Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

4. Tom tat Tieu luan tinh huong tranh chap dat dai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.69 KB, 14 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tổ chức các đơn vị hành chính - lãnh thổ là một bộ phận của tổ chức cấu
trúc hành chính nhà nước. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, ngoài các nhiệm vụ
phát triển kinh tế, xã hội và đảm bảo an ninh, quốc phòng, vấn đề điều chỉnh địa
giới hành chính các cấp để ổn định lâu dài hệ thống đơn vị hành chính được đặt
ra là một nhiệm vụ tương đối cấp bách và có ý nghĩa quan trọng.
Điều chỉnh địa giới hành chính xuất phát từ nhiều yếu tố, ngoài những yếu
tố nhằm mục đích phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, còn
một số vấn đề liên quan đến phong tục tập quán của người dân, tranh chấp đất
đai giữa các địa phương cần thiết phải điều chỉnh địa giới hành chính.
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Nhà
nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất
quản lý về đất đai: Quốc hội ban hành pháp luật về đất đai, quyết định quy
hoạch, kế hoạch sử sụng đất của cả nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối
với việc quản lý và sử dụng đất đai trong phạm vi cả nước; Chính phủ quyết
định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh và quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, thống nhất quản lý Nhà nước về đất đai
trong phạm vi cả nước. Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước
Chính phủ trong việc quản lý Nhà nước về đất đai. Hội đồng nhân dân các cấp
thực hiện quyền giám sát việc thi hành Pháp luật về đất đai tại địa phương. Uỷ
ban nhân dân các cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai và quản lý
Nhà nước về đất đai tại địa phương theo thẩm quyền được Pháp luật quy định.
Trong những năm gần đây, ở tỉnh Hà Tĩnh, nhất là sau khi tái lập tỉnh năm
1991, đồng thời cùng với việc triển khai các chương trình dự án trọng điểm quốc
gia, dự án của tỉnh đã tăng cường đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng, tạo
điều kiện cho sự phát triển kinh tế- xã hội ở các địa phương; nhưng đi đôi với nó
là một phần lớn diện tích đất canh tác trên địa bàn đã phải thu hồi để thực hiện


dự án, dẫn đến việc thu hẹp diện tích đất canh tác ở một số địa phương. Vì thế
mà vấn đề tranh chấp đất đai nói chung, tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới
hành chính trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ngày một gia tăng và phức tạp.
1


Trước tình hình đó, đòi hỏi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải có
kế hoạch, phương hướng và biện pháp giải quyết kịp thời, dứt điểm và hiệu quả
các vụ tranh chấp đất đai tại địa phương đảm bảo hợp tình, hợp lý trên cơ sở tôn
trọng phong tục tập quán của nhân dân địa phương, đồng thời phải tuân thủ các
quy định của pháp luật về đất đai, không để ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội, tình đoàn kết lâu đời và sự ổn định sản xuất, định canh định cư
của nhân dân.
Trong khuôn khổ tiểu luận lớp Bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước
chương trình chuyên viên chính, tôi chọn đề tài "Xử lý vấn đề tranh chấp đất
đai liên quan đến địa giới hành chính". Do kiến thức của bản thân còn nhiều
hạn chế nên không tránh khỏi thiếu sót, kính mong được sự giúp đỡ của các thầy
giáo, cô giáo của Trường Chính trị Trần Phú để tôi củng cố kiến thức quản lý
nhà nước được sâu, rộng hơn.
Trong suốt quá trình học tập tại Trường Chính trị Trần Phú, bản thân tôi
và các học viên đã được các thầy giáo, cô giáo tận tâm, nhiệt tình truyền đạt
những kiến thức cơ bản về quản lý nhà nước ngạch chuyên viên chính. Khóa
học đã cung cấp cho tôi những kiến thức sâu, rộng về quản lý Nhà nước trong
nhiều lĩnh vực, có tác dụng thiết thực trong quá trình vận dụng vào thực hiện
chức năng, nhiệm vụ quản lý, điều hành cơ quan; tham mưu, giúp việc cho Hội
đồng nhân dân tỉnh (HĐND), các ban HĐND tỉnh giám sát và kiến nghị xử lý
những bất cập, hạn chế nảy sinh trong thực tiễn cũng như quyết định những vấn
đề quan trọng của địa phương. Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu Trường
Chính trị Trần Phú, các thầy giáo, cô giáo đã truyền đạt những kiến thức quý
báu cho học viên bằng cả tấm lòng nhiệt tình và sự tận tâm của mình.

