Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nông nghiệp Việt nam và sự vận dụng của Đảng ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.83 KB, 18 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA KINH TẾ

TIỂU LUẬN
MÔN: CÁC CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ

Đề tài:
“TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN NỀN NÔNG NGHIỆP
VIỆT NAM VÀ SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐÓ CỦA ĐẢNG TA”
Sinh viên thực hiện: Huỳnh Văn Dũng
Lớp Kinh tế chính trị, khóa 32
Sóc Trăng, tháng 11 năm 2014
I- Lời Mở Đầu:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng và nhân dân Việt Nam
chúng ta, là chiến sĩ cộng sản quốc tế lỗi lạc, là danh nhân văn hoá thế giới. Lúc
sinh thời, Người đã gắn sự giàu có, thịnh vượng của nông dân, nông nghiệp với
sự giàu có, thịnh vượng của đất nước. Người đã coi nông nghiệp và nông dân là
lực lượng quan trọng góp phần tạo nên sự giàu có của đất nước ta.
Ngày nay, nền kinh tế của Việt Nam gồm công nghiệp, nông nghiệp,
thương mại, dịch vụ nhưng nông nghiệp là ngành có sức lan tỏa lớn nhất, có tính
kết nối rất cao với nhiều ngành kinh tế. Nông nghiệp cung cấp đầu vào cho công
nghiệp chế biến thực phẩm, chế biến xuất khẩu; đồng thời, sử dụng sản phẩm của
các ngành công nghiệp và dịch vụ, như: nhiên liệu, phân bón, hóa chất, máy móc
cơ khí, năng lượng, tín dụng, bảo hiểm Ngoài ra, nông nghiệp còn liên quan
mật thiết đến sức mua của dân cư và sự phát triển thị trường trong nước. Với
50% lực lượng lao động cả nước đang làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và
70% dân số sống ở nông thôn, mức thu nhập trong nông nghiệp sẽ có ảnh hưởng
rất lớn đến sức cầu của thị trường nội địa và tiềm năng đầu tư dài hạn. Nông
nghiệp Việt Nam đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo an ninh
lương thực, tạo việc làm và thu nhập cho trước hết là khoảng 70% dân cư, là
nhân tố quyết định xóa đói giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế đất nước và


ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Nhận định đúng đắng tầm quan trọng của sự phát triển nền kinh tế nước ta,
hơn 20 năm đổi mới, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về phát triển nền kinh tế nông nghiệp và đã đạt nhiều thành tựu to lớn. Để
tiếp tục vận dụng tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh một cách linh hoạt, sáng tạo
trong việc phát triển nền kinh tế nông nghiệp ở nước ta củng như phục vụ thực tế
cho địa phương nơi em đang công tác. Em xin chọn Đề tài “Tư tưởng Hồ Chí
2
Minh về phát triển nền nông nghiệp Việt Nam và sự vận dụng tư tưởng đó của
Đảng ta” để viết Tiểu luận hết môn Các chuyên đề kinh tế.
Do kiến thức của bản thân còn nhiều hạn chế nên Tiểu luận sẽ không tránh
khỏi sai sót, rất mong được sự góp ý và dạy bảo thêm của quí thầy, quí cô để
Tiểu luận được hoàn chỉnh hơn.
Xinh chân thành cảm ơn!
3
II- Nội dung: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nền nông nghiệp
Việt Nam và sự vận dụng tư tưởng đó của Đảng ta”:
1) Tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển nền nông nghiệp của
Việt Nam:
Là một nhà hoạt động lý luận - thực tiễn sâu sắc, Hồ Chí Minh sớm nhận
thức vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, nói theo ngôn ngữ
ngày nay là quan điểm về “tam nông”. Ba nội dung đó liên quan chặt chẽ, tác
động lẫn nhau tạo thành một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về vấn đề
nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Khi đọc các bài nói và viết của Hồ Chí Minh,
chúng ta thấy một điều là, vấn đề nông nghiệp và đằng sau nó là vấn đề đời sống
nông dân, vấn đề phát triển kinh tế nông thôn là niềm trăn trở thường xuyên trong
tư tưởng của Hồ Chí Minh từ khi ra đi tìm đường cứu nước cho đến khi Người về
cõi vĩnh hằng. Tư tưởng của Người về nông nghiệp thể hiện rất rõ trong các vấn
đề về vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam, về những giải pháp để

