1
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong những năm
qua đã thu được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều đó
cho phép khẳng định đường lối đổi mới nói chung, đường lối đổi mới kinh tế nói riêng,
trong đó có chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn.
Việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thực chất là sự điều chỉnh
QHSX, trước hết là quan hệ sở hữu, làm cho chúng phù hợp hơn với tính chất, trình độ
phát triển của LLSX. Sở hữu tư nhân được pháp luật thừa nhận và bảo hộ là cơ sở cho sự
ra đời và phát triển KTTN trong thời gian qua, đặc biệt sau khi có Luật Doanh nghiệp tư
nhân (1991) và nay là Luật Doanh nghiệp (2005).
Kinh tế tư nhân ra đời và phát triển đã khẳng định rõ vị trí, vai trò quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân. Điều này đã được Đại hội IX, Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá IX)
và Đại hội X của Đảng chỉ rõ: KTTN là bộ phận cấu thành quan trọng, là một trong những
động lực của nền kinh tế, đồng thời phát triển KTTN là vấn đề chiến lược, lâu dài trong
suốt TKQĐ lên CNXH ở nước ta. Thực tế trong thời gian qua, KTTN đã có những đóng
góp đáng kể trong tạo ra động lực thúc đẩy sự tăng trưởng và đưa nền kinh tế nước ta vận
động theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, KTTN cũng
bộc lộ những hạn chế, bất cập cả đối với phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng. Hơn
nữa, trong điều kiện hiện nay phát triển KTTN là chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà
nước ta, song nhận thức của một bộ phận nhân dân và cán bộ, đảng viên về vấn đề này
cũng còn có những lệch lạc làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của KTTN nói
riêng, đến việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và BVTQ nói chung.
Bởi vậy, việc làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển KTTN trong
nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là cơ sở cho đánh giá vai trò,
thực trạng, dự báo xu hướng phát triển để có quan điểm và giải pháp phù hợp, một mặt
khuyến khích phát triển KTTN, mặt khác thấy được tác động của nó đến củng cố quốc
phòng (cả mặt tích cực và tiêu cực) để nhà nước định hướng, điều tiết, kiểm soát hoạt động
của KTTN theo đúng định hướng XHCN, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và
BVTQ. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện
nay. Vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề: “Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
2
2
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tác động của nó đến củng cố quốc phòng ở nước ta
hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Cho đến nay, vấn đề phát triển KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN và tác
động của nó đến củng cố quốc phòng ở nước ta, đã có nhiều công trình khoa học, bài viết
của các tác giả cũng như các văn kiện, nghị quyết của Đảng đề cập đến một cách trực tiếp
hay gián tiếp, ở khía cạnh này hay khía cạnh khác của vấn đề nghiên cứu trên cả bình diện
lý luận và thực tiễn.
Xung quanh quan niệm về KTTN và phát triển KTTN trong nền KTTT định
hướng XHCN. Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm, Ban Chấp hành Trung ương Khoá IX,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, trong đó Nghị quyết số 14/NQTƯ về
“Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển KTTN” đã đưa
ra quan niệm về KTTN một cách khá hoàn chỉnh. Theo đó, KTTN được xác định bao gồm
kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ
dưới nhiều hình thức tổ chức quản lý khác nhau như: DNTN, công ty TNHH, CTCP, công
ty hợp danh, hộ SX,KD cá thể. Điều này, đã khắc phục được tình trạng thiếu thống nhất
trong việc xem xét, thống kê, đánh giá về KTTN. Trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, quan niệm về
KTTN tiếp tục được khẳng định và làm rõ với việc KTTN được xác định là một thành
phần kinh tế, trong đó có (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân). Như vậy, có thể thấy quan niệm
về KTTN ở nước ta hiện nay đã được Đảng ta xác định rõ thông qua nghị quyết Trung
ương 5 (Khoá IX) và Văn kiện Đại hội Đảng X. Tuy nhiên, bàn về quan niệm phát triển
KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN, mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu như:
Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá IX), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; Trần
Ngọc Bút, “Phát triển KTTN định hướng XHCN”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2002; Nguyễn Thị Cành, “Quan điểm và chính sách phát triển KTTN trong TKQĐ
lên CNXH”, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 7/ 2002; Trần Kim Hào, “Một số ý kiến về phát
triển khu vực KTTN ở nước ta”, Tạp chí Kinh tế & Dự báo, số 10/2002; Đặng Xuân Kỳ,
“Phát triển KTTN một vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta”,
Thông tin Công tác tư tưởng lý luận, số 11/2004; Hoàng Văn Hoa, “Một số ý kiến về phát
triển KTTN ở Việt Nam năm 2004”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 93/2005; … bàn về
3
3
phát triển KTTN, nhưng các công trình nghiên cứu này cũng như Nghị quyết của Đảng
mới chỉ luận giải quan niệm về KTTN và một số nội dung liên quan đến phát triển KTTN
là chủ yếu, chưa có công trình nghiên cứu nào đưa ra quan niệm về phát triển KTTN cũng
như phát triển KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN.
Về sự cần thiết phát triển KTTN ở nước ta hiện nay. Đã có nhiều công trình
nghiên cứu trình bày vấn đề này: Lê Xuân Bá “KTTN - bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế nước ta”, Tạp chí Cộng sản, số 22 (8/2002); Hà Huy Thành, Thành phần kinh
tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân lý luận và chính sách, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002; Trần Ngọc Bút, Phát triển KTTN định hướng XHCN, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002; Hồ Văn Vĩnh “KTTN trong nền KTTT định hướng
XHCN”, Tạp chí Cộng sản số 21 (7/2003); Vũ Đình Ánh “Vai trò của khu vực KTTN trong
nền KTTT định hướng XHCN”, Tạp chí Lý luận, số 5/2004; Nguyễn Ngọc Sơn “Khu vực
KTTN ngày càng khẳng định vị thế quan trọng ở Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế & Dự báo, số
4/2005; Lê Khắc Triết, Đổi mới và phát triển KTTN Việt Nam - thực trạng và giải pháp,
Nhà xuất bản Lao động, 2005; Đinh Thị Thơm, KTTN Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới thực trạng và những vấn đề, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005...; Trịnh Thị
Hoa Mai, KTTN Việt Nam trong tiến trình hội nhập, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, 2005
v.v… Trong đó, có công trình đề cập một cách trực tiếp đến một số yếu tố quy định sự cần
thiết phát triển KTTN ở nước ta hiện nay, mặc dù sự đề cập đó ở những mức độ khác nhau.
Song, nhiều công trình không trực tiếp đi vào luận giải sự cần thiết phát triển KTTN ở
nước ta hiện nay, mà tập trung làm rõ vai trò của KTTN đối với nền kinh tế quốc dân - nền
KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay trên một số vấn đề cơ bản như: góp phần giải
quyết việc làm, cải thiện đời sống người lao động; đóng góp vào tăng trưởng GDP và ngân
sách nhà nước; góp phần hoàn thiện QHSX xã hội chủ nghĩa trong TKQĐ; đẩy nhanh việc
hình thành thể chế KTTT định hướng XHCN và quá trình hội nhập kinh tế khu vực, quốc
tế của Việt Nam; bảo đảm phát huy dân chủ trên lĩnh vực kinh tế trong điều kiện nước ta
hiện nay v.v… và coi đó như là một trong những yếu tố quan trọng để khẳng định sự cần
thiết đối với phát triển KTTN ở nước ta hiện nay. Đáng lưu ý là công trình nghiên cứu của
tác giả Nguyễn Đình Kháng, “KTTN và xu hướng của nó trong nền KTTT định hướng
XHCN”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4/2002. Trong đó, tác giả đưa ra 5 lý do khẳng định
sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong đó có KTTN ở nước ta hiện nay, bao gồm: yêu
4
4
cầu xây dựng QHSX xã hội chủ nghĩa; đặc điểm Việt Nam khi bước vào TKQĐ; vai trò
của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế; thực trạng tiềm lực, khả năng của KTNN, kinh tế tập
thể chưa đủ mạnh để có thể đảm đương được việc đáp ứng nhu cầu của xã hội và đòi hỏi
của tình hình quốc tế hiện nay. Nói tóm lại, sự tồn tại phát triển KTTN trong TKQĐ lên
CNXH ở Việt Nam như trình bày của tác giả là xuất phát từ đặc điểm TKQĐ, từ quy luật
QHSX phải phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của LLSX, từ thực trạng vai trò
KTTN ở nước ta hiện nay. Song, một trong những lý do có thể nói là rất quan trọng quy
định sự tồn tại và phát triển KTTN ở nước ta hiện nay là do yêu cầu của phát triển KTTT
định hướng XHCN thì chưa được đề cập.
