Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

LUẬN văn tốt NGHIỆP PHÉP BIỆN CHỨNG DUY vât, sự vận DỤNG của ĐẢNG TA TRONG THỜI kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.4 KB, 66 trang )

1

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
PBCDV là một trong những nội dung đặc biệt quan trọng, là linh hồn của
triết học Mác - Lênin, nghiên cứu những quy luật phổ quát của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Nó là chìa khoá giúp con người cải tạo và chinh phục thế giới.
Nắm vững thực chất PBCDV không những là một trong những nhân tố cơ bản
để hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học mà còn là điều
kiện tiên quyết cho sự sáng tạo của chính đảng cách mạng.
Thực tiễn sự nghiệp đổi mới đã chứng minh, Đảng ta nắm vững và
vận dụng PBCDV một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, biết
“dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Bởi vậy, trong suốt 30 năm đổi mới vừa qua,
đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, đưa
lại cho nước ta một sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng
khá nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, chính trị - xã hội ổn
định, khối đại đoàn kết toàn dân được giữ vững, quốc phòng an ninh được
tăng cường, đối ngoại rộng mở ….Vị thế của nước ta trên trường quốc tế
được nâng cao. Tuy nhiên, quá trình đổi mới còn bộc lộ nhiều hạn chế
trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Bệnh chủ quan, duy ý chí,
cách nghĩ và cách làm siêu hình vẫn tồn tại, đôi lúc còn những nơi này,
nơi khác có những quyết sách, phương pháp mang tính chủ quan, nóng
vội, thiếu cơ sở khoa học, triển khai thiếu cân nhắc đã gây ra nhiều hậu
quả tiêu cực cho phát triển kinh tế - xã hội.
Hiện nay, sự nghiệp đổi mới ở nước ta diễn ra trong điều kiện mới
trong lịch sử nhân loại, chúng ta đang phải nhận thức và giải quyết rất
nhiều vấn đề trong tiến trình phát triển, không chỉ ở trong nước, mà mang
tính quốc tế của quá trình xây dựng CNXH. Hiện thực khách quan vốn đã
biện chứng, lại đang ở giai đoạn tính biện chứng bộc lộ ở mức chưa từng




2

2

có. Công cuộc đổi mới đang đặt ra những vấn đề cấp bách, đất nước đang
đứng trước những thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và
diễn biến phức tạp, không thể coi thường thách thức nào. Như vậy, có thể
nói những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, Đảng ta không thể
giải quyết thành công nếu chỉ bằng triết học, nhưng cũng không thể giải
quyết thành công nếu không biết vận dụng sáng tạo PBCDV, không có tư
duy biện chứng mácxít.
Từ những vấn đề trên cho thấy, việc nghiên cứu PBCDV và sự vận
dụng PBCDV của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới, góp phần làm giàu thêm
PBCDV, nhận thức đường lối đổi mới của Đảng và giải quyết các vấn đề mới
nảy sinh, xây dựng niềm tin vào sự nghiệp cách mạng trở thành một vấn đề
rất bức bách
2. Tình hình nghiên cứu của luận văn
Liên quan đến đề tài này, đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các góc độ
khác nhau, tác giả chia làm hai nhóm cơ bản sau:
- Nhóm thứ nhất: Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về PBCDV:
Kê đrôv, Lênin và phép biện chứng của Hêghen, tư liệu trường Đại học Kế
hoạch Hà Nội, 1977; Ngô Thành Dương, một số khía cạnh của phép biện
chứng duy vật, Nxb sách giáo khoa Mác - Lênin, 1986; A.P.Sép-tu-lin,
“phương pháp nhận thức biện chứng”, Nxb Sách giáo khoa Mác - Lênin,
1987; Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô - Viện Triết học,“lịch sử phép biện
chứng” (6 tập), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.... Các công trình trên
đã khái quát và trình bày một cách có hệ thống quá trình phát triển, nội dung
cơ bản, thực chất của PBCDV và vai trò phương pháp luận phổ biến của nó

trong nhận thức và cải tạo thế giới.
- Nhóm thứ hai: Nghiên cứu ở các góc độ khác nhau về vận dụng lý luận
PBCDV vào nghiên cứu thời kỳ quá độ, đổi mới ở Việt Nam:
Phạm Thành, Lê Hữu Tầng, Hồ Văn Thông “triết học với sự nghiệp đổi


3

3

mới”, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1990; Dương Phú Hiệp (Chủ biên)“Tiến lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam”, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001; Nguyễn Đức Bách, Nhị Lê (Chủ biên)“Một số vấn
đề định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Nxb Lao Động, Hà Nội, 2001;
Nguyễn Phú Trọng (Chủ biên), “ Đổi mới ở Việt Nam một số vấn đề lý luận
và thực tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006; Trần Thành (Chủ
biên),“Triết học với đổi mới và đổi mới nghiên cứu giảng dạy Triết học”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007; Dương Phú Hiệp, “Triết học và đổi
mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.... Các công trình này dưới góc
độ PBCDV đã thuyết minh, luận chứng, trình bày những kết quả trong đổi
mới nhận thức, quan điểm, tư duy lý luận, trong tổ chức chỉ đạo thực tiễn các
lĩnh vực đời sống xã hội của Đảng; đồng thời, đưa ra các giải pháp để tiếp tục
đưa sự nghiệp đổi mới phát triển và đề xuất các vấn đề cần tiếp tục nghiên
cứu.
Nghiên cứu và kế thừa thành tựu của các công trình đó, tác giả lựa chọn
đề tài: “Phép biện chứng duy vật - sự vận dụng của Đảng ta trong sự
nghiệp đổi mới”. Đề tài có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, không có sự
trùng lặp với các công trình nghiên cứu trước.
3. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Làm rõ thực chất PBCDV và thành tựu vận dụng nó trong

sự nghiệp đổi mới của Đảng trên các lĩnh vực chủ yếu. Từ đó, rút ra một số
vấn đề góp phần nâng cao hiệu quả vận dụng PBCDV của Đảng trong thời
gian tới, góp phần nâng cao nhận thức về PBCDV, và công cuộc đổi mới ở
Việt Nam.
- Nhiệm vụ:
+ Phân tích làm rõ thực chất PBCDV và vai trò của nó trong sự nghiệp
đổi mới của Đảng.


4

4

+ Nghiên cứu thành tựu vận dụng PBCDV của Đảng trong 20 năm
đổi mới vừa qua trên các lĩnh vực chủ yếu. Từ đó rút ra một số vấn đề góp
phần nâng cao hiệu quả vận dụng PBCDV của Đảng trong thời gian tới.
4. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chính sách của
Đảng Cộng sản Việt Nam và một số công trình nghiên cứu có liên quan.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực tiễn quá trình vận dụng PBCDV
của Đảng vào công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước.
- Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng tổng hợp phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời sử
dụng các phương pháp nhận thức khoa học như: phân tích, tổng hợp; quy
nạp, diễn dịch; lôgíc - lịch sử …
5. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thực chất PBCDV và thành tựu vận dụng nó
trong sự nghiệp đổi mới của Đảng trên các lĩnh vực chủ yếu. Từ đó, rút ra một
số vấn đề góp phần nâng cao hiệu quả vận dụng PBCDV của Đảng trong thời

gian tới, góp phần nâng cao nhận thức về PBCDV, và công cuộc đổi mới ở
Việt Nam.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong học tập và nghiên
cứu ở các nhà trường.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm: mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo.