phát triển nông nghiệp.
Phải nói rằng, trong tư duy của Hồ Chí Minh, nông nghiệp có vai trò đặc
biệt quan trọng. Người khẳng định, đối với nền kinh tế nước ta nông nghiệp lại là
gốc, là chính, là quan trọng nhất, là nhân tố đầu tiên, là cội nguồn giải quyết mọi
vấn đề xã hội; xuất phát từ mục tiêu hàng đầu của chủ nghĩa xã hội là nâng cao
đời sống của nhân dân và nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực, nguyên
liệu cần thiết nhất cho đời sống của nhân dân, đồng thời là một nguồn xuất khẩu
và "là bộ phận cực kỳ quan trọng trong kế hoạch kinh tế của Nhà nước" (Hồ Chí
Minh. Sđd., t.9, tr.5).
4
Sau ngày đất nước giành được độc lập, trong thư gửi điền chủ nông gia
Việt Nam ngày 11/4/1946, Hồ Chí Minh đã viết: "Việt Nam là một nước sống về
nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây
dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp
một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta
thịnh". Người đã gắn sự giàu có, thịnh vượng của nông dân, nông nghiệp với sự
giàu có, thịnh vượng của đất nước. Người đã coi nông nghiệp và nông dân là lực
lượng quan trọng góp phần tạo nên sự giàu có của đất nước ta. Sau khi cuộc
kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc bước vào thời
kỳ khôi phục kinh tế, trong lời kêu gọi nông dân thi đua sản xuất và tiết kiệm
năm 1956, Người vẫn nhắc: Khôi phục "sản xuất nông nghiệp là chủ yếu". Sau
khi công cuộc khôi phục kinh tế kết thúc thành công, sản xuất trở lại bình thường,
đời sống nhân dân bước đầu ổn định.
Ngay trong bài nói chuyện tại Hội nghị Trung ương 7 (khóa III), Hội nghị
chuyên đề bàn về phát triển công nghiệp, Hồ Chí Minh lại nói về nông nghiệp,
nhấn rất mạnh vai trò của nông nghiệp. Người nói: “"Việt Nam có câu tục ngữ
"có thực mới vực được đạo"” (Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr.543-544). Muốn nâng
cao đời sống của nhân dân thì trước hết phải giải quyết vấn đề ăn, rồi đến vấn đề
mặc và các vấn đề khác “ Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. làm cho dân có ăn, 2.
làm cho dân có mặc, 3. làm cho dân có chổ ở, 4. làm cho dân có học hành. Cái

