Tải bản đầy đủ (.doc) (240 trang)

LUẬN án TIẾN sỹ tư TƯỞNG đặc sắc hồ CHÍ MINH về PHÁT TRIỂN CON NGUỜI VIỆT NAM TOÀN DIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 240 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản vô giá trong kho tàng lịch sử tư tưởng Việt Nam. Đó
là tư tưởng của “Người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất”, người chiến
sĩ lỗi lạc của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
người thầy vĩ đại, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc và cách mạng Việt Nam.
Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và của cách mạng Việt Nam.
Việc nghiên cứu, làm sáng tỏ hơn nữa tính cách mạng và tính khoa học sâu sắc cũng
như giá trị to lớn, nhiều mặt của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam
trước đây cũng như trong giai đoạn hiện nay là đòi hỏi cấp thiết có ý nghĩa thời đại to
lớn.
Lương tâm, trách nhiệm, lòng kính yêu lãnh tụ và tinh thần khoa học đã và đang cuốn
hút hàng trăm nhà khoa học trong và ngoài nước say mê nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Trong di sản tư tưởng phong phú và vô giá của Hồ Chí Minh có tư tưởng: Phát triển
con người toàn diện, một tư tưởng nhân văn rất đặc sắc. Đây là sự tiếp nối và nâng cao
những giá trị tinh túy nhất tư tưởng nhân văn của truyền thống Việt Nam và thế giới. Đây
cũng là sự kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng con người của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn vào việc
đào tạo cho dân tộc Việt Nam những người con ưu tú, đủ sức đưa dân tộc Việt Nam vượt


qua muôn vàn khó khăn, thử thách hiểm nghèo, liên tục giành được những thắng lợi ngày
càng to lớn, làm thay đổi tận gốc địa vị của dân tộc Việt Nam trên chính trường thế giới.
Thực tế vinh quang đó đến nay đang được nghiên cứu và tổng kết.
Hồ Chí Minh là bậc “Đại trí, đại nhân, đại dũng”, là điển hình của con người phát triển
toàn diện về thể lực, đạo đức. trí tuệ, tài năng, là hình mẫu sinh động của con người hiện
tại và tương lai.
Cho nên nghiên cứu, giới thiệu, phổ biến tư tưởng phát triển con người toàn diện, của
một người thực sự đã phát triển mọi mặt cá nhân mình là điều cực kỳ lý thú, bổ ích. Việc


làm này không chỉ cần thiết về lý luận mà còn nhằm làm cho mọi người hiểu và tiếp thu
tư tưởng quan trọng này của Người, trên cơ sở đó noi gương Người, phấn đấu vươn lên,
hoàn thiện bản thân mình, tạo tiền đề cho sự phát triển xã hội.
Hiện nay, việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dạy “chữ”, dạy “nghề”, dạy “người”
trong giáo dục ở nhà trường, gia đình, xã hội đang có sự lệch lạc khá lớn. Hầu hết chỉ chú
trọng đến trang bị kiến thức khoa học, chuyên môn nghề nghiệp mà coi nhẹ việc giáo dục
đạo lý làm người, trách nhiệm công dân. Điều này đang làm méo mó sự phát triển toàn
diện nhân cách của một bộ phận không nhỏ thanh, thiếu niên cũng như cán bộ, Đảng viên
và nhân dân, ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển xã hội. Cho nên, việc nghiên cứu tư
tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết để tìm ra
những định hướng đúng đắn cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo, phát triển con người ở Việt
Nam trong quá trình đổi mới.
Sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang đi vào chiều
sâu. Nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cấp thiết đang đặt ra đòi hỏi các nhà khoa học
trên nhiều lĩnh vực khác nhau phải nghiên cứu và giải quyết, trong đó có vấn đề thiết kế


và xây dựng chiến lược về con người thật sự khoa học, phù hợp với hoàn cảnh nước ta,
nhằm phục vụ cho việc phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Đây là công việc rất
khó khăn, phức tạp, muốn hoàn thành nó trước hết phải có những định hướng đúng.
Trong thực tế, tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ
cho chúng ta những chỉ dẫn quý báu, sáng suốt để xây dựng thành công chiến lược con
người trong điều kiện mới, nhằm đào tạo cho đất nước những con người mới, đủ tài, đức,
sức khỏe, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy nghiên cứu, làm sáng tỏ giá trị khoa học to lớn và ý nghĩa thời đại sâu sắc của tư
tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh, tìm ra những cách thức, biện
pháp đúng đắn để thực hiện tốt hơn tư tưởng đó trong thực tiễn là vấn đề có ý nghĩa thời
sự cấp bách.
Luận án này nhằm góp phần nhỏ vào việc giải quyết những vấn đề lớn có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn quan trọng đó.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu từ
lâu, đặc biệt là sau Đại hội lần thứ II (6- 1991) của Đảng cộng sản Việt Nam. Nhà nước
đã thành lập Hội đồng quốc gia nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhiều đề tài khoa học
cấp Nhà nước về tư tưởng Hồ Chí Minh đã được nghiệm thu.
Trong lĩnh vực tư tưởng nhân văn, trong vấn đề con người, nhiều nhà nghiên cứu đã
công bố những công trình khoa học có giá trị.
Liên quan trực tiếp đến vấn đề giáo dục, đào tạo, phát triển con người của Hồ Chí
Minh. GS Vũ Khiêu có bài: “Trồng cây và trồng người”. Tạp chí Triết học số 4/1990,


PGS Song Thành có bài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chiến lược trồng
người”, Tạp chí Công tác khoa giáo số tháng 12/1997; GS.TS Phạm Minh Hạc trong
phần III cuốn “Phát triển giáo dục phát triển con người, phục vụ phát triển xã hội - kinh
tế, Nxb KHXH - 1996 cũng đã đề cập một cách khá sâu sắc tư tưởng giáo dục, đào tạo
của Hồ Chí Minh. Gần đây nhất (năm 2001), PGS. TS Thành Duy đã cho ra mắt công
trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện”.
Những công trình này đã nêu lên và khát quát được những nét lớn, chủ yếu trong tư
tưởng giáo dục, đào tạo, phát triển con người của Hồ Chí minh. Một số bắt đầu đi vào
khai thác, nghiên cứu những khía cạnh cụ thể của tư tưởng đó và cũng đã nêu lên những
ý kiến đặc sắc.
Song nhìn chung, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực giáo dục đào tạo phát triển con
người của Hồ Chí Minh chưa nhiều, còn thiếu những công trình quy mô, xứng đáng với
tầm vóc của vấn đề này trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Hơn nữa, do khuôn khổ
chung của việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, hoặc do giới hạn của một bài nghiên
cứu, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người nói chung và giáo dục đào tạo,
phát triển con người nói riêng vẫn còn nhiều mặt, nhiều nội dung chưa được đề cập đến
nhất là vấn đề đào tạo, phát triển con người một cách toàn diện để tạo ra những con người
Việt Nam phát triển về mọi mặt: đức, trí, thể, mỹ; “hồng đến nơi, chuyên đến chốn”, vấn