Về tác động của phát triển KTTN đến củng cố quốc phòng ở nước ta hiện nay.
Đã có một số công trình của các tác giả nghiên cứu về tác động của phát triển kinh tế nói
chung đến củng cố quốc phòng và xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam. Song, liên quan
đến sự tác động của phát triển KTTN đến củng cố quốc phòng ở Việt Nam hiện nay, đáng
lưu ý có công trình: “Vai trò của KTTN trong phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc”, luận văn thạc sĩ kinh tế, năm 2003 của tác giả Nguyễn
Thanh Bình. Trong đó, tác giả đã tập trung nghiên cứu vai trò của KTTN đối với phát triển
kinh tế và củng cố quốc phòng với một số tác động tích cực: góp phần đẩy nhanh tăng
trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, trên cơ sở đó góp phần bảo đảm cơ sở vật chất,
nguồn nhân lực trong xây dựng quốc phòng; động viên tinh thần cho LLVT, củng cố khối
đại đoàn kết toàn dân; cho phép khai thác tối đa các nguồn lực KT-XH để phát triển kinh tế
và xây dựng thế trận QPTD vững mạnh. Đồng thời, luận văn cũng chỉ ra một số biểu hiện
tiêu cực đối với củng cố quốc phòng khi thực hiện phát triển KTTN: làm ảnh hưởng đến
giác ngộ lý tưởng và tinh thần cách mạng của một bộ phận nhân dân và cán bộ, chiến sĩ
LLVT; công tác bảo đảm kinh tế cho các hoạt động của LLVT thiếu bền vững; việc bố trí
thế trận cũng như quản lý, xây dựng lực lượng DBĐV và dân quân tự vệ gặp nhiều khó
khăn…. Tuy nhiên, những vấn đề luận văn nêu ra chỉ trong phạm vi địa bàn một tỉnh, cụ
thể là tỉnh Vĩnh Phúc.
Về kinh nghiệm của Trung Quốc trong phát triển KTTN và giải quyết tác động
của phát triển KTTN đến củng cố quốc phòng. Đã có một số công trình nghiên cứu đề
cập vấn đề này: “Vai trò khu vực KTTN trong nền kinh tế Trung Quốc” của tác giả Nguyễn
Mậu Quyết, Tạp chí Thị trường giá cả, số 5/2003; “24 năm KTTN Trung Quốc” của tác giả
5
5
Nguyễn Thái Bá Liên, Thời báo kinh tế Sài Gòn, số 3/2003; “10 quan điểm nhận thức thế
nào về CNXH” của tác giả Tiêu Phong (chuyên gia về các vấn đề quốc tế của Trung Quốc),
Thông tin công tác tư tưởng lý luận, số 11/2004; Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam
hiện nay của tác giả Vũ Quốc Tuấn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006; đáng
lưu ý là 2 công trình: “Khu vực KTTN Trung Quốc: Chính sách, quá trình phát triển và
những trở ngại trước mắt” của 2 tác giả: Tiêu Lâm (Trung tâm nghiên cứu kinh tế Trung
Quốc, thuộc Trường Đại học Bắc Kinh), Dương Diêu (Viện Quản lý và Hệ thống kinh tế Văn phòng Hội đồng nhà nước về tái cơ cấu hệ thống kinh tế Trung Quốc) và “Phát triển
khu vực KTTN: kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc” - Báo cáo hội thảo ngày 2122/02/2002 đăng trong Chính sách phát triển kinh tế - kinh nghiệm và bài học của Trung
Quốc, tập 1, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, 2003. Hai công trình này đã trình bày một số
nét cơ bản về quá trình phát triển KTTN ở Trung Quốc cùng với những đổi mới của Trung
Quốc trong lĩnh vực này, đồng thời nêu ra một số kinh nghiệm của Trung Quốc trong phát
triển KTTN mà Việt Nam có thể tham khảo, bao gồm: thống nhất nhận thức, quan điểm về
KTTN; chính trị hoá các hoạt động kinh tế; mở cửa thị trường cho các DNTN; đẩy mạnh
công tác tuyên truyền giáo dục; cải thiện môi trường, điều kiện kinh doanh…. Mặc dù vậy,
một trong những kinh nghiệm có thể nói là rất cơ bản, làm cơ sở cho đổi mới, phát triển
KTTN, đó là đổi mới quan niệm về CNXH và kinh nghiệm về giải quyết tác động của phát
triển KTTN đến củng cố quốc phòng thì chưa được đề cập.
Về các quan điểm và giải pháp vừa thúc đẩy phát triển KTTN vừa bảo đảm củng
cố quốc phòng ở nước ta hiện nay. Các công trình khoa học, văn kiện, nghị quyết của
Đảng đã nêu trên, bên cạnh việc luận giải quan niệm KTTN, vai trò, thực trạng phát triển
KTTN ở nước ta trong những năm qua, dù ít nhiều cũng đều đưa ra các giải pháp nhằm
tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy KTTN phát triển. Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu khác:
“Thực trạng và một số giải pháp nhằm khuyến khích, tạo điều kiện phát triển KTTN” của
tác giả Hoàng Lan - Xuân Tùng, Tạp chí Công nghiệp Việt Nam, số 10/2002; “Khu vực
KTTN ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp phát triển” của tác giả Phạm Quang Trung, Tạp
chí Kinh tế và phát triển, số 75 (9/2003)… cũng đề cập đến các giải pháp nhằm phát triển
KTTN ở nước ta trong thời gian tới. Các giải pháp đưa ra tập trung vào các vấn đề: tiếp tục
hoàn thiện hệ thống luật pháp; tạo môi trường tâm lý, xã hội thuận lợi; đổi mới chính sách
đối với phát triển KTTN… để tạo ra một sân chơi thực sự bình đẳng cho phát triển của
KTTN, tránh sự phân biệt, đối xử làm hạn chế vai trò của KTTN đối với sự nghiệp phát
6
6
triển kinh tế đất nước trong TKQĐ. Tuy nhiên, các giải pháp của các công trình nghiên
cứu, (kể cả Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá IX) - nghị quyết chuyên đề về KTTN) mới chủ
yếu đề cập đến khía cạnh kinh tế, chứ chưa đưa ra các giải pháp vừa thúc đẩy phát triển
KTTN vừa bảo đảm củng cố quốc phòng. Hoặc có đề cập đến việc kết hợp kinh tế với
quốc phòng trong phát triển KTTN như luận văn của tác giả Nguyễn Thanh Bình, nhưng
chưa toàn diện và chỉ có ý nghĩa trên phạm vi địa bàn cụ thể của tỉnh Vĩnh Phúc.
Tóm lại, liên quan đến vấn đề phát triển KTTN trong nền KTTT định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu, được tiếp cận ở nhiều góc
độ khác nhau (sự cần thiết cũng như thực trạng, giải pháp... phát triển KTTN trong nền
KTTT định hướng XHCN). Tuy vậy, chưa có công trình nào đề cập một cách toàn diện, có
hệ thống những vấn đề về phát triển KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, đặc biệt là sự tác động của nó đến củng cố quốc phòng ở Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
* Mục đích:
Luận giải phát triển KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay
và tác động của nó đến củng cố quốc phòng, trên cơ sở đó đề xuất các quan điểm cơ bản và
giải pháp chủ yếu, nhằm vừa thúc đẩy phát triển KTTN vừa bảo đảm củng cố vững chắc
quốc phòng của đất nước.
* Nhiệm vụ:
Từ mục đích nghiên cứu trên đây, luận án có các nhiệm vụ:
- Luận giải những vấn đề cơ bản liên quan đến phát triển KTTN trong nền KTTT
định hướng XHCN và tác động của quá trình đó đến củng cố quốc phòng ở nước ta hiện
nay.
- Tổng quan thực trạng phát triển KTTN cùng những tác động tích cực và tiêu cực
của sự phát triển đó đến củng cố quốc phòng ở nước ta trong thời gian qua.
- Đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm vừa thúc đẩy phát
triển KTTN vừa bảo đảm củng cố quốc phòng ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Kinh tế tư nhân (bao gồm: các hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ và các loại hình
doanh nghiệp của tư nhân như: công ty TNHH, CTCP, DNTN, công ty hợp danh) vận
7
7
động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tác động của nó đến
củng cố quốc phòng ở nước ta.