2. Kết cấu của tiểu luận:
Tiểu luận bao gồm Lời nói đầu, 7 phần, 10 tiểu mục.

2


I. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
Thôn 10 xã X huyện Kỳ Anh là một thôn giáo toàn tòng, nhân dân có tinh
thần đoàn kết, ổn định định canh, định cư, luôn tin tưởng vào chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Nhưng từ khi tái lập tỉnh và
thực hiện Chỉ thị 364/CT-HĐBT ngày 06/11/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) về việc giải quyết những tranh chấp đất
đai liên quan đến địa giới hành chính tỉnh, huyện, xã; tỉnh đã cắm mốc xác định
lại địa giới hành chính thì toàn bộ diện tích đất ở và khoảng 2/3 diện tích đất
canh tác của thôn 10 xã X thuộc về địa phận địa giới hành chính của thôn 5 xã Y
huyện Cẩm Xuyên. Do vậy, nhân dân thôn 5 xã Y huyện Cẩm Xuyên đã đòi
nhân dân thôn 10 xã X huyện Kỳ Anh phải trả lại số diện tích đất canh tác thuộc
địa giới hành chính đã cắm mốc. Nhưng nhân dân thôn 10 Xã X không nhất trí
trả lại diện tích đất đó, vì các lý do sau:
- Thứ nhất: Theo Chỉ thị 10-CT/TTg của Thủ tướng Chính phủ năm 1998
và lịch sử canh tác từ lâu đời thì diện tích đất ở và đất canh tác đó là thuộc
quyền quản lý, sử dụng của thôn X; việc tranh chấp xảy ra không phải do nhân
dân thôn X lấn chiếm đất mà do việc phân vạch lại địa giới hành chính theo Chỉ
thị 364 thì diện tích đất đó mới thuộc về xã Y huyện Cẩm Xuyên.
- Thứ hai: Trong điều kiện thực tế hiện nay nếu phải trả toàn bộ diện tích
đất canh tác đó thì nhân dân thôn 10 xã X sẽ không còn đất để sản xuất.
Từ những lý do đó, tuy hai thôn của hai xã thuộc 2 huyện chưa xảy ra xô
xát lớn, nhưng đã có hiện tượng một số cá nhân của thôn 5 xã Y huyện Cẩm
Xuyên cố tình thả gia súc phá hoại hoa màu của nhân dân thôn 10 xã X huyện
Kỳ Anh, ảnh hưởng đến việc sản xuất của nhân dân trong thôn.

Trước tình hình đó hai thôn đã báo cáo, đề nghị Uỷ ban nhân dân
(UBND) xã X huyện Kỳ Anh và xã Y huyện Cẩm Xuyên sớm có biện pháp giải
quyết, để đảm bảo giữ gìn an ninh trật tự và ổn định đời sống, sản xuất đối với
nhân dân hai thôn.
Căn cứ vào báo cáo của hai thôn, UBND hai xã của hai huyện đã 3 lần
giải quyết với phương án là đề nghị nhân dân thôn 5 xã Y tạm thời cho nhân dân
thôn 10 xã X mượn diện tích đất trên để canh tác theo địa giới lịch sử để lại,
nhưng nhân dân cả hai thôn đều không đồng ý. Thôn 5 xã Y muốn có thêm đất
để canh tác vì thực tế đất canh tác của thôn ít, còn thôn 10 xã X lại không muốn
sống theo kiểu “ăn nhờ ở đậu” như vậy, họ cho rằng phần đất đai đó do cha ông
họ khai phá đã canh tác lâu đời để lại cho họ có quyền được hưởng. Do đó, hai
3


xã đã báo cáo hai huyện, đề nghị UBND hai huyện sớm có phương hướng và
giải quyết dứt điểm để nhân dân hai thôn ổn định cuộc sống và yên tâm sản xuất.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TÌNH HUỐNG
1. Lý luận chung về quản lý đất đai và điều chỉnh địa giới hành chính
- Theo quy định Luật Đất đai năm 2013, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Với tư cách là chủ sở hữu đối với đất đai, Nhà
nước có đủ ba quyền năng của chủ sở hữu đó là quyền chiếm hữu, quyền sử
dụng và định đoạt số phận Pháp lý của đất đai. Nhà nước thực hiện quyền đại
diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai: Quốc hội
ban hành pháp luật về đất đai, quyết định quy hoạch, kế hoạch sử sụng đất của
cả nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với việc quản lý và sử dụng đất
đai trong phạm vi cả nước; Chính phủ quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, thống nhất quản lý Nhà nước về đất
đai trong phạm vi cả nước. Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước
Chính phủ trong việc quản lý Nhà nước về đất đai. Hội đồng nhân dân các cấp