đề mà sinh thời Hồ Chí Minh hết sức quan tâm.
Nhu cầu về lý luận và thực tiễn hiện nay đòi hỏi phải có những chuyên khảo nhằm làm
sâu sắc hơn, đầy đủ hơn tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh để cho bức tranh toàn
cảnh về tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng về con người, giáo dục, đào tạo,


phát triển con người nói riêng vừa có bề rộng vừa có chiều sâu, phục vụ cho việc nhận
thức, vận dụng và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới.
Vì vậy để góp một phần nhỏ vào việc thực hiện mục tiêu trên, tác giả chọn đề tài: Phát
triển con người toàn diện- một tư tưởng đặc sắc về con người của Hồ Chí Minh làm nội
dung nghiên cứu của luận án này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
a) Mục đích của luận án
Làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí
Minh, nhằm khẳng định giá trị khoa học của tư tưởng đó và vận dụng nó vào việc phát
triển con người mới ở Việt Nam hiện nay.
b) Nhiệm vụ của luận án
Để đạt mục đích trên, luận án phải giải quyết những nhiệm vụ sau: Làm rõ cơ sở lý
luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện.
- Luận chứng những nội dung cơ bản trong tư tưởng phát triển con người toàn diện của
Hồ Chí Minh.
- Nêu lên những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn phát triển con người theo quan điểm
toàn diện của Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay.
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người toàn diện vào xây dựng con người Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới.
4. Phương pháp nghiên cứu


Trong quá trình nghiên cứu, luận án vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước
về con người. Luận án còn sử dụng các tài liệu điều tra, công trình nghiên cứu có liên

quan.
- Luận án sử dụng chủ yếu các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là phương pháp phân tích - tổng hợp; lôgíc-lịch sử, thống
kê, so sánh v.v...
5. Cái mới của luận án
Luận án phân tích, hệ thống hóa và làm sáng tỏ những nội dung cơ bản tư tưởng phát
triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh; góp phần làm sâu sắc thêm tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh.
Luận án luận chứng sự cần thiết phải vận dụng và phát huy tư tưởng phát triển con
người toàn diện của Hồ Chí Minh vào sự nghiệp xây dựng con người mới ở Việt Nam
hiện nay.
6. Ý nghĩa luận án
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy môn học
tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường đại học và cao đẳng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương, 7
tiết.
Chương 1


CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN CON
NGƯỜI TOÀN DIỆN
1.1 TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO, PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI CỦA DÂN
TỘC VIỆT NAM - CỘI NGUỒN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT
TRIÊN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN
Trong những dòng chảy hợp thành của lịch sử tư tưởng Việt Nam, tư tưởng đào tạo
phát triền con người là một bộ phận quan trọng, góp phần làm nên giá trị to lớn, nhiều
mặt của tư tưởng truyền thống Việt Nam. Có thể nói, từ rất sớm, cha ông ta đã hết sức
quan tâm đến vấn đề sống còn này của đất nước. Trải bao thăng trầm của lịch sử, bao sự
hưng vong của các triều đại tư tưởng đào tạo, phát triển con người của dân tộc Việt Nam

đã tỏ rõ những giá trị to lớn nhưng đồng thời cũng bộc lộ những hạn chế của nó cần phải
khắc phục và vượt lên.
Chúng ta biết rằng, Việt Nam là một quốc gia nằm ở cửa ngõ vào Đông Nam châu Á,
khí hậu khắc nghiệt, nóng lắm, mưa nhiều, bão lớn. Đó là một môi trường sống khó khăn,
thiên tai thường xuyên đe dọa sự tồn vong của cả cộng đồng cũng như mỗi một cá nhân.
Điều này đặt ra nhu cầu khách quan cần phải rèn luyện thân thể, phát triển thể lực đối với
mọi người cũng như yêu cầu chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân.
Suốt mấy ngàn năm qua, nền kinh tế Việt Nam thực chất là kinh tế tiểu nông lạc hậu,
dựa trên sản xuất nông nghiệp theo lối độc canh cây lúa là chủ yếu. Công nghiệp bản địa
không có, thủ công nghiệp manh mún, thương nghiệp què quặt .Tư tưởng “Nhất nông vi
bản” đè nặng lên toàn xã hội từ vua quan, cho đến thường dân. Những người làm kỹ
nghệ, thương mại bị xếp vào loại kém nhất trong bậc thang xã hội (Sĩ, nông, công,
thương). Do đó tính năng động của nền kinh tế rất kém.


Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, do nằm ở vị trí trấn giữ con đường quan
trọng và thuận lợi bậc nhất vào Đông Nam Á (cả đường bộ và đường biển), lại ở cạnh
một quốc gia rộng lớn, luôn có tham vọng bành trướng xuống phía Nam, nhân dân ta phải
luôn luôn đương đầu với các cuộc xâm lược lớn đến từ phương Bắc và phương Tây. Đặc
điểm đó đòi hỏi con người Việt Nam phải luôn cảnh giác, phải quan tâm đến rèn luyện
sức khỏe, võ nghệ, kỹ năng chiến đấu, đặc biệt là tinh thần sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Tổ
quốc. Vì vậy, việc giáo dục đạo đức, nghĩa vụ, trách nhiệm, đạo làm người được cha ông
ta hết sức coi trọng. Hơn nữa, điều kiện kinh tế thấp kém, khoa học kỹ thuật lạc hậu nên
phương tiện kỹ thuật phục vụ cho chiến đấu kém tinh xảo, do đó các yếu tố thuộc về năng
lực tinh thần, được đề cao và chiếm vị trí quan trọng bậc nhất trong nội dung đào tạo và
phát triển con người của cha ông ta. Cũng do nằm ở vị trí gặp gỡ, giao thoa của các nền
văn hóa lớn: Văn hóa Ấn Độ, văn hóa Trung Hoa và sau này là văn hóa Pháp, nên về đời
sống tinh thần, tư tưởng chịu ảnh lớn của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo và Ki-tô giáo.
Trong lĩnh vực đào tạo, phát triển con người cho chế độ phong kiến Việt Nam, Nho giáo
có ưu thế hơn các tôn giáo khác bởi nó có một hệ thống phạm trù, khái niệm khá hoàn