Tiếp cận KTTN dưới góc độ là một thành phần trong cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần. Đồng thời, nghiên cứu KTTN trong nước và việc phân tích thực trạng phát triển
KTTN được giới hạn trong thời gian từ năm 1986 đến nay, đó là thời gian Đảng ta chủ
trương thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, cùng với quá trình đó KTTN được thừa nhận
và được khuyến khích phát triển.
5. Cơ sở lý luận thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án
* Cơ sở lý luận, thực tiễn của luận án:
Nghiên cứu của luận án được dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác
- lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế chính trị XHCN, kinh tế quân sự, học thuyết bảo
vệ Tổ quốc, chiến tranh quân đội và các văn kiện của Đảng, Nhà nước về KTTN. Đồng
thời, các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê của các cơ quan Đảng, Nhà nước; các công
trình nghiên cứu liên quan đến đề tài đã được công bố… là cơ sở lý luận, thực tiễn của luận
án.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, đề tài sử dụng tổng hợp
các phương pháp của khoa học xã hội và nhân văn, trong đó chú trọng các phương pháp:
trừu tượng hoá khoa học, hệ thống, phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, thống kê so
sánh và phương pháp chuyên gia.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Đưa ra quan niệm, nội dung phát triển KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN
và khẳng định phát triển KTTN là yêu cầu nội tại trong phát triển nền KTTT định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay, đồng thời chỉ ra sự khác biệt giữa KTTN trong nền KTTT định
hướng XHCN với KTTN dưới chủ nghĩa tư bản.
- Trên cơ sở phân tích và đánh giá có căn cứ lý luận và thực tiễn tác động của phát
triển KTTN đến củng cố quốc phòng thời gian qua, đưa ra một số dự báo về xu hướng vận
động phát triển của KTTN nước ta trong những năm tới cùng những vấn đề đặt ra đối với
phát triển KTTN và củng cố quốc phòng trong quá trình phát triển KTTN ở nước ta hiện
nay.
8
8
- Các quan điểm và giải pháp đưa ra vừa bảo đảm thúc đẩy phát triển KTTN vừa
bảo đảm củng cố vững chắc quốc phòng của đất nước đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng và BVTQ trong điều kiện hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Góp phần luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển KTTN trong
nền KTTT định hướng XHCN và sự tác động của quá trình đó đối với sự nghiệp củng cố
quốc phòng ở nước ta. Trên cơ sở đó, góp phần nâng cao nhận thức trách nhiệm của các
cấp, các ngành, của mọi công dân đối với phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng,
BVTQ.
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy một số
nội dung thuộc các môn: kinh tế chính trị XHCN, kinh tế quân sự, học thuyết BVTQ trong
các nhà trường quân sự.
8. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: mở đầu, 3 chương (8 tiết), kết luận, 5 danh mục các công trình của
tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài luận án, 102 danh mục tài liệu tham khảo và 13
phụ lục.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐẾN CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG
1.1. Kinh tế tư nhân và phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
1.1.1. Quan niệm về kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa
Ở nước ta, cho đến trước khi có Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá IX), Nghị quyết
Đại hội Đảng X, khái niệm KTTN vẫn chưa có một nội hàm xác định. Đại hội Đảng VI
nêu ra sáu thành phần kinh tế, trong đó có hai thành phần: thành phần kinh tế tiểu sản xuất
hàng hoá (bao gồm thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh
dịch vụ cá thể) và thành phần kinh tế tư bản tư nhân được hiểu là những thành phần
KTTN. Trong Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong TKQĐ được thông qua tại Đại hội
9
9
Đảng VII chỉ nói đến thành phần kinh tế cá thể, còn trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương trình Đại hội VII thì thành phần này được gọi là thành phần kinh tế cá
thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân cùng kinh tế cá thể, tiểu chủ được coi là hai thành
phần kinh tế hợp thành KTTN. Trong tập số liệu thống kê “Kinh tế ngoài quốc doanh thời
mở cửa 1991 - 1995” của Tổng cục Thống kê chia kinh tế ngoài quốc doanh thành: công ty
TNHH, CTCP, DNTN, hợp tác xã (ở đây không kể kinh tế cá thể, tiểu chủ và không tách
riêng kinh tế tư bản tư nhân). Trong Niên giám thống kê năm 1999, tách riêng thành phần
KTTN và thành phần kinh tế cá thể. Trong giới nghiên cứu kinh tế, có người coi doanh
nghiệp tư bản tư nhân chỉ là một bộ phận của KTTN, có người cho rằng KTTN với kinh tế
tư bản tư nhân là một. Có người lại gần như đồng nhất KTTN với khu vực doanh nghiệp
ngoài quốc doanh. Trong bài “Tình hình phát triển kinh tế Việt Nam 1989 - 1995” (phân
tích dựa theo cơ cấu thành phần kinh tế), Tiến sĩ Vũ Quang Việt - Cục thống kê Liên hợp
quốc, ghi chú: “theo định nghĩa, một doanh nghiệp (hay công ty) sẽ được coi là ngoài quốc
doanh nếu như tư nhân làm chủ hơn 50% cổ phiếu. Hầu hết doanh nghiệp có vốn hợp tác
với nước ngoài đều thuộc khu vực ngoài quốc doanh…” [99, tr.3]. Theo cách phân chia
thành phần kinh tế trong Văn kiện Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam thì nền kinh tế
quốc dân ở nước ta bao gồm sáu thành phần kinh tế là: KTNN; kinh tế tập thể; kinh tế cá
thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Trong các thành phần trên, có thể hiểu kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân là thuộc về KTTN. Thực ra, kinh tế có 100% vốn nước ngoài cũng nằm trong KTTN
(nếu thuộc sở hữu tư nhân) hoặc theo quan niệm của Tiến sĩ Vũ Quang Việt đã nêu ở trên
thì tất cả các doanh nghiệp mà tư nhân trong nước hoặc nước ngoài nắm trên 50% vốn đầu
tư đều được coi là KTTN. Điều đó cho thấy, quan niệm về KTTN cũng còn có nhiều khác
nhau. Thuật ngữ KTTN được chính thức sử dụng từ Hội nghị Trung ương 6, Khoá VI
(3/1989). Song, cho đến Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá
IX), trong Nghị quyết số 14/NQ/TƯ về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích
và tạo điều kiện phát triển KTTN thì quan niệm về KTTN được xác định: gồm kinh tế cá
thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và
các loại hình doanh nghiệp của tư nhân [25, tr.55]. Đại hội X (4/2006) tiếp tục khẳng định
và làm rõ hơn quan niệm trên về KTTN. Đại hội chỉ rõ: “Trên cơ sở 3 chế độ sở hữu (toàn
dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế:
10
10
KTNN, kinh tế tập thể, KTTN (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài” [26, tr.83]. Theo quan điểm Đại hội X, trên cơ sở 3 chế
độ sở hữu cơ bản hiện đang tồn tại ở nước ta, hình thành nên các thành phần kinh tế với
những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, trong đó có KTTN. Kinh tế tư nhân là thành
phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân với quy mô, trình độ phát triển từ thấp (kinh tế
cá thể tiểu chủ) đến cao (kinh tế tư bản tư nhân).
Tiêu thức cơ bản để xác định một thành phần kinh tế, một hình thức tổ chức SX,KD
nào đó có thuộc KTTN hay không là QHSX, trước hết là quan hệ sở hữu. Theo đó, KTTN
là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (hoặc vốn) với các
hình thức tổ chức SX,KD như doanh nghiệp, CTCP, công ty TNHH, công ty hợp danh và
các cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ. Để thấy được bản chất của KTTN, cần được xem xét nó
trên ba mối quan hệ cơ bản, đó là: quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối.
Xét về quan hệ sở hữu, là quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (hoặc vốn)
cũng như phần của cải vật chất được tạo ta từ tư liệu sản xuất (hay vốn) đó. Sở hữu tư nhân
cũng phát triển từ trình độ thấp đến trình độ cao. Nó bao gồm sở hữu tư nhân nhỏ là sở hữu
của những người lao động tự do, sản xuất ra sản phẩm nhờ lao động của chính mình và các
thành viên trong gia đình (như thợ thủ công, cá thể, tiểu thương, các hộ nông dân…) và sở
hữu tư nhân lớn của các nhà SX,KD trong nước.
Xét về quan hệ quản lý, xuất phát từ quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý của KTTN
cũng được chia thành hai loại: quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ là quan hệ dựa
trên sự tự tổ chức, điều hành hay tổ chức, điều hành, phân công công việc trong nội bộ gia
đình, giữa các thành viên gia đình với nhau; quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân lớn
là, quan hệ quản lý giữa chủ và thợ, giữa người sử dụng lao động với lao động làm thuê.
