Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

BÀI GIẢNG TRIẾT CHI TIẾT CON NGƯỜI cá NHÂN xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.29 KB, 22 trang )

Chủ đề 11
CON NGƯỜI, CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI
Vấn đề con người là nội dung phức tạp và luôn luôn là vấn đề trung
tâm của mọi triết học, triết học nào cũng hướng về con người và quay trở
lại con người. Nhận thức và giải quyết vấn đề con người là nội dung cơ bản
trong mọi học thuyết chính trị xã hội, tư tưởng. Tuy nhiên, trước khi triết
học Mác ra đời, những nhà triết học, nhà tư tưởng giải thích vấn đề con
người có sự khác nhau, nhưng về cơ bản không khoa học. Chỉ đến khi triết
học Mác ra đời, vấn đề con người mới được luận giải một cách khoa học
tạo ra bước ngoặt cách mạng trong nhận thức và giải thích con người,
hướng đến giải phóng con người. Để hiểu sâu sắc thực chất con người là
gì? Con người có nguồn gốc từ đâu? Bản chất con người ra sao? Mời các
đồng chí nghiên cứu chủ đề: “Con người, cá nhân và xã hội”
1. Mục đích
Trang bị cho người học những kiến thức khoa học về vấn đề con
người, cá nhân và xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trên cơ
sở đó có thái độ đúng đắn khi giải quyết quyền lợi và nghĩa vụ của con
người trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đồng thời, giúp người học có cơ sở
khoa học đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái về vấn đề con người.
2. Yêu cầu
- Nắm chắc những nội dung cơ bản về vấn đề con người, cá nhân và
xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
- Có quan điểm duy vật triệt để trong xem xét vấn đề và đấu tranh
phê phán các quan điểm sai trái về vấn đề này.
3. Kết cấu (gồm 3 phần)
Phần I: Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người
Phần II: Cá nhân và xã hội
Phần III: Quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ
4. Thời gian: 5 tiết
5 Phương pháp: Thuyết trình kết hợp với phân tích, giảng giải và
nêu vấn đề.


6. Tài liệu
* Tài liệu nghiên cứu
- Giáo trình Triết học Mác – Lênin, tập 2, Nxb QĐND, H. 1995
- Giáo trình Triết học Mác – Lênin, tập 3, Nxb QĐND, H. 1995
- Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Nxb CTQG, H. 1999


2

2
- Các Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam
* Tài liệu tham khảo

- Tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập,
Nxb CTQG, H. 1995, tập 3.
- Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ,
GS Phạm Minh Hạc chủ biên (đề tài cấp nhà nước).
-Triết học Mác – Lênin về con người và việc xây dựng con người
Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, TS Vũ Thiên
Phương, Nxb CTQG, H.2001
NỘI DUNG

I. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT CON NGƯỜI

Ngày nay, con người đã trở thành đối tượng nghiên cứư của rất nhiều
ngành khoa học khác nhau như: y học, sinh vật học, tâm lý học, nhân chủng
học, xã hội học, triết học… Mỗi khoa học tiếp cận con người theo những
góc độ và phương pháp riêng. Trong khi các khoa học chuyên ngành cụ thể
nhận thức con người bằng cách chia hệ thống thành các yếu tố, thì ngược
lại, triết học nghiên cứu con người bằng cách tổng hợp các yếu tố thành hệ

thống, nghĩa là những vấn đề triết học về con người được hình thành trên
cơ sở tổng kết những thành tựu đạt được bởi các khoa học cụ thể trong lĩnh
vực nghiên cứu về con người nhằm khái quát nên những điểm chung nhất,
phổ biến nhất, bản chất nhất của con người
1. Quan niệm trước Mác về con người
Trước khi triết học Mác ra đời, trong lịch sử tư tưởng nhân loại có
rất nhiều quan niệm khác nhau bàn về con người và bản chất con người
song nhìn chung đều rơi vào duy tâm hoặc siêu hình. Vậy thực chất những
quan điểm này như thế nào, chúng ta sẽ nghiên cứu, đánh giá trong phần 1.
* Quan điểm triết học duy tâm
Chủ nghĩa DT, TG cho rằng, con người được sinh ra là do một
lực lượng siêu nhiên nào đó ( YN, YNTĐ, chúa trời, thượng đế…)


3

3
+ Platon (427 – 347 TCN) cho rằng, con người chẳng qua chỉ là

hình ảnh, là cái giả, cái ảo của “ý niệm”. Con người cũng như thế giới vật
chất có sau và phụ thuộc vào “ý niệm”.
+ Hêghen (1770 – 1831) cho rằng, con người là hiện thân của “ý
niệm tuyệt đối”, là bước cuối cùng của cuộc diễu hành của ý niệm tuyệt đối
trên trái đất. Tuy nhiên, ông có tư tưởng tiến bộ là khẳng định vai trò chủ
thể của con người đối với lịch sử, đồng thời là kết quả của sự phát triển lịch
sử.
- Triết học Phật giáo (Tất Đạt Đa 563 – 483 TCN): Con người sinh
ra, do một tiền kiếp nào đó quy định, sướng hay khổ đều do kiếp trước
định sẵn. Quan điểm triết học Phật giáo là duy tâm, bởi vì mắc phải vòng
luôn hồi, khi giải quýêt kiếp người.