mục đích chúng ta đi dến 4 điều đó. Đi đến để dân ta xứng đáng với tự do, độc
lập và giúp sức được cho tự do độc lập” (Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.52). Người
còn dạy "Dân đủ ăn đủ mặc thì những chính sách của Đảng và Chính phủ đưa ra
sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay
mấy cũng không thực hiện được" (Hồ Chí Minh. Sđd., t.7, tr. 346, 347).
5
Muốn giải quyết tốt vấn đề ăn thì phải làm thế nào cho có đầy đủ lương
thực. Mà lương thực là do nông nghiệp sản xuất ra. Vì vậy, phát triển nông
nghiệp là việc cực kỳ quan trọng". Khi coi nông nghiệp có vai trò nền tảng để
phát triển kinh tế - xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh đã thể hiện phẩm chất một nhà
lãnh đạo hiểu sâu sắc thực tiễn của đất nước mình, nhuần nhuyễn lý luận và thực
tiễn, không câu nệ như những lý thuyết gia thông thường! Những điều kiện trên
cho thấy, trước mỗi giai đoạn mới của phát triển đất nước, Hồ Chí Minh đều có
những chỉ dẫn định hướng, trong đó nhấn mạnh vai trò cực kỳ quan trọng của
nông nghiệp trong nền kinh tế nước ta.
Theo tư tưởng của Hồ Chí Minh về vai trò của nông nghiệp và để phát triển
kinh tế nông nghiệp ở nước ta thì cần phải thực hiện tốt các nội dung: một là, phát
triển một nền nông nghiệp toàn diện; hai là tiến hành hợp tác hoá và xã hội hóa
nông nghiệp và ba là, gắn nông nghiệp với các ngành kinh tế khác:
a) Về phát triển một nền nông nghiệp toàn diện:
Để nông nghiệp làm cơ sở cho sự phát triển của công nghiệp và các ngành
kinh tế khác, bản thân nó phải là một nền nông nghiệp toàn diện, lấy việc cung
cấp lương thực làm trọng tâm để giải quyết trước hết vấn đề ăn của nhân dân. Vì
lương thực có vai trò quan trọng đối với bất cứ một quốc gia nào (ngày nay ta gọi
là an ninh lương thực). Người ta chỉ có thể nói đến một nền kinh tế phát triển
vững chắc khi nền kinh tế đó tự giải quyết được cơ bản vấn đề lương thực. Là
một nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị thực dân Pháp đô hộ hàng trăm năm, người
dân Việt Nam đã từng ở mức tận cùng của sự đói khổ. Nạn đói năm 1945 làm
chết 2 triệu người là nỗi ám ảnh của mọi người dân Việt Nam, cũng là nỗi lo
hàng ngày của người lãnh đạo. Vì thế, sau Cách mạng Tháng Tám (1945), công

cuộc kiến quốc được Đảng, Chính phủ và Bác Hồ đặt ngang với nhiệm vụ kháng
6
chiến, bảo vệ thành quả Cách mạng vừa mới giành được. Tháng 1/1946, trong
Bài phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Uỷ ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc,
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: "Lúc này chúng ta có hai nhiệm vụ là kháng
chiến và kiến quốc". Người chỉ rõ: "Chúng ta được tự do, độc lập rồi mà dân cứ
chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của
tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ". Để kiến quốc thắng lợi, trong
hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, nông nghiệp được xem là "mặt trận hàng đầu".
Theo Hồ Chí Minh, thực hiện nền nông nghiệp toàn diện bao gồm các
ngành trồng trọt (trồng cây lương thực đi đôi với trồng cây công nghiệp) gắn với
chăn nuôi; hải sản và các ngành kinh tế gắn với biển, làm muối; bảo vệ rừng và
trồng cây gây rừng, khai thác lâm, thổ sản và những nguồn lợi kinh tế từ rừng
nhưng phải chú ý đến hậu quả của việc khai thác rừng không đúng hoặc lợi dụng
việc khai thác để phá rừng; các ngành kinh tế khác ở nông thôn (nghề phụ gia
đình ở nông thôn).
Phát triển nông nghiệp toàn diện không dừng lại ở quy mô, ở số lượng, mà
phải chú ý đến mặt năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Muốn vậy, "phải
đẩy mạnh thâm canh", "muốn thâm canh tăng năng suất phải chú ý cả nước, phân,
giống"; tiến hành "tổ đổi công, tiến lên hợp tác xã, nông dân ta mới có thêm sức để
cải tiến kỹ thuật, đẩy mạnh sản xuất"; "phải tổ chức tốt các đội thuỷ lợi"; "có quy
hoạch của một nền kinh tế hàng hóa phát triển theo quy mô phù hợp với đòi hỏi
của quá trình công nghiệp hóa" (Nguyễn Khánh Bật - chủ biên: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề nông dân, Nxb Nông nghiệp, H.2001, tr.164); động viên khuyến
khích nông dân hăng hái "tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm"; công nghiệp phải
giúp đỡ nông nghiệp, vì "công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển";
"phải mạnh dạn tiến vào khoa học, kỹ thuật nông nghiệp" để xây dựng cơ sở vật
chất và kỹ thuật trong nông nghiệp , từng bước tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ
7
nghĩa, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn, làm