thực hiện quyền giám sát việc thi hành Pháp luật về đất đai tại địa phương. Uỷ
ban nhân dân các cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai và quản lý
Nhà nước về đất đai tại địa phương theo thẩm quyền được Pháp luật quy định.
Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên Quốc gia vô cùng quý giá, là tư
liệu sản xuất chính tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh và trong
đời sống xã hội, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh
tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ở trung ương là Bộ Tài nguyên và
Môi trường. Cơ quan quản lý đất đai ở địa phương được thành lập ở tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Cơ quan
quản lý đất đai cấp nào trực thuộc cơ quan hành chính nhà nước cấp đó. Cơ quan
quản lý đất đai ở địa phương có văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất là cơ
quan dịch vụ công thực hiện chức năng quản lý hồ sơ địa chính gốc, chỉnh lý
thống nhất hồ sơ địa chính, phục vụ người sử dụng đất thực hiện các quyền và
nghĩa vụ.
- Từ năm 2013 trở về trước, việc điều chỉnh địa giới hành chính ở nước ta

tuân thủ theo Hiến pháp 1992 và các luật, văn bản dưới luật có liên quan. Theo
4


Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, các đơn vị
hành chính được phân định như sau:
“Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; tỉnh chia thành
huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia
thành quận, huyện và thị xã; huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh,
thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường”.
Quốc hội có thẩm quyền: “thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính
- kinh tế đặc biệt”.

Chính phủ có thẩm quyền: “Quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn
vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.
Ngày 28/11/2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua bản Hiến pháp sửa đổi năm 2013, theo đó
các đơn vị hành chính được phân định như sau:
“Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành
huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia
thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; Huyện chia thành
xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia
thành phường. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập”.
Quốc hội có thẩm quyền: “thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa
giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh
tế đặc biệt”.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thẩm quyền: “Quyết định thành lập, giải
thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương”.
Chính phủ có nhiệm vụ: “Trình Quốc hội quyết định thành lập, giải thể,
nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết
định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.
5


Hiến pháp 2013 cũng quy định rõ việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều
chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến nhân dân địa phương và theo
trình tự, thủ tục do luật định.
Như vậy, thẩm quyền về điều chỉnh địa giới hành chính đối với cấp tỉnh
vẫn do Quốc hội quyết định nhưng thẩm quyền điều chỉnh địa giới hành chính
cấp huyện, cấp xã đã được nâng lên, do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định

chứ không phải do Chính phủ quyết định như trước đây nữa. Quy định này giúp
cho việc điều chỉnh địa giới hành chính cấp huyện, cấp xã được tiến hành chặt
chẽ hơn, chính xác hơn, dân chủ hơn và đặc biệt sẽ giảm thiểu việc điều chỉnh
địa giới hành chính như thời gian qua.
2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xử lý tranh chấp đất đai liên
quan đến điều chỉnh địa giới hành chính
- Thông tư số 19-BT ngày 31/01/1979 của Bộ trưởng Phủ Thủ tướng ban
hành về việc điều chỉnh địa giới các huyện, xã và các đơn vị tương đương thuộc
các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Thông tư đã quy định các nguyên
tắc, tiêu chuẩn về chia lại địa giới huyện, xã và kế hoạch tiến hành. Theo đó,
việc điều chỉnh địa giới hành chính phải bảo đảm sự đoàn kết và tôn trọng
truyền thống của nhân dân các dân tộc, bảo đảm sự chỉ đạo của cơ quan chính
quyền được sát dân, sát cơ sở, nhạy bén, kịp thời và thuận tiện cho việc xây
dựng lực lượng, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã
hội; bảo đảm điều kiện thuận lợi để phát triển văn hóa xã hội chủ nghĩa, phát
triển phúc lợi tập thể và tổ chức đời sống của nhân dân một cách văn minh. Việc
chia lại huyện, xã và các đơn vị tương đương phải nắm vững tiêu chuẩn về diện
tích và số dân, bảo đảm sự phù hợp với cơ sở vật chất, kỹ thuật và trình độ quản
lý của cán bộ. Khi cần sáp nhập huyện, xã phải nhập cả đơn vị, không xé lẻ các
xã, thôn, xóm ấp.
- Chỉ thị số 364-CT ngày 06/11/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
ban hành về giải quyết những tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành
chính tỉnh, huyện, xã. Theo đó, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong công tác
giải quyết tranh chấp là hiệp thương thỏa thuận giữa cấp ủy, chính quyền các địa
phương có liên quan; cấp có thẩm quyền chỉ xem xét, ban hành các quyết định
giải quyết trong trường hợp cấp ủy, chính quyền các địa phương liên quan hiệp
thương, thỏa thuận không có kết quả.
6