Xét về quan hệ phân phối, trong KTTN, quan hệ phân phối dựa trên cơ sở các loại
hình sở hữu tư nhân khác nhau có sự khác nhau. Đối với các cơ sở SX,KD mà người sở
hữu đồng thời là người trực tiếp lao động, không thuê mướn nhân công thì phân phối kết
quả sản xuất là tự phân phối trong nội bộ chủ thể kinh tế đó. Còn đối với các cơ sở SX,KD
mà chủ sở hữu tư liệu sản xuất (hay vốn) sử dụng lao động làm thuê thì phân phối kết quả
sản xuất căn cứ vào giá trị sức lao động của lao động làm thuê và sở hữu tư liệu sản xuất
(hay vốn) của chủ sở hữu.
11
11
Tuy nhiên, cần thấy rằng về mặt lý luận thì kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản
tư nhân có sự khác nhau về trình độ phát triển LLSX và bản chất QHSX, nhưng thực tế
Việt Nam hiện nay, để khẳng định ta có tư bản tư nhân chưa, là vấn đề còn nhiều quan
niệm khác nhau. Bởi lẽ, một mặt do KTTN nước ta đang trong quá trình vận động biến đổi
cùng với tốc độ phát triển nhanh chóng của sức sản xuất xã hội và sự ảnh hưởng của các
yếu tố thời đại, đặc điểm ngành nghề, lĩnh vực SX,KD. Mặt khác, KTTN lại vận động
trong môi trường phát triển KTTT định hướng XHCN. Do vậy, việc xác định như thế nào
là kinh tế tư bản tư nhân cả về định tính và định lượng, nhất là về mặt định lượng hiện nay
là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
Việc Đại hội Đảng X gộp kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân, gọi chung là
KTTN vừa là sự kế thừa lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin về phân chia thành phần kinh
tế vừa là sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam. Điều
này có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy LLSX phát triển, phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp
phát triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh toàn cầu hoá và
hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu rộng hiện nay.
Như vậy, KTTN là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất (hoặc vốn). Do đó, lợi nhuận là mục tiêu cao nhất mà KTTN theo đuổi. Điều này cho
thấy, bên cạnh việc thúc đẩy cạnh tranh, kích thích cải tiến kỹ thuật, quản lý, nâng cao hiệu
quả SX,KD, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá, dịch vụ… cho xã hội, KTTN cũng chứa đựng
yếu tố tự phát (buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại, làm gia tăng khoảng cách giầu
nghèo và sự chênh lệch giữa các vùng miền của đất nước, coi trọng lợi ích vật chất đơn
thuần mà ít quan tâm đến các vấn đề xã hội cũng như lợi ích quốc phòng - an ninh, bởi
điều này sẽ làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của chủ KTTN…) và như vậy sẽ làm tăng nguy
cơ chệch hướng XHCN trong quá trình phát triển nếu sự quản lý của nhà nước không được
thực hiện một cách có hiệu quả.
Mặc dù vậy, cũng cần thấy rằng là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân
- nền KTTT định hướng XHCN, bởi vậy, KTTN nước ta hiện nay có nét đặc thù hay nói
cách khác là những đặc điểm khác với KTTN dưới chủ nghĩa tư bản:
Thứ nhất, KTTN không tồn tại và phát triển trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa,
trong thể chế tư bản chủ nghĩa và giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế, mà là một bộ phận
trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng
12
12
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với các thành phần kinh tế khác. Trong
đó, KTNN giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng
và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế
cùng phát triển, KNNN cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân.
Thứ hai, KTTN là sản phẩm của công cuộc đổi mới của đất nước. Điều đó có nghĩa
là, cùng với việc thực hiện đường lối đổi mới ở nước ta, KTTN được chính thức thừa nhận
và khuyến khích phát triển trong tất cả những ngành nghề, lĩnh vực SX,KD mà pháp luật
không cấm, nhằm tăng cường LLSX, thúc đẩy kinh tế phát triển. Còn trước đổi mới,
KTTN mặc dù vẫn tồn tại trên thực tế, nhưng không được pháp luật thừa nhận, bảo vệ.
Chính vì KTTN là sản phẩm của công cuộc đổi mới, được sử dụng cho việc thực hiện mục
tiêu của công cuộc đổi mới, do vậy chủ trương phát triển KTTN ở nước ta hiện nay là
nhằm góp phần sớm hiện thực hoá các mục tiêu KT - XH của TKQĐ, chứ không phải để
đưa đất nước phát triển theo con đường của chủ nghĩa tư bản.
Thứ ba, cũng như các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân, ngoài
việc chịu sự tác động của các quy luật KTTT, kinh tế tư nhân nước ta còn chịu sự chi phối,
quản lý, điều tiết của nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ của nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân và vì dân, nhằm thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ tư, KTTN nước ta tồn tại và phát triển trong điều kiện Đảng ta là Đảng cầm
quyền, Đảng có chính quyền, điều này hoàn toàn khác với lợi ích của KTTN ở các nước tư
bản. Trong điều kiện đó, bằng cơ chế, chính sách và những đòn bẩy kinh tế, Đảng, Nhà
nước ta hướng KTTN vào những ngành, những địa bàn, những mặt hàng SX,KD đáp ứng
nhu cầu của nhân dân, vừa bảo đảm lợi ích của đất nước vừa giữ vững định hướng XHCN
trong quá trình phát triển.
Thứ năm, khác với KTTN trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, các chủ KTTN là
người của giai cấp tư sản, tiểu tư sản. Còn ở nước ta, chủ KTTN đại đa số là con em lao
động, trong đó có cả cán bộ, viên chức nhà nước nghỉ hưu, mất sức, chuyển ngành, bộ
đội phục viên, xuất ngũ và nhiều người trong số họ là đảng viên v.v…
Đó là chính là sự khác biệt giữa KTTN ở nước ta hiện nay (KTTN trong nền KTTT
định hướng XHCN) với KTTN tư bản chủ nghĩa. Sự khác biệt đó cho thấy, KTTN nước ta
13
13
hiện nay không còn nguyên nghĩa như KTTN trong chủ nghĩa tư bản. Điều này là một
trong những yếu tố quan trọng lý giải cho sự cần thiết không những tồn tại, mà cần được
khuyến khích phát triển đối với KTTN hiện nay.
1.1.2. Sự cần thiết và nội dung phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.1.2.1. Quan niệm về phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Các công trình nghiên cứu về phát triển KTTN và phát triển KTTN trong nền
KTTT định hướng XHCN ở nước ta, mặc dù chưa có công trình nào đưa ra khái niệm
hay quan niệm cụ thể về phát triển KTTN và phát triển KTTN trong nền KTTT định
hướng XHCN, song khi luận giải về thực trạng cũng như các quan điểm hay giải pháp
phát triển KTTN, các công trình nghiên cứu đều đề cập đến một số nội dung như: sự
gia tăng về số lượng, quy mô các hình thức hoạt động của KTTN cùng với việc thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao trình độ, hiệu quả SX,KD cũng như mức độ
huy động vốn, giải quyết việc làm của KTTN… để nói đến sự phát triển KTTN.
Để làm rõ quan niệm phát triển KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN, trước
hết đi từ quan niệm về phát triển nói chung và phát triển kinh tế nói riêng. Theo từ điển
bách khoa Việt Nam: “phát triển: phạm trù triết học chỉ ra tính chất của những biến đổi
đang diễn ra trong thế giới. Không đơn giản chỉ có biến đổi, mà luôn luôn chuyển sang
những trạng thái mới, tức là những trạng thái trước đây chưa từng có và không bao giờ lặp
lại hoàn toàn trạng thái đã có” [95, tr.434]. Còn “phát triển kinh tế: quá trình biến đổi nền
kinh tế quốc dân bằng một sự gia tăng sản xuất và nâng cao mức sống dân cư. Đối với các
nước đang phát triển thì phát triển kinh tế là quá trình nền kinh tế chậm phát triển thoát
khỏi lạc hậu, đói nghèo thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá; là sự tăng trưởng kinh tế
gắn liền với sự thay đổi cơ cấu kinh tế, thể chế kinh tế, văn hoá, pháp luật, thậm chí về kỹ
năng quản lý, phong cách và tập tục…” [94, tr.425]. Theo quan niệm của Đại học kinh tế
quốc dân: phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi mặt
của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó, bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô
sản xuất (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu KT-XH.