5

5

Chương 1
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tưởng, kim chỉ
nam cho hoạt động của Đảng và dân tộc ta. Theo V.I.Lênin sợi chỉ đỏ xuyên
suốt chủ nghĩa Mác là PBCDV. Để làm rõ tinh thần cơ bản của PBCDV cũng
như thành tựu vận dụng nó trong sự nghiệp đổi mới của Đảng, cần luận giải
thực chất PBCDV.
1.1. Thực chất phép biện chứng duy vật
1.1.1. Lịch sử phát triển phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng tự phát
Hình thức đầu tiên của PBC là PBC tự phát, PBC tự phát đã xuất hiện
trong triết học Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp cổ đại thông qua các trường phái
và các học thuyết triết học khác nhau, trong đó đỉnh cao là PBC trong triết học
Hy Lạp cổ đại. PBC này được rút ra từ quá trình trực quan cảm tính, mà kết quả
của nó là xây dựng được nhiều quan điểm biện chứng đúng đắn. Bản thân PBC
cổ đại cũng trải qua một quá trình phát triển nhất định. Thoạt đầu, các tư tưởng

biện chứng chủ yếu được phát triển khi con người khảo cứu tự nhiên và chỉ sau
đó nó mới được hình thành trong các học thuyết về xã hội và tư duy. V.I.Lênin
đã dùng thuật ngữ “phép biện chứng khách quan tự phát” để nói về PBC ở giai
đoạn này. Nó có nghĩa là, khi phát triển những yếu tố của PBC, trên thực tế bản
thân các nhà triết học Hy Lạp cổ đại về mặt chủ quan đã không ý thức được nó,
không gọi học thuyết đó là PBC, không tự giác xây dựng thành một hệ thống.
Khi phản ánh tính chất biện chứng của tự nhiên, xã hội và tư duy, PBC tự phát
của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tồn tại dưới hai hình thức: PBC khẳng định,
tức là khẳng định và phân tích các quy luật biện chứng của thế giới; PBC phủ


6

6

định (mang tính chất tiêu cực) tức là phủ định tính chân lý của cái mà trong đó,
tính mâu thuẫn nội tại bộc lộ ra. Với tư cách là PBC khẳng định, nó được thể
hiện rõ nhất ở trường phái MiLê và đặc biệt là ở Hêraclít, còn với tư cách là PBC
phủ định nó được thể hiện ở trường phái ÊLê (Pacmênit và Dênôn).
Trong sự phát triển của mình, PBC khách quan của người Hy Lạp cổ đại
đã sớm đạt tới đỉnh cao trong học thuyết của Hêraclít về sự đấu tranh phổ
biến, về sự thống nhất của các mặt đối lập. Ông đã cụ thể hoá sự tác động qua
lại giữa các mặt đối lập không những với tư cách là cuộc đấu tranh giữa
chúng mà còn là sự phân đôi cái thống nhất và là sự chuyển biến thành cái đối
lập. Hêraclít là người đã nói về cái hài hoà trong đấu tranh, thống nhất trong
phân đôi, bất biến trong biến đổi, đồng nhất trong khác biệt, vĩnh viễn trong
nhất thời, hiện hữu trong sinh thành.
Tựu chung lại, PBC trong thời kỳ này mang tính ngây thơ, tự phát nhưng
căn bản là đúng. Những kết luận của PBC được rút trong sự quan sát, xem xét
thế giới một cách trực quan và không chứa các căn cứ khoa học, do đó mà tư

tưởng biện chứng thời kỳ này mới chỉ cho ta thấy bức tranh trong tính chỉnh
thể và tương đối chân thực về thế giới. Đó cũng là “cái khiếm khuyết” của
triết học Hy Lạp cổ đại, nên sau này nó buộc phải nhường chỗ cho cách nhìn
khác. Ph.Ăngghen nói: “Chính vì người Hy Lạp chưa đạt tới được trình độ mổ
xẻ, phân tích giới tự nhiên, cho nên hãy còn quan niệm giới tự nhiên là một
chỉnh thể và đứng về mặt toàn bộ mà xét chỉnh thể ấy. Mối liên hệ phổ biến
giữa các hiện tượng tuy chưa được chứng minh về mặt chi tiết, đối với họ mối
liên hệ đó là kết quả của sự quan sát trực tiếp. Đó cũng chính là thiếu sót của
các nhà triết học Hy Lạp, do đó, mà sau này nó buộc phải nhường chỗ cho
cách nhìn khác” [25, tr. 491]. Mặc dù, có những phát kiến quan trọng về PBC,
nhưng đó cũng chỉ là những phỏng đoán thiên tài. Do vậy, nó không thể tránh
khỏi bị thay thế bằng phương pháp siêu hình.


7

7

Tuy bị thay thế bởi phương pháp siêu hình nhưng không phải vì thế mà
phương pháp biện chứng biến mất. Các học thuyết triết học thời kỳ tan rã
của chế độ chiếm hữu nô lệ, triết học trung cổ sơ kỳ, đặc biệt là các học
thuyết triết học thời kỳ phục hưng, cận đại vẫn hàm chứa nhiều yếu tố biện
chứng. Mặc dù, xét trên toàn bộ hệ thống nó là siêu hình. Thực chất của
vấn đề ở chỗ, dù có thái độ tiêu cực với PBC cổ đại, song về mặt lịch sử,
các nhà triết học thế kỷ XVII - XVIII đã chuẩn bị cho PBC duy tâm cổ điển
Đức ra đời. Không có các hệ thống đó thì cũng không có PBC của Cantơ,
Phíchtơ, Sêlinh và Hêghen.
Phép biện chứng duy tâm khách quan
Một trong những hình thức cơ bản của PBC trước Mác là PBC duy tâm
trong triết học cổ điển Đức. Thành tựu quan trọng nhất của nó là xây dựng

được PBC với tư cách là lý luận phát triển về nhận thức và lôgíc. Nếu PBC
trong triết học cổ đại được nghiên cứu dựa trên cơ sở kinh nghiệm hàng
ngày, còn PBC trong các thời đại lịch sử tiếp theo về căn bản là bị phương
pháp siêu hình thay thế và chỉ được phát triển không đều trong một số học
thuyết triết học lớn riêng biệt, thì PBC trong chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức
đã trở thành một lý luận được xây dựng một cách hệ thống. Các nhà tiết học
duy tâm cổ điển Đức đã áp dụng một cách có ý thức PBC vào các lĩnh vực
khác nhau, hình thành nên các quy luật chung nhất của nhận thức, của văn
hoá tinh thần, và một chừng mực nhất định là trong hiện thực vật chất. Xét
về phương diện lý luận, dù có sự thống nhất mang tính nguyên tắc về mặt ý
thức hệ, triết học cổ điển Đức không phải là một trào lưu thống nhất, nhưng
ở đó lại có sự kế thừa thống nhất. Trong trào lưu triết học này Cantơ là
người khởi xướng, được Phíchtơ và Sêlinh kế tục và Hêghen kết thúc.
PBC duy tâm khách quan xuất phát từ quan niệm về tính quy định của
tinh thần, sự vận động và phát triển của nó được xem như một quá trình phổ
biến, quy định toàn bộ tính đa dạng của thực thể vật chất. Việc đặt ra các


8

8

vấn đề về PBC một cách duy tâm đã quy nhiệm vụ của nó vào nghiên cứu
các quá trình nhận thức. Xuất phát từ luận điểm duy tâm, quá trình này được
luận giải không phải là sự phản ánh thế giới khách quan một cách độc đáo,
mà là sự sáng tạo, sự ý thức, sự phát triển của nó. Khái niệm phát triển được
đồng nhất với khái niệm sáng thế, đồng thời được cải biến đi. Vì chủ thể của
quá trình phát triển được coi là tinh thần tuyệt đối tự nhận thức mình, nên
thực tế lý luận phát triển đã hoà tan làm một với lý luận nhận thức, lý luận
này đến lượt nó lại quy về lôgíc tự phát triển của tư duy tuyệt đối. Học

thuyết của Hêghen là thành tựu cao nhất của PBC duy tâm cổ điển Đức. Học
thuyết này có sự khác biệt là nội dung quảng bác và đặc biệt sâu sắc, sự đa
dạng mà nó đặt ra là rất quan trọng. Hêghen đã phát hiện ra các quy luật biện
chứng cơ bản mà những người trước đó hay cùng thời mới chỉ thể hiện chưa
rõ ràng, hay nói chung là chưa đề cập tới. Hêghen đã nghiên cứu rất nhiều
các phạm trù khác nhau, cùng các quy luật và chúng tạo thành một hệ thống
thống nhất, được suy tính như một hệ thống hoàn tất. Điều đó thể hiện
phương diện tiêu cực (chủ nghĩa giáo điều) và phương diện tích cực (vươn
tới quan điểm toàn vẹn của tư duy Hêghen).
Khác với các bậc tiền bối của mình, Hêghen coi các phạm trù là các
hình thức có nội dung tri thức đang phát triển, ông đã phác hoạ ra bức tranh
phát triển của các phạm trù; sự vận động chuyển biến lẫn nhau giữa chúng;
sự làm phong phú các nội dung của chúng; sự chuyển từ các tính quy định
trừu tượng, phiến diện của khái niệm sang tính quy định cụ thể, đa dạng của
tri thức và(ở mức độ nhất địmh) còn của bản thân hiện thực khách quan.
Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng ba quy luật cơ bản của PBC đã được Hêghen phát
triển một cách duy tâm chỉ với tư cách là các quy luật của tư duy. Hêghen
không gọi chúng là những “quy luật” khi đề cập tới chúng ở những chỗ
khác nhau trong hệ thống của ông. Có thể nói lần đầu tiên trong lịch sử triết


9

9

học, Hêghen đã tạo ra được một lý luận biện chứng, với tư cách là lôgíc học,
với tư cách là phương pháp, đã hợp nhất PBC và lôgíc học thành một quan
niệm thống nhất về lôgíc biện chứng. Và cũng lần đầu tiên trong lịch sử
PBC ông đã tạo ra lý luận phát triển mâu thẫn và sau đó giải quyết mâu thẫn
thông qua tổng hợp.

Tuy nhiên, PBC mà Hêghen xây dựng lại là PBC duy tâm khách quan, khi
mà biện chứng chỉ là sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối”. Vì nằm dưới hình
thức duy tâm thần bí của nó, nên PBC của Hêghen xét đến cùng không thể trở
thành công cụ thích hợp của sự nhận thức và cải tạo thế giới một cách đúng đắn.
Nó chứa đựng trong nó một mâu thuẫn không có lối thoát, do đó, nó không thể
chỉ ra những cách giải quyết khác nhau cho các mâu thuẫn thực tại của hiện thực
ngoài việc thoả hiệp với chúng trong ý niệm. C.Mác đã phê phán nghiêm khắc
PBC duy tâm của Hêghen, ông chỉ ra rằng PBC đó coi thường nội dung thực tế,
vật chất của quá trình tự nhiên và xã hội, và do đó, bóp méo, giải thích một cách
thần bí bản chất của chúng, miêu tả sự biến đổi phát triển như là một quá trình
tinh thần thuần tuý, như là sự phát triển lôgíc của khái niệm. C.Mác đã nhận xét:
“tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hêghen, tuyệt
nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao
quát và có ý thức những hình thức vận động chung của phép biện chứng ấy. Ở
Hêghen phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại sẽ
phát hiện được cái bạt nhân hợp lý đằng sau lớp vỏ thần bí ”[26, tr. 35].
Phép biện chứng duy vật
Kế thừa những thành tựu về PBC của các nhà triết học trước đó, trên cơ sở
khát quát thành tựu của khoa học tự nhiên và thực tiễn cách mạng đương thời
C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng tạo ra hình thức triệt để, khoa học và cao nhất
của PBC - PBCDV. PBCDV đã xuất hiện với tư cách một bộ phận cấu thành
không thể tách rời của triết học mácxít. Vì thế, sẽ không đúng nếu đi tìm trong


10

10

lịch sử triết học Mác một giai đoạn đặc biệt nào đó, mà các nhà sáng lập triết
học này chỉ chuyên nghiên cứu PBC, mặc dù trên con đường phát triển chung

của triết học Mác, ta có thể nêu ra những thời điểm mà hai ông chú ý nhiều
nhất hoặc đặc biệt nhấn mạnh tới những vấn đề về PBC. PBC của C.Mác và
Ph.Ăngghen đã tiếp thu một cách có phê phán tất cả những gì quý giá và vĩ đại
mà toàn bộ sự phát triển của triết học đã tạo ra. Không thể hiểu được PBC đó
nếu không tính đến những thành tựu PBC mà các nhà triết học Hy Lạp cổ đại,
phục hưng, cận đại và nhất là các nhà triết học cổ điển Đức đã đạt được. PBC
đó dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên và của các khoa học khác,
mà những tài liệu đó đã được triết học tổng hợp qua các phạm trù và các khái
niệm của PBC. Nói tóm lại, nếu dùng cách diễn đạt của V.I.Lênin, thì PBCDV
có thể và cần được quan niệm là sự tổng kết và kết luận của toàn bộ sự phát
triển của tư duy con người và của thực tiễn xã hội loài người. Sự ra đời của
PBCDV là một quá trình khó khăn phức tạp, gắn liền với quá trình chuyển đổi
lập trường của C.Mác và Ph.Ăngghen. Mặc dù, đều xuất phát từ phái Hêghen
trẻ, đánh giá cao những đóng góp của vị tiền bối của mình, nhưng các ông đã
nhận thấy hạn chế của PBC duy tâm khách quan với tính cách là công cụ tư
duy lý luận và công cụ cải tạo hiện thực. Hai ông do kết quả tiếp xúc với đời
sống hiện thực, sự tiếp xúc này đã làm cho hai người nhận thấy phải tìm trong
hiện thực chứ không phải trong cái tinh thần trừu tượng những cội nguồn thật
sự của sự biện chứng với tính cách là động lực của toàn bộ sự phát triển, trong
đó có cả sự phát triển tinh thần.
Ph.Ăngghen khẳng định: “Mác vẫn là người duy nhất có thể đảm đương
được công việc rút ra từ lôgíc học của Hêghen cái hạt nhân bao trùm những
phát kiến thật sự của Hêghen trong lĩnh vực này, và khôi phục lại phương pháp
biện chứng, được giải phóng khỏi những cái vỏ duy tâm của nó, dưới một dạng
đơn giản trong đó nó trở thành một hình thái phát triển duy nhất đúng đắn của


11

11


tư tưởng [24, tr. 613 - 614]. Và Ph.Ăngghen định nghĩa PBC như sau: “phép
biện chứng là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự
phát triển của tự nhiên của xã hội loài người và của tư duy” [25, tr. 201]. Kế thừa
và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, từ các góc độ tiếp cận khác
nhau V.I.Lênin đã đưa ra một số định nghĩa về PBC. Tiếp cận dưới góc độ mâu
thuẫn, V.I.Lênin viết: “Phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các
mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó
đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm” [18, tr. 240]. Dưới
góc độ phát triển Người viết: “Phép biện chứng tức là học thuyết về sự phát
triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết
về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất
luôn luôn phát triển không ngừng” [17, tr. 53].
Từ quan niệm của các nhà kinh điển về PBC, có thể khái quát: PBCDV là
khoa học về những quy lật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên,
xã hội và tư duy [30, tr. 35]. Như vậy, nội dung của PBCDV là rất toàn diện và
sâu sắc, phản ánh sự vận động, phát triển không ngừng của thế giới khách quan.
Trong đó, hai nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển là hai
nguyên lý khái quát nhất, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
là hạt nhân của PBCDV. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến dùng để khái quát
bức tranh toàn cảnh trong tính chỉnh thể về thế giới với chằng chịt những mối
quan hệ. Tính chất vô tận của thế giới, cũng như sự hữu hạn của mỗi sự vật, hiện
tượng chỉ có thể được giải thích trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng
nhiều mối liên hệ có vai trò khác nhau. Từ nguyên lý mối liên hệ phổ biến con
người rút ra quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn. Nghĩa là, trong hoạt động, con người không nên tuyệt đối hoá mối liên
hệ nào, cũng không nên tách mối liên hệ này ra khỏi mối liên hệ khác. Bởi trên
thực tế, các mối liên hệ còn phải được xem trong sự vận động phát triển của



12

12

chúng. Đó là xem xét toàn diện các mối liên hệ; trong đó phải rút ra được mối
liên hệ chủ yếu, bản chất, để nắm được bản chất, thấu hiểu được sự vật hiện
tượng. Từ đó, quay lại hiểu toàn bộ sự vật, hiện tượng trên cơ sở liên kết các mối
liên hệ bản chất và các mối liên hệ khác để đảm bảo xem xét sự vật trong tính
đồng bộ. Quan điểm toàn diện đối lập với mọi suy nghĩ và hành động siêu
hình, chiết trung, phiến diện.
Nguyên lý về sự phát triển của PBCDV phản ánh những đặc trưng biện
chứng phổ quát của quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn, đánh dấu bằng sự ra đời của cái mới. Phát triển là
một trường hợp đặc biệt của vận động. Phát triển có tính khách quan, phổ
biến, đa dạng, và xét về phương diện bản chất vận động của thế giới có xu
hướng phát triển. Do đó, phải xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động,
biến đổi, phát triển của nó, phải có tư duy năng động, linh hoạt, mềm dẻo,
phải nhận thức cái mới và ủng hộ cái mới.
Đi liền với những nguyên lý cơ bản của PBCDV là những quy luật cơ
bản phản ánh cái bản chất trong sự vận động của thế giới. Nghiên cứu quy
luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng đến những thay đổi về chất và
ngược lại, chỉ ra cách thức vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Khi nghiên cứu, nắm được nội dung quy luật này, trong hoạt động thực tiễn
phải trên sự hiểu biết đúng đắn vị trí, vai trò và ý nghĩa của mỗi loại thay đổi
(chất và lượng) để hoạt động có hiệu quả. Tránh nôn nóng, đốt cháy giai
đoạn; đồng thời tránh sự tuyệt đối hoá sự thay đổi về lượng, không kịp thời
chuyển những thay đổi về lượng sang những thay đổi về chất, từ những biến
đổi mang tính tiến hoá, sang những thay đổi mang tính cách mạng và ngược
lại không biết sử dụng chất mới để thúc đẩy lượng phát triển.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là hạt nhân của

PBCDV. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển, phản
ánh quá trình đấu tranh, giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật. Nó có ý


13

13

nghĩa phương pháp luận to lớn trong việc phát hiện và phân tích mâu thuẫn
của sự vật, cũng như con đường đúng đắn để giải quyết mâu thuẫn nhằm
thúc đẩy sự vật phát triển. Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét toàn diện
các mặt đối lập, theo dõi quá trình phát triển của các mặt đó. Phải biết phân
biệt các loại mâu thuẫn để có cách giải quyết phù hợp. Phải xác định đúng
trạng thái chín muồi của mâu thuẫn, để tìm ra phương thức, phương tiện và
lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức giải quyết mâu
thuẫn một cách triệt để.
Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng phát triển của sự
vật, hiện tượng, tính tất yếu của ra đời cái mới và mối liên hệ giữa cái mới
với cái cũ. Quy luật này có ý nghĩa phương pháp luận to lớn trong quá trình
thay đổi cái cũ bằng cái mới, cái tiến bộ sẽ thắng cái lạc hậu. Do đó, cần
phải chống thái độ phủ định sạch trơn cái cũ. Trong công tác, chúng ta phải
biết phát hiện quý trọng cái mới, phải tin tưởng vào tương lai phát triển của
cái mới, mặc dù còn yếu ớt, ít ỏi, phải tạo điều kiện, bồi dưỡng cho nó
chiến thắng cái cũ. Trong khi đấu tranh với cái cũ, chúng ta phải biết sàng
lọc, giữ lấy những cái gì là tích cực, có giá trị, cải tạo cái cũ phù hợp với
điều kiện mới. Vừa phải chống thái độ “hư vô chủ nghĩa” trong nhìn nhận
lịch sử, đánh giá quá khứ, vừa phải chống thái độ bảo thủ, khư khư giữ lại
cái lỗi thời cản bước tiến của lịch sử.
Cùng với ba quy luật cơ bản, PBCDV còn có hệ thống phạm trù, đó là
những khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những

mối liên hệ chung bản chất của sự vật, hiện tượng về phương diện nào đó
của hiện thực. Những phạm trù có liên hệ trực tiếp với nhau được xếp
thành cặp đôi, gọi là những cặp phạm trù cơ bản hay những quy luật không
cơ bản của PBCDV. Đó là các cặp phạm trù: cái chung và cái riêng;
nguyên nhân và kết quả; tất nhiên và ngẫu nhiên; nội dung và hình thức;
bản chất và hiện tượng; khả năng và hiện thực. Như vậy, nội dung cơ bản


14

14

của các quy luật của PBCDV vừa là sự cụ thể hoá thêm nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến và sự phát triển, vừa đi sâu phản ánh cái bản chất nội dung
bên trong của quá trình vận động, phát triển của thế giới vật chất. Còn các
cặp phạm trù cơ bản, phản ánh tính muôn vẻ, đa dạng của sự vận động,
phát triển của thế giới vật chất, là sự cụ thể hoá tiếp theo của các quy luật
cơ bản.
Như vậy, PBCDV không chỉ là một hệ thống lý luận của con người mà
nó còn là một hệ thống phương pháp luận phổ quát, giúp con người trong hoạt
động nhận thức, hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
1.1.2. Đặc điểm phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật có tính hệ thống
PBCDV là một học thuyết khoa học, và cũng như bất kỳ một học thuyết
khoa học nào khác, nó chứa đựng trong mình tính hệ thống chặt chẽ. Với tính
cách là một hệ thống, PBCDV có nội dung rất phức tạp và đa dạng, có nhiều yếu
tố, nhiều cấp độ và nhiều chức năng. Điều đó không phải ngẫu nhiên, mà vì nó
phản ánh ngày càng sâu rộng thế giới hiện thực. Theo nghĩa ấy, V.I.Lênin viết:
“Phép biện chứng với tính cách là nhận thức sinh động, nhiều mặt (số các mặt
không ngừng tăng lên mãi mãi) bao hàm vô số khía cạnh trong cách tiếp cận, đi

gần tới hiện thực (với một hệ thống triết học đi từ mỗi khía cạnh mà phát triển
thành một toàn thể)” [18, tr. 382].
Sự tìm tòi nghiên cứu tạo dựng tính hệ thống trong triết học đã có từ thời
cổ đại. Nhưng về nguyên tắc, đó chỉ là sự cố gắng thiết lập nên các hệ thống
trừu tượng, tư biện, thậm chí có tham vọng đạt đến chân lý tận cùng, chân lý
tuyệt đối. Một hệ thống kiểu như vậy, tiêu biểu là triết học Hêghen, mà nền
tảng của nó là “ý niệm tuyệt đối”. Chính sự ra đời của PBCDV đóng vai trò là
tinh hoa, là đỉnh cao trong sự nhận thức hiện thực khách quan.
Bất kỳ một khoa học nào cũng biểu hiện là một hệ thống các nguyên lý,
các quy luật và các phạm trù. PBCDV về hình thức là chủ quan, nhưng về nội


15

15

dung là mang tính khách quan. Nó là một hệ thống chỉnh thể của các hình
thức tư tưởng, đồng thời nó luôn luôn được bổ sung bởi các thành tựu của
khoa học và thực tiễn. Như vậy, PBCDV là một hệ thống đa diện, đa chiều, có
nhiều cách tiếp cận khác nhau. Vì thế, có thể định nghĩa PBCDV là khoa học
về mối liên hệ phổ biến, là khoa học về sự vận động, phát triển, hoặc với tính
cách là lôgíc học, cũng như với tính cách là lý luận nhận thức. Song các khía
cạnh ấy không mang bản chất độc lập, không phải là các lý luận độc lập, mà
là các yếu tố có mối liên hệ hữu cơ với nhau, làm cho PBCDV trở thành một
lý luận thống nhất, một hệ thống lý luận.
Trên cơ sở giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, PBCDV với tính cách
là một hệ thống khoa học khám phá ra các quy luật chung nhất của sự vận
động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, cũng như vạch ra những con
đường nhận thức và cải tạo nó. Các nguyên lý, quy luật và phạm trù của
PBCDV mang tính chất chung nhất, tổng hợp nhất và cả về mặt bản thể luận

và mặt nhận thức luận. Và PBCDV không thể là một khoa học nếu như nó
không phải là hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù.
Phép biện chứng duy vật có tính hoàn bị
Đó là sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng; giữa chủ
nghĩa duy vật và PBC; giữa PBC - lý luận nhận thức và lôgíc học, tính hoàn
bị bao hàm tính tự giác. PBCDV có sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy
vật và PBC, là ở sự thâm nhập lẫn nhau giữa chúng, ở chỗ chủ nghĩa duy vật
là chủ nghĩa duy vật biện chứng còn PBC là PBCDV, PBC trong triết học
Mác - Lênin không chỉ là lý luận mà còn là phương pháp, cụ thể là lý luận
phát triển, là học thuyết về những quy luật chung nhất của toàn bộ cái thế giới
hiện tồn; đồng thời nó còn là phương pháp, cụ thể là phương pháp nghiên cứu
biện chứng duy vật. Sự thống nhất không thể tách rời giữa chủ nghĩa duy vật
và PBC trong triết học Mác còn có nghĩa là sự phân chia giữa chủ nghĩa duy
vật và PBC từng tồn tại trong triết học trước Mác mất đi cơ sở của nó trong hệ


16

16

thống của triết học Mác - Lênin. Mỗi luận điểm trong triết học Mác - Lênin
vừa là duy vật vừa là biện chứng ở mức độ như nhau.
Bên cạnh đó, PBCDV còn có sự thống nhất giữa tính khoa học và tính
cách mạng. PBCDV đã ra đời trên cơ sở kế thừa một cách có phê phán những
thành tựu của tư duy nhân loại, mà trực tiếp là PBC trong triết học cổ điển Đức.
Đồng thời, khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học đương thời, của
thực tiễn lịch sử nhân loại. Nó ra đời như một tất yếu lịch sử, không những vì
nó là sự phản ánh thực tiễn xã hội, mà còn là sự phát triển hợp lôgíc của tư
tưởng nhân loại. PBCDV là một thành tựu vĩ đại của khoa học loài người, là
khoa học về những quy luật phổ biến của tự nhiên, của xã hội và của tư duy.

Vì thế, nó trở thành một “hình thức tư duy quan trọng nhất”, cao nhất, thích
hợp nhất đối với sự phát triển của khoa học. Bản chất khoa học và cách mạng
của PBCDV thể hiện ở hệ thống quy luật chung nhất của thế giới quan và
phương pháp luận khoa học trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con
người. Rõ ràng là, PBCDV đem lại cho khoa học hiện đại một phương pháp
luận đúng đắn trong xem xét, lý giải bản thân sự phát triển của thế giới. Đó là
chức năng luận chứng và giải thích khoa học, chức năng tổng hợp tri thức,
định hướng và tiên đoán khoa học. Là một học thuyết khoa học lý luận - đỉnh
cao của trí tuệ loài người, triết học Mác - Lênin nói chung và PBCDV nói
riêng là cơ sở khoa học đúng đắn cho việc luận chứng và giải thích những
hiện tượng của đời sống xã hội và quá trình lịch sử, nhất là cho việc cải tạo
thế giới hiện thực. Đúng như C.Mác đã từng khẳng định: “Các nhà triết học
đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo
thế giới” [23, tr. 12]. Với bản chất khoa học và cách mạng, chủ nghĩa Mác Lênin mà linh hồn của nó là PBCDV đã “… đem lại sự giận dữ và kinh hoàng
cho giai cấp tư sản và bọn tư tưởng gia giáo điều của chúng …, vì trong quan
niệm tích cực về cái đang hiện tồn, phép biện chứng đồng thời cũng bao hàm


17

17

cả quan niệm về sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu
của nó; vì mỗi hình thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét trong sự
vận động, tức là xét cả mặt tức thời của hình thái đó, vì phép biện chứng
không khuất phục trước một cái gì cả, về thực chất nó có tính phê phán và
cách mạng” [26, tr. 35-36]. Nói một cách khái quát, PBCDV trang bị cho
chúng ta một hệ thống quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể, phát
triển và thực tiễn trong hoạt động nhằm cải biến thế giới hiện tồn. Tính khoa
học và cách mạng của PBCDV luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, không tách rời

nhau. Khi khẳng định bản chất khoa học và cách mạng, tức là mặc nhiên thừa
nhận thuộc tính khoa học là cơ sở cho thuộc tính cách mạng, chứ không phải
ngược lại. Tính khoa học đóng vai trò cơ sở của tính cách mạng, bảo đảm cho
tính cách mạng gắn liền với sự sáng tạo và khả năng hiện thực hoá. Ở chiều
ngược lại, tính cách mạng tạo nên sức sống của tính khoa học, và làm vai trò
hướng dẫn, soi đường cho tri thức khoa học đi vào thực tiễn. Như vậy, nếu
tính cách mạng tách rời tính khoa học sẽ là sự rời bỏ gốc rễ của chính nó và
tất yếu dẫn đến những sai lầm với những hậu quả tiêu cực khó lường trong
hoạt động thực tiễn. Ngược lại, nếu tính khoa học không gắn với tính cách
mạng thì bản thân sự tồn tại của một học thuyết khoa học sẽ mất ý nghĩa lý
luận khoa học và đứng trước nguy cơ trở thành lý thuyết suông, giáo điều,
kinh viện.
PBCDV còn là sự thống nhất giữa PBC - lý luận nhận thức và lôgíc
học, quan điểm này vốn có ở C.Mác và Ph.Ăngghen, đã được V.I.Lênin
luận chứng, mở rộng về mặt lý luận. Luận điểm này đã khắc phục việc tách
rời học thuyết về tồn tại khỏi học thuyết về nhận thức và lôgíc học, ở chỗ
khẳng định PBCDV là một khoa học triết học thống nhất nghiên cứu biện
chứng khách quan của sự vật, được vạch ra trong tiến trình phát triển của
lịch sử, của tri thức và làm thành nội dung lôgíc của tư duy. Điều đó quyết


18

18

định sự thống nhất và trùng hợp về nội dung của các quy luật của thế giới
khách quan và của các quy luật của tư duy đang nhận thức. V.I.Lênin giải
thích toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của tư duy con người là quá
trình phản ánh sáng tạo những quy luật khách quan. Theo Người: “Những
quy luật của lôgíc là phản ánh của cái khách quan vào trong ý thức chủ

quan của con người” [18, tr. 194].
Những quy luật này sau khi được con người nhận thức nó trở thành
những quy luật của tư duy, những vòng khâu nhận thức của con người về thế
giới tự nhiên, đó là những phạm trù lôgíc. Sự trùng hợp về nội dung của các
quy luật chung nhất của thế giới khách quan và những quy luật của tư duy
con người là cơ sở trực tiếp nhất để khẳng định PBC - lý luận nhận thức và
lôgíc học “là cùng một cái duy nhất của chủ nghĩa duy vật” [18, tr. 360]. Sự
thống nhất giữa PBC - lý luận nhận thức và lôgíc học làm cho PBCDV trở
thành một khoa học thống nhất, nghiên cứu những quy luật phổ quát của sự
vận động và phát triển của thế giới.
Phép biện chứng duy vật là một hệ thống mở
PBCDV là một hệ thống mở vì nó luôn có tính phê phán, nó kế thừa một
cách có phê phán những thành tựu mà tư tưởng loài người đã đạt được, trực
tiếp là tư tưởng PBC, đồng thời không ngừng được bổ sung bằng những thành
tựu phát triển mới của khoa học và bản thân sự phát triển của thực tiễn cách
mạng. Chính vì vậy, đã làm cho PBC luôn luôn được làm giàu thêm và mài
sắc hơn. Toàn bộ PBCDV là một hệ thống lý luận mở và phát triển, không
khép kín, không ngưng đọng, không bất biến. Nó luôn hướng về thực tiễn xã
hội và lịch sử, hướng về thời đại, hướng về tương lai chứ tuyệt nhiên không
phải là thứ lý luận kinh viện. Có thể nói rằng PBCDV là “tinh hoa” của thời
đại, luôn mang hơi thở của thời đại, và với tư cách đó “không chỉ về bên
trong, theo nội dung của nó, mà cả bên ngoài, theo sự biểu hiện của nó”. Luôn


19

19

luôn tiếp cận và tác động qua lại với thế giới hiện thực ở thời đại mình.
C.Mác đã từng khẳng định: “Triết học không còn là một hệ thống nhất định

đối với các hệ thống nhất định khác, nó trở thành triết học nói chung đối với
thế giới, trở thành triết học của thế giới hiện đại… trở thành linh hồn sống của
văn hoá,… thành triết học thế tục, còn thế giới thì trở thành thế giới triết học”
[22, tr. 157]. Rằng “Triết học không hứa hẹn gì cả ngoài chân lý…, triết học
không đòi hỏi tin tưởng vào các kết luận của nó, nó đòi hỏi kiểm nghiệm
những điều hoài nghi” [22, tr. 159]. Chúng ta có thể nói như vậy về PBCDV.
Nó không lãng tránh, mà còn luôn nhìn thẳng vào sự thật, lấy cái bất biến về
mặt thế giới quan và phương pháp luận để hướng dẫn, giải quyết những vấn
đề cơ bản và bức thiết do thực tiễn, do hiện thực cuộc sống đặt ra, đồng thời
nghiên cứu tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận và dự báo tương lai. Là linh
hồn của chủ nghĩa Mác - Lênin, PBCDV đối xử với các hệ thống triết học
khác cũng theo tinh thần đó, theo tinh thần đó để không bác bỏ một cách sạch
trơn, mà kế thừa những hạt nhân hợp lý, những tinh hoa của chúng. Chính vì
vậy, PBCDV có khả năng tự đổi mới và phát triển, trở thành kim chỉ nam cho
hành động, mở đường và hướng dẫn nhân loại tiến bộ và tiếp tục tìm kiếm
những nhận thức chân lý, chứ không đi tới chân lý tuyệt đối cuối cùng.
1.2. Ý nghĩa của phép biện chứng duy vật trong sự nghiệp đổi mới
của Đảng
1.2.1. Ý nghĩa của phép biện chứng duy vật đối với xây dựng đường lối
đổi mới của Đảng
Xây dựng và hoạch định đường lối là công việc gắn bó hữu cơ với chức
năng lãnh đạo của Đảng. Bởi vì, quá trình lãnh đạo xã hội luôn xuất hiện
những vấn đề mới mà cơ quan lãnh đạo cần giải quyết để thúc đẩy xã hội tiến
bộ. Xây dựng đường lối là hành động tất yếu của cơ quan lãnh đạo, đường lối
đúng đắn là một yếu tố để chuyển xã hội từ “trạng thái hiện có” sang “trạng


20

20


thái cần phải có” theo sự vận động của nó. Việc quán triệt sâu sắc những yêu
cầu của PBCDV là yếu tố không thể thiếu để có đường lối đúng đắn.
Đường lối cách mạng của Đảng như V.I.Lênin xác định: là khoa học,
nghệ thuật lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh
nhằm cải biến xã hội bằng cách mạng đối với xã hội cũ, từng bước hình
thành xã hội mới. Nó xác định những mục tiêu chủ yếu, những phương
hướng chủ yếu trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, của chính
đảng thuộc giai cấp đó và của các lực lượng cách mạng nói chung ở một
giai đoạn tương đối dài. Đường lối đó cũng chỉ ra những đối tác, đối tượng
của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh để đạt được mục đích. Đồng
thời nó cũng chỉ ra những động lực, những lực lượng, những phương tiện
của cách mạng. Độ dài lịch sử của đường lối cũng khác nhau, có đường lối
bao quát cả một thời kỳ lịch sử rất dài, chẳng hạn đường lối cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân từ 1930 - 1954 đối với miền Bắc và từ 1930 - 1975 đối với
miền Nam; nhưng cũng có đường lối chỉ bao quát một giai đoạn ngắn, có thể là
sự cụ thể hoá, sự phát triển của đường lối chung, của toàn bộ tiến trình cách
mạng. Song, dù độ dài ngắn khác nhau, nhưng mọi đường lối của Đảng đều đề
cập tới những mục tiêu nhiệm vụ có tính chiến lược cho từng giai đoạn cách
mạng, bao quát toàn diện các mặt của cuộc đấu tranh, nó có ý nghĩa trong
phạm vi cả nước.
Yêu cầu cơ bản của đường lối của Đảng là phải phát hiện đúng đắn và kịp
thời đề ra các giải pháp nhằm giải quyết có hiệu quả mọi vấn đề do thực tiễn
cách mạng đặt ra, góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội theo đúng quy
luật. Sứ mệnh lịch sử của đường lối chủ yếu không phải dừng lại ở giải thích
thế giới đúng như nó đang tồn tại, mặc dù việc “giải thích” như thế là một nội
dung rất cần thiết, mà chủ yếu ở vai trò cách mạng hoá hiện thực, để xây dựng
thành công CNXH và CNCS. Bản thân các vấn đề mà đường lối hướng tới



21

21

cũng không ngừng vận động, biến đổi. Do vậy, đường lối được xem là đúng
khi nó phù hợp với trạng thái của vấn đề, mà còn dự báo được triển vọng và sự
phát triển của nó. Nếu không tính đến điều đó, rất có thể đường lối được xem là
đúng ở thực tại, song lại không đúng ở tương lai. Điều đó giải thích vì sao,
Đảng ta rất nhiều lần lưu ý rằng, quá trình thực hiện đường lối đổi mới phải
quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phản ánh và giải quyết những vấn đề mới
nảy sinh. Như vậy, nét đặc trưng của đường lối là ở chỗ nó phải bắt nguồn từ
thực tiễn cuộc sống, phản ánh đúng hiện thực khách quan, vượt trước quần
chúng để định hướng cho họ, đáp ứng kịp thời lợi ích chính đáng (cả trước mắt
và lâu dài) của nhân dân. Đây chính là điều đảm bảo cho sự thành công của
cách mạng.
Phép biện chứng duy vật là cơ sở cho Đảng xây dựng đường lối bảo
đảm tính bao quát và hệ thống. Tính bao quát là yêu cầu không thể thiếu được
đối với đường lối lãnh đạo của Đảng. Tính bao quát của đường lối được thể
hiện ở chỗ, nó phản ánh được tình hình đất nước trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội và trong từng lĩnh vực cụ thể; tính bao quát còn hàm chứa
trong đó những yêu cầu của một đường lối đúng đắn, bao quát cả cái nó phản
ánh, và bao quát cả chính bản thân nó với tư cách là một đường lối khoa học.
Cụ thể là, đường lối phải chỉ ra những mục tiêu, nhiệm vụ có tính khả thi, chiến
lược cho cả thời kỳ quá độ lên CNXH, với những đặc điểm xuất phát mang
tính đặc thù. Đường lối đó cũng phải bao quát toàn diện những mặt, những lĩnh
vực cần phải thay đổi vì sự phát triển trong phạm vi cả nước, cũng như những
phương hướng chủ yếu để đạt được mục tiêu. Và một nội dung hết sức quan
trọng, đó là, đường lối phải chỉ rõ những động lực, những hình thức, những
phương tiện chủ yếu để đạt được những những mục tiêu chiến lược cho công
cuộc đổi mới. Bên cạnh đó, đường lối phải đảm bảo được tính hệ thống, các nội

dung của nó phải thống nhất chặt chẽ với nhau trong sự liên hệ ràng buộc


22

22

không thể tách rời. Đồng thời, nó cũng phải thể hiện được tính thứ bậc, tính
phục tùng, tính ưu tiên trọng tâm trọng điểm của nội dung. Có như vậy, việc
xây dựng đường lối mới bảo đảm được tính khả thi cao cho quá trình quán triệt
và tổ chức thực hiện các nội dung trên thực tế.
Phép biện chứng duy vật là cơ sở cho Đảng phát hiện ra những mâu
thuẫn, nhận thức đúng đắn động lực, cũng như những cách thức, xu hướng
phát triển của xã hội. Nhờ đó có thể xác định chiều hướng chung của sự phát
triển lịch sử cũng như vai trò thái độ các lực lượng xã hội chủ yếu. Điều đó tạo
thành cơ sở xuất phát xây dựng đường lối của Đảng. Muốn có đường lối đúng,
trước hết phải phản ánh chính xác thực trạng tình hình, nhận thức đúng lĩnh
vực hiện thực mà đường lối cần tác động để thúc đẩy nó phát triển. V.I.Lênin
chỉ rõ: “Điều kiện của một sự nhận thức về tất cả các quá trình của thế giới
trong sự “tự vận động” của chúng, trong sự phát triển tự phát của chúng, trong
đời sống sinh động của chúng là sự nhận thức chúng với tư cách là sự thống
nhất của các mặt đối lập” [18, tr. 379]. Trong PBCDV, quy luật về sự thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hạt nhân của nó. Và tính biện chứng
của sự phát triển xã hội, diễn ra trong mâu thuẫn và thông qua mâu thuẫn.
Nhận thức được mâu thuẫn của xã hội, tìm ra những phương hướng đúng đắn
để giải quyết mâu thuẫn, cũng như tổ chức hoạt động để giải quyết mâu thuẫn
một cách thực tế, tạo thành thực chất của mọi quyết định chính trị. Mục đích
của đường lối là chuyển xã hội từ “trạng thái hiện có” sang “trạng thái cần
có” theo quy luật của nó. Trong khi đó, mâu thuẫn biện chứng là nguồn gốc
của sự phát triển. Cho nên, việc chuyển đổi trạng thái như trên sẽ không thể

thực hiện được nếu không phát hiện đúng mâu thuẫn khách quan đang tồn tại,
cũng như lực lượng, biện pháp, phương tiện để giải quyết các mâu thuẫn đó.
Xét dưới góc độ tổng quát, mọi quyết định lãnh đạo đều bắt đầu bằng việc
khái quát tình hình thực tế trên lĩnh vực mà quyết định đó quan tâm. Nội dung


23

23

chủ yếu của quá trình này là nêu lên những thành tựu cơ bản, những hạn chế
chủ yếu trong lĩnh vực đó, làm rõ những vấn đề nảy sinh cần phải giải quyết.
Thực chất, quyết định đó chỉ ra mâu thuẫn đã và đang nảy sinh, đang tồn tại mà
việc giải quyết chúng sẽ cho phép nâng trình độ của lĩnh vực đó, của vấn đề đó
lên một trình độ mới. Như vậy, có thể khẳng định rằng, dù có nói tới mâu thuẫn
hay không, nhưng thực chất của toàn bộ quá trình xây dựng các quyết định
chính trị là quá trình phát hiện mâu thuẫn; xác định tính chất, trạng thái của
mâu thuẫn, tìm ra phương thức, những biện pháp, những lực lượng để giải
quyết mâu thuẫn trên từng lĩnh vực tương ứng. Do đó, nắm vững và vận dụng
nhuần nhuyễn lý luận mâu thuẫn là một yếu tố quan trọng để có đường lối
đúng.
Phép biện chứng duy vật là cơ sở cho Đảng giải quyết một cách khoa học
mối quan hệ giữa mục tiêu và phương thức thực hiện. Kiên trì mục tiêu mà
đường lối đã nêu ra, lại có thể thay đổi linh hoạt phương pháp, phương tiện tuỳ
thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng nếu đảng cách
mạng chỉ biết đưa ra đường lối đúng đắn mà không biết xác định những phương
hướng để làm cho đường lối đó thành hiện thực sẽ biến đường lối đó thành lời
nói suông vô bổ [16, tr. 51]. Trong lãnh đạo cách mạng, vấn đề sống còn là phải
kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc, dù tình thế có biến đổi phức tạp thế
nào đi chăng nữa, cũng phải biết vượt qua mọi khó khăn, thách thức để đạt được

mục đích mang tầm chiến lược của giai đoạn tương ứng, “Vấn đề là ở chỗ phải
nhận rõ những mục đích cách mạng chân chính của giai cấp vô sản, và biết theo
đuổi mục đích đó qua tất cả mọi hoàn cảnh, mọi đoạn đường quanh co và thoả
hiệp” [15, tr. 12]. Như vậy, tư tưởng trung tâm trong quán triệt PBCDV vào xây
dựng đường lối là quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện, hình thức hoạt động
đạt mục tiêu. Quan điểm biện chứng, một mặt cần thấy vai trò chi phối của mục
tiêu so với phương tiện, hình thức hoạt động đạt mục tiêu, mặt khác, cần hết sức


24

24

mềm dẻo trong sách lược của mình, trong phương thức, hình thức hoạt động để
đạt được mục tiêu đề ra, phải hết sức nhanh chóng thay thế những hình thức hoạt
động này bằng những hình thức hoạt động khác khi điều kiện thay đổi, phải biết
kết hợp mọi hình thức có thể. Toàn bộ vấn đề là “phân tích cụ thể một tình hình
cụ thể”, đó là cái tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. V.I.Lênin chỉ rõ: “Tinh
thần tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa phải được kết hợp với
nghệ thuật biết thực hành tất cả những thoả hiệp thực tiễn cần thiết, tất cả những
quanh co, lựa chiều, ngoắt ngéo chữ chi, dung hoà và rút lui” [120, tr.100]. Đã
đành cách mạng là phải tiến công, nhưng tiến công cách mạng là khoa học và là
một nghệ thuật, để nắm vững được tinh thần đó, đòi hỏi phải nắm bắt sâu sắc
tinh thần của PBCDV kim chỉ nam cho việc xây dựng và thực hiện đường lối
của Đảng. Đối với một người cách mạng chân chính thì sẽ là một điều vô cùng
nguy hiểm nếu phóng đại tinh thần cách mạng, là quên đi những giới hạn và điều
kiện của một sự vận dụng có kết quả và thỏa đáng những phương pháp cách
mạng. Cách mạng là tiến công, nhưng cũng phải biết lùi có chừng mực khi tình
thế bắt ta phải lùi. Và chính điều đó đem lại cho chúng ta một thời cơ tạm nghỉ,
sức dự trữ để ta có thể đứng vững được cả về mặt vật chất và tinh thần để rồi

tiến.
Phép biện chứng duy vật là cơ sở cho Đảng phân định giữa tính nguyên
tắc với chủ nghĩa giáo điều, rập khuôn máy móc; giữa tính linh hoạt đúng đắn
với chủ nghĩa cơ hội, xét lại; giữa việc xuất phát khách quan với việc phát huy
vai trò của nhân tố chủ quan. Đường lối của Đảng thể hiện ý chí của Đảng và
nhân dân trong cải tạo thế giới. Những cái đó thuộc vào phạm trù nhân tố chủ
quan của quá trình cách mạng. Thực tế chứng minh, đường lối của Đảng chỉ có
tác dụng mạnh mẽ khi quá trình xây dựng và thực hiện, một mặt khi nó không
coi nhẹ vai trò của ý chí, của tình cảm trong quá trình cách mạng; hai là, mặt căn
bản nhất - đường lối đó phải phù hợp với điều kiện khách quan, phản ánh đúng


25

25

quy luật khách quan. Chúng ta không được xây dựng đường lối cách mạng dựa
trên tình cảm, mà khi xây dựng nó đòi hỏi phải hết sức khách quan. Yêu cầu của
chủ nghĩa Mác, theo V.I.Lênin đối với bất cứ một chính sách nghiêm chỉnh nào
là “chính sách đó phải căn cứ vào, dựa vào những sự thực có thể kiểm nghiệm
được một cách khách quan, chính xác” [19, tr.163]. Nếu không có tình cảm cách
mạng trong quần chúng, không có những điều kiện thuận tiện cho tình cảm ấy
phát triển thì không thể làm cho đường lối cách mạng biến thành hành động
được, nhưng người ta không thể dựa trên tình cảm mà định ra một sách lược
cách mạng được. Khi định ra sách lược phải trầm tĩnh, phải hết sức khách quan,
tính đến tất cả mọi lực lượng giai cấp ở trong một nước nhất định (cũng như
trong các nước xung quanh, trong tất cả các nước, trên phạm vi toàn thế giới) và
cả đến kinh nghiệm các phong trào cách mạng [ 20, tr. 59].
Xây dựng đường lối, đòi hỏi Đảng phải sáng tạo. Sự sáng tạo đó được
thể hiện ở việc nó vừa bảo đảm sự chi phối của những vấn đề có tính quy luật

chung, vừa thể hiện tính đặc thù của đất nước, vừa phản ánh được đặc điểm
tình hình của từng giai đoạn cụ thể. Như vậy, sự sáng tạo trong xây dựng
đường lối của Đảng rất xa lạ với chủ nghĩa giáo điều, cơ hội, xét lại. Sự sáng
tạo chân chính không loại trừ, mà còn đòi hỏi người cách mạng phải biết sử
dụng có hiệu quả những quan điểm lý luận chung, những kinh nghiệm quý
báu do lịch sử để lại như là một trong những cơ sở quan trọng để xây dựng
đường lối của mình. Nhưng điều đó không có nghĩa là lập lại những khẩu
hiệu đã bị tách ra khỏi toàn bộ những điều kiện đã sinh ra khẩu hiệu đó và
bảo đảm cho nó thắng lợi, và đem áp dụng vào những điều kiện khác về căn
bản. Sự lầm lẫn giữa hai phương diện khác nhau đó nhất định sẽ đưa đường
lối đến thất bại. Khi phê phán những kẻ giáo điều như vậy, V.I.Lênin cho
rằng đối với những kẻ đó, chắc chắn Mác sẽ dùng lời lẽ sau đây của Hainơ
để phê phán họ: “tôi đã cho ấp trứng rồng nhưng lại nở ra toàn loài bọ mạt”
[14, tr. 15]. Bên cạnh đó, trong xây dựng đường lối, việc nắm vững mối


×