tốt công tác quản lý.
b) Tiến hành hợp tác hoá và xã hội hóa nông nghiệp
Xuất phát là một nước nông nghiệp lạc hậu, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội
không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, vì vậy, làm hợp tác xã như quy
luật tất yếu. Bởi hợp tác xã nông nghiệp, nông thôn là chiếc cầu nối đưa nền sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, đưa nông dân từ chỗ làm ăn phân tán,
manh mún lên chỗ làm ăn tập thể, tập trung thống nhất, hình thành và phát triển
hợp tác xã không chỉ là một biện pháp quan trọng để đẩy mạnh sản xuất, thực
hành tiết kiệm, nâng cao hiệu quả kinh tế, cải thiện đời sống đồng bào nông dân,
phát triển nền sản xuất nông nghiệp một cách vững chắc, mà còn là một tất yếu
khách quan trên con đường đấu tranh cách mạng, xóa bỏ áp bức bóc lột, xây
dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa.
Mục đích của việc hợp tác hoá là "tập trung lực lượng tiến công vào nghèo
nàn và lạc hậu, là đoàn kết chặt chẽ, sản xuất tốt, thu nhập cao, vệ sinh tốt, là học
hành chăm "( Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr.474-475) để cải thiện đời sống nông
dân, làm cho nông dân được no ấm, mạnh khoẻ, được học tập, làm cho dân giàu,
nước mạnh; "là làm cho thu nhập chung của xã và thu nhập riêng của xã viên
ngày càng tăng" (Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr.318), "đó là mục đích riêng và mục
đích chung của việc xây dựng hợp tác xã" (Hồ Chí Minh. Sđd., t.9, tr.537). Nếu
đưa nông dân vào hợp tác xã mà sản xuất không phát triển, thu nhập của xã viên
lại kém đi, là không đạt mục tiêu, cần phải điều chỉnh lại phương pháp, bước đi
và cách làm cải tạo xã hội chủ nghĩa của ta.
Về bước đi và quy mô của phong trào hợp tác hoá nông nghiệp ở nước ta cần
phải từng bước đưa nông dân vào con đường hợp tác hoá nông nghiệp bằng những
hình thức, bước đi thích hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ
8
tổ chức và quản lý của cán bộ cũng như sự nhận thức và giác ngộ của nông dân, phải
trải qua hình thức tổ đổi công để giúp đỡ lẫn nhau trong mọi công việc và hợp tác xã
sản xuất nông nghiệp. Nhưng trước hết phải bắt đầu từ chỗ xây dựng và phát triển
rộng khắp tổ đổi công, với các hình thức như tổ đổi công từng vụ, từng việc, tổ đổi

công thường xuyên. Sau này tổ đổi công thường xuyên đã rộng khắp và có nền nếp
rồi, mới tiến lên xây dựng hợp tác xã nông nghiệp từ thấp đến cao. Không được vội
tổ chức hợp tác xã ngay. Phát triển từng bước, vững chắc tổ đổi công và hợp tác xã
thì hợp tác hóa nông nghiệp nhất định sẽ thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
"Phải tổ chức tổ đổi công là hình thức thấp nhất, rồi tiến lên hợp tác xã nông nghiệp,
từ hợp tác xã nhỏ phát triển thành hợp tác xã to, dùng máy móc trong nông nghiệp" (