chỉnh để giáo dục, đào tạo, phát triển con người với nội dung khá sâu sắc. Hơn nữa, Nho
giáo còn xây dựng được mẫu người lý tưởng cho xã hội phong kiến đó là những người
“quân tử”, những “kẻ sĩ”, những “đại trượng phu mà ở họ các năng lực, phẩm chất về mặt
tinh thần được coi trọng và đề cao. Điều này khá phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội
cũng như tư tưởng, tâm lý của dân tộc Việt Nam vấn đề cao đạo làm người, tôn vinh tinh
thần xả thân vì Tổ quốc và nhân dân của các thành viên trong cộng đồng. Nho giáo còn
đề ra những phương sách cụ thể để đào tạo phát triển con người, trong đó nhấn mạnh yếu
tố tự giác “tu thân” của các cá nhân - có ý nghĩa quyết định - đó là điều đáng ghi nhận


trong lý luận giáo dục, đào tạo, phát triển con người bởi nó đề cao tính chủ động của con
người trước hoàn cảnh.
Nảy sinh và phát triển trên mảnh đất hiện thực đó, đồng thời bị qui định bởi những điều
kiện mang tính khách quan của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, tư
tưởng đào tạo, phát triển con người của dân tộc Việt Nam đã góp phần quan trọng đào tạo
cho đất nước, cho các triều đại phong kiến Việt Nam không ít những người “văn võ song
toàn” những người “hiền tài” những anh hùng dân tộc, có đóng góp lớn cho sự nghiệp
bảo vệ và phát triển đất nước, làm rạng danh dân tộc, dòng họ và gia đình, để lại tấm
gương muôn đời về lòng yêu nước, thương người, về tinh thần kiên cường, bất khuất, sự
mưu trí dũng cảm, tinh thần quên mình vì dân vì nước như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô
Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn,
Trần Bình Trọng, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình
Phùng, Phan Bội Châu... Họ là niềm tự hào của dân tộc.
Nghiên cứu triết lý, nội dung giáo dục, đào tạo, phát triển con người của ông cha ta
trong suốt chiều dài lịch sử, chúng ta thấy những điểm đáng chú ý sau:
Thứ nhất: Tuy sống trong chế độ phong kiến, bị giới hạn bởi điều kiện kinh tế - xã hội
của một nước phương Đông, của phương thức sản xuất châu Á đồng thời lại chịu ảnh
hưởng của thế giới quan Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo... Song, cha ông ta cũng đã có
cách nhìn biện chứng - dù còn ở trình độ chất phát, thô sơ, cảm tính về nguồn gốc, bản
chất con người cũng như quá trình vận động và phát triển của nó. Trong “Khóa hư lục”,

Trần Thái Tông cho rằng mọi người đều do tạo hóa sinh thành cũng như muôn vật con
người có nguồn gốc từ tự nhiên do mặt trời chiếu mà thánh chúa giáng sinh, hoặc từ sao
vương mà hiền thần xuất hiện” Hải thượng Lãn ông Lê Hữu Trác cũng nêu rõ: nguồn gốc


con người không phải từ thế giới bên ngoài chúng ta, mà chính là bên trong thế giới, con
người là một bộ phận của giới tự nhiên. Cũng giống như các sinh vật khác, con người
xuất hiện không phải do thần thánh, thượng đế sáng tạo ra. Nó là kết quả tiến hóa tất
nhiên từ thế giới của những “loài vô tình” sang thế giới của những “loài hữu tình”; “cái
vô tình nảy ra cái hữu tình”.
Khi bàn về vấn đề nguồn gốc, bản chất con người cha ông ta thường hay dùng khái
niệm “tính người”, “bản tính con người” và nhấn mạnh vai trò chủ thể quyết định của con
người trong quan hệ với tự nhiên “người ta là hoa của đất”; “một mặt người bằng mười
mặt của”, “nhân định thắng thiên”; “đức năng thắng số”...
Nhìn chung, do chịu ảnh hưởng sâu sắc của truyền thống văn hóa dân tộc, do gắn chặt
với thực tiễn chiến đấu, sản xuất hàng ngày của nhân dân lao động nên khi nhìn nhận
nguồn gốc, bản chất con người, tư duy của cha ông ta trong vấn đề này ít duy tâm, thần
bí, các yếu tố siêu nhiên cũng không sâu đậm như trong Nho, Phật, Lão.
Việc nhận thức đúng đắn nguồn gốc và bản chất con người là điều kiện, là tiền đề hết
sức quan trọng để đề ra những nội dung và phương sách thích hợp, giáo dục, đào tạo phát
triển con người có hiệu quả nhằm hoàn thiện và nâng cao phẩm chất, năng lực về mọi
mặt của mỗi cá nhân, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước.
Thứ hai: Lý luận về giáo dục, đào tạo, phát triển con người của dân tộc Việt Nam được
thể hiện qua triết lý và nội dung giáo dục, đào tạo cũng như mẫu người lý tưởng mà giai
cấp phong kiến Việt Nam nêu lên, định hướng cho việc xây dựng và phát triển con người
ở nước ta trong suốt một ngàn năm qua. Một trong những nội dung quan trọng của tư
tưởng giáo dục, đào tạo phát triển con người mà cha ông ta hết sức chú trọng đó là giáo
dục, bồi dưỡng đạo lý làm người. Con người với tư cách là chủ thế của xã hội bao giờ



cũng là tác nhân quan trọng nhất của mọi sự vận động và biến đổi xã hội. Hành động của
con người trong xã hội không những bị chi phối bởi điều kiện khách quan mà còn chịu sự
tác động rất lớn của nhân tố chủ quan như lý tưởng, quan điểm sống, trình độ hiểu biết,
năng lực thực tiễn, nhu cầu lợi ích... Vì vậy, để có những con người sẵn sàng xả thân vì
quê hương, đất nước, vì cuộc sống yên lành của nhân dân, vì tương lai tươi sáng của dân
tộc, sống trung thực, nhân nghĩa, thủy chung, có ý chí, năng lực làm những việc “ích
quốc, lợi dân” thì gia đình, nhà trường và xã hội phải quan tâm giáo dục con người về
mọi mặt. Con người khi đã ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình đối với cộng đồng,
gia đình, anh em, bè bạn... thì họ sẽ tự nguyện, tự giác đứng ra gánh vác những nhiệm vụ
khó khăn, gian khổ mà Tổ quốc và nhân dân giao phó, không tính toán “được”, “mất”,
“thiệt”, “hơn” thậm chí cả sự hy sinh của bản thân.
Nội dung giáo dục, bồi dưỡng đạo lý làm người của ông cha ta là sự kết hợp những giá
trị văn hóa, văn hiến dân tộc như “thương người như thể thương thân”, “bầu ơi thương
lấy bí cùng”, “lá lành đùm lá rách”, “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng
cây”; là nhân nghĩa, thủy chung, sắt son; là tinh thần đoàn kết để vượt qua những khó
khăn, thử thách “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”; là tinh
thần kiên cường, bất khuất “chết vinh còn hơn sống nhục”...với những tư tưởng, “từ bi,
hỷ xả”, “cứu khổ, cứu nạn” của Phật giáo; “vô vi: của Lão giáo; “tam cương, ngũ
thường”,”nhân nghĩa”, “cần, kiệm, liêm, chính”, “tứ đức”... của Nho giáo. Tất cả hợp
quyện lại tạo thành những nội dung cơ bản để giáo dục, bồi dưỡng lẽ sống, niềm tin, cách
xử thế cho các thế hệ người Việt Nam.
Trong nội dung giáo dục đạo làm người, cái mà cha ông ta hết sức coi trọng đó là “giáo
dục con người giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề trung”, “hiếu”, với “ái quốc”,.