Từ quan niệm nêu trên về phát triển nói chung, phát triển kinh tế nói riêng cho thấy,
phát triển kinh tế bao hàm trong đó nhiều đặc trưng khác nhau, song đặc trưng có thể nói là
14
14
cơ bản nhất và không thể không được tính đến khi nói đến phát triển kinh tế đó là, sự vận
động, biến đổi của nền kinh tế bằng một sự gia tăng (hay tăng thêm) về quy mô sản xuất
(tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu KT-XH.
Trên cơ sở quan niệm về phát triển kinh tế, có thể hiểu phát triển KTTN trên
một số nội dung cơ bản như: phát triển KTTN trước hết, là sự vận động, biến đổi của
KTTN thể hiện ở sự gia tăng về số lượng, quy mô của nó (bao gồm cả vốn và lao
động). Thứ hai, cùng với sự tăng thêm về số lượng, quy mô là sự chuyển dịch về cơ cấu
(ngành, vùng...) của KTTN theo hướng tiến bộ, hiệu quả. Thứ ba, trình độ, hiệu quả
SX,KD trong KTTN không ngừng được nâng lên v.v... và sự phát triển của KTTN diễn
ra trong môi trường của KTTT, chịu sự tác động, chi phối của các quy luật KTTT.
Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại, đã đạt đến trình độ phát
triển nhất định từ những nền sản xuất hàng hoá trước khi chủ nghĩa tư bản ra đời, bởi
vậy, tuy nó được phát triển tới trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản, nhưng bản thân KTTT
không đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản. KTTT là một kiểu tổ chức KT-XH và ngày nay
nó đã trở thành mô hình phát triển kinh tế của hầu khắp các nước trên thế giới, mặc dù sự
áp dụng mô hình này ở mỗi nước có sự khác nhau. Với tư cách là một phương thức hay
phương tiện chứ không phải mục đích, KTTT hoàn toàn có thể và cần thiết sử dụng trong
tiến trình xây dựng CNXH. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một thuật ngữ mới
với nhiều cách khái quát khác nhau. Tuy nhiên, qua những cách mô tả về bản chất, mục
đích của KTTT xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc và KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
có thể thấy, mô hình KTTT này vừa bao hàm những nhân tố của KTTT lại vừa có những
nhân tố định hướng XHCN với mục đích cuối cùng là phát triển kinh tế đạt hiệu quả cao
nhưng vẫn bảo đảm thực hiện công bằng xã hội ngày một tốt hơn. Vì vậy, có thể hiểu:
KTTT định hướng XHCN là một phạm trù kinh tế chính trị, phản ánh bản chất và mục
đích của nền sản xuất xã hội, đó là nền kinh tế vận động dựa trên các quy luật khách
quan, đặc biệt là các quy luật của thị trường, có sự quản lý của nhà nước để xây dựng
QHSX mới, tiến bộ nhằm thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Nói cách khác, KTTT định hướng XHCN là một nền kinh tế dựa trên
cơ sở kết hợp ưu thế của chế độ kinh tế năng động với ưu thế của chế độ chính trị tiên
tiến; kết hợp mặt tích cực của cơ chế thị trường với sự điều tiết vĩ mô của nhà nước nhằm
hạn chế, khắc phục các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; kết hợp hài hoà giữa tăng
15
15
trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Điều đó cho thấy, KTTT định
hướng XHCN có nghĩa đây không phải là KTTT tự do theo kiểu TBCN, cũng không phải
kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu bao cấp và cũng chưa hoàn toàn là
KTTT xã hội chủ nghĩa, bởi lẽ nước ta còn đang ở trong TKQĐ lên CNXH, còn có sự
đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của
CNXH.
So với KTTT tư bản chủ nghĩa, KTTT định hướng XHCN có những đặc trưng cơ
bản như: về mục đích, nhằm phát triển LLSX, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất
- kỹ thuật của CNXH nâng cao đời sống nhân dân, phát triển LLSX hiện đại gắn liền với
xây dựng QHSX mới. Việc sử dụng cơ chế thị trường cũng như các hình thức và phương
pháp quản lý của KTTT định hướng XHCN là để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh
thần năng động, sáng tạo của người lao động, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm
hiện thực hoá các mục tiêu KT-XH của CNXH chứ không để cho thị trường tự phát theo
con đường tư bản chủ nghĩa. Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế, thực hiện đa
dạng hoá các hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế, trong đó KTNN giữ vai trò chủ
đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo
môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Về chế độ quản lý, KTTT định hướng XHCN đặt dưới sự quản lý của nhà nước XHCN nhà nước của dân, do dân và vì dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, bảo vệ lợi ích của đại đa
số nhân dân lao động. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách, pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng KTNN; đồng thời phát
huy mặt tích cực, hạn chế khắc phục những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ
lợi ích của nhân dân lao động và lợi ích của toàn dân tộc. Về chế độ phân phối, thực hiện
phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả sản xuất là chủ yếu, đồng thời phân phối theo
mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào SX,KD và phân phối thông qua phúc lợi xã
hội. Trong nền KTTT định hướng XHCN, tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ
và công bằng xã hội trong toàn bộ quá trình phát triển và ngay trong từng bước phát triển
của nền kinh tế.
Từ những luận giải trên về phát triển KTTN, nền KTTT định hướng XHCN, có
thể hiểu: phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
16
16
nghĩa là sự vận động, biến đổi của các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh dựa trên
chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất dưới tác động của các quy luật kinh tế thị
trường và sự định hướng, dẫn dắt của nhà nước xã hội chủ nghĩa, thể hiện ở sự gia tăng
về số lượng, quy mô cùng với sự chuyển dịch về cơ cấu, trình độ sản xuất, kinh doanh theo
hướng tiến bộ, hiệu quả...nhằm góp phần hiện thực hoá các mục tiêu kinh tế - xã hội trong
thời kỳ quá độ.
Như vậy, phát triển KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN được tiếp cận
theo hướng kết hợp cả phát triển thành phần kinh tế và lực lượng kinh tế, đồng thời đặt
trong mối quan hệ với các thành phần kinh tế khác trong cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần của nền kinh tế quốc dân.
Phát triển KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN, một mặt bao hàm sự phát
triển KTTN nói chung (số lượng, quy mô; cơ cấu; trình độ trang thiết bị, công nghệ; trình
độ lao động, quản lý; hiệu quả SX,KD...). Mặt khác, sự phát triển đó còn bảo đảm góp
phần tích cực trong việc hiện thực hoá các mục tiêu KT-XH trong thời kỳ quá độ như: huy
động vốn cho SX,KD; tạo và giải quyết việc làm cho người lao động; tăng thu cho ngân
sách nhà nước cũng như nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống người lao động v.v.... Hơn
nữa, sự phát triển KTTN không phải diễn ra trong môi trường KTTT tư bản chủ nghĩa, mà
diễn ra trong môi trường phát triển KTTT định hướng XHCN. Do đó, phát triển KTTN
đồng thời chịu sự chi phối của cả quy luật KTTT (quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy
luật cung - cầu…) và sự quản lý, định hướng của nhà nước. Mặt khác, sự phát triển của
KTTN ở nước ta hiện nay không chỉ diễn ra trong phạm vi quốc gia và chịu sự tác động
của các yếu tố trong quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN, mà còn diễn ra
trong điều kiện của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế khu vực, quốc tế của đất nước đang
diễn ra sâu rộng, mạnh mẽ.
Phát triển KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN xuất hiện cùng với việc
Đảng, Nhà nước ta chủ trương thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Còn trước
đổi mới, trong nhiều năm do nhận thức về CNXH và TKQĐ còn nhiều hạn chế nên quá
trình xây dựng CNXH ở nước ta cũng là quá trình thực hiện “cải tạo XHCN” đối với
KTTN. Theo đó, KTTN không được pháp luật thừa nhận, bị coi đối tượng cần phải xoá bỏ
càng nhanh càng tốt. Từ khi Đảng ta chủ trương thực hiện đường lối đổi mới, KTTN trong
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được thừa nhận và khuyến khích phát triển trong những
17
17
ngành nghề, lĩnh vực SX,KD mà pháp luật không cấm. Qua các kỳ đại hội Đảng (kể từ Đại
hội VI) và các hội nghị Trung ương, phát triển KTTN luôn là vấn đề được quan tâm, chú
trọng trong chủ trương, đường lối phát triển KT-XH của đất nước. Trong đó, KTTN được
xác định: là bộ phận cấu thành quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế,
đồng thời phát triển KTTN là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần định hướng XHCN.
1.1.2.2. Sự cần thiết phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Sự tồn tại và phát triển KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN hiện nay là một
đòi hỏi khách quan. Điều đó được quy định bởi: đặc điểm của bản thân TKQĐ; quy luật
QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX; yêu cầu nội tại của phát
triển KTTT định hướng XHCN và vai trò của KTTN.
