình thường của đời sống xã hội. Tình hình nêu trên
xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau cả về khách quan lẫn
chủ quan, những yếu tố đó đều ảnh hưởng đến thực tiễn áp dụng
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm sở
hữu tại Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Thực tiễn định tội danh đối với các tội xâm phạm sở
hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí
Minh
Định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu là hoạt động
đặc thù được tiến hành đối với một nhóm hành vi phạm tội nhất
định xâm phạm đến quan hệ xã hội được Luật hình sự xác lập và
bảo vệ, đó là quyền sở hữu về tài sản bao gồm các quyền năng
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Vì vậy về mặt nhận thức,
hoạt động này được tiến hành trên nền tảng lý luận và pháp lý
13
chung của hoạt động định tội danh có xem xét đến yếu tố riêng
biệt của nhóm các tội xâm phạm sở hữu quy định tại chương XVI
của BLHS năm 2015.
Định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu là một quá
trình nhận thức lôgíc, bởi vậy để thực hiện đúng đắn quá trình này
đòi hỏi phải có các tiền đề, điều kiện, cơ sở phương pháp luận,
biện pháp lôgíc và kỹ thuật pháp lý. Hơn nữa, định tội danh đối
với các tội xâm phạm sở hữu là một hoạt động do cán bộ pháp luật
tiến hành (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội Thẩm),
họ là người được trang bị những kiến thức nhất định về thế giới
quan, có kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm. Trong quá trình
định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu, tư duy của họ bắt
nguồn từ việc sử dụng các biện pháp kỹ thuật pháp lý và phát triển
theo những quy luật nhất định. Điều đó có nghĩa rằng, định tội
danh là sự đánh giá một tội phạm về mặt pháp lý, trên cơ sở
những tài liệu đã thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố và
xét xử.
Định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu cũng có nghĩa
là một trong những hình thức hoạt động về mặt pháp lý. Bởi vì,
định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu là sự đánh giá về
mặt pháp lý đối với các hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người
có thẩm quyền đang xem xét, xác định hành vi đó được quy định
ở điều nào tại chương XVI của BLHS. Hay, định tội danh đối với
các tội xâm phạm sở hữu là kết luận về sự phù hợp giữa trường
hợp phạm tội cụ thể đang được xem xét với khái niệm về loại tội
này được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự, tức là việc
lựa chọn quy phạm pháp luật hình sự để áp dụng đối với hành vi
cụ thể đang xem xét. Điều đó cũng có nghĩa là sự xác định hành vi
14
xảy ra trong thực tế là hành vi phạm tội. Do đó, điều có ý nghĩa
quan trọng nhất trong quá trình định tội danh đối với các tội xâm
phạm sở hữu là phải tìm được những dấu hiệu cơ bản, điển hình
và quan trọng nhất, phải chỉ ra dấu hiệu cần và đủ để xác định
thực chất của hành vi xảy ra trong thực tế. Đồng thời, khi đối
chiếu các dấu hiệu đó với các dấu hiệu được quy định trong một
quy phạm pháp luật hình sự phải đưa ra kết luận rằng nhà làm luật
khi ban hành quy phạm pháp luật đó là để áp dụng cho những
trường hợp phạm tội cụ thể đang được xem xét.
Trong mục này, thông qua việc nghiên cứu điển hình 500 bản
án hình sự của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về các
tội xâm phạm sở hữu tác giả khẳng định rằng, trong quá trình thực
hiện các hoạt động tố tụng hình sự trong đó có hoạt động định tội
danh đối với các hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu theo cấu
thành tội phạm cơ bản, cũng như theo cấu thành tội phạm tăng
nặng bước đầu đã thu được những kết quả nhất định. Đồng thời,
cũng gặp phải những hạn chế, thiếu sót từ quy định của pháp luật,
nhận thức của các cán bộ cơ quan bảo vệ pháp luật đến thực tiễn
áp dụng quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở
hữu.
3.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm
sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí
Minh
Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu là việc
Tòa án lựa chọn loại hình phạt phù hợp (bao gồm hình phạt chính
và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức hình phạt cụ thể được
quy định trong BLHS để áp dụng cho người phạm tội xâm phạm
15
sở hữu. Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu
đúng pháp luật, công bằng là tiền đề cho việc đạt được mục đích
của hình phạt.
Do vậy, quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu
là một trong những giai đoạn rất quan trọng, một trong những nội
dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự do Thẩm phán và Hội
thẩm tiến hành đối với người thực hiện tội phạm theo một trình tự
nhất định. Ngoài ra, nó còn là một dạng hoạt động pháp lý tố tụng
hình sự, bởi vì để quyết định hình phạt, Tòa án phải dựa vào kết
quả của các giai đoạn tố tụng hình sự khác, như kết quả hoạt động
điều tra, truy tố và kết quả hoạt động của mình ở giai đoạn xét xử
để tuyên một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Để quyết định hình phạt đối với người phạm tội xâm phạm sở
hữu dù họ thực hiện một tội phạm hay thực hiện nhiều tội phạm
đúng pháp luật, công bằng và hợp lý, khi áp dụng các chế tài Luật
hình sự, Tòa án phải tuân theo một số nguyên tắc nhất định. Các
nguyên tắc đó được gọi là các nguyên tắc quyết định hình phạt.
Đây là những tư tưởng chỉ đạo, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình
Tòa án áp dụng những quy phạm pháp luật hình sự để quyết định
hình phạt đối với người phạm tội xâm phạm sở hữu. Các nguyên
tắc quyết định hình phạt là một trong những nội dung quan trọng
của chế định quyết định hình phạt, cần phải được nhận thức một
cách đầy đủ, toàn diện trong khi áp dụng các chế tài hình sự để
quyết định hình phạt. Việc nghiên cứu làm sáng tỏ các nguyên tắc
quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu theo pháp
luật hình sự Việt Nam tạo tiền đề thuận lợi để quyết định hình
phạt đúng pháp luật. Nếu nhận thức không đúng các nguyên tắc
16
quyết định hình phạt sẽ dẫn đến việc áp dụng không đúng các quy
phạm pháp luật hình sự, dẫn đến việc quyết định hình phạt sai.
Căn cứ vào yêu cầu các nguyên tắc quyết định hình phạt đối
với các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam
phải là những tư tưởng chủ đạo (được quy định trực tiếp hoặc gián
tiếp trong luật) trong quá trình Tòa án áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội và các nguyên tắc đó phải phù hợp với các nguyên
tắc chung của luật hình sự, tác giả xác định có ba nguyên tắc
quyết định hình phạt chủ yếu sau đây: 1) Nguyên tắc pháp chế xã
hội chủ nghĩa; 2) Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt; 3) Nguyên tắc
công bằng xã hội. Các nguyên tắc này tạo thành hệ thống các
nguyên tắc quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu
mà Tòa án phải tuân thủ khi lựa chọn và xác định loại, mức hình
phạt cụ thể đối với người phạm tội. Các nguyên tắc trên vừa có
tính độc lập tương đối, vừa có mối liên hệ hữu cơ, tác động qua lại
lẫn nhau, góp phần định hướng, chỉ đạo quá trình quyết định hình
phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu.
Qua thống kê cho thấy, hình phạt đối với các tội xâm phạm sở
hữu khác nhau trên cơ sở tính nguy hiểm cho xã hội của từng tội.
Hình phạt tù chung thân được quy định ở 4 tội đó là tội cướp tài
sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hình phạt tù có thời hạn được quy định
ở tất cả các tội thuộc chương này với mức phạt tù thấp nhất là 03
tháng, mức cao nhất là 20 năm. Hình phạt cảnh cáo được quy định
đối với 02 tội. Hình phạt cải tạo không giam giữ được quy định đối
với 9 tội (đây là các tội được quy định từ Điều 172 đến Điều 180
BLHS). Hình phạt tiền chỉ được quy định là hình phạt chính đối
với 03 tội. Ngoài hình phạt chính, hình phạt bổ sung được quy định
17
tại các tội thuộc chương các tội xâm phạm sở hữu trừ tội chiếm giữ
trái phép tài sản và tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản.
Thực tiễn quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở
hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh
được tác giả phân tích, đánh giá thông qua các loại hình phạt cụ
thể được áp dụng đối với người phạm tội cũng như thực trạng
triển khai áp dụng các nguyên tắc và các căn cứ quyết định hình
phạt. Để tìm hiểu thực tiễn quyết định hình phạt đối với các tội
xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam tại Thành phố
Hồ Chí Minh, tác giả đã tiến hành nghiên cứu Báo cáo tham luận
về công tác xét xử các vụ án hình sự, phân tích điển hình 500 bản
án hình sự liên quan đến các tội xâm phạm sở hữu của Tòa án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù việc nghiên cứu này
có thể chưa thực sự toàn diện, sâu sắc và đầy đủ về thực tiễn quyết
định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu nhưng thông qua
đó tác giả xin mạnh dạn nêu lên một số nhận định bước đầu được
thể hiện trên các phương diện gồm kết quả đạt được, hạn chế,
thiếu sót và nguyên nhân.
Kết luận chƣơng 3
Trên cơ sở những vấn đề lý luận và pháp luật về các tội
xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam đã được phân
tích, kiến giải trong chương 2 của luận án, tại chương 3 tác giả đã
đã tiến hành đánh giá chung về tình hình định tội danh đối với các
tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam tại Thành
phố Hồ Chí Minh những năm qua (kết quả đạt được, hạn chế sai
lầm và nguyên nhân của hạn chế sai lầm). Đồng thời, tác giả đã
18
tiến hành đánh giá một cách tổng quát thực tiễn áp dụng các loại
hình phạt đối với người phạm tội xâm phạm sở hữu tại Thành phố
Hồ Chí Minh những năm qua, thực tiễn áp dụng các nguyên tắc và
các căn cứ quyết định hình phạt (kết quả đạt được, hạn chế sai lầm
và nguyên nhân của hạn chế sai lầm). Đây là những luận cứ khoa
học cho việc đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động áp
dụng quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu
tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian sắp tới.
19
CHƢƠNG 4
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
4.1. Một số giải pháp hạn chế việc xác định sai tội danh đối
với các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam tại
Thành phố Hồ Chí Minh
Trên cơ sở những kết quả đạt được, hạn chế, thiếu sót cũng
như nguyên nhân, trong mục này tác giả đề xuất các nhóm giải
pháp hạn chế việc xác định sai tội danh đối với các tội xâm phạm sở
hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh
bao gồm:
Thứ nhất, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ
của các chủ thể định tội danh;
Thứ hai, giáo dục ý thức chính trị, bản lĩnh và đạo đức nghề
nghiệp cho các chủ thể định tội danh;
Thứ ba, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giải thích, hướng
dẫn, thực hiện và tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật
hình sự năm 2015 về các tội xâm phạm sở hữu;
Thứ tư, nâng cao hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự
về các tội xâm phạm sở hữu.
4.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt
đối với các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam
tại Thành phố Hồ Chí Minh
Trên cơ sở những kết quả đạt được, hạn chế, thiếu sót cũng
như nguyên nhân, trong mục này tác giả đề xuất các nhóm giải
20
pháp nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm
sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh
bao gồm:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với
hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có hoạt động xét xử
của Tòa án nhân dân, nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ
Thẩm phán;
Thứ hai, nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật hình sự trong
hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân phải gắn liền với việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và
vì dân;
Thứ ba, đổi mới công tác xét xử của Tòa án nhân dân theo
hướng thực hiện dân chủ, mở rộng tranh tụng tại phiên tòa trên cơ
sở tuân thủ triệt để Hiến pháp và pháp luật;
Thứ tư, áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án
nhân dân phải gắn với nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân;
Thứ năm, coi trọng công tác tổng kết kinh nghiệm xét xử để
hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân bám sát
hơn với thực tiễn.
21
KẾT LUẬN
Có thể khẳng định, việc nghiên cứu một cách toàn diện
những vấn đề lý luận về các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật
hình sự Việt Nam và thực tiễn định tội danh, quyết định hình phạt
đối với nhóm tội này tại Thành phố Hồ Chí Minh là việc làm rất
có giá trị và ý nghĩa khoa học lẫn thực tiễn. Thông qua việc kiến
giải, phân tích và giải quyết nhiệm vụ đặt ra, luận án đã đạt được
những kết quả dưới đây:
Nghiêu cứu vài nét về lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam đối
với các tội xâm phạm sở hữu; Tìm hiểu, kiến giải những vấn đề
khoa học có liên quan đến chế độ sở hữu, tài sản và quyền sở hữu
với tư cách là những chế định pháp luật, tạo cơ sở cho việc phân
tích toàn diện, đầy đủ dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm
phạm sở hữu, đưa ra những định hướng và căn cứ cơ bản cho việc
nhận biết, phân biệt các tội phạm này trong thực tiễn hoạt động
xét xử của Tòa án nhân dân các cấp góp phần nâng cao ý thức
pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên tinh thần
thượng tôn pháp luật; Khái lược quy định đối với các tội xâm
phạm sở hữu trong pháp luật hình sự một số quốc gia trên thế giới
nhằm tiếp thu, lĩnh hội và đề xuất các mô hình góp phần hoàn
thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong thời gian sắp tới.
Luận án đã tiến hành kiến giải làm sáng tỏ nội hàm khái niệm
định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu. Đồng thời, chỉ ra
những đặc điểm, hình thức và giai đoạn của hoạt động định tội
danh đối với các tội xâm phạm sở hữu, làm sáng tỏ căn cứ pháp lý
và định tội danh trong một số trường hợp cụ thể. Đặc biệt, bằng
việc khảo sát thực tiễn, thống kế số liệu, trưng cầu ý kiến chuyên
22