"Trung" là khái niệm của Nho giáo, phản ánh một :trong ba mối quan hệ rường cột của
xã hội phong kiến (tam cương), đó là quan hệ vua- tôi. Quan hệ vua - tôi là quan hệ có
tính chất phụ thuộc, tôi phải phục tùng vua không điều kiện, thậm chí vua bảo chết cũng
không được từ.
Chữ “hiếu” đối với Nho giáo cũng rất quan trọng. Nó được coi là nền tảng triết lý, là

điều bất khả xâm phạm trong quan hệ của con cái với cha mẹ. Con có hiếu với cha mẹ,
em kính nể anh chị được coi là đức tính quý báu, là tình cảm tất yếu, tự nhiên của con
người. Chữ hiếu đi liền với chữ trung. Chữ tình phải nhẹ hơn chữ hiếu. Mặc dù đạo hiếu
trong xã hội phong kiến rất khắt khe, có phần độc đoán, song nó cũng có nhưng điểm
đáng trân trọng, giữ gìn, kế thừa và nâng cao.
Trong quá trình dùng Nho giáo để ý thức hệ hóa tư tưởng chính trị của xã hội Việt
Nam, giai cấp phong kiến Việt Nam đã lấy khái niệm “trung”, “hiếu” làm trụ cột để xây
dựng mối quan hệ “quân - thần”, “phụ - tử”. Đây cũng là nội dung quan trọng trong giáo
dục, đào tạo dưới chế độ phong kiến Việt Nam. Dù không còn khắc nghiệt như trong xã
hội phong kiến Trung Hoa - do bị khúc xạ bởi tâm lý, tư tưởng, truyền thống chính trị của
nhân dân Việt Nam - song, khái niệm “trung” “hiếu” vẫn cột chặt suy nghĩ và hành động
của xã hội, của con người với vua chúa, với đấng sinh thành, tạo nên một tâm lý và
phương cách xử sự có lợi cho việc duy trì, củng cố chế độ phong kiến nói chung và
quyền lực của các vị vua chúa cũng như của những người đứng đầu trong gia đình nói
riêng. Vì thế, “trung”, “hiếu” là một trong nhưng tiêu chuẩn hàng đầu mà các triều đại
phong kiến nêu ra khi tuyển chọn nhân tài, tuyển chọn các tầng lớp quan lại cũng như là
nội dung chủ yếu để giáo dục, đào tạo các nho sinh. Hội thề đền Đồng Cổ (4/4 âm lịch)


hàng năm của các quan lại thời Lý - Trần đã ghi: “Làm tôi bất trung, làm con bất hiếu, ai
trái lời thề thân minh giết chết”.
Cùng với việc giáo dục “trung quân”, “hiếu nghĩa”, cha ông ta cũng hết sức coi trọng
giáo dục, bồi dưỡng lòng yêu nước cho mỗi người Việt Nam. Có thể nói, yêu nước là giá
trị hàng đầu trong bảng giá trị của truyền thống dân tộc Việt Nam. Chưa bao giờ trong
lịch sử Việt Nam, những kẻ phản bội Tổ quốc được coi là người sống có đạo lý, trong khi
đó, có những người dấy binh chống triều đình, chống lại vua chúa - nhất là những tên bạo
chúa - vẫn được nhân dân phụng thờ. Nho giáo nguyên nghĩa không dạy người ta yêu
nước, song số đông những người Việt Nam dù xuất thân từ cửa Khổng, sân Trình vẫn là
những người có tinh thần yêu nước cao, luôn quan tâm đến vận. mệnh của đất nước và lợi
ích của quốc gia.

Trần Hưng Đạo - một hiền tài đời Trần, không vì chữ “hiếu” mà theo lời trăng trối của
cha giành lại ngôi vua về tay mình, dù lúc ấy ông có tất cả điều kiện để thực đó ý tưởng
đó của cha là Trần Liễu. Bởi hơn ai hết, ông hiểu trong cảnh nước sôi lửa bỏng, vận mệnh
đất nước đang lâm nguy trước sự xâm lược của quân Nguyên - Mông thì cái cái chính
yếu của tất cả con dân nước Việt lúc này là phải đánh giặc cứu nước. Trần Hưng Đạo đã
hành động theo tiếng gọi của non sông chứ không theo lời trăng trối của người cha ích kỷ
.
Vào đầu thế kỷ 15, đất nước ta bị quân Minh đô hộ, hầu hết triều thần nhà Hồ bị bắt và
đưa về phương Bắc. Trong tình cảnh đau thương đó vẫn sáng ngời lên lòng yêu nước của
con người Việt Nam. Cuộc chia ly giữa Nguyễn Trãi với cha là Nguyễn Phi Khanh cùng
lời nhắc nhở, dặn dò của ông với Nguyễn Trãi: Không nên đi theo cha mà cần phải quay
về lo cứu dân, cứu nước, đó mới là chữ “hiếu” lớn nhất. Những lời tâm huyết đó của hiền


nhân Nguyễn Phi Khanh đã góp phần quan trọng làm nên một anh hùng dân tộc, một nhà
văn hóa lớn của Việt Nam và thế giới: danh nhân Nguyễn Trãi.
Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thiếp, Phan Huy Ích... thế kỷ 18 đều là những người trưởng
thành dưới triều Lê. Sự mục nát của nhà Lê mà đỉnh cao của nó là việc Lê Chiêu Thống
vì lợi ích của dòng họ và bản thân đã bán rẻ đất nước cho nhà Thanh. Trong bối cảnh đó,
lòng yêu nước đã đưa các ông vượt qua chữ “trung” thông thường để đến với anh hùng áo
vải Quang Trung - người đang đại diện cho tinh thần quật cường của dân tộc - Công lao
của hiền tài Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thiếp, trong việc đại phá quân Thanh, bảo vệ non
sông, đất nước cũng như giúp Quang Trung kiến thiết lại nước nhà, đã được sử sách công
nhận nhân dân ghi nhận một cách sâu sắc.
Nửa cuối thế kỷ XIX, khi triều đình nhà Nguyễn hèn nhát, một mặt liên tiếp cắt đất
dâng cho thực dân Pháp xâm lược, mặt khác lại ra lệnh cho nhân dân các địa phương phải
bãi binh, ngừng chiến đấu. Trong bối cảnh đó, danh tướng Trương Công Định đã khẳng
khái tuyên bố: Triều đình hòa nghị thì cứ hòa nghị, việc của Định thì Định cứ làm, Định
không nỡ ngồi nhìn giang sơn chìm đắm. Và ông kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiếp tục
kháng chiến.