- Thông tư số 832/TCCP-ĐP ngày 25/10/1993 của Ban Tổ chức - Cán bộ
Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) hướng dẫn giải quyết tranh chấp đất đai có liên
quan đến địa giới hành chính các cấp trong tổ chức thực hiện Chỉ thị số 364-CT
ngày 06/11/1991.
- Nghị định số 62/2011/NĐ-CP ngày 26/7/2011 của Chính phủ về thành
lập thành phố thuộc tỉnh, thị xã, quận, phường, thị trấn. Nghị định đã quy định
cụ thể điều kiện, tiêu chuẩn, trình tự lập, thẩm định hồ sơ thành lập thành phố
thuộc tỉnh, thị xã, quận, phường, thị trấn.
3. Văn bản của Nhà nước liên quan đến quản lý nhà nước về đất đai
và xử lý tranh chấp đất đai, điều chỉnh địa giới hành chính
- Hiến pháp năm 2013;
- Luật Đất đai năm 2013;
- Chỉ thị 364/CT-HĐBT ngày 06/11/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ);
- Thông tư số 19-BT ngày 31/01/1979 của Bộ trưởng Phủ Thủ tướng;
- Thông tư số 832/TCCP-ĐP ngày 25/10/1993 của Ban Tổ chức - Cán bộ
Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ);
- Nghị định số 62/2011/NĐ-CP ngày 26/7/2011 của Chính phủ về thành
lập thành phố thuộc tỉnh, thị xã, quận, phường, thị trấn.
III. PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ CỦA TÌNH
HUỐNG
1. Phân tích tình huống
Vụ việc xảy ra đã gây ảnh hưởng không tốt tới tình hình an ninh, tình
đoàn kết và kế hoạch sản xuất của nhân dân trên địa bàn. Sau khi vụ việc xảy ra,
các cấp chính quyền đã tích cực làm công tác dân vận ổn định tình hình, không
để phát sinh thêm tình hình phức tạp. Để giải quyết được dứt điểm tình trạng
tranh chấp trên cần giải quyết được vấn đề quyền lợi của nhân dân hai thôn.
Điều đáng nói là vụ việc xảy ra trên địa bàn của hai thôn thuộc hai huyện
giáp ranh, trong đó có 1 thôn là giáo dân toàn tòng, đời sống nhân dân còn nhiều
khó khăn, thiếu đất sản xuất, tập quán sản xuất, sinh hoạt còn nhiều lạc hậu;

trình độ nhận thức còn hạn chế. Vì vậy, cần vận dụng các căn cứ của Luật Đất
đai năm 2013; Chỉ thị 364/CT-HĐBT ngày 06/11/1991 của Chủ tịch Hội đồng
7


Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ); các văn bản quy phạm pháp luật
(QPPL) của UBND tỉnh về việc giải quyết tranh chấp địa giới hành chính và
tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính các cấp trên địa bàn tỉnh Hà
Tĩnh để giải quyết vụ việc có lý, có tình, đúng pháp luật; đảm bảo ổn định tình
hình an ninh trật tự, ổn định sản xuất; đảm bảo tình đoàn kết gắn bó giữa nhân
dân hai thôn; rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác quản lý đất đai,
địa giới hành chính.
2. Nguyên nhân của tình huống
Trên cơ sở xác minh tại thực địa đối chiếu với bản đồ, hồ sơ quản lý đất
đai, lịch sử canh tác và những kiến nghị của nhân dân hai thôn cho thấy nguyên
nhân của vụ tranh chấp như sau:
a) Nguyên nhân khách quan:
Trong quá trình phân vạch đường địa giới hành chính, các cơ quan chức
năng đã không tính đến yếu tố lịch sử canh tác giữa hai thôn, hai xã nên đã làm
ảnh hưởng đến việc sản xuất, canh tác ổn định lâu dài từ trước tới nay của nhân
dân hai thôn. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc tranh chấp như đã nêu ở
trên. Sau khi phân vạch đường địa giới hành chính và cắm mốc trên toàn tuyến
giữa hai xã, hai huyện theo Chỉ thị 364/CT-HĐBT của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) thì toàn bộ đất ở và khoảng 2/3 đất canh
tác của thôn 10 xã X huyện Kỳ Anh nằm trong địa giới hành chính của xã Y
huyện Cẩm Xuyên. Thiếu sót này thuộc về các cơ quan chuyên môn của tỉnh và
hai huyện, chính quyền hai xã trong quá trình thực hiện theo tinh thần Nghị định
148/CP của Chính phủ đã không thực hiện quyền dân chủ của nhân dân, không
tổ chức tham khảo ý kiến của nhân dân trước khi tiến hành.
b) Nguyên nhân chủ quan:

- Vụ việc tranh chấp xảy ra giữa thôn là vụ việc tranh chấp đất đai liên
quan đến đường địa giới hành chính giữa hai thôn, hai xã thuộc hai huyện khác
nhau. Từ khi mới xảy ra tranh chấp vào đầu năm 2008 thì cấp ủy, chính quyền
hai thôn, hai xã đã tích cực thương lượng, hiệp thương, giải quyết trên tinh thần
xây dựng và đảm bảo đúng nội dung của Luật đất đai và tôn trọng lịch sử canh
tác của hai bên nhưng do biện pháp giải quyết chưa phù hợp nên chưa đáp ứng
được nguyện vọng của nhân dân hai thôn.
- Do một số cá nhân thuộc thôn 5 xã Y huyện Cẩm Xuyên đã thiếu tôn
trọng kết quả giải quyết tạm thời của UBND hai xã, đã cố tình thả rông gia súc
phá hoại hoa màu, gây ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế, thu nhập chính đáng của
8


nhân dân thôn 10 xã X. Vì thế việc tranh chấp đất sản xuất nông nghiệp giữa hai
thôn ngày càng phức tạp hơn.
3. Hậu quả
Vụ việc tranh chấp đất đai liên quan đến đường địa giới hành chính 364
giữa thôn 10 xã X huyện Kỳ Anh và thôn 5 xã Y huyện Cẩm Xuyên dẫn đến
những hậu quả sau:
- Gây ảnh hưởng đến sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội và an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương; Ảnh hưởng đến mối quan hệ tốt
đẹp, tình đoàn kết vốn có từ lâu đời của nhân dân hai thôn.
- Gây thiệt hại về thu nhập kinh tế, ảnh hưởng lớn đến đời sống sản xuất
của nhân dân, vì diện tích đất đang canh tác hiện nay của thôn 10 đang xảy ra
tranh chấp là nguồn thu nhập chính của các hộ dân trong thôn.
- Làm ảnh hưởng đến uy tín, hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động của quản
lý Nhà nước về lĩnh vực đất đai; Giảm uy tín đối với cán bộ thực thi công vụ đặc
biệt là những cán bộ có thẩm quyền trong việc giải quyết đường địa giới hành
chính theo Chỉ thị 364/CT- HĐBT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ
tướng Chính phủ).

IV. XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
- Trong quá trình giải quyết phải đảm bảo đúng quy định của UBND tỉnh
Hà Tĩnh về việc ban hành quy trình giải quyết tranh chấp địa giới hành chính và
tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính các cấp trên địa bàn tỉnh Hà
Tĩnh; Phải phát huy được quyền làm chủ, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
quần chúng nhân dân trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về đất đai.
- Giải quyết phải thận trọng, kiên trì vận động nhằm đảm bảo hài hòa lợi
ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân hai thôn, đảm bảo khi giải quyết phải
tăng cường mối quan hệ đoàn kết truyền thống giữa hai thôn và ổn định được an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm cho nhân dân yên tâm lao động sản
xuất, định canh định cư.
- Về nguyên tắc, phải tôn trọng đường địa giới hành chính đã được vạch
định. Song tại điểm tranh chấp giữa thôn 10 xã X và thông 5 xã Y có thể xem
xét đề nghị điều chỉnh lại địa giới hành chính, đảm bảo trình tự theo quy định
của pháp luật.
- Phải tăng cường được pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN), sự tôn trọng,
chấp hành kỷ cương trong công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực đất đai, nhất là
9


liên quan đến đường địa giới hành chính của hai xã thuộc hai huyện khác nhau.
Trong quá trình giải quyết cần kết hợp với việc giáo dục, thuyết phục, tuyên
truyền phổ biến pháp luật đất đai, thông qua đó làm cho nhân dân hiểu, thừa
nhận và nghiêm chỉnh chấp hành Quyết định giải quyết của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền.
V. XÂY DỰNG, PHÂN TÍCH VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN XỬ
LÝ TÌNH HUỐNG
1. Xây dựng, phân tích phương án
Qua nghiên cứu các văn bản pháp luật của nhà nước, các quy định của
tỉnh ban hành và ý kiến phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân hai thôn,

trong tình huống này, có những phương án giải quyết như sau:
* Phương án 1: Đề nghị UBND tỉnh trình HĐND tỉnh phê duyệt và trình
Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra nghị quyết về việc điều chỉnh lại
đường địa giới hành chính theo hiện trạng và lịch sử canh tác trước đây (Giữ
nguyên hiện trạng đất ở, đất sản xuất của hai bản, hai xã theo lịch sử canh tác).
Ưu điểm:
- Phương án này nếu được thực hiện sẽ mang lại sự ổn định lâu dài, phù
hợp với nguyện vọng của nhân dân thôn 5 xã Y huyện Cẩm Xuyên; không gây
xáo trộn lớn đến đời sống, tâm lý, phong tục, tập quán của nhân dân; đảm bảo
cho nhân dân thôn 10 xã X huyện Kỳ Anh có đủ đất để sản xuất, canh tác, đảm
bảo đời sống và góp phần vào việc thực hiện các chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa
phương; duy trì được mối quan hệ tốt đẹp và tinh thần đoàn kết vốn có của nhân
dân hai thôn, hai xã và hai huyện để cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi
mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng mà Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ huyện Kỳ Anh, huyện Cẩm Xuyên và Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh Khoá XVII đã đề ra, nhằm xây dựng tỉnh Hà Tĩnh ngày càng phát
triển, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Việc điều chỉnh lại đường địa giới hành chính giữa hai thôn, cắm lại
mốc, vẽ lại bản đồ là việc có thể thực hiện được.
Nhược điểm: Quy trình, thủ tục và các bước triển khai thực hiện để điều
chỉnh lại đường địa giới hành chính là việc làm tương đối phức tạp, thời gian
thực hiện có thể kéo dài, vì phải thực hiện các bước theo trình tự từ xã đến

10


huyện, tỉnh, Chính phủ và Ủy ban Thường vụ Quốc hội, gây tốn kém về tiền của
và công sức.
* Phương án 2:

Vẫn giữ nguyên hiện trạng đường địa giới hành chính 364, làm thủ tục đề
nghị chuyển giao thôn 10 xã X huyện Kỳ Anh cho xã Y huyện Cẩm Xuyên quản
lý theo đúng đường địa giới hành chính 364 đã vạch định.
Ưu điểm: Phương án này không phải điều chỉnh lại địa giới hành chính,
nên không tốn kém tiền của, thời gian.
Nhược điểm: Không ổn định được tình hình an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội với nhiều lý do sau: UBND huyện Kỳ Anh đã có công văn gửi
UBND huyện Cẩm Xuyên về việc chuyển giao thôn 10 xã X huyện Kỳ Anh cho
xã Y huyện Cẩm Xuyên quản lý theo đúng đường địa giới hành chính 364 đã
vạch định. Nhưng UBND huyện Cẩm Xuyên đã có công văn phúc đáp và không
đồng ý tiếp nhận thôn 10 với nhiều lý do khác nhau. Đồng thời, nhân dân thôn
10 xã X đã tiến hành họp toàn bộ nhân dân trong thôn và gửi biên bản kèm theo
đơn, tờ trình gửi UBND xã X và UBND huyện Kỳ Anh với nội dung là: không
đồng ý cắt chuyển thôn 10 cho UBND huyện Cẩm Xuyên quản lý theo đường
địa giới hành chính 364. Nếu chuyển thôn 10 cho UBND huyện Cẩm Xuyên
quản lý sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng của nhân dân, nhất là đây là một
thôn giáo toàn tòng, có thể đây sẽ là cơ hội để các phần tử xấu lợi dụng kích
động, tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của nhà
nước.
2. Lựa chọn phương án tối ưu
Từ việc phân tích những ưu điểm và nhược điểm của hai phương án trên
tôi thấy phương án thứ nhất là phương án có ưu điểm hơn vì sẽ đem lại được sự
ổn định lâu dài, đảm bảo được an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đáp ứng
với nguyện vọng của nhân dân và việc tái tranh chấp sẽ ít có nguy cơ xảy ra. Bởi
vì mục tiêu cuối cùng của việc giải quyết tranh chấp là nhằm ổn định về tinh
thần, đời sống, sản xuất cho nhân dân, phù hợp với đặc điểm tình hình thực tế ở
địa phương và đảm bảo chức năng quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực đất đai
theo quy định của pháp luật. Mặc dù phải tốn kém một phần kinh phí và thời
gian để phân vạch lại đường địa giới, cắm mốc, vẽ lại bản đồ, nhưng sẽ đem lại
sự ổn định lâu dài, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn

huyện Kỳ Anh, huyện Cẩm Xuyên cũng như trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh vì phân
11


vạch lại đường địa giới, cắm mốc giới ở khu vực tranh chấp theo tinh thần tôn
trọng lịch sử đất canh tác để lại.
VI. LẬP KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN LỰA
CHỌN
Căn cứ vào nội dung của phương án thứ nhất, theo tôi, cần phải tổ chức
triển khai thực hiện theo các bước sau:
- UBND hai huyện Kỳ Anh và Cẩm Xuyên chỉ đạo Phòng Nội vụ huyện
chủ trì phối hợp các cơ quan, ban ngành liên quan, tham mưu cho UBND huyện
xây dựng kế hoạch để tổ chức thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục quy định
với những bước tiến hành cụ thể như:
+ Hướng dẫn cho UBND hai xã tiến hành thủ tục đề nghị giải quyết theo
trình tự: UBND xã xây dựng phương án điều chỉnh địa giới hành chính, trình
HĐND xã xem xét quyết nghị, làm tờ trình trình UBND huyện xem xét, giải
quyết.
+ Trên cơ sở đó, UBND huyện xem xét trình HĐND huyện quyết nghị;
Sau khi có Nghị quyết của HĐND huyện, UBND huyện trình UBND tỉnh.
+ UBND tỉnh hoàn thiện hồ sơ trình HĐND tỉnh quyết nghị và trình
Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định điều chỉnh đường
địa giới hành chính giữa xã X huyện Kỳ Anh và xã Y huyện Cẩm Xuyên.
- Sau khi có Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê duyệt đề án
điều chỉnh địa giới hành chính giữa xã X huyện Kỳ Anh và xã Y huyện Cẩm
Xuyên, UBND hai huyện chỉ đạo các cơ quan chức năng phối hợp với cấp uỷ,
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tuyên truyền vận động
nhân dân giữ gìn tình đoàn kết vốn có từ lâu đời của nhân dân hai thôn, hai xã.
Đồng thời tiến hành chỉ rõ đường địa giới hành chính trên thực địa cho cán bộ,
nhân dân hai xã, hai thôn để nhân dân biết rõ mốc giới và thực hiện nghiêm

chỉnh các quy định của nhà nước liên quan đến đất đai, tôn trọng đường địa giới
hành chính giữa hai thôn, hai xã để nhân dân hai thôn tiếp tục ổn định đời sống
và canh tác, sản xuất, cùng nhau phấn đấu thực hiện tốt mọi chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
VII. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Việc xem xét giải quyết đất đai, trong đó có tranh chấp đất đai là một nội
dung quan trọng trong hoạt động quản lý Nhà nước đối với đất đai và là những
12