Thứ nhất, phát triển KTTN được quy định bởi đặc điểm của TKQĐ. Khái quát về
đặc điểm trong TKQĐ, Các-Mác đã dự báo đây là thời kỳ mà về mọi phương diện kinh tế,
đạo đức, tinh thần… còn mang nhiều “dấu vết” của xã hội cũ. Mác coi: “Cái xã hội mà
chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những
cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa mới thoát thai từ xã
hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần
- còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra” [61, tr.33]. Khi TKQĐ lên
CNXH đã trở thành hiện thực ở Nga, Lê nin chỉ rõ: “Thời kỳ đó không thể không bao gồm
những đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy
không thể nào lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giẫy chết
và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh, hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị
đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất
non yếu”. Hoặc “… CNXH từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có
nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ
nghĩa tư bản và CNXH không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có” [54, tr.309,310]. Như
vậy, theo Lê nin đặc điểm kinh tế của TKQĐ lên CNXH là nền kinh tế còn tồn tại những
thành phần của cả hai kết cấu kinh tế của CNXH và chủ nghĩa tư bản. Đó là đặc điểm phổ
biến đối với tất cả các nước khi bước vào TKQĐ lên CNXH, không kể nước đó đã qua
phát triển chủ nghĩa tư bản hay chưa qua phát triển chủ nghĩa tư bản. Thực tiễn ở nước Nga
18
18
cho thấy, trong TKQĐ lên CNXH cũng tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong đó có: kinh
tế kiểu gia trưởng, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế tư bản chủ nghĩa, kinh tế tư bản
nhà nước, kinh tế XHCN. Còn đối với nước chậm phát triển như nước ta, thì kết cấu kinh
tế đa dạng ấy còn phải kể đến những mảnh, những bộ phận của kết cấu kinh tế tiền phong
kiến và phong kiến v.v.... Từ đặc điểm kinh tế của TKQĐ nêu trên cho thấy, KTTN còn tồn
tại và phát triển trong TKQĐ lên CNXH là một yêu cầu không thể thiếu.
Thứ hai, do yêu cầu của quy luật về sự thích ứng của QHSX với tính chất, trình độ
phát triển của LLSX. Quan hệ sản xuất và LLSX là hai mặt hợp thành của phương thức sản
xuất, có tác động qua lại biện chứng với nhau. Tương ứng với một trình độ phát triển nhất
định của LLSX, có một QHSX nhất định. Đồng thời, QHSX cũng có tác động ngược lại
đối với sự phát triển của LLSX theo hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm. Quan hệ sản xuất
không bao giờ ở trạng thái tĩnh, nó luôn luôn vận động và phát triển gắn liền với sự vận
động và phát triển của LLSX. Khi mà QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của LLSX thì nó tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ của LLSX. Ngược lại,
nó sẽ kìm hãm LLSX phát triển. Nói về mối quan hệ biện chứng giữa QHSX và LLSX,
Đại hội VI của Đảng đã nêu lên một luận điểm mới: “LLSX bị kìm hãm không chỉ trong
trường hợp QHSX lạc hậu, mà cả khi QHSX phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi
quá xa so với trình độ phát triển của LLSX” [21, tr.57]. Như vậy, quy luật về một hình thức
nhất định của QHSX phải tương ứng với một trình độ nhất định của LLSX là một quy luật
phổ biến của mọi thời đại kinh tế. Không thể xoá bỏ một hình thức QHSX nào đó, khi
LLSX tương ứng với nó đang còn sức sống, đang còn là một tất yếu đối với xã hội. Việc
tồn tại thành phần kinh tế này, hay thành phần kinh tế khác không phụ thuộc ý chí chủ
quan mà phụ thuộc vào thành phần kinh tế ấy còn giữ vai trò như thế nào đối với sự phát
triển của nền kinh tế quốc dân. Quan niệm về xoá tất cả các hình thức sở hữu tư nhân, công
hữu tất cả các tư liệu sản xuất trong TKQĐ, thoát ly sự phát triển của LLSX là một quan
niệm sai lầm. Chính Lê nin, khi nói về sở hữu tư nhân trong TKQĐ đã khẳng định: “Không
đập tan cái cơ cấu kinh tế và xã hội cũ, thương nghiệp, tiểu nông, công nghiệp nhỏ, chủ
nghĩa tư bản mà là chấn hưng thương nghiệp, công nghiệp nhỏ, chủ nghĩa tư bản, bằng
cách cố gắng nắm vững những cái đó một cách thận trọng và từng bước, hoặc bằng cách
nhà nước điều tiết những cái đó” [55, tr.275].
19
19
Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu nội tại của phát triển nền KTTT định hướng XHCN.
Về mặt lý luận chúng ta thừa nhận rằng, hàng hoá, thị trường và gắn với chúng là các phạm
trù cung - cầu, giá cả, giá trị, lợi nhuận, cạnh tranh… phản ánh các mối quan hệ chung của
cơ chế thị trường, phản ánh tổng thể các mối quan hệ giữa con người với con người phát
sinh trong quá trình sản xuất - phân phối - trao đổi và tiêu dùng. Mặt khác, chúng ta lại
thấy rằng, các khái niệm, phạm trù trên luôn tồn tại gắn liền với một nền kinh tế hiện thực
của mỗi quốc gia dân tộc trên một vùng lãnh thổ cụ thể (chẳng hạn, nền KTTT Mỹ, nền
KTTT xã hội Cộng hoà liên bang Đức, hay nền KTTT xã hội mang đặc sắc Trung Quốc…)
[27, tr.3]. Bởi lẽ, mỗi nước khác nhau có trình độ kinh tế, kết cấu xã hội, phong tục tập
quán khác nhau, nên cùng một mô hình KTTT lại có các thể chế kinh tế khác nhau, vừa
phản ánh các mối quan hệ chung bản chất của KTTT, vừa phản ánh các quan hệ đặc thù
trong từng phương thức sản xuất và sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế. Điều đó
cho thấy, mô hình KTTT định hướng XHCN vừa mang những cái phổ biến của mô hình
KTTT nói chung và cái đặc thù của mô hình trong KTTT định hướng XHCN nói riêng.
Ngoài cái đặc thù bị chi phối bởi các nguyên tắc, bản chất của CNXH, thì cái phổ biến
(những thuộc tính, quy luật chung) của KTTT mà KTTT định hướng XHCN cũng nhất
thiết phải có là:
- Cơ sở kinh tế mang tính đa dạng về sở hữu và thành phần kinh tế để bảo đảm
tính tự chủ, tự do SX,KD… của các chủ thể kinh tế, trong đó KTTN có vai trò quan trọng
trong việc làm sống động thị trường.
- Các phạm trù kinh tế vốn có của KTTT như: hàng hoá, tiền tệ, thị trường, cạnh
tranh, cung cầu, giá cả, giá cả thị trường và lợi nhuận được phát huy đầy đủ chức năng
của mình.
- Nền kinh tế chịu sự tác động hàng ngày, hàng giờ của các quy luật kinh tế khách
quan của KTTT (quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cung - cầu và quy
luật cạnh tranh).
- Cơ chế thị trường là cơ chế kinh tế tất yếu, vì chỉ thông qua cơ chế thị trường mới
liên kết được các nhà sản xuất riêng lẻ vào hoạt động kinh tế của quốc gia. Đồng thời, cạnh
tranh là tất yếu để tồn tại của các đơn vị kinh tế.
20
20
- Nhà nước quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch,
phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường bảo vệ lợi
ích của người lao động và của toàn thể nhân dân.
- Đó là một nền kinh tế mở (mở rộng thị trường dân tộc và từng bước hội nhập vào
thị trường khu vực và quốc tế).