Điểm qua một số trường hợp cụ thể của các vị hiền nhân Việt Nam - những người được
giáo dục, đào tạo khá kỹ lưỡng về đạo làm người - trong việc xử lý mối quan hệ giữa
“trung”, “hiếu” với “ái quốc", chúng tôi, một mặt muốn khẳng định: yêu nước là một
trong những phẩm chất hàng đầu của con người Việt Nam, mặt khác cũng muốn chứng
minh rằng, nền giáo dục phong kiến Việt Nam dù chịu ảnh hưởng khá nặng nề của Nho
giáo vẫn tạo ra được lớp người biết vượt qua những quan niệm chật hẹp về “trung”, “hiếu
của Nho giáo, biết hướng tới quyền lợi chung của cả dân tộc, đem hết tài năng, sức lực để


xây dựng và bảo vệ đất nước, đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên quyền lợi của gia đình,
dòng họ.
Giáo dục nhân nghĩa, thương dân, coi trọng dân.
Nội dung kiến thức về nhân nghĩa mà hệ thống giáo dục dưới chế độ phong kiến Việt
Nam trang bị cho con người là sự kết hợp những tư tưởng, quan điểm “nhân nghĩa” của
Nho giáo với tư tưởng “từ bi, bác ái” của Phật giáo và lối sống nhân nghĩa, biết ơn ông
bà, cha mẹ, kính trên nhường dưới, yêu làng xóm quê hương của nhân dân ta.
Nhân là lòng thương người, là tình cảm trung hậu với vạn vật, là lòng mong muốn cho
vạn vật bao giờ cũng có cái khoái lạc sinh sống ở trên đời.
Nghĩa là điều mà con người phải làm trong bất cứ hoàn cảnh nào, không vụ lợi.
Ông cha ta cho rằng, có lòng nhân nghĩa mới hợp quần với nhau, coi nhau như anh em,
xem cả đoàn thể như một người, cả vũ trụ như nhất thể. Đã như một người thì hễ có chỗ
nào đau là cả người thấy khó chịu. Người bất nhân, bất nghĩa thì chẳng khác gì người
mắc bệnh tê, thân thể đau ở đâu cũng không hay biết. Người không có nhân nghĩa thì ai
đau khổ thế nào, bị tai nạn ra sao cũng dửng dưng không hề có cảm động chút nào.
Là một dân tộc giàu lòng nhân nghĩa, luôn đề cao và hành động theo tinh thần “kiến
nghĩa bất vi vô dõng dã”; “giữa đường thấy việc bất bằng chẳng tha”; “một miếng khi đói
bằng một gói khi no”... nên việc giáo dục, bồi dưỡng con người biết làm việc nghĩa,
hướng tới điều nhân là vấn đề luôn được cha ông ta coi trọng trong chương trình giáo
dục, đào tạo phát triển con người trong suốt mấy chục thế kỷ qua.
Một trong những nội dung chủ yếu và chiếm vị trí quan trọng trong tư tưởng giáo dục,

đào tạo con người của cha ông ta đó là giáo dục tình thương yêu đồng loại, thương yêu


nhân dân, những “dân đen”, “con đỏ". Trong cách nhìn của cha ông về nhân cách con
người, cái nổi bật đầu tiên chưa phải là tài năng mà là đạo đức, thái độ với đồng bào. Đạo
đức của con người được biểu hiện qua nhiều khía cạnh, hành vi cụ thể, nhưng trước hết
(và là cái quan trọng bậc nhất) đó là thái độ và hành vi với đồng loại, với những người
cùng mẹ Âu Cơ sinh ra. Nói thương dân, thương đồng bào mà chỉ dừng lại ở khâu đàm
thì chưa đủ, thậm chí còn vô nghĩa. Cứ chính là phải biết hiện thực hóa lòng yêu thương
nhân dân bằng những việc làm cụ thể trong thực tiễn. Cha ông ta đã rất có lý khi cho rằng
cần phải kiểm chứng, đánh giá con người qua hành động thực tiễn của họ. Một người chỉ
được coi sống có đạo lý khi việc làm của người đó giúp ích cho nước, cho dân, biết coi
trọng nhân dân, luôn ra sức phấn đấu đem lại cho nhân dân một cuộc sống ngày càng no
đủ.
Lịch sử Việt Nam đã ghi lại vô vàn những tấm gương về lòng yêu thương nhân dân của
những bậc "vua sáng", "tôi hiền","sĩ tốt", như Lê Hoàn, Lý Nhân Tông, Lý Thường Kiệt,
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Du, Quang Trung, Phan
Bội Châu... Họ là những người luôn quan tâm đến cuộc sống của nhân dân, chú trọng
thực thi các chính sách “thân dân”, "khoan thư sức dân", nhằm tạo lập cho nhân dân một
cuộc sống ngày càng tốt đẹp để “khắp thôn cùng xóm vắng không còn tiếng oán sầu”. Để
kiểm chứng, đánh giá thái độ, quan điểm, lòng yêu thương nhân dân của các vị quan lại,
cha ông ta đã thực thi nhiều chính sách biện pháp, rất cụ thể. Ví dụ, Lê Thánh Tông vị
vua anh minh của dân tộc trong thời gian trị vì của mình đã định lệ ba năm khảo hạch các
vị quan lại - những kẻ “chăn dân” thay triều đình - một lần, với ba tiêu chí:
Có được nhân dân yêu mến không.
Có lòng yêu nhân dân không.