Hồ Chí Minh. Sđd. , t.8, tr.345). Ở đây Người đã quan tâm đến cả lực lượng sản
xuất lẫn quan hệ sản xuất chứ không phải chỉ nhằm cải tạo quan hệ sản xuất.
Nguyên tắc xây dựng hợp tác xã là: Tuần tự; Tự nguyện; Bình đẳng, cùng
có lợi, thiết thực; Dân chủ; Có sự lãnh đạo - tổ chức hợp tác xã với sự hướng dẫn,
giúp đỡ về tài chính của Nhà nước. Nghĩa là, làm từ nhỏ đến lớn; khéo tổ chức,
khéo lãnh đạo theo nguyên tắc tự giác, tự nguyện để cho các tổ viên ai cũng hăng
hái làm việc, ai cũng được hưởng lợi, được phân phối công bằng, hợp lý; cán bộ
lãnh đạo phải chí công vô tư, phải dân chủ, tránh quan liêu mệnh lệnh; phải ra sức
thực hiện khẩu hiệu cần kiệm xây dựng hợp tác xã.
Phương châm tiến hành là: Tiến nhanh, tiến mạnh không phải là phiêu lưu,
làm ẩu. Phải thiết thực đi từng bước, phải tính toán những điều kiện cụ thể, những
biện pháp cụ thể. Không được đem chủ quan của mình thay cho điều kiện thực tế.
Mỗi vấn đề phải có một kế hoạch cụ thể, phải đi thật sâu để giải quyết cho kỳ
được… Không được để kế hoạch phình ra, cũng như tình trạng mình lại tự lừa
mình; Qui mô không nên quá to, quá to thì khó quản lý. Cũng không nên quá nhỏ,
quá nhỏ thì sức người ít, khó phát triển. Nên tùy theo điều kiện của mỗi địa
phương; Việc xây dựng hợp tác xã cần chú trọng đến chất lượng, không nên chạy
9
theo số lượng. . Cần phải nêu cao tính chất hơn hẳn của hợp tác xã bằng những kết
quả thiết thực là làm cho thu nhập của xã viên được tăng thêm, làm cho xã viên sau
khi vào hợp tác xã thu hoạch nhiều hơn hẳn khi còn ở ngoài. Như thế thì xã viên sẽ
phấn khởi, sẽ gắn bó chặt chẽ với hợp tác xã của mình. Đó là phương pháp tuyên
truyền thuyết phục tốt nhất để khuyến khích nông dân vào hợp tác xã. Nếu xã,

huyện nào cũng có hợp tác xã, mà hợp tác xã không hơn gì các tổ đổi công và gia
đình làm ăn riêng lẻ, thì có tốn công tuyên truyền bao nhiêu cũng ít người muốn
vào hợp tác xã.
Chìa khoá quan trọng để phát triển mạnh nông nghiệp là: Chỉnh đốn các
ban quản trị hợp tác xã cho thật tốt. Ban quản trị tốt thì hợp tác xã tốt. Hợp tác xã
tốt thì nông nghiệp nhất định phát triển tốt. Và để tránh tình trạng lương thực gặp
khó khăn, các cấp uỷ từ tỉnh đến huyện và xã cần phải cấp tốc đến tận nơiđộng
viên và hướng dẫn đồng bào nông dân và các cơ quan, bộ đội trồng đủ và chăm
bón tốt ngô, khoai, sắn, quyết tâm thu một vụ hoa màu thắng lợi.
Phát triển hợp tác hóa phải đi liền với công tác thủy lợi hóa, coi thủy lợi là
biện pháp hàng đầu của việc canh nông phát triển tốt nông nghiệp. Bởi khí hậu
nước ta không kém phần khắc nghiệt, nắng lắm mưa nhiều hay gây hạn hán, lũ lụt,
làm tốt công tác thủy lợi sẽ điều hòa được nước tưới tiêu, góp phần khắc phục
thiên tai. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, "giặc LỤT là tiên phong của giặc ĐÓI. Nó
là đồng minh của giặc NGOẠI XÂM. Nó mong làm cho dân ta đói kém, để giảm
bớt sức kháng chiến của chúng ta" (Hồ Chí Minh. Sđd., t.7, tr.96). Do đó, "phòng
lụt, chống lụt như là mộtchiến dịch lớn, trên một mặt trân dài, trong một thời gian
khá lâu. Toàn thể đồng bào và cán bộ phải có quyết tâm, vượt mọi khó khăn, làm
tròn nhiệm vụ đắp đê và giữ đê, phòng lụt và chống lụt" (Hồ Chí Minh. Sđd., t.7,
tr.559).
10
Cùng với việc đưa nông dân vào làm ăn tập thể, hình thành và phát triển tổ
đổi công, hợp tác xã trong nông nghiệp, chúng ta cần phải đưa những người làm
nghề thủ công vào các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp. Nhà nước bảo hộ quyền sở
hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm
ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện. Ngoài
ra, muốn cho nông nghiệp phát triển đầy đủ, nông dân thật sự ấm no, giàu có, hạnh
phúc thì phải làm cho nông nghiệp xã hội hóa, nghĩa là phát triển nông nghiệp
hàng hóa, mở rộng thị trường nông sản trong và ngoài nước; tập trung sản xuất,
biến nông dân thành công nhân nông nghiệp; nông dân được tự do cư trú; giảm

dần tỷ lệ dân cư làm nghề nông, tăng các trung tâm công nghiệp; thay đổi bộ mặt
tinh thần của nông thôn và tính chất của người sản xuất nông nghiệp.
c) nông nghiệp có vai trò phát triển các ngành kinh tế khác:
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò nòng cốt của nông nghiệp
trong việc đảm bảo đời sống của nhân dân, nhưng không tuyệt đối hoá vai trò của
nông nghiệp mà luôn đặt nó trong mối quan hệ hữu cơ với các ngành kinh tế khác
và rất chú trọng vấn đề cải tạo các thành phần kinh tế đó theo hướng đi lên chủ
nghĩa xã hội. Tức là, "phải lấy nông nghiệp làm chính, nhưng phải toàn diện, phải
chú ý cả các mặt công nghiệp, thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, giao thông,
kiến trúc, văn hóa, giáo dục, y tế, v,v Các ngành này phải lấy phục vụ nông
nghiệp làm trung tâm" (Hồ Chí Minh. Sđd., t.11, tr.396)
Việc xây dựng và phát triển các ngành thương nghiệp, tài chính, ngân
hàng, giao thông, kiến trúc, văn hoá, y tế, giáo dục… theo hướng xã hội chủ
nghĩa, làm sao cho các lĩnh vực này thực sự trở thành một đòn bẩy kinh tế, trong
đó ngành thương nghiệp cần làm tốt vai trò giao lưu kinh tế giữa công nghiệp với
nông nghiệp, giữa sản xuất với tiêu dùng, giữa địa phương với trung ương, giữa
công nhân với nông dân, giữa trong nước với ngoài nước. Tất cả sản phẩm của
11
ngành nông nghiệp và công nghiệp nhờ có thương nghiệp mới có thể cung cấp tới
nhân dân và thúc đẩy sản xuất phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi nông nghiệp,
công nghiệp và thương nghiệp là ba mặt quan trọng trong nền kinh tế, nhưng nếu
khâu thương nghiệp bị đứt thì không nối được công nghiệp với nông nghiệp;
không gắn được sản xuất với tiêu dùng và như vậy sẽ làm cho nền kinh tế không
phát triển, trì trệ.
Đối với thợ thủ công, người buôn bán nhỏ và những người lao động riêng
lẻ khác, Người chủ trương "bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra
sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp
tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện" (Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr.589). Với
các thành phần kinh tế công thương nghiệp tư bản tư doanh và đối với tư sản dân
tộc, căn cứ vào sự phân tích khoa học những đặc điểm kinh tế tư bản chủ nghĩa