Từ những thuộc tính chung của KTTT cho thấy, sự tồn tại sở hữu tư nhân và
KTTN là một yếu tố không thể thiếu trong nền KTTT định hướng XHCN. Bởi lẽ, như
chúng ta đã biết, sở hữu tư nhân có quy luật phát sinh, tồn tại, phát triển và kết thúc vai
trò lịch sử của nó. Phân công lao động xã hội và sở hữu tư nhân chính là tiền đề ra đời
sản xuất hàng hoá. Mỗi bước phát triển sản xuất hàng hoá lại thúc đẩy phân công lao
động xã hội đạt tới một trình độ cao hơn và sở hữu tư nhân, KTTN cũng đạt tới bước
phát triển tương ứng. Trong thực tiễn, sở hữu tư nhân là yếu tố “cốt lõi” của nền kinh tế
hàng hoá và là nhân tố rất quan trọng của QHSX. Phân công lao động xã hội là tác nhân
thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển theo bề rộng và chiều sâu. Kinh tế hàng hoá phát
triển ở trình độ cao, hình thành nền KTTT. Kinh tế thị trường cao hơn kinh tế hàng hoá
truyền thống về trình độ công nghệ, cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý và tính chất xã hội hoá
của nó. Ở nước ta, thực hiện phát triển KTTT định hướng XHCN, mà đặc trưng vốn dĩ
của KTTT vẫn là đa sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Bởi vậy, sở hữu tư nhân và
KTTN vẫn còn có vị thế và vai trò quan trọng khi mà nền kinh tế còn chưa đạt đến trình
độ “sở hữu xã hội”. Trong điều kiện KTTT phát triển, hai yếu tố quan trọng cùng tồn tại
của nền kinh tế hàng hoá là sở hữu tư nhân và phân công lao động xã hội đang có xu thế
phát triển mạnh mẽ, vượt qua biên giới quốc gia, tiến tới xã hội hoá mang tính quốc tế.
Điều đó cho thấy, sở hữu tư nhân và KTTN trong điều kiện phát triển KTTT định hướng
XHCN vẫn còn lý do phát triển lâu dài. Hơn nữa, có thể thấy, nội hàm của KTTT định
hướng XHCN ở Việt Nam được nhìn theo hai góc độ: thứ nhất, để định hướng XHCN
phải lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo. Bởi, kinh tế nhà nước được coi như công cụ chịu
sự chi phối về chế độ chính trị của nhà nước; thứ hai, để có KTTT thì không thể không
có KTTN. Vì KTTN không chỉ là “vốn tính” của KTTT, mà còn là động lực cơ bản của
nền kinh tế đó [91, tr.10]. Chịu sự chi phối của động cơ tìm kiếm lợi nhuận, bằng sự năng
động, sáng tạo hầu như không có giới hạn. Kinh tế tư nhân phản ứng nhanh nhất trước
những mất cân đối cung cầu. Chủ KTTN có ý thức và hành động cạnh tranh quyết liệt
21
21
nhất, đồng thời cũng có ham muốn mở rộng thị phần, giành thế độc quyền mạnh mẽ nhất,
luôn theo dõi thị trường và sẵn sàng cung ứng cho thị trường những sản phẩm hàng hoá
và dịch vụ phù hợp nhất với nhu cầu thị trường cũng như giá trị thị trường, vì chính thị
trường quyết định sự tồn tại hay không tồn tại của chính họ. Lịch sử phát triển của KTTT
cho thấy, quá trình phát triển của KTTT gắn liền với quá trình đa dạng hoá các hình thức
sở hữu về tư liệu sản xuất, điều này đồng nghĩa với quá trình đa dạng hoá các chủ thể
tham gia KTTT. Nếu như quá trình phát triển KTTT chia thành ba giai đoạn là: giai đoạn
chuyển đổi, KTTT tự do và KTTT hiện đại, thì quá trình đa dạng hoá sở hữu cũng từ tư
hữu nhỏ chuyển thành tư hữu lớn và đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Điều đó chứng tỏ,
để có một nền KTTT phát triển thì không thể không có sự phát triển của KTTN. Khi
nghiên cứu về KTTT, các nhà nghiên cứu cũng cho rằng, một nền KTTT hoạt động tốt
cần có năm đặc điểm chủ yếu như: 1) phân phối các nguồn lực một cách hiệu quả; 2) tạo
ra những nguồn lực mới thông qua việc đổi mới sản phẩm và đổi mới quá trình xử lý; 3)
thích nghi nhanh chóng và có hiệu quả trước sự thay đổi hoàn cảnh; 4) duy trì sự ổn
định kinh tế, tránh được những hiện tượng thất nghiệp và lạm phát cao; 5) tạo hiệu
quả xã hội mong muốn, tránh phân hoá giầu nghèo quá mức [1, tr.54]. Nếu hai đặc
điểm 4 và 5 quy định vai trò của nhà nước và kinh tế nhà nước, thì các đặc điểm 1, 2
và 3 thể hiện rõ nhất vai trò của KTTN. Như vậy, rõ ràng KTTN là thành phần kinh tế
hội đủ các điều kiện, đặc trưng đối với sự phát triển của KTTT nói chung, phát triển
KTTN là yêu cầu tất yếu trong nền KTTT định hướng XHCN. Theo các nhà kinh tế
học, trong đó có Kornai Janos thì, KTTN có vai trò quyết định trong việc hình thành
và thực thi cơ chế điều tiết tự nhiên của nền KTTT. Chính vì vậy, ông cho rằng không
thể có một nền KTTT thực sự với một khu vực tư nhân ốm yếu [15, tr.11]. Hay như,
Joseph Stigliz - chủ nhân của giải thưởng Nobel kinh tế năm 2001, khi nói về nền
kinh tế Việt Nam, ông đã khẳng định: một nền kinh tế phát triển mạnh không thể
không tính tới khu vực tư nhân. Chính phủ Việt Nam cần tạo ra một nền kinh tế mà
trong đó coi trọng đầu tư cả khu vực nhà nước và khu vực tư nhân, bởi chính sự tham
gia của tư nhân là động lực tạo ra cạnh tranh, phát huy sáng tạo và đem lại lợi ích
thiết thực cho người dân [63, tr.35]. Tuy nhiên, ở nước ta phát triển KTTN là nhằm
thực hiện mục tiêu XHCN, do đó KTTN phát triển trong nền KTTT định hướng
22
22
XHCN với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, dưới sự quản lý, điều tiết của nhà nước theo định hướng XHCN.
Thứ tư, do vai trò của KTTN quy định. Kinh nghiệm ở nhiều nước cũng như chính
ở nước ta cho thấy, sự thành công về KT-XH của mỗi quốc gia có sự đóng góp tích cực
của phát triển KTTN, nhất là ở giai đoạn đầu của quá trình chuyển sang nền KTTT. Nói
về vai trò của KTTN, Nghị quyết Đại hội Đảng X đã nhận định: KTTN có vai trò quan
trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Còn như ông Nguyễn Trần Bạt - Chủ
tịch - Tổng Giám đốc Invest Consult Group cho rằng: KTTN không chỉ có tiếng nói
quyết định đến sức mạnh kinh tế của hầu hết các quốc gia mà còn trở thành một lực
lượng kinh tế có ý nghĩa chính trị toàn cầu. Phát triển khu vực KTTN cũng có nghĩa là
bảo tồn tính đa dạng phong phú của đời sống kinh tế, xem nó như là nguồn gốc của mọi
sự phát triển.
Có thể thấy, vai trò của phát triển KTTN đối với nền kinh tế nước ta trên một số
nội dung cơ bản sau:
* Phát triển kinh tế tư nhân - nhân tố chủ yếu thúc đẩy sức cạnh tranh của nền kinh
tế. Trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, KTTN bị coi là
“đối tượng” của công cuộc cải tạo XHCN. Do vậy, các phạm trù kinh tế như giá cả, thị
trường, cạnh tranh… không được thừa nhận và yêu cầu nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh
của sản phẩm cũng không được đặt ra. Ngày nay, khi chấp nhận KTTT với nhiều thành
phần kinh tế (trong đó có KTTN) thì cạnh tranh để tồn tại, phát triển là yêu cầu khách quan
đối với các chủ thể trong nền kinh tế. Trong điều kiện đó, nhân tố chủ yếu thúc đẩy cạnh
tranh góp phần cải thiện chất lượng phát triển không ai khác chính là KTTN. Thực tiễn cho
thấy, cùng với việc thực hiện phát triển KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN, nhiều
sản phẩm hàng hoá của nước ta đã và đang vươn lên khẳng định vị trí không chỉ ở thị
trường trong nước, mà cả trên thị trường quốc tế. Đáng chú ý, bên cạnh đóng góp chủ yếu
vào xuất khẩu những sản phẩm nông nghiệp then chốt như: thuỷ sản, gạo, cà phê…, KTTN
đang từng bước nâng cao vai trò và vị trí của mình trong tham gia xuất khẩu các mặt hàng
công nghiệp có kim ngạch lớn như: dệt may, giầy dép, điện - điện tử v.v…. Sự phát triển
KTTN còn góp phần hỗ trợ, bổ sung cho KTNN, tạo mối liên kết cùng hợp tác, cạnh tranh
phát triển. Thể hiện rõ, phát triển KTTN không chỉ tạo ra nhiều hàng hoá, dịch vụ đáp ứng
23
23
nhu cầu tiêu dùng của xã hội, mà còn là động lực để KTNN thực hiện tốt vai trò chủ đạo
thông qua quá trình cạnh tranh.