Trong hạt có dân trốn đi nơi khác không ?
Nếu vị quan nào lười biếng, yếu hèn, đê tiện, không quan tâm đến đời sống nhân dân,

ăn hối lộ, ức hiếp nhân dân thì bị xử phạt nặng, những ai được dân yêu mến sẽ trọng
thưởng [123, tr. 63-64].
Giáo dục đức dũng, sống ngay thẳng, trong sạch, tôn trọng lẽ phải.
Sống trong sạch, ngay thẳng, dám đương đầu chống lại cái sai, bảo vệ cái đúng là phẩm
chất quan trọng của những con người mà cha ông ta mong muốn đào tạo. Đây cũng là
yêu cầu, tiêu chuẩn đặt ra của xã hội, của thể chế chính trị đối với hệ thống giáo dục
trong chế độ phong kiến Việt Nam. Không thể có một xã hội "thái bình, thịnh trị” nếu
trong xã hội đó những người cầm quyền, những người "chăn dân" rặt những kẻ bất tài, vô
đạo đức, tham lam, xu nịnh, nhu nhược... Vì vậy, trong lịch sử chế độ phong kiến Việt
Nam, các triều đại đều coi trọng sự trong sạch, trung thực, ngay thẳng của tầng lớp quan
lại và có nhiều biện pháp để kiểm tra, giám sát, cổ xúy cho sự liêm khiết của những phụ
mẫu chi dân”. Để làm được “tôi hiền" trước hết phải sống trong sạch, không tham lam,
vơ vét nhũng nhiễu nhân dân. Trong bối cảnh chế độ phong kiến, khi tầng lớp tham gia
bộ máy thống trị nắm trong tay nhiều quyền lực thì giữ được sự thanh liêm không phải
dễ. Tầm cao, sự hơn, sự hơn người “tôi hiền”, “sĩ tốt” là tự mình biết vượt qua những
cám dỗ đời thường đó để sống trong sạch, chính trực Hơn thế nữa, bản thân sự trong sáng
trong đời sống cá nhân, cho phép người ta dám nói lên sự thật, dám đấu tranh cho cái
đúng, cái thiện, chung lại cái sai, cái xấu xa vốn tồn tại phổ biến trong chế độ phong kiến.
Lịch sử Việt Nam còn ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của các bậc hiền tài nổi tiếng
cương trực, có tiết tháo, không khuất phục trước cường quyền, dám lên tiếng can ngăn,
phản đối sự tàn ác của những kẻ cầm quyền, những thói hư tật xấu trong xã hội, dũng


cảm bảo vệ công bằng và lẽ phải như: Tô Hiến Thành, Chu Văn An, Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ... Các vị đó là sản phẩm tiêu biểu của một nền giáo
dục luôn coi trọng và đề cao việc bồi dưỡng đức dũng, lối sống ngay thẳng, liêm chính,
trung thực của dân tộc Việt Nam.
Giáo dục trí dục, đề cao tinh thần hiếu học là một trong những nội dung quan trọng
của tư tưởng giáo dục, đào tạo, phát triển con người của dân tộc Việt Nam.
Cha ông ta cho rằng con người muốn đạt tới những đức tính cao đẹp muốn hiểu thấu

đáo đạo lý làm người thì cần phải học, bởi “nhân bất học bất tri lý”. Những đức tính đó là
Nhân, Trí, Tín, Trực, Dũng, Cương, song nếu không học để hiểu rõ lẽ phải trái thì kết quả
đạt được sẽ có thể ngược lại. Theo quan điểm của cha ông ta, "nhân" mà không học thành
ngu; "trí" mà không học thành phóng đãng; "tín" mà không học thành hẹp hòi, cố chấp;
"trực" mà không học thành ngang ngạnh; "dũng" và "cương" mà không học thành loạn.
Vì vậy, việc giáo dục kiến thức về mọi mặt, nâng cao sự hiểu biết cho mọi người để họ
nhận thức được lẽ phải, trái, hiểu thấu đáo làm người là vấn đề vô cùng quan trọng để con
người nhận thức đúng đắn, hành động tích cực, phấn đấu hết sức mình cho sự phồn vinh
của đất nước và hạnh phúc của nhân dân.
Hiếu học là truyền thống lâu đời của nhân dân ta. Truyền thống đó được cha ông ta hết
sức coi trọng. Vì vậy, trong nội dung giáo dục đạo làm người, cha ông ta rất chú ý giáo
dục, bồi dưỡng lòng hiếu học, tinh thần vượt mọi khó khăn để học tập của con người Việt
Nam. Nhằm động viên, khuyến khích mọi người hăng hái học tập, cha ông ta đã sáng tạo
ra nhiều hình thức biểu dương, cổ vũ như: Vào những ngày sóc, vọng hàng tháng (mùng
1 và ngày rằm) trường Quốc Tử Giảm và các trường học ở huyện, tỉnh thường tổ chức
các cuộc khảo khóa, bình văn. Những văn bài hay của các nho sĩ được đem đọc và bình


luận, khen chê. Điều này có tác dụng to lớn cổ vũ học trò, sĩ tử say mê, cố gắng học tập
đồng thời lôi cuốn mọi người hăng hái tham gia học tập, rèn luyện văn chương, võ nghệ.
Các hình thức nêu danh, yết bảng các sĩ tử thi đỗ, việc khắc tên vào bảng vàng, bia đá,
việc tổ chức lễ vinh quy bái tổ cho các ông nghè về làng cùng với sự ban thưởng ân tứ
của vua đã cổ vũ lớn lao cho việc học.
Giáo dục nền nếp, trật tự, kỷ cương, gia phong.
Chính danh định phận là một trong những tư tưởng quan trọng của học thuyết Nho giáo
và đây cũng là cơ sở của nội dung giáo dục trật tự, kỷ cương, gia phong cho con người
của giai cấp phong kiến Việt Nam. Danh phận đã định rõ thì người nào có vị thế của
người đó, trên ra trên, dưới ra dưới, theo trật tự phân minh, "vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra
cha, con ra con", đó là nguyên tắc, là tôn ti trật tự trong mỗi gia đình cũng như ngoài xã
hội. Vì vậy, giáo dục tôn ti, trật tự, kỷ cương, gia phong là nội dung quan trọng mà cha

ông ta rất quan tâm khi xây dựng những nhận thức về đạo lý làm người cho các thế hệ
người Việt Nam. Điều này có tác dụng không nhỏ trong việc giữ gìn sự ổn định của xã
hội, làng xóm, gia đình.
Thứ ba: Trong quá trình thực thi việc đào tạo, phát triển con người, cha ông ta đã sử
dụng một hệ thống phương pháp giáo dục, đào tạo khá phong phú.
Qua các tài liệu sử học và giáo dục học đã được công bố, chúng ta có thể khái quát lại
một số nội dung chủ yếu trong phương pháp giáo dục, đào tạo con người dưới chế độ
phong kiến nước ta. Điều này được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
Về phương pháp trí dục


+ Thực hiện việc kết hợp học tập với độc lập suy nghĩ. “Học mà không nghĩ thì mờ tối,
chẳng hiểu gì, nghĩ mà không học thì khó nhọc mất công không” (Luận ngữ).
+ Dạy học dùng cách ví von, hỏi han, hướng dẫn, khêu gợi, mở mang để người học tìm
ra chân lý, giáo dục cho người học không chịu ảnh hưởng của dư luận mà tự mình suy xét
ra kết luận.
+ Dạy học tùy theo đối tượng. Tùy trình độ môn sinh, dạy mỗi người một khác, không
đồng loạt. Do vậy, dù ở trình độ nào, học trò cũng có thể tiếp thu được
+ Học đi đôi với thực hành. Con người phải giữ tâm trạng chính, việc làm thành thực,
để sự biết và việc làm hợp làm một. Đó là trí mà hành, hành mà trí vậy. Học phải chuyên
tâm trí, không hời hợt. Học điều thiện để thực hành chứ không chỉ nói ra miếng mà thôi.
Ở nhà trường cũ, hành ở đây chủ yếu là về đạo đức, tư cách.
+ Hiếu học, lạc học: Người đi học phải có chí, chí đã lập thì phải kiên định, không thấy
khó mà sợ, không thấy lâu mà nản. Phải bồi dưỡng ý chí, niềm tin, lòng say mê, tinh thần
ham học, yêu thích học tập cho con người theo tinh thần mà Khổng tử dạy: biết mà học
không bằng thích mà học, thích mà học không bằng vui say mà học” (Luận ngữ - Ung
giã).
Về phương pháp đức dục
Các phương pháp trí dục trên thường bao gồm cả đức dục, song, đi sâu vào việc giáo
dục đức dục, ông cha ta còn chú trọng đến nhiều phương pháp khác như:

+ Tự tu dưỡng, học tập theo con đường khắc kỷ, đó là:


- Thường xuyên tự biện luận với mình về tri thức và hành vi đạo đức dựa trên
chuẩn mực của các sách kinh điển, của xã hội, từ đó ngày càng tiếp cận không chỉ với
những nguyên lý của học thuyết mà còn với hiện thực đời sống xã hội,
-Tự kiểm điểm khi chỉ có riêng mình để thử thách mình về sự thành ý, chính
tâm. Rèn luyện không để sự tức giận, sợ hãi, vui mừng lấn át khiến cho không nhận ra lẽ
phải trái.
- Tự đòi hỏi mình với yêu cầu ngày càng cao mỗi khi gặp thất bại, bao giờ cũng tìm
nguyên nhân tự bản thân chứ không tìm lý do khách quan (Tiên trách kỷ, hậu trách nhân).
+ Người học phải quan sát người để xét mình, chú trọng học gương tốt của thánh hiền,
của người xưa để rút ra bài học cho bản thân.
+ Chọn bạn tốt để cùng nhau học tập, ông cha ta đã dạy lớp lớp con cháu rằng: bạn với
người trung chính thì sẽ học được điều hay, bạn với kẻ gian tà thì sẽ nhiễm điều dở. Bởi
thế phải "chọn bạn mà chơi" .
+ Đề cao sự làm gương của người thầy. Muốn vậy, người thầy cũng phải luôn luôn tu
dưỡng, học hỏi để có tri thức uyên bác. Thầy biết mười chỉ để dạy một.
Kết hợp chặt chẽ đức dục với trí dục
Trẻ cắp sách đến trường là tiếp thu chữ nghĩa của thánh hiền. Bởi vậy việc học
được coi là điều rất quan trọng. Xin học cho con, cha mẹ phải lễ gia tiên ở nhà, chọn
ngày lạnh tháng tốt sửa lễ đến nhà thầy xin học. Thầy đồ trước khi nhận học trò mới, lại
phải cáo gia tiên và đức Khổng Tử, có khi lễ tại văn chỉ làng. Sau buổi lễ khai tâm, đứa
trẻ từ nay phải sống và học tập theo nề nếp. Một thời gian đài, trước khi học chữ, đứa trẻ
phải học cách khoanh tay chào hỏi, cách đi đứng, nói năng lễ độ đối với thầy với bạn, với


cha mẹ, ông bà, anh chị ở nhà, với mọi người trong làng xóm. Đi học phải có thái độ
chăm chỉ, cần mẫn, bài học phải thuộc, bài làm phải đủ. Lười biếng là bị phạt bằng đòn
roi, quỳ ở góc nhà hoặc chui qua háng của trưởng tràng. Lại phải hết sức coi trọng sách

vở, chữ nghĩa của thánh hiền. Nhặt được tờ giấy có chữ phải đốt đi...
Khi đã qua tiểu học trở thành một nho sĩ, phải chú ý từ cách ăn mặc quần áo, khăn,
giầy, đi đứng khoan thai, nói năng lễ độ, cư xử nho nhã, đúng mực. Vậy là phải học lễ rồi
mới học văn. Đức và trí kết hợp chặt chẽ, tri và hành đi đôi vời nhau. Quá trình tu dưỡng,
học tập đó có sự giám sát của thầy, của bạn, của hội đồng môn ở trường, có sự chỉ bảo
của cha mẹ, ông bà, anh chị, của họ tộc, của gia pháp, gia phong ở nhà, ở làng xã thì có
hương ước, hội tư văn, và có dư luận khen chê của xã hội. Có thể nói, việc giáo dục, đào
tạo, phát triển con người dưới chế độ phong kiến Việt Nam bước đầu cũng đã có sự kết
hợp của gia đình, nhà trường và xã hội.
Gạt bỏ những mặt hạn chế, khiếm khuyết, tiêu cực, nhìn nhận và đánh giá một cách
khách quan, có thể nói, nội dung và phương pháp giáo dục, đào tạo, phát triển con người
của cha ông ta đã góp phần vô cùng quan trọng đào tạo ra biết bao người con ưu tú,
những "hiền tài", có đóng góp hết sức to lớn vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển
đất nước của dân tộc Việt Nam trong suốt hơn một ngàn năm qua.
Sinh trưởng trong một gia đình Nho học (ông ngoại là thầy dạy chữ Hán, bố là một vị
đại khoa), ở một vùng quê nổi tiếng với truyền thống hiếu học, cần học. Bản thân Hồ Chí
Minh đã có nhiều năm đèn sách dưới sự dạy dỗ của các vị túc nho uyên thâm nhưng sống
gần gũi với đời sống thường nhật của người dân thôn quê. Hơn nữa, với tư chất thông
minh, tinh thần ham học, đặc biệt là sự yêu thích môn văn học và lịch sử dân tộc đã giúp
cho Hồ Chí Minh hiểu biết sâu sắc truyền thống lịch sử của đất nước và con người nói


chung cũng như những tư tưởng, lý luận, nội dung giáo dục, đào tạo phát triển con người
của cha ông ta nói riêng. Trên cơ sở hiểu biết sâu sắc những giá trị tốt đẹp trong tư tưởng
giáo dục, đào tạo, phát triển con người của dân tộc Việt Nam cũng như những hạn chế,
khiếm khuyết của nó, Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kế thừa tư tưởng đó trên tinh thần “cái
gì... mà xấu, thì phải bỏ. Cái gì... mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho
hợp lý. Cái gì... tốt, thì phải phát triển thêm lên" [84, tr. 94-95].
Nhìn một cách tổng quát, Hồ Chí Minh đã kế thừa những giá trị của tư tưởng, giáo dục,
đào tạo, phát triển con người của dân tộc Việt Nam ở những điểm chủ yếu sau:

Một là: Kế thừa một số khái niệm, phạm trù.
Chúng ta biết rằng, nền giáo dục đào tạo Việt Nam trước đây dã sử dụng một hệ thống
khái niệm, phạm trù khá phong phú, phần lớn có nguồn gốc từ Nho giáo như: Nhân,
Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm, Chính, Cần, Kiệm, Trung, Hiếu, Tài, Đức... .
Có thể nói, trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo,phát triển con người, Nho giáo có ưu thế
hơn các tôn giáo khác ở chỗ nó có một hệ thống phạm trù khá chặt chẽ và hoàn chỉnh với
nội dung rất phong phú, chuyển tải được nhiều vấn đề thuộc về triết lý nhân sinh, về đạo
lý và tri thức để làm người. Trong lịch sử, dân tộc ta đã từng mượn chữ Hán làm chữ viết
của mình, mượn một số khái niệm phạm trù của văn hóa Hán, nhất là của Nho giáo để
chuyển tải, biểu đạt những tư tưởng, quan điểm, nhận thức của mình. Nhưng tổ tiên
chúng ta đã biết phiên âm chữ viết phải vay mượn ấy bằng âm Hán Việt và đã phát âm
chữ Hán không giống người Hán, diễn đạt nội dung các khái niệm đó cũng không hoàn
toàn giống nghĩa nguyên thủy của nó. Trải qua quá trình lịch sử lâu đời, những âm Hán
Việt đã trở thành ngôn ngữ đại chúng của toàn dân tộc và trong phạm vi tiếng nói thì các
từ ngữ ấy ngày càng trở nên thông dụng. Trong lịch sử, tổ tiên chúng ta cũng đã có sự nỗ


lực để sáng tạo ra chữ viết cho riêng mình, đó là chữ Nôm. Với chữ Nôm, các khái niệm
vốn được vay mượn từ chữ Nho đã được Việt hóa một bước cả ở tiếng nói lẫn chữ viết.
Nói như vậy để thấy rằng, trong quá trình kế thừa những khái niệm của Nho giáo, hệ
thống giáo dục, đào tạo Việt Nam - nhất là ở các trường dân lập, khi sử dụng các khái
niệm của Nho giáo cũng đã có sự "Việt Nam hóa" một bước nội hàm của các khái niệm
đó, phục vụ cho việc đào tạo, phát triển con người trên đất nước Việt Nam vốn có điều
kiện kinh tế chính trị, xã hội không tương đồng với Trung Hoa. Tuy nhiên, khi trình bày
những điều trên, chúng tôi không có ý phủ nhận ảnh hưởng của các yếu tố tích cực của
Nho giáo đối với nội dung cũng như cách biểu đạt và hệ thống khái niệm, phạm trù của
nền giáo dục, đào tạo Việt Nam hơn một ngàn năm qua. Trong điều kiện lịch sử cụ thể
của nước ta, điều này là rất cần thiết nhằm làm phong phú thêm ngôn ngữ của dân tộc
Việt Nam đồng thời cũng giúp ích nhiều cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo, phát triển con
người của nhân dân ta trong suốt chiều dài lịch sử.

Đối với Hồ Chí Minh, những khái niệm phạm trù của văn hóa Hán, nhất là của Nho
giáo mà cha ông ta tiếp thu và vận dụng vào việc giáo dục, đào tạo, phát triển con người
có hiệu quả, có tác động tích cực đến sự hình thành và phát triển nhân cách của người
Việt Nam trong lịch sử đã được Người kế thừa một cách sáng tạo. Hơn nữa, theo giáo sư
Trần Văn Giàu:
Cụ Hồ Chí Minh là một người hiểu biết Nho giáo rất sâu, rất rộng nữa. Nhưng cụ
không phải là một nhà Nho mà là một người biết rõ những nhược điểm, những sai lầm
nữa của Nho giáo mà tránh, lại thấm nhuần mấy ưu điểm của nó mà ứng dụng theo lợi ích
của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, một dân tộc đã nhiều trăm năm chịu
ảnh hưởng của Nho giáo [40, tr. 36].


Vì vậy việc Hồ Chí Minh sử dụng một số khái niệm, phạm trù mà hệ thống giáo dục
Việt Nam kế thừa từ văn hóa Trung Hoa, từ Nho giáo là có chủ đích, trên cơ sở hiểu biết
sâu sắc không chỉ tư tưởng, nội dung giáo dục, đào tạo, phát triển con người của dân tộc
Việt Nam mà còn trên sự hiểu biết sâu rộng những mặt tích cực của Nho giáo trong sự
nghiệp "trồng người".
Trong tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy Người
rất hay sử dụng các khái niệm như: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, khi đề cập đến phẩm chất
của con người Việt Nam trong thời đại mới nhất là đối với cán bộ đảng viên. Hồ Chí
Minh cho rằng, cũng như trời có bốn mùa, xuân, hạ, thu, đông; đất có bốn phương đông,
tây, nam, bắc; con người có bốn đức cơ bản là Cần, Kiệm, liêm, Chính, "thiếu một đức
không thành người"; "tự mình phải cần, tiệm, liêm, chính" [85, tr. 406], đối với cán bộ
đảng viên người yêu cầu "ai cũng phải thực hành bốn chữ Cần, Kiệm, Liêm, Chính": [85,
tr 622];"đạo đức cách mạng của ta là Cần, Kiệm, Liêm, Chính"[86-tr 490 ];"phải thi đua
thực hành cần, kiệm, liêm, chính"; "cố gắng làm đúng bốn chữ cần, kiệm, liêm, chính"
[85, tr. 203]; mở một chiến dịch giáo dục lại nhân dân bằng cách thực hiện cần, kiệm,
liêm, chính" [84, tr. 8]. Có thể nói, tần số xuất hiện của các khái niệm: Cần, Kiệm, Liêm,
Chính trong tư tưởng phát triển con người toàn diện là nhiều nhất trong các khái niệm,
phạm trù mà Hồ Chí Minh kế thừa từ tư tưởng giáo dục, đào tạo, phát triển con người của

cha ông ta.
Trí, Tín, Nhân, Dũng, Liêm cũng là những khái niệm mà Hồ Chí Minh hay dùng, nhất
là khi nói về phẩm chất, năng lực của người quân nhân cách mạng, của người làm tướng
"tướng giỏi (đủ cả trí, nhân, dũng, liêm) thì nước mạnh" [83, tr. 519]; "nhiệm vụ của
người làm tướng là phải trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung" [85, tr. 479]; "Quân sự giỏi


×