Con người là sự kết hợp giữa danh và sắc (vật chất và tinh thần). Đời sống
con người trên trần thế chỉ là ảo giác hư vô. Vì vậy, cuộc đời con người khi
còn sống chỉ là sống gửi, là tạm bợ. Cuộc sống vĩnh cửu là phải hướng tới
cõi Niết bàn, nơi tinh thần con người được giải thoát để trở thành bất diệt.
- Kitô giáo : cho rằng con người là do chúa sáng tạo ra, là thực thể
có hai bản nguyên: Tinh thần và thể xác. Hai bản nguyên này độc lập với
nhau, đối lập và mâu thuẫn. Tinh thần là cái cao cả, thiêng liêng, tồn tại
vĩnh hằng. Còn thể xác là cái thấp hèn, dơ bẩn, tồn tại hữu hạn. Vì vậy,
phải thường xuyên chăm sóc phần linh hồn để hướng đến thiên đường vĩnh
cửu.
- Nho giáo: Quan niệm con người có “thiên mệnh”, tức là con
người phụ thuộc vào mệnh trời, đức “nhân” chính là giá trị cao nhất của
con người, đặc biệt là người quân tử.
Sau này, tư tưởng của Khổng Tử được các học trò của ông phát triển
theo những trường phái khác nhau. Mạnh Tử (371-289 TCN) coi tính thiện
là bẩm sinh của con người, con người sinh ra được trời phú cho đủ: nhân lễ – trí – tín, đủ đức hiếu – trung – kính, nhưng chỉ có người quân tử là có
khả năng giữ được đủ mà thôi. Tuân Tử (298-238 TCN) cho rằng bẩm sinh


4

4

con người là ác. Do vậy, ông cho rằng phải có lễ nghĩa, khuôn phép, hình
phạt để ngăn ngừa tính ác bẩm sinh của con người
Nhận xét: Nhận thức bản chất con người trên cơ sở thế giới quan
duy tâm, thần bí hoặc nhị nguyên luận đều phản ánh sai lầm về bản chất
con người, hướng con người tới thế giới thần linh, làm cho con người thụ
động và cam chịu
* Quan điểm triết học CNDVSH

Các nhà triết học DVSH cho rằng thế giới vật chất có trước, con
người có sau, con người là do vật chất sinh ra. Song họ cho rằng mọi sự
vật, hiện tượng của thế giới đều do các bản nguyên đầu tiên sinh ra, cho
nên chưa giải thích đúng về nguồn gốc bản chất của con người .
- Hêraclít (544-483 TCN): Lửa là bản nguyên đầu tiên sinh ra vạn
vật, trong đó có cả con người
- Talét (625-547 TCN): nước là cái đầu tiên sinh ra mọi SVHT của
thế giới vật chất
- Đêmôcrít (460-370 TCN): nguyên tử là bản nguyên đầu tiên sinh
ra vạn vật, cả con người và YT con người đều do nguyên tử tạo thành
- Arixtốt (384-322 TCN) : con người là động vật xã hội, động vật
chính trị. đây là cách nhìn duy vật về con người,chứa đựng nội dung con
người vừa có tính tự nhiên, vừa có tính xã hội. Tuy nhiên, hạn chế của
Arixtốt là chưa nhận thức đúng vị trí, vai trò và mối quan hệ giữa hai mặt:
mặt sinh vật và mặt xã hội của con người
- Phoiơbắc (1804 – 1872), nhà duy vật nổi tiếng của triết học cổ
điển Đức, đã có nhiều cống hiến lý giải về nguồn gốc con người, ông khẳng
định con người do sự vận động của thế giới vật chất tạo nên, là kết quả của
sự phát triển của thế giơí tự nhiên theo quy luật tiến hoá, con người nhân
bản bằng xương bằng thịt. Đây là quan điểm tiến bộ, tuy nhiên, Phoiơbắc
mới dừng lại ở mặt tự nhiên, sinh vật chưa thấy được bản chất xã hội trong
đời sống con người, tách con người khỏi những điều kiện lịch sử cụ thể.


5

5
Con người trong triết học Phoiơbắc chỉ là con người tự nhiên, sinh

vật, chung chung, trừu tượng, phi lịch sử, phi giai cấp. Phoiơbắc duy vật về

tự nhiên nhưng lại duy tâm về xã hội, chưa thấy được vai trò của con người
trong xã hội.
Phơrớt: tuyệt đối hoá mặt bản năng vô thức, coi con người chỉ là
động vật có tính bản năng. Phơrớt đề cao tính dục, nhu cầu sinh hoạt tình
dục của con người, cho rằng con người như thế nào là do cái vô thức quyết
định.
Chủ nghĩa hiện sinh: cho rằng con người chỉ là sinh lý yếu đuối, bất
lực, đời người là ngắn ngủi, bất thường, vô định nên phải nổi loạn. nổi loạn
là bản chất của con người. Con người chứa đầy những thói quen, dục vọng
thấp hèn nên phải hưởng lạc. Quan niệm này đẩy con người đến cái tôi cực
đoan, sống gấp. Giai cấp tư sản hiện nay nuôi dưỡng tư tưởng hiện sinh, đề
cao chủ nghĩa thực dụng, cho rằng cái gì có lợi cho cá nhân là chân lý, bất
chấp lợi ích xã hội
Tóm lại, các quan niệm về con người trong triết học trước Mác,
dù là đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên luận hoặc
duy vật siêu hình đều hạn chế bởi thế giới quan, thiếu cơ sở khoa học tự
nhiên cho nên, không phản ánh đúng nguồn gốc và bản chất con người.
Nhìn chung, các quan điểm trên đều xem xét con người một cách trừu
tượng, tuyệt đối hoá mặt tinh thần hoặc thể xác, tuyệt đối hoá mặt tự
nhiên sinh vật mà không thấy mặt xã hội trong đời sống con người.
Chỉ đến triết học Mác, vấn đề con người mới được nhận thức đúng
đắn và giải quyết một cách khoa học. Để hiểu rõ quan niệm của triết học
Mác –Lênin về con người,chúng ta chuyển sang phần 2
2. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người
* Phương pháp tiếp cận con người của Mác
Khác với tất cả các quan điểm ngoài mác xít, C.Mác đã tiếp cận
từ con người hiện thực, đang sống và hoạt động với bàn tay, khối óc
của chính họ. Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác viết: “Chúng ta xuất phát



6

6

từ những con người đang hành động, hiện thực và chính cũng xuất phát
từ quá trình đời sống hiện thực của họ, mà chúng ta mô tả sự phát triển
của những phản ánh tư tưởng và tiếng vang tư tưởng của quá trình đời
sống ấy”; “Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại dĩ nhiên là sự
tồn tại của những con người sống”.
Với tinh thần đó, C.Mác đã tạo ra bước ngoặt cách mạng, khoa học
trong phương pháp tiếp cận con người. Đây là cơ sở khoa học để giải thích
đúng đắn mọi vấn đề về con người.
a. Khái niệm:
Con người là một sinh vật có tính xã hội, là sản phẩm cao nhất của
quá trình tiến hóa của tự nhiên và của xã hội, vừa là chủ thể sáng tạo ra
toàn bộ nền văn hóa vật chất và tinh thần của xã hội
- Con người là một thực thể sinh vật - xã hội
+ Mặt sinh học:
Đó là mặt tự nhiên, vật chất, nhục thể sinh vật ( cơ thể sống ); tộc
loài và bản năng sinh học. Con người là sản phẩm của trình tiến hoá lâu
dài của tự nhiên và cũng chịu sự chi phối của các quy luật sinh học: di
truyền, biến dị, sống chết của cơ thể…Mặt sinh học của con người có
những nét chung với động vật cao cấp nhưng đã được cải tạo nhờ mặt
xã hội.
Trong Bản thảo kinh tế triết học, Mác chỉ rõ: “Về thể xác thì ở con
người cũng như ở con vật … Con người sống bằng giới tự nhiên. Như thế
có nghĩa là giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con
người phải duy trì một quá trình thường xuyên để tồn tại”.
+ Mặt xã hội
Đó là thế giới tinh thần, ý thức, các hoạt động, lao động, sáng tạo…

mà ở con vật không thể có. Con người chỉ tồn tại với tư cách người khi
sống trong xã hội, có quan hệ với nhau, có hoạt động xã hội cho mình và
đồng loại, chịu tác động của các quy luật xã hội. Chính mặt xã hội thể hiện
sự khác biệt về chất của con người so với tất cả các loài động vật khác.


7

7
Thực tế cho thấy không có một con người nào sống trong xã hội lại

tồn tại một cách riêng lẻ, độc lập mà phải sống trong một cộng đồng người
nhất định, với tư cách là thành viên của cộng đồng, tham gia vào các mối
quan hệ của cộng đồng ấy. Nếu con người tách khỏi cộng đồng, cắt đứt mọi
mối liên hệ với xã hội thì sẽ không còn tồn tại với tính cách là một con
người theo đúng nghĩa của nó.
+ Mặt sinh học và mặt xã hội luôn thống nhất với nhau.
Không có cái xã hội hay cái sinh học thuần tuý tồn tại tách rời nhau.
Bản tính tự nhiên của con người được chuyển vào bản tính xã hội của họ và
được cải biến ở trong đó. Tuy nhiên, sự phân chia đó chỉ có ý nghĩa trong
nhận thức luận. Ngay trong mặt sinh học cũng không còn nguyên nghĩa
như con vật, mà nó đã được xã hội hoá; mặt xã hội tồn tại và biểu hiện trên
cơ sở của các yếu tố sinh học.
Ví dụ: Cấu trúc cơ thể, dáng đi, hoạt động…của con người đã mang
dấu ấn, đặc trưng xã hội; Ý thức của con người là đặc trưng xã hội, nhưng
nó chính là thuộc tính phản ánh của yếu tố tự nhiên là óc người .
Trong Bản thảo kinh tế - triết học Mác khẳng định : “Con người
khác với con cừu ở chỗ trong con người, ý thức thay thế bản năng hoặc bản
năng của con người là bản năng được ý thức”
Như vậy, khi tiếp cận, giải thích vấn đề con người không tách rời

hoặc tuyệt đối hoá một mặt. Muốn phát triển con người phải đồng thời
quan tâm đến cả hai mặt, nhưng chú trọng hơn đến mặt xã hội.
- Con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh tự nhiên, xã hội vừa
là chủ thể cải tạo hoàn cảnh đó:
+ Con người là sản phẩm phức tạp, tinh vi nhất của tự nhiên trong
quá trình vận động, tiến hoá lâu dài. Con người tồn tại, phát triển trong
sự gắn kết chặt chẽ với tự nhiên và sự nuôi dưỡng của môi trường tự
nhiên. Đồng thời, con người chỉ tồn tại với tính cách người khi sống và
hoạt động trong môi trường xã hội. Môi trường, hoàn cảnh quy định đặc
trưng con người.


8

8
+ Con người không phụ thuộc một cách bị động vào tự nhiên mà

luôn tác động cải biến tự nhiên để thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu
cuộc sống của mình. Thông qua hoạt động thực tiễn con người cải tạo
hoàn cảnh, sáng tạo ra những giá trị văn hoá làm cho xã hội ngày càng
hoàn thiện hơn…
Trong Hệ tư tưởng Đức, Mác chỉ ra: “Con người tạo ra hoàn cảnh
đến mức nào thì hoàn cảnh tạo ra con người đến mức ấy”.
-> Đó là sự thống nhất biện chứng trong quá trình phát triển xã
hội. Muốn có con người theo ý muốn thì không chỉ giáo dục mà còn
phải tạo ra hoàn cảnh tương ứng. Tương tự, muốn có hoàn cảnh theo ý
muốn, không chỉ xây dựng hòan cảnh, mà còn phải có con người có đầy
đủ những phẩm chất, năng lực tương xứng với hoàn cảnh đó. Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn có chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải
có con người xã hội chủ nghĩa là như vậy.

- Con người giai cấp và con người tộc loại
+ Kẻ thù của Mác cho rằng, con người của Mác chỉ là con người giai
cấp mà không có tính tộc loại để quăng lên vai con người sứ mệnh đấu
tranh giai cấp, tàn sát lẫn nhau, mang tính phi nhân tính. Thực tế cho thấy,
Mác không chỉ làm rõ tính giai cấp mà còn đề cao con người tộc loại:
+ Tính tộc loại chính là tính “người”chung nhất. Biểu hiện ở tính
sáng tạo (thuộc tính chung, cao nhất của con người); những quy tắc chuẩn
mực sống chung( phương diện đạo lý); những giá trị chung: nhân đạo, dân
chủ, công bằng, hoà bình, bảo vệ môi trường sinh thái…Đối với Mác, tính
tộc loại như một mẫu số chung của con người trong mọi thời đại và nó biểu
hiện khác nhau ở những giai đoạn lịch sử khác nhau.
- Ngoài ra, con người trong quan điểm chủ nghĩa Mác có các đặc trưng
như: Khả năng sáng tạo, tương giao với cái đẹp, nhu cầu thông tin và giao tiếp .v.v..
+ Khả năng sáng tạo: Đó là khả năng chế tạo, cải tiến và phát huy vai trò
của công cụ lao động -> Chỉ có con người mới có khả năng sáng tạo. Đây là
đặc trưng nổi bật nhất của con người. Thực tế lịch sử loài người chứng minh…


9

9
+ Tương giao với cái đẹp: Sáng tạo ra giá trị của cái đẹp, hưởng thụ cái

đẹp là mục tiêu của con người. Con người luôn luôn vươn đến những giá trị
cao đẹp chân, thiện, mỹ…
+ Nhu cầu thông tin và giao tiếp của con người: Con người luôn có
nhu cầu mở rộng, nâng cao sự hiểu biết về thế giới, về con người. Nhu cầu
đó ngày càng tăng cùng với sự phát triển của con người.
Tóm lại: Con người trong quan niệm của Mác khác căn bản với các
quan niệm khác. Mác đã vượt lên trên các nhà tư tưởng đương thời trong

cách tiếp cận, nghiên cứu, giải thích khoa học về con người.
b. Nguồn gốc và bản chất con người
*. Nguồn gốc con người
Quan điểm duy tâm tìm nguồn gốc con người từ lực lượng siêu nhiên
(Phật giáo, Ki tô giáo, Hê ghen, …) ngược lại C.Mác giải thích con người
từ tính hiện thực, có nguồn gốc tự nhiên và xã hội.
- Xét về mặt tự nhiên: Con người là sản phẩm của sự phát triển
lâu dài của tự nhiên. Con người có nguồn gốc từ động vật, thoát thai từ
động vật. Con người thống nhất với động vật về cơ thể, về cơ sở phân tử
của tính di truyền, cơ sở tổ chức tế bào để sống và phát triển Điều này đã
được Thuyết tiến hóa của ĐácUyn chứng minh.
Đó là quá trình tiến hóa lâu dài của thế giới vật chất:
Từ vật chất vô cơ -> hữu cơ, từ đơn bào -> đa bào, từ thực vật ->
động vật, từ động vật bậc thấp -> động vật bậc cao -> vượn người -> con
người.
Từ con người nguyên thủy bầy đàn, ăn lông ở lỗ, ăn sống nuốt tươi cho
đến biết tìm ra lửa, ăn chín, uống sôi (từ con người hoang dã đến con người
hiện đại như ngày nay)
Mác chỉ rõ: Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người. Đời sống,
thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên và vì con
người là bộ phận của tự nhiên.


10

10
- Xét về mặt xã hội: Xã hội là nguồn gốc trực tiếp của con người.

Con người là sản phẩm của lao động, hình thành phát triển nhờ lao
động.

Lao động đảm bảo và duy trì cuộc sống sinh vật của con người, làm
biến đổi hàng loạt những bản tính tự nhiên - sinh học của con người, hình
thành những thuộc tính xã hội như: Ngôn ngữ, ý thức, tư duy, giao tiếp xã
hội , có thế giới quan, biết định hướng giá trị… Lao động hình thành các
quan hệ xã hội và những giá trị văn hoá.
Những quan hệ xã hội và những giá trị văn hoá đó lại tác động trở
lại hình thành bản chất con người xã hội.
Thực tiễn đã chứng minh: Ở Ấn Độ, người ta phát hiện một đứa trẻ
bị lạc trong rừng từ khi mới sinh ra, được một đàn chó sói nuôi dưỡng, nó
hành động hoàn toàn như một con vật. Như vậy, đứa trẻ này khi sinh ra là
người, mang hình dáng người nhưng không có ý thức và thực tế chỉ tồn tại
như một con vật
*. Bản chất con người
Theo quan điểm của Mác :" . Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hoà của những quan hệ xã hội".
Mác viết (Trong luận cương về Phoiơbăc ) “Bản chất con người
không phải là cái trừu tượng cố hữu của những cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà của những quan hệ
xã hội". (Mác - Ăngghen, toàn tập, tập 3, Nxb CTGQ, H. 1995, tr. 11)
- Trong tính hiện thực của nó có nghĩa nói con người là con
người tồn tại hiện thực cảm tính, bằng xương bằng thịt, chứ không phải
con người trừu tượng như con người trong quan niệm của Phoiơbăc
-> Xét trên bình diện tổng quát, bản chất con người không phải cái
trừu tượng mà là hiện thực, không phải là cái vốn có, có sẵn trong mỗi cá
thể riêng biệt mà là tổng hoà toàn bộ các quan hệ xã hội hiện thực của nó;
không phải là cái tự nhiên sinh học mà là lịch sử - xã hội.


11


11
Bản chất con người được bộc lộ ra trong cuộc sống, trong toàn bộ

các hoạt động cụ thể của con người:
Khai thác thiên nhiên, sinh hoạt xã hội, phát triển y thức, thống nhất
cái sinh học - cái xã hội, cái tôi với cái không tôi, cái phố biến và cái đặc
thù, đơn nhất …
-> Bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội có
nghĩa là:
+ Bản chất con người được quy định bằng tổng hoà các quan hệ xã
hội, bản chất ấy chỉ hình thành và thể hiện trong các quan hệ xã hội, những
quan hệ ấy chi phối quyết định hành vi của con người trong đời sống hiện
thực; quyết định phẩm chất và cuộc sống của từng cá nhân riêng.
+ Nếu tách khỏi đời sống xã hội, khỏi môi trường văn hoá xã hội
con người không thể hình thành và phát triển bản chất của mình được.
Con người chỉ tồn tại thực sự, với tư cách người nếu đặt trong các mối
quan hệ xã hội
- Hệ thống các quan hệ tham gia quy định bản chất con người:
+ Quan hệ kinh tế, chính trị, pháp luật đạo đức, thẩm mỹ tôn giáo khoa học…
+ Quan hệ cá nhân, nhóm, giai cấp, cộng đồng
+ Quan hệ gia đình, giao tiếp, sinh hoạt, dân tộc
+ Quan hệ đơn nhất (cá nhân, từng người), quan hệ đặc thù (hệ
thống xã hội, giai cấp)
+ Quan hệ giữa hiện tại và quá khứ, theo chiều dọc và chiều
ngang của lịch sử… Trong hệ thống các quan hệ trên, quan hệ nào cũng
tham gia vào bản chất người. Tuy nhiên, C.Mác làm nổi bật quan hệ về
mặt kinh tế, có vai trò quyết định.
-> Tổng hoà các quan hệ xã hội không phái là phép cộng giản đơn,
thông thường mà là sự khái quát bản chất cao nhất, là sự thu hút, đúc kết
những tinh tuý từ những quan hệ xã hội của con người



12

12
- Bản chất con người không phải là cái có sẵn, bất biến mà biến đổi

theo sự biến đôỉ các quan hệ xã hội. Bởi vì các quan hệ xã hội hiện thực tạo
nên bản chất con người không phải hình thành một lần là xong, không có
sẵn, bất biến mà có quá trình hình thành biến đổi, phụ thuộc quá trình hình
thành, biến đổi các quan hệ kinh tế ở mỗi quốc gia, dân tộc, trong mỗi giai
đoạn lịch sử.
- Trong xã hội có giai cấp, con người mang tính giai cấp sâu sắc.
Điều này là khách quan do địa vị kinh tế quy định, con người bao giờ cũng
thuộc về một giai cấp nhất định. Tính giai cấp nổi lên, nhưng không làm
mất đi tính tộc loại. Hai mặt đối lập này vừa thống nhất, vừa đấu tranh với
nhau, cùng tồn tại trong con người ở xã hội có giai cấp . Cuộc đấu tranh
giai cấp về thực chất là thúc đẩy quá trình vươn tới con người với đầy đủ
tính người hơn. Điều này chỉ đạt được dưới chủ nghĩa xã hội đích thực mà
thôi.
* Chú ý: Bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội
hoàn toàn không phủ nhận cá nhân với đầy đủ tính phong phú đa dạng
của nó. Bản chất là cái sâu sắc chi phối nhưng không phải là cái duy
nhất chiếm toàn bộ nội dung hiện thực của con người.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Đây là cơ sở khoa học trong xem xét vấn đề con người -> phải xuất
phát từ tính hiện thực và toàn diện; khắc phục tính trừu tượng, chung chung
xa rời hiện thực và duy tâm siêu hình.
-> Con người luôn là điểm xuất phát, mục tiêu, động lực của sự
nghiệp phát triển xã hội; trung tâm của mọi quyết sách xã hội.

-> Muốn thay đổi bản chất con người, cải tạo con người phải thay
đổi, cải tạo những mối quan hệ xã hội, tránh hô hào, kêu gọi chung chung.
- Là cơ sở khoa học để đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái
về vấn đề này.
II. QUAN HỆ GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI

1. Khái niệm cá nhân và xã hội


13

13
* Khái niệm cá nhân:
Cá nhân là cá thể người với những phẩm chất xã hội, trong một

chỉnh thể thống nhất giữa những đặc điểm riêng và chức năng xã hội
mà người đó đảm nhiệm.
- Cá nhân chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định, với
tư cách một cá thể, một thành viên của xã hội đó. Cá nhân là phương thức
biểu hiện sự tồn tại của con người.
- Cá nhân là một con người sau khi được sinh ra sống trong môi
trường xã hội trong một thời gian nhất định, với đặc điểm riêng phân biệt
với các cá nhân khác không chỉ về mặt sinh học mà chủ yếu về những quan
hệ xã hội phức tạp, cụ thể và có tính lịch sử (gia đình, tổ chức xã hội, dân
tộc, giai cấp...). Đồng thời mang cái chung là thành viên xã hội, mang bản
chất xã hội và không thể sống ngoài xã hội.
Như vậy một đứa trẻ mới sinh ra chưa được gọi là cá nhân
* Khái niệm Xã hội:
Xã hội là hệ thống những mối quan hệ giữa người với người, hình
thành và phát triển trong một giai đoạn lịch sử nhất định.

- Khái niệm xã hội có nhiều cấp độ khác nhau, cao nhất là xã hội loài
người, sau đó là những hệ thống xã hội như: quốc gia, dân tộc, giai cấp,
chủng tộc... Dưới góc độ triết học nói xã hội là nói một kiểu, một hệ thống
xã hội cụ thể trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
- Xã hội là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người
theo một tổ chức nhất định, không phải là những con người riêng rẽ hay
tổng số giản đơn những con người. Mác viết: “Xã hội dưới bất cứ hình thức
nào đều là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người và người”
- Ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, xã hội biểu hiện khác nhau. Bởi
vì, quan hệ giữa người với người trong các giai đoạn lịch sử khác nhau, do
quan hệ kinh tế quy định. Ví dụ: trong xã hội tư bản, do giai cấp tư sản nắm
quyền sở hữu tư liệu sản xuất nên quan hệ của giai cấp này với người lao


14

14

động là quan hệ bóc lột. Xã hội cộng sản chủ nghĩa, là xã hội công bằng,
bình đẳng đối với tất cả mọi người
2. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Cá nhân và xã hội vừa là nguyên nhân vừa là kết quả, làm tiền đề,
điều kiện tồn tại và thúc đẩy nhau phát triển. Trong đó, xã hội quyết
định cá nhân và cá nhân tác động đến sự tồn tại của xã hội.
* Xã hội quyết định cá nhân
- Bởi vì: Cá nhân chỉ hình thành và phát triển trong những quan hệ
xã hội, không có các quan hệ xã hội thì không thể có cá nhân. Xã hội là
điều kiện, môi trường, là phương thức để lợi ích cá nhân được thực hiện.
Thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của mỗi cá nhân là mục tiêu, nhiệm vụ
của mọi chế độ xã hội.

- Biểu hiện: Xã hội nào thì sản sinh ra những con người cụ thể mang
đặc trưng của xã hội đó về đặc điểm, bản chất, nhu cầu của cá nhân,
phương thức hoạt động, các kiểu và xu hướng phát triển nhân cách. Trong
xã hội có giai cấp thì cá nhân mang tính giai cấp sâu sắc.
Mác khẳng định: “Người ta có được tự do lựa chọn hình thức này,
hình thức khác của xã hội không? hoàn toàn không”.
* Cá nhân tác động trở lại xã hội
- Bởi vì: Xã hội dù ở bất kỳ hình thức nào cũng là sản phẩm của sự
tác động lẫn nhau giữa người và người, xã hội chỉ tồn tại khi có các cá nhân
đang sống. Cá nhân là chủ thể tích cực của mọi hoạt động xã hội, cá nhân
góp phần vào hình thành, phát triển xã hội.
- Biểu hiện: Sự vận động phát triển khách quan của xã hội bao giờ
cũng phải thông hoạt động có ý thức của các cá nhân, thông qua hoạt động
của các cá nhân làm biến đổi các quan hệ xã hội. Cá nhân càng phát triển về
thể lực và tài năng thì càng có điều kiện thúc đẩy xã hội phát triển và ngược
lại. Cá nhân là động lực chính của sự vận động và phát triển của xã hội.


15

15
Sự tác động trở lại của cá nhân đối với xã hội thông qua các thiết chế

và tổ chức xã hội (tập thể, nhóm).
* Nền tảng của mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là quan hệ lợi
ích:
Lợi ích là cái khách quan cần thiết để thoả mãn nhu cầu con người,
quy định phương thức thích hợp của ý chí và hành động con người. Lợi ích
là động lực hành động của con người, là yếu tố liên kết các cá nhân hình
thành xã hội, phương thức liên kết lợi ích sẽ quy định sự vận động, phát

triển xã hội.
C.Mác viết: “Ở đâu không có lợi ích chung thì ở đó không thể có sự
thống nhất về mục đích và càng không thể có sự thống nhất về hành động
được”. Do đó kết hợp hài hoà các lợi ích là yếu tố khách quan của sự phát triển
xã hội.
Hồ Chí Minh nói: Chống chủ nghĩa cá nhân không phải là giày xéo
lên lợi ích cá nhân, mà phải tôn trọng lợi ích cá nhân...
* Tính lịch sử của quan hệ cá nhân và xã hội
Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là xuyên suốt lịch sử. Nhưng ở
mỗi giai đoạn khác nhau biểu hiện khác nhau, do sự thay đổi của quan hệ
kinh tế, quan hệ lợi ích- nền tảng của quan hệ cá nhân, xã hội quy định
+ Trong xã hội không có giai cấp: mối quan hệ giữa cá nhân và xã
hội không chứa đựng mâu thuẫn đối kháng, mà thống nhất hài hoà với nhau
về lợi ích (công bằng, bình đẳng), vì nó dựa trên chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất.
+ Trong xã hội có giai cấp, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội phản
ánh sự đối kháng gay gắt, nguyên nhân xét đến cùng là do chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất (đối kháng về lợi ích kinh tế). Đây là nguyên nhân của cuộc
đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp có lợi ích đối lập nhau.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Giải quyết đúng mối quan hệ giữa lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân.


16

16
- Phát huy tính tích cực của mỗi người đối với xã hội và trong xây

dựng tập thể quân nhân hiện nay.
- Quán triệt quan điểm của đảng ta về vấn đề này.

III- QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN VÀ CÁ NHÂN LÃNH TỤ

Khẳng định: Trong mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cá
nhân lãnh tụ, quần chúng nhân dân giữ vai trò quyết định, cá nhân lãnh
tụ có vai trò quan trọng không thể thiếu.
1. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò của quần chúng
nhân dân
a. Khái niệm: Quần chúng nhân dân là đông đảo những người lao
động chân tay và lao động trí óc, lực lượng cơ bản trong hoạt động sản xuất
vật chất và mọi hoạt động xã hội khác
- Quần chúng nhân dân là những người lao động sản xuất ra của cải
vật chất và tiến hành mọi hoạt động xã hội khác
- Quần chúng nhân dân là những bộ phận dân cư chống lại giai cấp
thống trị áp bức bóc lột và đối kháng với nhân dân (Quần chúng nhân dân
là những giai cấp tiến bộ cách mạng. Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp
là một khối đông đảo quần chúng nhưng không phải giai cấp nào cũng
mang tính chất tiến bộ, thúc đẩy xã hội phát triển)
- Quần chúng nhân dân là những giai cấp, tầng lớp xã hội thúc đẩy
sự tiến bộ xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định, có nghĩa là quần
chúng nhân dân cũng mang tính lịch sử (trong mỗi giai đoạn lịch sử có một
khối quần chúng nhân dân giữ vai trò thúc đẩy lịch sử phát triển)
b. Vai trò của quần chúng nhân dân
* Quan điểm duy tâm, tôn giáo và của một số học giả tư sản: coi
quần chúng nhân dân chỉ là bầy cừu ngoan ngoãn, lực lượng thụ động, tiêu
cực, là phương tiện mà các vĩ nhân sử dụng để đạt mục đích của mình.
Thượng Đế, thần linh quyết định sự vận động, phát triển của lịch sử, phủ
nhận vai trò của quần chúng nhân dân, đề cao vai trò của cá nhân lãnh tụ.


17


17
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin:
- Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội
+ Con người muốn tồn tại và phát triển thì phải có những yếu tố vật

chất và những yếu tố tinh thần. Vì vậy con người phải sản xuất vật chất.
+ Trong sản xuất vật chất để phát triển XH, con người không thể
lao động theo tính chất cá nhân được mà phải theo tính chất cộng đồng
+ Sản xuất vật chất được tiến hành bởi đông đảo quần chúng nhân
dân lao động, gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc
+ Trong sản xuất vật chất, con người không thoả mãn với những cái
gì đã đạt được, cho nên luôn cải tiến công cụ lao động, để tạo ra năng suất
lao động ngày càng cao hơn. Vì vậy, quần chúng nhân dân là người quyết
định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Lênin viết: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại là những
người lao động”
- Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng
xã hội.
+ Cách mạng xã hội bùng nổ là do mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, do nhu cầu giải phóng lực lượng sản xuất cũng
như giải phóng con người, giải phóng người lao động. Trong xã hội có giai
cấp mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được biểu hiện
thành mâu thuẫn giai cấp. Các cuộc cách mạng xã hội cần phải có lực
lượng, lực lượng đông đảo nhất trong các cuộc cách mạng ấy bao giờ cũng
là quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng, là người sáng tạo chân chính ra lịch sử. Ở đâu có
sự tham gia đông đảo và tích cực của quần chúng nhân dân thì ở đó cách
mạng giành được thắng lợi và ngược lại.
Quần chúng quyết định sự phát triển của lịch sử, song vai trò đó

được phát huy cao độ hay không, còn phụ thuộc vào tư tưởng của giai cấp
lãnh đạo xã hội


18

18
Nếu quần chúng bị trói buộc bởi những tư tưởng phản động, lạc hậu

thì không phát huy được vai trò to lớn của mình
Còn nếu quần chúng được giác ngộ tư tưởng tiến bộ thì tư tưởng đó
sẽ chỉ cho quần chúng những nhiệm vụ đã chín muồi để cho quần chúng
thực hiện sứ mệnh cao cả đó.
Mác viết: “Bài ca của giai cấp vô sản không liên minh với nông dân
chỉ là bài ai điếu”
Hồ Chí Minh khẳng định: trong bầu trời không có gì quý bằng nhân
dân; trong thế giới không có sức mạnh nào bằng sức mạnh của quần chúng
nhân dân
- Quần chúng nhân dân là chủ thể cơ bản sáng tạo ra những giá trị
tinh thần của nhân loại và là người thưởng thức, bảo vệ và phát triển những
giá trị tinh thần đó
Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong việc phát triển văn
hoá, nghệ thuật, khoa học.
+Những nền văn học nghệ thuật lớn đều bắt nguồn từ văn học dân
gian.
Mác viết: “Thần thoại Hy Lạp không những cấu thành kho tàng của
nghệ thuật Hy Lạp mà còn là miếng đất đã nuôi dưỡng nghệ thuật Hy Lạp
nữa” ( Mác - Ăngghen, toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG, H.1995, tr.890 )
+ Nhiều nhà khoa học đã xuất thân từ quần chúng lao động
+ Chính hoạt động thực tiễn của quần chúng là nguồn đề tài phong

phú, là động lực thúc đẩy việc sáng tạo ra các giá trị tinh thần. Nếu xa rời
thực tiễn thì những sản phẩm tinh thần chỉ là tư biện, không có sức sống
- Vai trò của quần chúng nhân dân ngày càng tăng lên trong tiến
trình lịch sử
2. Khái niệm lãnh tụ và vai trò lãnh tụ
a. Khái niệm:


19

19
Lãnh tụ là những cá nhân ưu tú, đại diện cho lợi ích và ý chí của

quần chúng, được quần chúng suy tôn, công nhận
- Cá nhân lãnh tụ là con đẻ của phong trào quần chúng
- Cá nhân lãnh tụ sống và hoạt động trong phong trào quần chúng
được quần chúng suy tôn
- Cá nhân lãnh tụ là người nhận thức và vận dụng đúng quy luật
khách quan, có khả năng tập hợp, tổ chức phong trào quần chúng.
b.Vai trò:
- Tư tưởng, đức độ và tài năng sáng suốt của lãnh tụ có sự ảnh hưởng
lớn tới tốc độ, bước đi, sắc thái của phong trào quần chúng
- Cá nhân lãnh tụ có vai trò to lớn đối với lịch sử, cá nhân lãnh tụ biết
tổ chức, đoàn kết quần chúng để tạo ra sức mạnh của phong trào cách mạng
- Phong trào cách mạng to lớn khong thể thiếu vai trò của lãnh tụ.
- Vai trò của cá nhân lành tụ ngày càng tăng lên ở những thời điểm
cấp bách, bước ngoặt lịch sử và trong xã hội hiện đại
Lênin viết: “ Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được
quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình
những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức

và lãnh đạo phong trào “ ( Lênin, toàn tập, T.4, Nxb Tiến bộ, M.1978,
tr.473)
3. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với cá nhân lãnh tụ
- Mối quan hệ giữa cá nhân lãnh tụ và quần chúng có mối quan hệ
thống nhất biện chứng với nhau, cá nhân lãnh tụ từ phong trào quần chúng
mà ra, là người tổ chức, tập hợp, lãnh đạo quần chúng thống nhất thành một
tổ chức chặt trẽ. Còn quần chúng tạo nên sức mạnh để lãnh tụ thực hiện
theo tư tưởng của mình. Biểu hiện:
+ Nguồn gốc sức mạnh của cá nhân lãnh tụ là trong phong trào quần
chúng


20

20
+ Lãnh tụ là con đẻ của phong trào quần chúng, có nhiệm vụ giải

quyết những nhiệm vụ lịch sử đặt ra.
+ Phẩm chất, năng lực, uy tín của cá nhân lãnh tụ chỉ được hình
thành, phát triển, kiểm nghiệm và phát huy tác dụng trong phong trào quần
chúng
- MQH đó ngày càng trở nên mật thiết khi lợi ích của quần chúng
nhân dân và cá nhân lãnh tụ thống nhất với nhau
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tập thể với người chỉ huy đơn vị.
- Có quan điểm quần chúng trong hoạt động theo chức trách.
- Bảo vệ, kính yêu lãnh tụ đồng thời chống tệ sùng bái cá nhân.
LIÊN HỆ: Sự nhận thức về vấn đề con người và sự vận dụng của
Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới hiện nay
Tư tưởng về con người và phát huy nhân tố con người, xem con

người vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình phát
triển xã hội đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt trong suốt
quá trình lãnh đạo cách mạng. Từ chính cương, sách lược vắn tắt 1930 đến
đại hội Đảng IX, tư tưởng lớn nhất và bao trùm là giải phóng xã hội và giải
phóng con người; vì lợi ích 10 năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải
trồng người ; muốn có CNXH phải có con người XHCN. Tuy vậy, trước
đại hội Đảng VI, mới bàn nhiều đến con người và mô hình con người, sau
đại hội Đảng VI, nhân tố con người và phát huy nhân tố con người mới đề
cập và hoàn thiện.
Quan điểm của Đảng về con người trong các văn kiện của Đảng:
- Đại Hội Đảng III, nội dung con người khá đậm nét : Con người là
vốn quý nhất. Sự nghiệp giải phóng của chúng ta phải bồi dưỡng thế hệ trẻ
thành người làm chủ đất nước có giác ngộ XHCN, có văn hoá và kỹ thuật,
có sức khoẻ, những con người phát triển toàn diện để xây dựng xã hội mới.


21

21
- Đại Hội Đảng IV: Tư duy về con người theo mô hình con người mới.

Con người mới với những đặc trưng nổi bật là: Làm chủ tập thể, lao động, yêu
CNXH và tinh thần quốc tế vô sản, đó là sự kết tinh tâm hồn 4000 năm lịch sử.
5 nội dung :
+ Tình cảm, tri thức, năng lực
+ Lao động sáng tạo
+ Yêu nước XHCN, tinh thần quốc tế vô sản
+ Biết thương yêu
+ Xây dựng quan điểm, biện pháp.
- Đại Hội Đảng V: Nhấn mạnh lòng nhân ái, truyền thống trong đặc

trưng con người.
- Đại Hội Đảng VI: Tư duy về con người của Đảng có sự phát triển
mới. Biểu hiện: nhấn mạnh vai trò quan trọng của nhân tố con người, phát
huy yếu tố con người, nhân tố con người với phát triển kinh tế xã hội. Xác
định con người là mục đích cao nhất.
- Đại Hội giữa nhiệm kỳ có sự bổ sung, phát triển cụ thể hơn : Đề
cập tới mục đích và thái độ đối với con người.
- Đại hội VII: Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho phát
triển kinh tế xã hội ( lưu ý, lúc này vẫn chỉ là tổng quát)
- Đại hội VIII đã chỉ ra: Chăm lo phát triển nguồn lực con người, chú
ý chăm lo văn hoá trí tuệ của con người Việt Nam. Chăm lo sự cường tráng
về thể chất con người Việt Nam. Tư tưởng này có tính đến vai trò trí tuệ.
Trí tuệ là nguyên liệu vô tận của kinh tế xã hội. Xem xét trí tuệ đặt trong
điều kiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Văn hoá là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế
xã hội.
- Đại hội Đảng IX: Đã đưa ra tư tưởng, nhiệm vụ trung tâm của sự
nghiệp cách mạng là bồi dưỡng con người Việt Nam về trí tuệ, bản lĩnh đạo
đức, tâm hồn, tình cảm, nhân cách, xây dựng thế giới quan khoa học, nhân


22

22

sinh quan XHCN, hướng con người đến giá trị chân - thiện - mỹ: “Sức
mạnh của con người Việt nam được bồi dưỡng và nhân lên bằng việc phát
triển đồng bộ sự nghiệp giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ, coi đó
không chỉ là quốc sách hàng đầu mà còn là bộ phận nền tảng của chiến
lược phát triển kinh tế xã hội; bằng việc phát triển nền văn hoá tiên tiến,

đậm đà bản sắc dân tộc; bằng việc thực hiện một hệ thống chính sách xã
hội phản ánh những giá trị nhân văn của nền văn hoá Việt nam, thể hiện lợi
ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và của từng công dân”
(Cái mới trong dự thảo báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng )
- Đại hội X chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con
người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời đại
công nghiệp hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá
trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống,
năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam” 1. (Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 106)

1



×