* Phát triển kinh tế tư nhân góp phần khai thác và tận dụng có hiệu quả các nguồn
lực xã hội, tạo sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế.
Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển đồng nghĩa với việc các tiềm năng về
vốn, lao động, KH-CN cũng như các nguồn tài nguyên khác... trong nhân dân, trên các địa
phương, các vùng miền của đất nước được huy động ngày càng nhiều và có hiệu quả vào
quá trình SX,KD. Chính sự phát triển KTTN làm cho các cơ sở SX,KD không ngừng được
mở rộng cả về số lượng, phạm vi và quy mô. Cùng với sự tăng lên về số lượng cơ sở sản
xuất, quy mô vốn là sự tăng lên về số lao động được sử dụng trong KTTN, góp phần tích
cực ổn định xã hội và tăng trưởng của nền kinh tế đất nước. Qua số liệu của Tổng cục
Thống kê về chỉ số phát triển tổng sản phẩm trong nước theo giá so sánh năm 1994 (bảng
1.1) cho thấy, KTTN có sự tăng trưởng liên tục qua các năm. Trong đó, kinh tế cá thể từ
103,68% (năm 2000) tăng lên 107,47% (năm 2005) và các loại hình doanh nghiệp của tư
nhân từ 109,7% (năm 2000) tăng lên 114,01% (năm 2005).
Bảng 1.1: Chỉ số phát triển tổng sản phẩm trong nước
theo giá so sánh năm 1994 (đơn vị tính %)
Kinh tế cá thể
Doanh nghiệp
thuộc KTTN
Năm 2000
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
103,68
106,07
106,06
106,27
107,47
109,7
112,92
110,20
112,30
114,01
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niêm giám thống kê năm 2005, Nhà xuất bản Thống kê, Hà
Nội, 2006, tr.68.
* Phát triển kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý
kinh tế - xã hội, hình thành thể chế KTTT định hướng XHCN và đẩy nhanh tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Như đã trình bày ở trên, để có KTTT, thì không thể
không có KTTN (kinh tế nhiều thành phần) và KTTN không chỉ là “vốn tính” của KTTT
mà còn là động lực cơ bản của nền kinh tế đó. Đồng thời, chính sự phát triển của KTTN đã
đặt ra những yêu cầu mới thúc đẩy hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN. Theo đó,
một hệ thống luật và các quy định cần thiết nhằm tạo hành lang pháp lý cho phát triển
KTTN nói riêng và KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa nói chung ở nước ta đã và đang
24
24
từng bước được hoàn thiện. Đặc biệt, trong bối cảnh của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế đang diễn ra sâu rộng, mạnh mẽ hiện nay, thì việc phát triển KTTN cùng với KTTT
được coi như là nhân tố quan trọng góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam. Có thể thấy rõ điều này thông qua việc đàm phán gia nhập Tổ chức Thương
mại thế giới của nước ta vừa qua, việc chúng ta chính thức trở thành thành viên thứ 150
của Tổ chức Thương mại thế giới đã chứng tỏ bước tiến vượt bậc trong nỗ lực đổi mới,
phát triển KTTN và KTTT định hướng XHCN của Đảng, Nhà nước ta.
* Phát triển kinh tế tư nhân góp phần làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Chính sự phát triển KTTN với nhiều loại hình kinh tế khác nhau, đã góp phần làm cho
QHSX chuyển biến phù hợp với LLSX trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế nước ta.
Trong TKQĐ, trình độ LLSX ở nước ta không những thấp mà còn tồn tại nhiều trình độ
khác nhau. Bởi vậy, tương ứng với nó là sự đa dạng trong quan hệ sở hữu, cùng với sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể còn có sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sở hữu hỗn
hợp. Sự chuyển biến trong quan hệ sở hữu kéo theo sự chuyển biến trong quan hệ quản
lý, bên cạnh đội ngũ giám đốc và những người làm công ăn lương trong các DNNN, hình
thành tầng lớp chủ doanh nghiệp và đội ngũ lao động làm thuê trong các DNTN… làm
xuất hiện quan hệ chủ thợ, quan hệ thuê mướn lao động thông qua hợp đồng kinh tế
v.v… Cùng với sự chuyển biến trong quan hệ sở hữu và quan hệ quản lý, quan hệ phân
phối cũng trở nên đa dạng hơn, ngoài phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế
còn có các hình thức phân phối khác như: phân phối theo vốn góp, theo tài sản, theo cổ
phần…. Sự chuyển biến của cả ba mặt trên đã làm cho QHSX trở nên mềm dẻo, đa dạng,
linh hoạt phù hợp với thực trạng của nền kinh tế nước ta hiện nay. Điều đó cho phép khơi
dậy và phát huy được các nguồn lực của xã hội vào công cuộc phát triển kinh tế. Đây
thực sự là quá trình xã hội hoá LLSX trên thực tế phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện
nay. Quá trình này đang từng bước thúc đẩy LLSX phát triển.
* Đối với nước ta hiện nay, trong điều kiện LLSX còn thấp thì việc phát triển KTTN
còn có ý nghĩa quan trọng là bảo đảm thực hiện dân chủ hoá trong lĩnh vực kinh tế. Thực
tiễn ngày càng cho thấy, quyền làm chủ của người lao động cần được cụ thể hoá trên tất cả
các lĩnh vực khác nhau như: quyền làm chủ trong sở hữu hay sử dụng tư liệu sản xuất,
quyền tự chủ trong tổ chức quản lý sản xuất, tính chủ động trong lựa chọn nơi làm việc,
25
25
quyền làm chủ trong phân phối sản phẩm làm ra, quyền được tự do lựa chọn nơi đầu tư
trên cơ sở quy định của pháp luật. Chỉ có như thế, mới tạo được điều kiện giải phóng mọi
năng lực sản xuất, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi người Việt Nam yêu nước
mang hết sức lực, tài năng, vốn liếng, kỹ thuật để mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế, thực
hiện dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Việc khuyến khích phát
triển KTTN trong TKQĐ đã đáp ứng được yêu cầu đó, đã tạo điều kiện để giải quyết được
các lợi ích, tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Ngoài ra, phát triển KTTN còn góp phần nâng cao chất lượng lao động, nuôi dưỡng
tiềm năng, trí tuệ kinh doanh; tạo cân đối về phát triển giữa các vùng, miền của đất nước;
hình thành đội ngũ doanh nhân - một trong những lực lượng có vai trò quan trọng trong
công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế của đất nước trong điều kiện ngày nay. Đáng chú ý,
phát triển KTTN góp phần quan trọng trong việc duy trì và phát triển các làng nghề truyền
thống; kinh nghiệm SX,KD; kinh nghiệm quản lý đã được tích luỹ qua nhiều thế hệ của
từng gia đình và dòng họ; phát huy được cả yếu tố truyền thống và hiện đại trong các mặt
hàng sản xuất. Các làng nghề truyền thống với các mặt hàng thủ công, mỹ nghệ đa dạng về
hình thức, mẫu mã, hợp thị hiếu người tiêu dùng, thu hút được sự quan tâm của đông đảo
khách hàng ở nhiều nước, đặc biệt là các nước Châu Âu. Đây là một trong những yếu tố
quan trọng góp phần nâng cao sức cạnh tranh và khẳng định vị trí, thương hiệu của hàng
hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế. Theo số liệu thống kê, hiện nay cả nước có trên 2000
làng nghề với 1,4 triệu hộ tham gia và sản phẩm ngành nghề thủ công đã đóng góp lớn vào
kim ngạch xuất khẩu, năm 2003 đạt 367 triệu USD (tăng 56,2% so với năm 2001), năm
2004 chưa kể xuất khẩu đồ gỗ đạt 450 triệu USD (tăng 22,6% so với năm 2003) [42, tr.30].
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy, KTTN còn tồn tại và phát triển trong TKQĐ
lên CNXH ở nước ta là một đòi hỏi khách quan phù hợp với quy luật và thực tiễn Việt
Nam.
Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân - nền KTTT định
hướng XHCN. Kinh tế tư nhân không phải là bộ phận đối lập với CNXH mà nó tồn tại đan xen với
KTNN, kinh tế tập thể, bổ sung cho sự phát triển của các thành phần kinh tế này và tạo điều kiện thúc
đẩy phát triển KTTT định hướng XHCN.
1.1.2.3. Nội dung phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa