Tải bản đầy đủ (.doc) (198 trang)

LUẬN án TIẾN sỹ đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội qua thực tiễn ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (816.08 KB, 198 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là một Đảng mácxít, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn ý thức được tầm quan trọng của lý
luận cách mạng. Thực tiễn chỉ rõ, lý luận phải phản ánh được sự vận động của các quy
luật khách quan, phải được hình thành, xây dựng trên cơ sở phương pháp tư duy đúng
đắn. Cuộc sống luôn vận động, phát triển, đòi hỏi Đảng tiên phong phải nhạy bén, có
những thay đổi, điều chỉnh, bổ sung, phát triển thích hợp về đường lối, chủ trương, không
thể áp dụng các biện pháp một cách máy móc mà phải căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể. Chính vì vậy, đổi mới tư duy lý luận là nhiệm vụ thường xuyên để lý luận, đường lối
của Đảng không bị lạc hậu, đáp ứng được tình hình. Đảng ta xác định đổi mới tư duy là
yêu cầu đầu tiên khi bước vào thời kỳ đổi mới, là điều kiện quyết định để xác định và
từng bước phát triển đường lối của Đảng. Mọi quyết định thực tiễn đều phải có sự chuẩn
bị về lý luận, tư tưởng. Vì vậy, Đại hội lần thứ VI của Đảng ta đã nhấn mạnh vấn đề đổi
mới tư duy, nhất là tư duy về kinh tế. Thực tiễn cho thấy vấn đề đổi mới tư duy lý luận
có vai trò đặc biệt quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước.
Sau hơn 16 năm đổi mới, nhìn chung chúng ta đã vượt qua được nhiều khó khăn, thử
thách; kinh tế - xã hội đạt được nhiều thành tựu, giữ vững ổn định chính trị, đời sống
nhân dân từng bước được cải thiện. Những thành tựu đó là cơ sở, tiền đề để bước vào
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Thành tựu của công cuộc đổi mới gắn liền với sự lãnh đạo, với đường lối đổi mới
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng chính từ những thành tựu đổi mới, cho
phép chúng ta khẳng định rõ vai trò, sự cần thiết của tư duy lý luận, của việc đổi mới tư
duy trên tất cả các lĩnh vực trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.


Hiện nay, nhiệm vụ quan trọng nhất đối với chúng ta là phải đẩy tới một bước công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm loại trừ nguy cơ tụt hậu, giữ vững sự phát triển theo con
đường xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh và đấu tranh thắng lợi với các thế lực thù địch trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng.
Vì thế, về mặt thực tiễn và lý luận, cần thiết trước hết, phải tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn của quá trình đổi mới: đổi mới cách nghĩ, cách làm trong hơn những năm qua. Tất cả


các cấp, các ngành đang đặt ra yêu cầu phải gắn liền tổng kết thực tiễn với quát lý luận.
Hai là, phải không ngừng hoàn thiện và phát triển đường lối đổi mới của Đảng ta.
Về mặt tư tưởng, đó là vấn đề giáo dục ý thức chính trị, xây dựng quyết tâm, lòng tin
của nhân dân về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Đặc biệt, chúng ta đang cùng nhân loại bước vào thiên niên kỷ mới với bối cảnh quốc
tế mới, rất nhiều vấn đề trong nước và quốc tế đặt ra cần có sự tổng kết, đánh giá, rút ra
những bài học cho định hướng phát triển. Tổng kết thực tiễn rút ra những bài học kinh
nghiệm là khâu quan trọng trong xây dựng, phát triển lý luận. Gắn lý luận với thực tiễn
Việt Nam là phương châm được Đảng ta hết sức coi trọng. Chính vì vậy, Đảng ta nêu rõ:
“Chúng ta phải không ngừng thông qua tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận mà từng
bước hình dung ngày càng sáng tỏ về chủ nghĩa xã hội ở nước ta, làm rõ những mô hình
cụ thể trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá” [23, tr.24]. Hội nghị lần thứ sáu (lần 2)
Ban Chấp hành Trung ương khoá VII nhấn mạnh nhiệm vụ: “Đẩy mạnh công tác tổng kết
thực tiễn và nghiên cứu lý luận (trong nước và thế giới), tiếp tục làm rõ hơn những vấn đề
bức xúc do thực tiễn đặt ra, làm rõ hơn mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII trình Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX khi đánh giá về công tác lý luận đã nêu rõ: “Công tác lý


luận chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của cách mạng, chưa làm sáng
tỏ nhiều vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới để phục vụ việc hoạch định chiến
lược, chủ trương, chính sách của Đảng, tăng cường sự nhất trí về chính trị, tư tưởng trong
xã hội” [31, tr.78].
Trong tình hình đó, việc tìm hiểu, nghiên cứu, tổng kết quá trình đổi mới tư duy lý luận
ở nước ta trong những năm qua, nêu lên những vấn đề đặt ra để tiếp tục đổi mới, nâng
cao trình độ tư duy lý luận là vấn đề cần thiết và có ý nghĩa.
Đó cũng là lý do tôi chọn vấn đề Đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội qua thực
tiễn Việt Nam làm chủ đề luận án.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề tư duy, tư duy lý luận là một đề tài nghiên cứu rất quan trọng của chủ nghĩa duy

vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trước đây, nó thường được xem xét, nghiên
cứu trong khi nghiên cứu về ý thức, lý luận nhận thức, ít có các bài viết, trong công trình
đặt nó như một đối tượng trực diện. Từ những năm 1980 trở lại đây, đặc biệt là từ sau Đại
hội lần thứ VI của Đảng, vấn đề tư duy, tư duy lý luận thực sự thu hút sự quan tâm đông
đảo của các nhà nghiên cứu. Có thể khẳng định, sự ra đời đường lối đổi mới của Đảng,
với việc xác định điểm khởi đầu là “đổi mới tư duy” đã nói lên vai trò, tầm quan trọng
của tư duy, tư duy lý luận đối với sự phát triển của đời sống xã hội, của đất nước. Cuối
những năm 1980, một điều dễ nhận thấy và cần thiết phải đề cập trước tiên đó là sự xuất
hiện của các bài viết trên báo, đặc biệt là các tạp chí như: Tạp chí Cộng sản, Nghiên cứu
lý luận, Triết học, Thông tin lý luận, Quốc phòng toàn dân... Các cuộc hội thảo, toạ đàm
về vấn đề này đã được các cơ quan nghiên cứu, các cơ quan xuất bản, báo chí tổ chức và
thu hút sự tham gia của các đồng chí lãnh đạo Đảng, đông đảo những người làm quản lý,


thực tiễn, các nhà nghiên cứu, giảng dạy. Đã có những kỷ yếu khoa học được giới thiệu
khá rộng rãi, đáng kể nhất là cuốn Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận [44]
của Học viện Nguyễn Ái Quốc. Có những chuyên mục thảo luận rất sâu về vấn đề này
như trên Tạp chí Cộng sản trong 2 năm 1987, 1988. Đây cũng là một hoạt động khoa học
trọng tâm trong thời kỳ này. Có thể nói, giới triết học, kinh tế học... đã tham gia trao đổi,
tranh luận khá sôi nổi, có những đóng góp thiết thực.
Trong giai đoạn này, đã xuất bản một số tập sách của các đồng chí lãnh đạo Đảng như
cuốn Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và của thời đại [7], Bàn về đổi mới tư duy
[106]... Đây là những cuốn sách quan trọng, thu hút sự quan tâm của ban đọc. Ngoài ra
còn có một số cuốn sách khác như Triết học với sự nghiệp đổi mới [ 93], Trao đổi ý kiến
- những vấn đề lý luận của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [100].
Một thực tế không thể đề cập là tình hình đổi mới, cải cách, cải tổ và nghiên cứu lý
luận ở các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là ở Liên Xô và Trung Quốc đã có tác động
nhất định đến hoạt động nghiên cứu lý luận ở nước ta trong giai đoạn này.
Các công trình trên đây đã góp phần hình thành nhận thức về tư duy, tư duy lý luận,
phân biệt tư duy lý luận với tư duy kinh nghiệm phân tích thực trạng, khẳng định sự cần

thiết, biện pháp, phương pháp đổi mới tư duy lý luận, và những vấn đề đặt ra trên con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội nước ta. Những thành tựu trong nghiên cứu thời gian này
đã góp phần quan trọng vào việc hoàn chỉnh đường lối đổi mới của Đảng ta, trong đó có
việc xây dựng Cương lĩnh xây dựng nước ta trog thời kỳ qua độ lên chủ nghĩa xã hội và
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000.
Từ năm 1991 đến nay, những nghiên cứu về tư duy lý luận có bước phát triển mới. Một
số chuyên khảo đã đi sâu hơn như Một số nhận thức mới về con đường đi lên chủ nghĩa


xã hội ở Việt Nam [83], Quá trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam [107]. Điều đáng chú ý nhất là một loạt chương trình khoa học nghiên cứu cấp Nhà
nước về khoa học xã hội đã triển khai trong giai đoạn 1991 - 1995. Đây là giai đoạn khá
sôi động trong đời sống nghiên cứu khoa học ở Việt Nam, thu hút đông đảo các thế hệ
nghiên cứu tham gia. Nhiều sản phẩm nghiên cứu của các đề tài đã được xã hội hoá như
Những vấn đề lý luận của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam [85], Quá trình hình thành và và phát triển quan điểm lý luận của Đảng ta về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội [41]. Một số đề tài nghiên cứu từ góc độ kinh tế cũng đã
được xã hội hoá với nhiều đầu sách hay, có giá trị. Những kết quả của các chương trình
nghiên cứu này được phản ánh khái quát trong hai tập sách Khoa học xã hội và nhân văn
mười năm đổi mới và phát triển [13-14]. Ngoài ra, còn có một số cuốn sách như Đổi mới
phong cách tư duy [11], Đổi mới - bước phát triển tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam [48], Đổi mới và phát triển bền vững dưới ngọn cờ tư tưởng của giai cấp công nhân
[77], Góp phần tìm hiểu sự phát triển tư duy lãnh đạo của Đảng ta trong công cuộc đổi
mới trên các lĩnh vực chủ yếu [82]...
Những công trình trên đây đã: một là, tiếp tục khẳng định vai trò, tầm quan trọng đổi
với tư duy lý luận đối với công cuộc đổi mới ở nước ta; hai là, thuyết minh, luận chứng,
trình bày những kết quả trong đổi mới về nhận thức, quan điểm, về tư duy lý luận, trong
tổ chức chỉ đạo thực tiễn các lĩnh vực của đời sống xã hội; và ba là, nêu lên những vấn đề
lý luận cần tiếp tục đầu tư nghiên cứu.
Hoạt động khoa học trong thời kỳ này với tinh thần đổi mới tư duy cả về nội dung và

phương pháp nghiên cứu đã đóng góp quan trọng vào thành tựu tư duy lý luận của Đảng
ta, góp phần làm cho “quan niệm về chủ nghĩa xã hội và về con đường đi lên chủ nghĩa


xã hội ở nước ta đã có thể hình thành trên những đường nét chủ yếu” [20, tr.111] và “con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xãc định rõ hơn” [27, tr.68].
Nhiều đề tài cấp Nhà nước giai đoạn 1996 - 2000 đã được triển khai theo hướng làm rõ
thêm nhưng vấn đề lý luận và thực tiễn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong không khí hoạt động khoa học sôi nổi ấy, nhiều nghiên cứu sinh triết học đã lựa
chọn đề tài luận án mà ở đó, với các mức độ khác nhau, vấn đề tư duy, tư duy lý luận
cũng được đề cập. Chẳng như luận án Tìm hiểu một số nét mới của tư duy khoa học hiện
đại [37], Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện
nay - đã xuất bản thành sách [95], Bệnh chủ quan duy ý chí trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta thời kỳ sau năm 1975: nguyên nhân và phương hướng khắc phục
[86], Sự thống nhất giữa tri thức khoa học và tình cảm cách mạng với sự nhiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [87], Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở đội ngũ cán bộ nước ta
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội [80], Khắc phục “bệnh” giáo điều ở đội ngũ
cán bộ nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội [92]. Các luận án trên đây đã
góp phần làm sáng tỏ vai trò của tư duy, tư duy lý luận; phân tích đặc điểm, đặc trưng của
tư duy lý luận; phân tích nguyên nhân của sự lạc hậu trong nhận thức, tư duy lý luận,
khẳng định sự cần thiết phải đổi mới và nâng cao trình độ tư duy lý luận cho cán bộ, đảng
viên và đều coi đổi mới tư duy lý luận là một trong những phương hướng, giải pháp để
khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, bệnh giáo điều.....
Kế thừa các kết quả nghiên cứu trên đây, luận án Đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa
xã hội thực tiễn Việt Nam góp phần tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề quan trọng này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
3.1. Mục đích của luận án


Luận án phân tích, làm rõ những đổi mới quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng ta

về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời gian vừa qua và nêu
lên một số phương hướng tiếp tục đổi mới, nâng cao trình độ tư duy lý luận về chủ nghĩa
xã hội của Đảng ta.
3.2. Nhiệm vụ của lụân án
Để đạt được mục đích trên, luận án có nhiệm vụ:
- Trình bày quan niệm về tư duy, tư duy lý luận và tính tất yếu của đổi mới tư duy lý
luận về chủ nghĩa xã hội.
- Trình bày những đổi mới quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng và chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội qua thực tiễn đổi mới ở Việt Nam.
- Nêu lên những vấn đề thực tiễn đặt ra và một số phương hướng để tiếp tục đổi mới và
nâng cao trình độ tư duy lý luận của Đảng ta.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án xác định đối tượng là xem xét, nghiên cứu vấn đề đổi mới tư duy lý luậnvề chủ
nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, tác giả luận án quan niệm rằng, đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã
hội không chỉ là đổi mới phương thức, phương pháp tư duy mà còn là đổi mới nội dung,
kết quả tư duy, đổi mới quan niệm, nhận thức, kiến thức về chủ nghĩa xã hội. Ở đây, luận
án chủ yếu xem xét, tìm hiểu những đổi mới nội dung tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội,
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta trong một số vấn đề, một số lĩnh vực.


Về thời gian: xem xét, tìm hiểu đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta từ Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI (1986) đến nay.
5. Cơ sở lý luận - thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án
5.1. Cơ sở lý luận - thực tiễn
Luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và
thực tiễn cách mạng ở nước ta, đặc biệt là thời gian từ Đại hội lần thứ VI của Đảng đến
nay là cơ sở lý luận - thực tiễn quy định, quán xuyến toàn bộ luận án.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được luận án sử dụng gồm có: phương pháp của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương
pháp lịch sử và lôgích, phương pháp hệ thống.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Luận án trình bày, phân tích những thành tựu và nêu lên những đóng về lý luận và
phương pháp luận trong tư duy lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong hơn 16 năm đổi mới.
- Nêu lên một số phương hướng để tiếp tục đổi mới và nâng cao trình độ tư duy lý luận
của Đảng.
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần vào việc học tập, nghiên cứu, tìm hiểu, quán triệt các văn kiện của
Đảng, các chuyên đề về những vấn đề lý luận của chủ nghĩa xã hội; góp thêm ý kiến vào
việc xây dựng cơ sở cho sự lãnh đạo của Đảng trong việc đổi mới công tác tư tưởng, lý
luận.


- Luận án phục vụ thiết thực cho công việc hàng ngày của tác giả, đó là xây dựng các
đề tài, kế hoạch, biên tập sách lý luận, chính trị - xã hội.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở bài, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương 9
tiết.
Chương 1
TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ
LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Tư duy và tư duy lý luận
1.1.1. Quan niệm về tư duy
Tư duy là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như sinh lý
học, điều khiển học, lôgích học, tâm lý học, triết học. Mỗi ngành khoa học nghiên cứu
tư duy theo một góc độ nhất định.

Sinh lý học nghiên cứu tư duy với tính cách là hoạt động của hệ thần kinh cấp cao.
Điều khiển học nghiên cứu cơ chế điều khiển giữa tư duy các hoạt động vật chất của
cơ thể, tìm ra mối tương quan giữa tư duy con người và các hoạt động. Lôgích học
nghiên cứu những hình thức và những quy luật của tư duy đúng đắn nhằm nhận thức
chân lý. Tâm lý học nghiên cứu tư duy trong sự tác động qua lại của hệ thần kinh cấp
cao, não người với thế giới xung quanh.
Trong lịch sử triết học, vấn đề tư duy có vị trí đặc biệt quan trọng và được đặt ra từ
rất sớm, có người cho rằng nó được đặt ra ngay từ buổi “ bình minh của lịch sử triết
học” trong cuộc đấu tranh về lý luận nhận thức. Nhận thức luận nghiên cứu tư duy


trong mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể trong quá trình nhận thức, trong quan hệ
giữa tri thức và hiện thực.
Tư duy với tư cách là đối tượng và việc xem xét nó trong mối quan hệ với vật chất,
với thế giới khách quan là vấn đề cơ bản nhất của triết học. Trong tác phẩm Lútvích
Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Ph.Ăngghen (1820 - 1895) nêu
rõ: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề
quan hệ giữa tư duy với tồn tại” [66, tr.403]. Việc luận giải khác nhau thể hiện qua các
đại biểu, các trường phái triết học về vấn đề cơ bản này trong lịch sử triết học mấy
nghìn năm qua khá phong phú và đa dạng. Những vấn đề thường xuyên, chủ yếu
được nghiên cứu, tranh luận là: cơ sở, nguồn gốc, sự hình thành, phát triển của tư
duy; tư duy là gì; vai trò và chức năng của nó; mối quan hệ giữa tư duy và các trạng
thái tinh thần khác của con người...
Các nhà triết học duy tâm cho rằng, tư duy là sản vật của một bản nguyên siêu tự
nhiên như thần linh, ý niệm tuyệt đối, nó độc lập, không phụ thuộc vào vật chất. Lập
luận của họ xuất phát từ lôgích cho rằng, ý thức là cái thứ nhất so với vật chất, do
vậy nó không cần đến vật chất. Theo họ, để có tư duy, hoàn toàn không nhất thiết phải
có bộ não. Chủ nghĩa duy tâm tách rời khỏi vật chất, khỏi bộ não người, ngôn ngữ và
hoạt động thực tiễn xã hội của con người. Trong một chừng mực nào đó, nếu họ có
thừa nhận mối liên hệ như vậy, thì thường thường họ trình bày tư duy của những cá

nhân như một cái gì sinh ra từ một bản nguyên tinh thần đứng trên vật chất và đó là ý
thức của những cá nhân riêng lẻ.
Trong một số những đại biểu duy tâm tiêu biểu không thể không đề cập đến I.Cantơ
(1724 - 1804) và G.Hêghen (1770 - 1831). Hai triết gia duy tâm cổ điển Đức này đã


luận giải khá nhiều về tư duy và một điều đáng lưu ý là học thuyết của G.Hêghen về
tư duy, về căn bản, đã xuất hiện chính là nhờ khắc phục những hạn chế trong quan
niệm của I.Cantơ về tư duy [9, tr.66]. Khái niệm tư duy được Hêghen trình bày trong
hai tác phẩm Khoa học lôgích và Bách khoa thư các khoa học triết học. G.Hêghen cho
rằng, I.Cantơ có nhiều quan điểm sâu sắc về tư duy nhưng nó vẫn thể hiện một sự
“đánh giá rất thấp” về tư duy. Ba luận điểm cơ bản trong học thuyết của Cantơ về tư
duy được Hêghen đặc biệt quan tâm là: 1. Vấn đề nhận thức “vật tự nó”; 2. Vấn đề
mối tương quan giữa cảm tính và lý tính; 3. Vấn đề quan hệ giữa khái niệm và thực
hiện.
Ở Cantơ, “vật tự nó” là bất cứ khả tri đối với khả tri và tư duy. Thuyết bất khả tri
của Cantơ đã chứng tỏ sự bất lực của tư duy; tư duy không có năng lực nhận thức
“vật tự nó”. Hêghen đã bác bỏ “vật tự nó” bất khả tri và cho rằng tư duy của con
người có khả năng nhận thức được tất cả. Trong quan niệm của Hêghen, tư duy,
“không những không bị tước mất năng lực nhận thức hiện thực mà còn có năng lực
thâm nhập vào bản chất của các sự vật, đạt tới quy luật của thế giới” vật tự nó”” [9,
tr.69].
Đề cập mối quan hệ của tư duy với nhận thức cảm tính, Cantơ cho rằng, tư duy nếu
thiếu cảm tính thì sẽ không có hiệu quả, và tính tích cực của tư duy chính là thể
hiện ở việc xử lý các tài liệu đo cảm tính đem lại. Nhận xét về điểm này, Hêghen cho
đó là sự hạ thấp quyền hạng của tư duy. Hêghen không hiểu tư duy theo nghĩa thông
thường. Với ông, tư duy rộng hơn năng lực chủ quan thuần tuý. Ông không hiểu tư duy
theo nghĩa bó hẹp trong phạm vi ý thức cá nhân như năng lực chủ quan của con người
mà hiểu theo nghĩa rộng hơn, đó là “ý niệm tuyệt đối” đã sáng tạo ra giới tự nhiên và



con người. Hêghen quan niệm tư duy là một trong các năng năng lực tinh thần, tồn tại
cùng với tri giác, biểu tượng, ý chí. Quá trình tư duy là quá trình đi từ cái đơn nhất
đến cái phổ biến. Các giác quan bên ngoài không thể nhận thức được cái phổ biến.
Cái phổ biến (bản chất) được tư duy nhận thức bằng con đường xử lý cái đơn nhất
do cảm tính đem lại, bằng con đường vượt ra khỏi lĩnh vực biểu tượng cảm tính để
vươn lên lĩnh vực khái niệm [9, tr.79]. Như vậy, có thể nói, Hêghen không thừa nhận
sự phụ thuộc chung của tư duy vào đối tượng và chia cắt mối liên hệ nội dung tư duy
với đối tượng. Ông chỉ quan tâm đến những tài liệu về tư duy, mà không chú ý xem
còn nguồn gốc nào khác và độc lập với tư duy hay không. Vì ông cho rằng, mọi hoạt
động xét đến cùng đều dựa vào tư duy vì hoạt động ấy thực hiện thông qua tư duy.
Hêghen cũng đã nghiên cứu về những hình thức của tư duy, những phạm trù lôgích
và đạt được nhiều kết quả. Đánh giá về vấn đề này, Ph.Ăngghen cho rằng, đó là một
nhiệm vụ rất có ích và cần thiết. Và ông khẳng định: “sau Aritxtốt, chỉ có Hêghen là
người duy nhất đã tiến hành một cách có hệ thống nhiệm vụ này” [65, tr.732]. Như
vậy, chúng ta nhận thấy rằng, Hêghen đã thừa nhận tính đồng nhất của học thuyết về
tồn tại với học thuyết về nhận thức. Việc cố gắng vươn tới tính hiện thực, tính khách
quan của tư duy đôi khi đã dẫn Hêghen tiến gần đến chủ nghĩa duy vật biện chứng, và
theo Lênin thì chỉ cần cắt “cái đuôi duy tâm” là đủ..., tức là chỉ cần vứt bỏ quan niệm
về tư duy ở bên ngoài, bên cạnh và có trước cái hiện thực thực tế [119, tr. 94].
Một trong những điểm cơ bản của các nhà triết học tư sản duy tâm là không thừa
nhận nguồn gốc, cơ sở vật chất của tư duy. Avênarirút Risa (1843 - 1896) - nhà triết
học duy tâm chủ quan Đức khẳng định: óc của chúng ta không phải là nơi ở, là trụ sở


của tư duy, là kẻ sáng tạo ra tư duy, cũng không phải là công cụ hoặc khí quan của tư
duy, là kẻ chứa đựng tư duy hoặc là cơ chất của tư duy.
Triết học tư sản hiện đại, chủ nghĩa thực chứng mới phủ nhận tư duy và cho rằng tư
duy tồn tại cùng với vật chất là một điều hư cấu, đồng thời họ cũng phủ nhận ngôn
ngữ với tư cách là phương tiện biểu hiện, là hình thức của tư duy.

Trái lại, các nhà duy vật trên cơ sở tiếp thu, kế thừa kết quả của các ngành khoa học
với một thế giới quan tiến bộ đã từng bước lý giải một cách khoa học cơ sở, bản chất
và đặc trưng của tư duy.
Giải thích sự xuất hiện của ý thức, tư duy,một số nhà duy vật thời trước đã cho
rằng tư duy là thuộc tính của toàn bộ vật chất. Nhà triết học duy vật Hà Lan Barúc
Spinôda (1632 - 1677) cho rằng, vật chất có sinh khí phổ biến, mọi vật đều biết tư duy.
Khi luận chứng chống lại những người coi vật chất là biết tư duy và có linh hồn,
Giăng Tôlăng (1670 - 1722) nêu rõ: biết tư duy không phải là của mọi vật chất nói
chung, mà chỉ là bộ phận vật chất được tổ chức một cách đặc biệt - đó là não. Não là
cơ quan tư duy. Ông viết; “Tư duy... là sự vận động đặc biệt của não - một cơ quan đặc
biệt của năng lực đó” [116, tr.290]. Tư duy là kết quả hoạt động tích cực của não.
Như vậy, với việc xác định tư duy là thuộc tính và là hoạt động của vật chất có tố
chức xác định, Tôlăng đã tiến một bước trên con đường giải quyết mối quan hệ giữa
tư duy và tồn tại so với các bậc tiền bối của mình, trong đó có Spinôda.
Nhà triết học khai sáng Pháp, người lãnh đạo phái Bách khoa toàn thư Đơni Điđơrô
(1713 - 1784) cũng đã bác bỏ những quan điểm duy tâm về tính tự sinh của tư duy.
Ông cho rằng, mọi suy luận đều có nguồn gốc trong tự nhiên, đồng thời ông cũng chú ý
đến vai trò kỹ thuật và công nghiệp trong sự phát triển của tư duy và nhận thức.


Cùng với việc lý giải cơ sở, nguồn gốc vật chất tư duy, các nhà duy vật trước Mác
như Spinôda, Điđơrô đã lý giải quá trình, cơ chế hình thành, vai trò của nhận thức, tư
duy. Họ đã có được kết quả đúng đắn khi cho rằng, nhận thức là phản ảnh những sự
vật và hiện tượng khách quan của tự nhiên, nhưng về mặt nào đó, đánh giá thấp vai
trò của tư duy. Ngược lại, phái duy tâm chủ nghĩa thì đã đẩy nguyên lý tích cực của
tư duy thành kẻ sáng tạo ra tự nhiên. Và điều nghiêm trọng hơn là họ đã không hiểu
vai trò quan trọng của thực tiễn đối với nhận thức, tách nhận thức ra khỏi thực tiễn.
Khoa học tự nhiên chứng minh rằng, ý thức là thuộc tính phản ánh của vật chất có
tổ chức cao là bộ óc người, trong quan hệ tác động qua lại với thế giới bên ngoài. Sự
hình thành ý thức con người không đơn thuần là sự phản ánh có tính chất xã hội. Để

xuất hiện ý thức và khả năng tư duy cần phải có bộ não. Bộ não hình thành trong quá
trình tiến hoá của sự sống theo những quy luật nhất định. Triết học mácxít khẳng
định, chỉ có vật chất có tính tổ chức cao đưới dạng bộ não con người mới có khả
năng sản sinh ra ý thức, ý thức là chức năng của bộ não con người. Trong tác phẩm
Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen viết: “nếu người ta đặt câu hỏi rằng tư duy và ý thức là
gì, chúng từ đâu đến, thì người ta sẽ thấy rằng chúng là sản vật của bộ óc con người
và bản thân con người, là sản vật của giới tự nhiên, một sản vật đã phát triển trong
một môi trường nhất định và cùng với môi trường đó. Vì vậy, lẽ tự nhiên là những
sản vật của bộ óc con người, quy đến cùng, cũng là những sản vật của giới tự nhiên,
không mâu thuẫn mà lại còn phù hợp với mối liên hệ còn lại của giới tự nhiên” [65,
tr.55].
Khẳng định quan điểm của C.Mác (1818 - 1883) và Ph.Ăngghen, sau này trong tác
phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, V.I.Lênin (1870-1924)


một lần nữa nêu rõ: tư duy, ý thức là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức
theo một cách thức đặc biệt [53, tr.56] và tổ chức vật chất ở đây là bộ óc người.
Bản thân bộ não là điều kiện cần thiết, song chưa đủ. Bộ não chỉ có thể phát triển
một cách tương ứng, chỉ có thể có được những đặc điểm cần thiết cho việc nhận thức
thực tại nhờ lao động, nhờ các hoạt động thực tiễn. Ở đây lao động có vai trò quyết
định đối với sự hình thành, phát triển của con người. Ý thức của con người gắn bó
hữu cơ với hoạt động lao động. Theo lôgích đó, con người nhận thức trước hết
những gì liên quan trực tiếp đến lao động, đến việc thoả mãn những nhu cầu của
mình. Những nghiên cứu khoa học đã chứng minh, trong thời gian hàng triệu năm,
loài người chỉ khác loài vật là biết đi thẳng, tuy có khôn ngoan hơn nhưng vẫn kiếm
ăn từ các sản vật có sẵn trong tự nhiên. Chỉ đến giai đoạn biết dùng các vật trong tự
nhiên để tìm kiếm thức ăn, biết đến săn bắt và hái lượm, biết lao động thì con người
mới có tư duy, có trí nhớ, trí khôn. Ph.Ăngghen đã phê phán việc coi thường ảnh
hưởng và vai trò của lao động đối với sự hình thành và phát triển tư duy con người.
Theo ông, “chính việc người ta biến đổi tự nhiên... là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp

nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc
người ta đi học cải biến tự nhiên” [56, tr.720].
Cùng với lao động, ngôn ngữ có vai trò quan trọng với sự hình thành, phát triển của
tư duy. Ngôn ngữ được hình thành trong quá trình lao động để thoả mãn nhu cầu giao
tiếp giữa người với người. Tư duy tồn tại không thể thiếu ngôn ngữ, cũng như ngôn
ngữ tồn tại không thể thiếu tư duy. Ngôn ngữ là cái vật chất hoá tư duy, là hiện thực
trực tiếp của tư tưởng. Ngôn ngữ không chỉ là công cụ để con người giao tiếp trao đổi
với nhau, phản ánh khái quát về sự vật mà còn là phương tiện lưu trữ tư duy. Tư duy


phản ánh sự vật, còn ngôn ngữ thể hiện sự vật, ghi lại và củng cố danh từ và trong các
danh từ hợp thành các mệnh đề những kết quả hoạt động của tư duy nhằm hiểu biết
hiện thực khách quan.
Ngôn ngữ là cơ sở hình thành nên khái niệm, phán đoán, và nếu như thiếu các khái
niệm, phán đoán thì tư duy không phát triển được. Các nhà kinh điển mácxít định
nghĩa ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, và có tác dụng quan trọng bậc
nhất trong sự tiến hoá của con người và của tư duy. Ngôn ngữ và những phạm trù
khoa học nêu lên những quy luật của khoa học và do đó đi sâu vào bản chất của hiện
tượng. C.Mác khẳng định, chỉ nhờ có ngôn ngữ thì những thành quả của tư duy mới
có thể trở thành tài sản của tất cả mọi người, mới cho phép tổ chức lao động có hiệu
quả nhằm cải tạo điều kiện sống của con người.
Sự xuất hiện ngôn ngữ là một bước ngoặt trong sự phát triển của loài người, mở ra
thời kỳ mới của sự phát triển trí tuệ, tư tưởng. Nhờ có ngôn ngữ và giao lưu, con
người đã có những bước tiến khổng lồ. Tư duy với tư cách là chức năng của bộ óc
con người, là một quá trình tự nhiên, không tồn tại bên ngoài xã hội, bên ngoài ngôn
ngữ, vì vậy nó có bản chất xã hội.
Quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về tư duy đã được các
công trình của khoa học y sinh học xác nhận, trong đó có công trình của hai nhà sinh lý
học Nga M.I.Xêsênốp (1829 - 1905) và P.I.Páplốp (1849 - 1930).
Những công trình nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng trong việc phản bác những

quan điểm duy tâm về “linh hồn bất diệt”, về “tự do ý chí” chiếm địa vị thống trị trong
khoa học thời kỳ này. Khi nghiên cứu về tư duy, Xêsênốp khẳng định, chỉ khi nào quan
sát tư duy trên quan điểm lịch sử, trong quá trình ra đời và phát triển của nó thì mới


có thể giải quyết được vấn đề. Những nghiên cứu này đã giúp cho việc hiểu bản chất
của tư duy, quan hệ của tư duy với tiếng nói, ngôn ngữ và hoạt động của con người.
Từ góc độ tâm lý học, vấn đề tư duy đã được sáng tỏ hơn. Vuntơ (1839 -1920) nhà
tâm lý học, nhà triết học duy tâm người Đức thừa nhận ngôn ngữ là công cụ tiện lợi
nhất, quan trọng nhất của tư duy. Trong cuốn Tư duy và ngôn ngữ, Vưgốtxki (1896 1934) viết: tư duy con người là một dạng hành vi lịch sử, chỉ có ở người là có đặc
điểm riêng và nó chỉ phát triển trong sự phụ thuộc vào ngôn ngữ. Ông còn quả quyết:
không được xem xét tư duy tách khỏi toàn bộ cung bậc của cuộc sống, tách khỏi kích
thích của cuộc sống, khỏi hứng thú, đam mê của con người suy nghĩ [38, tr.88]. Vì
nếu nghiên cứu tư duy tách khỏi những vấn đề trên thì không tìm được nguyên nhân
nào tạo ra phương hướng của tư duy, động cơ của tư duy. Vưgốtxki còn khẳng định
mối quan hệ khăng khít giữa tư duy, lý trí và tình cảm và hơn thế nữa cần khải tìm
hiểu nguyên nhân của tư duy trong tình cảm. Vì vậy, phương pháp quyết định luận
phân tích cần phải tìm ra các nhu cầu, hứng thú, kích thích, xu hướng xác định xự
vận động của ý nghĩ theo hướng này hay hướng kia [38, tr.169]. Ý kiến mang tính
phương pháp luận này rất có ý nghĩa đối với chúng ta trong việc đổi mới tư duy nói
riêng, cũng như trong việc nâng cao hơn nữa tính tích cực của con người, phát huy
vai trò của nhân tố chủ quan nói chung trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Những quan điểm ấy đã bác bỏ những lập luận của những người theo chủ nghĩa
hành vi như G.Oátxơn (1878 - 1958), Tôman (1886 - 1959)... Khi họ phủ nhận sự có
thật của ý thức với tư cách là chức năng của vật chất có tổ chức cao, họ quy đời sống
tâm lý của con người vào những phản ứng sinh lý của cơ thể. Chủ nghĩa hành vi với
lập trường phản khoa học phủ nhận việc nghiên cứu những nguyên nhân xã hội của sự


phát triển ý thức loài người, họ không thấy mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ. Với

họ, nguồn gốc và sự phát triển của tư duy và ngôn ngữ bị tách khỏi cơ sở thực tiễn xã
hội và bị coi là một quá trình thuần tuý về sinh lý .
Những quan điểm về cơ sở, nguồn gốc tư duy trên đây cũng chính là những lý giải
“khía cạnh thứ nhất” vấn đề cơ bản của triết học. Tìm hiểu “khía cạnh thứ hai” cho
phép chúng ta hiểu bản chất, đặc trưng và khả năng của tư duy.
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm chủ quan và học thuyết bất khả tri,
V.I.Lênin đã phát triển toàn diện học thuyết mácxít về tính chất có thể nhận thức
được của thế giới, lý luận về phản ánh. Lênin đã bảo vệ quan điểm duy vật về cái tâm
lý, về ý thức với tính cách là sản phẩm cao nhất của vật chất, với tính cách là chức
năng của óc con người. Lênin đã nhấn mạnh rằng, tư duy, ý thức là sự phản ánh thế
giới bên ngoài.
Trong khi nghiên cứu tư duy, việc phân biệt, làm rõ mối quan hệ giữa tư duy với ý
thức, nhận thức, tư tưởng có ý nghĩa không chỉ về mặt học thuật mà cả về mặt thực
tiễn. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ não người, trên cơ sở hoạt
động thực tiễn. Tư duy là quá trình xử lý, phân tích, khái quát... các tài liệu cảm tính
để vạch ra bản chất sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Với ý nghĩa đó tư
duy là quá trình phản ánh tích cực giới hiện thực khách quan vào trong ý thức của con
người [109, tr.799]. Có người đồng nhất tư duy với tư tưởng. Tư tưởng với nghĩa là ý
nghĩ đã định hình của con người về đối tượng khách quan nào đó được thể hiện dưới
các hình thức như khái niệm, phạm trù, quy luật là kết quả của tư duy. Tư duy đúng
sẽ thu được tư tưởng đúng và ngược lại, từ đó quy định hiệu quả của hành động. Có
người đồng nhất hai khái niệm về tư duy và nhận thức. Chúng ta thống nhất rằng, tư


duy không tách rời nhận thức và nhận thức phải thông qua tư duy, bằng tư duy, nhưng
tư duy và nhận thức không phải là một.
Trong thực tế, khái niệm tư duy còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Lý luận nhận
thức của triết học Mác - Lênin chỉ rõ: Tư duy không phải là toàn bộ nhận thức mà chỉ
là giai đoạn cao, là cấp độ cao của nhận thức. Như thế, tư duy thuộc giai đoạn thứ hai
(giai đoạn nhận thức lý tính) của quá trình nhận thức; là sự khái quát những cảm

giác; tri giác để phản ánh hiện thực khách quan thông qua những khái niệm, phạm trù
khoa học, và năng lực trìu tượng của bộ óc con người.
Nội dung của tư duy hình thành trên cơ sở những tài liệu của cảm giác, tri giác,
biểu tượng về các sự vật và hiện tượng của thế giới bên ngoài tác động trực tiếp vào
các giác quan. Nhưng, tư duy không phải là sự tổng hợp giản đơn cảm giác và tri giác.
Tư duy là hình thức nhận thức hoàn toàn mới về chất, là hình thức hoàn thiện hơn so
với nhận thức cảm tính vì tư duy có thể đi sâu vào bản chất của sự vật, nhận thức
quy luật, phản ánh sự vật, hiện tượng một cách sắc hơn, chính xác hơn. “Chính trong
tư duy và thông qua tư duy con người mới thực hiện được bước chuyển thực sự từ
cái riêng đến cái chung” [10, tr.135]. Tư duy có khả năng nắm bắt, phát hiện được bản
chất của sự vật ngày càng sâu sắc hơn, từ bản chất cấp một đến bản chất cấp hai...
Tư duy được thực hiện bằng cách vận dụng những khái niệm, phản ánh những mặt
căn bản của thế giới xung quanh. Những phương pháp chủ yếu của hoạt động tư duy
là trìu tượng, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch. Tính gián tiếp, tính khái
quát hoá, trìu tượng hoá, tính tích cực và sáng tạo là những đặc điểm cơ bản của tư
duy con người. Quá trình biện chứng của tư duy là sự vận động từ cái đặc thù đến


cái phổ biến, là qua trình tư duy đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp thấp
lên bản chất cấp cao, từ trìu tượng đến cụ thể và ngược lại [68, tr.26].
Qua những phân tích trên cho thấy, tư duy có vai trò to lớn trong quá trình nhận
thức. Tư duy giúp con người nhận thức được bản chất của các sự vật và hiện tượng.
Trong quá trình trìu tượng hoá, tư duy duờng như tách rời hiện thực, tách rời cái cụ
thể để gạt bỏ bề ngoài, không căn bản, đi sâu vào bản chất của sự vật, phát hiện
những mối quan hệ, thuộc tính căn bản nhất, từ đó tái toạ về sự vật, phát hiện những
mối liên hệ, thuộc tính căn bản nhất, từ đó tái tạo về sự vật, hiện tượng một cách
toàn diện và sâu sắc trong tư duy.
Nhưng thế giới khách quan là biện chứng và bản thân tư duy cũng bị hạn chế do
nhiều điều kiện khách nhau nên nhận thức không phải một lần là xong xuôi, mà đó là
một quá trình trong đó tư duy ngày càng đi gần đến chân lý khách quan. Trong mỗi

giai đoạn nhất định, tư duy của con người chỉ đạt đến những chân lý tương đối mà
thôi. Theo Ph.Ăngghen, tư duy con người vừa tối cao, vừa không tối cao. Xét theo bản
chất và khả năng thì tư duy của con người là tối cao và vô hạn, xét theo sự thực hiện
cá biệt thì không tối cao và có hạn. Trong thực tế, các sản phẩm của tư duy chỉ có tính
độc lập tương đối, bởi vì trong quá trình nhận thức, con người dựa vào kế thừa vật
liệu tư duy do lao động các thế hệ trước tạo ra. Ph.Ăngghen đã phân tích một cách sâu
sắc phép biện chứng của tư duy toàn nhân lo ại. Tư duy con người không phải là tư
duy của từng cá nhân riêng lẻ, nhưng nó chỉ được thực hiện thông qua tư duy cá nhân.
Và, “tính vô hạn của tư duy trong việc đạt được nhận thức tuyệt đối cũng được hợp
thành bởi vô vàn bộ óc hữu hạn của con người” [65, tr.724-725].


Từ những phân tích, trình bày trên đây cho thấy, tư duy con người là một sản phẩm
của tự nhiên - lịch sử - xã hội; là quá trình hoạt động nhận thức ở giai đoạn cao - giai
đoạn trìu tượng của sự phản ánh thực tại khách quan, là sự suy nghĩ của con người
nhằm nhận thức bản chất và cải tạo hiện thực khách quan. Quá trình phát triển tư
duy, của ý thức xã hội không thể hiểu được ngoài sự phụ thuộc vào thực tiễn con
người, vào tồn tại xã hội. Tuy nhiên, tư duy là một “sự tinh thần” có tính độc lập
tương đối, nó có lôgích phát triển nội tại của mình, chịu sự chi phối của các quy tắc,
nguyên tắc riêng. Đây là đặc điểm quan trọng cho phép chúng ta khẳng định việc đổi
mới tư duy không chỉ là tất yếu khách quan, mà còn khẳng định cơ sở của các kết quả,
sự thành công của nó .
1.1.2. Tư duy lý luận - hình thức phản ánh cao nhất thực hện khách quan bởi bộ
óc con người
Chúng ta có thể xem xét, phân loại tư duy theo những loại hình khác nhau. Xét theo
phạm vi lĩnh vực phản ánh, thì có tư duy về kinh tế, tư duy về quân sự, tư duy về
chính trị, tư duy về văn hóa...; theo phương pháp tư duy thì có phương pháp tư duy
siêu hình, phương pháp tư duy biện chứng; theo trình độ phản ánh thì có tư duy kinh
nghiệm, tư duy lý luận. Tư duy xét theo phạm vi lĩnh vực sẽ được đề cập ở chương
sau. Ở đây chỉ phác hoạ đôi nét về phương pháp tư duy siêu hình, phương pháp tư

duy biện chứng, và tư duy kinh nghiệm được phân tích khi trình bày v ề tư duy lý
luận.
Phương pháp tư duy siêu hình và phương pháp tư duy biện chứng là hai phương pháp
tư duy đối lập nhau. Cuộc đấu tranh lâu dài giữa hai phương pháp này trong lịch sử triết
học đã thúc đẩy tư duy triết học phát triển hoàn thiện với sự thắng lợi của phương pháp tư


duy biện chứng duy vật. Sự đối lập giữa hai phương pháp này thể hiện trước hết và chủ
yếu trong việc xem xét hiện thực khách quan. Phương pháp tư duy siêu hình nhìn nhận,
xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái cô lập, tĩnh tại, phiến diện. Phương pháp tư
duy siêu hình “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua
lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy
sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những
sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy
rừng” [65, tr.37].
Do đó, phương pháp tư duy siêu hình không thể phản ánh đúng đắn, chân thực, đầy
đủ, sâu sắc thực tại khách quan, bởi lẽ giới tự nhiên cũng như xã hội con người luôn
phát triển, tiến hoá không ngừng. Theo Ph.Ăngghen, phương pháp tư duy siêu hình dù
cần thiết đến mức nào trong nhiều lĩnh vực, nhưng sớm hay muộn nó cũng vấp phải
những mâu thuẫn không thể nào giải quyết được [65, tr.37]. Các nhà kinh điển mácxít
chỉ rõ hạn chế, hậu quả của phương pháp tư duy siêu hình đã làm cho một số nhà vật
lý cuối thế kỷ XIX rơi vào chủ nghĩa duy tâm vật lý. Họ đã xem những nguyên lý của
cơ học cổ điển là những chân lý tuyệt đối, không giải thích được những sự kiện mới
do khoa học thực nghiệm phát hiện.
Phương pháp tư duy biện chứng xem xét hiện thực khách quan trong mối quan hệ
qua lại với nhau, trong sự vận động phát triển. Do đó, nó là phương pháp tư duy cao
nhất, thích hợp nhất cho phép chủ thể tư duy nắm bắt, phản ánh được bản chất của
sự vật, hiện tượng. Cũng nhờ đó phương pháp tư duy biện chứng giúp cho chủ thể tư
duy nâng cao được tính tự giác trong hoạt động thực tiễn, cải tạo tự nhiên và xã hội.



Cho đến nay, phương pháp tư duy biện chứng có ba hình thức phát triển cơ bản là:
tư duy biện chứng tự phát, tư duy biện chứng duy tâm khách quan và tư duy biện
chứng mácxít.
Phương pháp tư duy biện chứng được hình thành từ rất sớm, khoảng thế kỷ VI, V
trước công nguyên. Trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ cổ đại, những quan diểm biện
chứng được thể hiện sâu sắc khi lý giải về các vấn đề bản thể luận, tự nhiên và xã
hội. Họ cho rằng, thế giới, vũ trụ trong đó có con người luôn vận động, biến đổi, là
kết quả của các sự tác động qua lại, sự chuyển hoá giữa hai mặt đối lập. Kế thừa
những thành tựu của triết học phương Đông cổ đại, các nhà triết học cổ đại Hy Lạp
với các đại biểu tiêu biểu là Hêraclít, Đêmôcrít, Aritxtốt đã phát triển những quan
điểm biện chứng lên một bước đáng kể. Tuy nhiên quan điểm của họ mới dừng lại ở
trình độ cổ sơ, chất phác và đây cũng chính là đặc điểm chủ yếu của tư duy biện
chứng thời kỳ cổ đại. Trình độ này thể hiện trong quan niệm của họ về vật chất
nguyên thuỷ đầu tiên của thế giới. Aritxtốt đã có những tư tưởng biện chứng về sự
chuyển hoá từ khả năng thành hiện thực khi khảo sát hình thức và phạm trù của tư
duy lý luận. Các nhà kinh điển mácxít đánh giá rất cao các nhà triết học Hy Lạp cổ
đại, coi họ là những nhà biện chứng đầu tiên trong lịch sử. Đó cũng chính là lý do mà
“chúng ta phải luôn luôn trở lại với thành tựu của cái dân tộc nhỏ bé đó, cái dân tộc
mà năng lực và hoạt động toàn diện của nó đã tạo ra cho nó một địa vị mà không một
dân tộc nào khác có thể mong ước được trong lịch sử phát triển của nhân loại” [65,
tr.491].
Phương pháp tư duy biện chứng đã có bước phát triển đáng kể trong triết học Hy
Lạp cổ đại, nhưng tiếc rằng nó đã hoàn toàn biến mất trong 1.500 năm tiếp theo. Đây


là một thực tế cho dù các triết học thời kỳ tan rã của xã hội chiếm hữu nô lệ cổ đại,
triết học trung cổ sơ kỳ và các triết học thời kỳ Phục hưng đã để lại không ít những
minh hoạ trong quan niệm biện chứng sâu sắc, nhưng về cơ bản nó vẫn bị thống trị bởi
phương pháp siêu hình [116, tr.14]. Phương pháp tư duy siêu hình trở thành phương

pháp thống trị thời kỳ này đã không đáp ứng được những đòi hỏi, yêu cầu của nhận
thức khoa học hiện đại. Những kết quả nghiên cứu mới trong lĩnh vực vật lý học và
sinh vật học thế kỷ XIX đòi hỏi phải có cách nhìn nhận biện chứng về thế giới. Nền
triết học cổ điển Đức với tinh thần biện chứng đã ra đời trước yêu cầu nhận thức của
khoa học.
Phép biện chứng duy tâm của các nhà triết học cổ điển Đức bắt đầu từ I.Cantơ và
đạt tới đỉnh cao trong triết học Hêghen. Các ông đã có công lao trong việc đề ra và xây
dựng quan niệm biện chứng về sự phát triển. Ph.Ăngghen nhận xét Hêghen là người
đầu tiên đã coi toàn bộ thế giới tự nhiên, lịch sử và tinh thần như một quá trình, nghĩa
là luôn luôn luôn vận động, thay đổi, biến hoá và phát triển, trong đó ông đã cố tìm ra
mối liên hệ nội tại của sự vận động và phát triển [65, tr.39-40]. Hêghen đã xây dựng
phép biện chứng thành một hệ thống với các phạm trù, quy luật của sự vận động và
phát triển, đối lập với phép siêu hình và ông coi phép biện chứng là một hình thức
cao nhất của tư duy. Với việc trình bày những quy luật cơ bản của phép biện chứng,
Hêghen đã làm nổi bật nguồn gốc, phương thức, con người và khuynh hướng của sự
phát triển. Nhưng tiếc rằng, đó lại là phép biện chứng duy tâm, khi mà biện chứng chỉ
là sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối”.
Phương pháp tư duy biện chứng duy vật mácxít dựa trên nền tảng của phép biện
chứng duy vật, kế thừa những giá trị tư tưởng của lịch sử trên hai nghìn năm của phép


biện chứng, trên cơ sở những thành tựu của khoa học tự nhiên, nó đã vượt qua được
những hạn chế của phương pháp tư duy biện chứng tự phát, ngây thơ thời cổ đại và
phương pháp tư duy biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức.
Về trình độ của tư duy, trong di sản triết học trước Mác có những phạm trù khác
nhau được sử dụng để biểu thị các trình độ. Tựu trung, người ta đã phân biệt hai
trình độ: một là, hoạt động tư duy xem xét, ghi nhận, mô tả những kết quả của kinh
nghiệm cảm tính; hai là, tư duy ở trình độ phát hiện bản chất, những quy luật chi
phối sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
Khả năng tư duy ở mỗi chủ thế là khác nhau. Khái niệm năng lực tư duy diễn tả sự

khác nhau về khả năng giữa cá nhân, cộng đồng xã hội người. Cùng với phạm trù tư
duy, phạm trù năng lực được các nhà nghiên cứu ở nước ta phân tích khá nhiều từ
sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng và xác định đây là vấn đề quan
trọng trong quá trình đổi mới tư duy. Có người cho rằng, năng lực tư duy là tổng hợp
những phẩm chất trí tuệ đáp ứng yêu cầu nhận thức thế giới và bản thân con người,
đảm bảo cho hành động sáng tạo, nó biểu hiện ở khuynh hướng nhận thức và hành
động, ở kết quả xử lý thông tin và nhất là ở kết quả hành động [60, tr.48]. Có các tác
giả đã phân tích yếu tố cấu thành năng lực tư duy bao gồm năng lực nhận thức, khả
năng phát triển tri thức và năng lực vận dụng sáng tạo tri thức trong hoạt động thực
tiễn. "Năng lực tư duy là tổng hợp những khả năng ghi nhớ, tái hiện, trừu tượng hóa,
khái quát hoá, liên tưởng, luận - giải, và xử lý trong quá trình phản ánh, phát triển trí
thức và vận dụng đúng vào thực tiễn trên cơ sở quy luật khách quan mang lại những
kết quả nhất định [95, tr.15 - 16].


×