và thái độ chính trị của giai cấp tư sản dân tộc ở nước ta trong điều kiện chính
quyền dân chủ nhân dân ngày một củng cố và không ngừng lớn mạnh, Chủ tịch
Hồ Chí Minh chủ trương dùng phương pháp hoà bình cải tạo: không xoá bỏ
quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ
hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của
Nhà nước. Đồng thời, Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ
nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác.
Ngoài ra, Người nhiều lần nhắc đến vai trò của nông nghiệp đối với công
nghiệp. Năm 1956, trong lời kêu gọi đồng bào nông dân thi đua sản xuất và tiết
kiệm, nhằm thực hiện thắng lợi kế hoạch khôi phục kinh tế sau chiến tranh,
Người đã viết: "Sản xuất nông nghiệp … giải quyết vấn đề lương thực, cung cấp
nguyên liệu, vật liệu để khôi phục tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, công
nghiệp và cung cấp lâm thổ sản để mở rộng quan hệ buôn bán với các nước
ngoài". Từ đó, Người luôn luôn coi nông nghiệp cùng với công nghiệp là hai
12
chân của nền kinh tế, chúng tác động lẫn nhau, quan hệ với nhau rất khăng khít.
Bác Hồ đã khẳng định một công thức phát triển tuyệt đẹp: "Nông thôn giàu có sẽ
mua nhiều hàng hóa của công nghiệp sản xuất ra. Đồng thời, sẽ cung cấp đầy đủ
lương thực, nguyên liệu cho công nghiệp và thành thị. Như thế là nông thôn giàu
có giúp cho công nghiệp phát triển. Công nghiệp phát triển lại thúc đẩy nông
nghiệp phát triển mạnh hơn nữa" (Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr.405, 406).
Thứ ba, Hồ Chí Minh coi trọng nông nghiệp còn xuất phát từ tư tưởng tự
lực cánh sinh mà suốt đời Người quán triệt và nhắc nhở mọi người quán triệt.
Theo Người, muốn giành được độc lập dân tộc phải tự lực cánh sinh, nay muốn
phấn đấu giành ấm no, hạnh phúc cũng phải tự lực cánh sinh. Người nhắc nhở:
"Việc cải thiện đời sống cho nhân dân cũng phải do nhân dân tự giúp lấy mình là
chính". Khi có sự giúp đỡ của các nước XHCN, Người cũng luôn nhắc không
được ỷ lại. Người nói: "Các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta. Ta phải
khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta. Song
nhân dân và cán bộ ta tuyệt đối chớ vì bạn ta giúp nhiều mà đâm ra ỷ lại".

2) Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc phát triển nền
nông nghiệp của Việt Nam:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế nông nghiệp đã được Đảng ta
kế thừa và vận dụng suốt trong quá xây dựng và phát triển nền kinh tế nước nhà.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 của Đảng, tháng 8 - 1955 đã nhấn mạnh “Sản
xuất nông nghiệp là mấu chốt của việc khôi phục kinh tế quốc dân, mấu chốt của
toàn bộ công tác kinh tế tài chính của chúng ta”. Phải đặc biệt chú trọng việc khôi
phục sản xuất nông nghiệp, bao gồm sản xuất cây lương thực, cây công nghiệp,
chăn nuôi, lâm nghiệp và ngư nghiệp phải dựa vào khôi phục sản xuất nông
nghiệp để khôi phục các ngành khác, khôi phục cả nền kinh tế quốc dân. Từ năm
1956 đến năm 1959 nước ta được mùa liên tiếp cộng với số gạo viện trợ đã dẫn
13
tới tình hình đặc biệt là giá thóc gạo trên thị trường xuống thấp hơn giá chỉ đạo
của mậu dịch. Nhưng từ năm 1960 lại xác định: Điểm mấu chốt trong công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Mặc dù sau
này có thêm câu “trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”, nhưng
trên thực tế đã coi nhẹ nông nghiệp. Vì vậy, mà nước ta lâm vào tình trạng thiếu
lương thực triền miên, buộc phải bán gạo theo tem phiếu.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, tháng 3 năm 1982, đã phát hiện
thiếu sót nói trên và đề ra chủ trương: tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp,
coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu…Nhưng việc thực hiện chưa triệt để nên
sản xuất nông nghiệp vẫn tăng rất chậm. Phải đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, tháng 12 năm 1986, mới kiên quyết bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh
lớn cơ cấu đầu tư, tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương
trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nhờ
đó, chỉ sau 4 năm, năm 1990 đã đáp ứng đủ nhu cầu lương thực cho nhân dân, có
dự trữ và bắt đầu xuất khẩu gạo.
Tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Đảng ta xác
định trong thời gian tới cần tập trung "xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn
diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất

lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương
thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài". Ngày 5/8/2008, Ban Chấp hành Trung
ương khóa X đã ra Nghị quyết 26/NQ-TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
với ý nghĩa chiến lược, toàn diện về phát triển nông nghiệp, nông dân và nông
thôn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng đã chỉ rõ: "Phát triển
nông - lâm - ngư nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn".
14
Nhờ vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng của Hồ Chí Minh về phát triển
nền kinh tế nông nghiệp. Sau hơn 20 năm thực hiện đường đối đổi mới, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nền nông nghiệp nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện
và to lớn. Từ chỗ thiếu ăn triền miên, năm 1988 vẫn còn phải nhập khẩu hơn
450.000 tấn gạo nhưng đến nay Việt Nam vừa bảo đảm nhu cầu lương thực trong
nước, có dự trữ và là nước xuất khẩu gạo nhất, nhì trên thế giới.
Gần đây, khi tình hình kinh tế có khó khăn do bị tác động của khủng
hoảng và suy thoái kinh tế thế giới, Nông nghiệp Việt Nam ngày càng rõ vai trò
là trụ đỡ của nền kinh tế, tiếp tục ổn định và có mức tăng trưởng. Năm 2011 xuất
khẩu nông - lâm - thủy sản đạt gần 25 tỷ USD, tăng trưởng 29% so với năm
2010. Thặng dư thương mại toàn Ngành năm 2011 đạt trên 9,2 tỷ USD, góp phần
giảm nhập siêu cả nước; nông nghiệp đóng góp khoảng 20% GDP và chiếm 30%
giá trị kim ngạch xuất khẩu quốc gia. Năm 2012, nông nghiệp vẫn giữ đà tăng
trưởng của năm 2011 với giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản cả nước
tăng 3,4%. Trong đó, nông nghiệp tăng 2,8%, lâm nghiệp 6,4%, thủy sản 4,5%.
Tốc độ tăng trưởng toàn ngành (GDP) đạt 2,7%.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi
thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững,
tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt
nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ
và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế Cụ thể năm 2013, giá trị sản xuất nông
lâm nghiệp và thủy sản cả nước tăng 3,2%. Trong đó, nông nghiệp tăng 2,3%,

lâm nghiệp 6%, thủy sản 4,5%. Tốc độ tăng trưởng toàn ngành (GDP) đạt 2,6%.
Như vậy, có thể thấy tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp rất đáng quan
ngại, giảm dần, năm sau thấp hơn năm trước.
15
Do đó, Đảng ta xác định trong thời gian tới cần tập trung xây dựng nền
nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng
hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo
vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Cụ thể:
Một là, xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng
thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn;
Hai là, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát
triển các đô thị;
Ba là, xâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nhất là
vùng khó khăn;
Bốn là, đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có
hiệu quả ở nông thôn;
Năm là, phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học,
công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hoá nông nghiệp,
công nghiệp hoá nông thôn;
Sáu là, đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các nguồn
lực, phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nông dân;
Bảy là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy
sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là hội nông dân.
16
III- Kết luận:
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế nông nghiệp là
cần thiết và càng trở nên cấp thiết, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước
ta đã và đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức.

Thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng như quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đều khẳng định tầm vóc
chiến lược của vấn đề nông nghiệp. Chính vì vậy, Ðảng ta luôn đặt nông nghiệp ở
vị trí chiến lược quan trọng, coi đó là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế - xã
hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tài liệu học tập môn Các chuyên đề kinh tế
- Hồ Chí Minh. Sđd., tập 9, 8,9,10,11
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, VI, X
- Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb
CTQG, H.2008, tr.125-126.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nông dân, Nxb Nông nghiệp do Nguyễn
Khánh Bật (chủ biên)
- Các trang báo điện tử:
+ Tạp chí Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – Vụ Kế hoạch
+ Báo điện tử trang Liên minh HTX Quảng Nam
+ Tuyên giáo Sóc Trăng (Tập San tháng 10/2011)
18

×