biện pháp để pháp luật về đất đai phát huy được vai trò trong đời sống xã hội.
Thông qua việc giải quyết tranh chấp đất đai mà các quan hệ đất đai được điều
chỉnh cho phù hợp với lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của người sử dụng
đất. Cần giáo dục ý thức pháp luật cho công dân để ngăn ngừa những vi phạm
pháp luật khác có thể xảy ra. Với ý nghĩa đó thì việc giải quyết tranh chấp đất
đai là phải tìm ra giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật nhằm giải quyết những
bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Đó là công việc có ý nghĩa để tăng
cường pháp chế trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai.
Trong điều kiện tình hình kinh tế-xã hội hiện nay của tỉnh Hà Tĩnh, việc
giải quyết tranh chấp đất đai, nhất là tranh chấp đất đai có liên quan đến đường
địa giới hành chính là một vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm vì nó động
chạm đến các yếu tố lịch sử, phong tục tập quán, tâm lý của nhân dân, nhất là
những vùng tái định cư, thực hiện các chương trình, dự án trọng điểm. Chính vì
thế, việc giải quyết tranh chấp đất đai cần phải được các cấp, các ngành tiến
hành giải quyết một cách có lý, có tình trên cơ sở tuân thủ các quy định pháp
luật để đảm bảo ổn định đời sống, tinh thần, các phong tục tập quán và điều kiện
sản xuất cho nhân dân góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Việc
giải quyết tranh chấp đất đai trong thực tế trước tiên cần phải tôn trọng và phát
huy biện pháp hoà giải vì đây là một biện pháp mềm dẻo, linh hoạt và hiệu quả

nhằm giúp cho các bên tranh chấp tìm ra được giải pháp thống nhất để tháo gỡ
những mâu thuẫn, bất đồng trong quan hệ pháp luật đất đai, đó là việc làm phù
hợp với truyền thống đạo lý tương thân, tương ái của dân tộc, đảm bảo đoàn kết
trong nội bộ nhân dân. Đồng thời thông qua đó, các bên tranh chấp sẽ hiểu thêm
về pháp luật và chính sách của Nhà nước về đất đai. Để thực hiện có hiệu quả
các nội dung trên, đòi hỏi các cấp, các ngành cùng toàn xã hội phải tăng cường
công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục giáo dục đối với đồng bào các dân
tộc để nhân dân hiểu và chấp hành nghiêm chỉnh mọi chủ trương đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, trong đó có Luật đất đai để hạn
chế đến mức tối thiểu những tranh chấp có thể xảy ra và ngăn chặn kịp thời các
vi phạm Pháp luật khác bắt nguồn từ các vụ việc tranh chấp đất đai.
2. Kiến nghị
Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với mọi hoạt
động của đời sống xã hội, trong đó có chức năng quản lý nhà nước về đất đai, cá
nhân tôi có một số kiến nghị mong được xem xét, triển khai thực hiện như sau:
13


1. Đề nghị các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, trong quá trình thực
hiện phân vạch, điều chỉnh địa giới hành chính nói riêng và các công việc khác
liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người dân cần phải được quán triệt sâu
rộng đến toàn thể cán bộ, nhân dân; tổ chức thực hiện tốt quy chế dân chủ, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân theo khoản 5 điều 10, Nghị định 79/2003/NĐCP ngày 07/07/2003 của Chính Phủ về việc ban hành thực hiện Quy chế dân chủ
ở cơ sở.
2. Đề nghị các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương cần quan tâm và chỉ
đạo các cơ quan chuyên môn phối hợp với Uỷ ban nhân dân các xã, thị trấn khắc
phục và giải quyết kịp thời, dứt điểm các vụ tranh chấp đất đai trên địa bàn.
3. Phòng Tài nguyên - Môi trường rà soát lại các điểm có khả năng tranh
chấp, chủ động đề xuất hướng giải quyết kịp thời và dứt điểm. Khi đã ổn định và
giải quyết xong những vấn đề về đất nông nghiệp, lâm nghiệp thì sớm tham mưu

cho Uỷ ban nhân dân huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ
dân quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai.
4. Đề nghị Hội đồng phổ biến tuyên truyền giáo dục pháp luật các cấp cần
tăng cường công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở cơ sở để mọi người dân hiểu
và tự giác chấp hành nhằm năng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về
mọi mặt, trong đó có quản lý Nhà nước về lĩnh vực đất đai./.

Hà Tĩnh, ngày 12 tháng 12 năm 2014
NGƯỜI VIẾT

Lê Tùng Lâm

14



×