+Ngân sách thâm hụt nặng nề. Vốn nợ đọng nước ngoài ngày càng tăng và không có khả
năng cho chi trả.
+Thu nhập từ nền kinh tế quốc dân không đủ chi dùng, tích luỹ hầu như không có.
+Vốn đầu tư cho sản xuất và xây dựng chủ yếu là dựa vào vay và viện trợ nước ngoài.
- Cùng với đó là sự thoái hoá về mặt con người và xa hội.
- Đến năm 1979, nền kinh tế rất suy yếu, sản xuất trì trệ, đời sống nhân dân khó khăn,
nguồn trợ giúp từ bên ngoài giảm mạnh.
- Từ năm 1975 đến năm 1985, các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể bị tiêu diệt
hoặc không còn điều kiện phát triển dẫn đến thực trạng tiềm năng to lớn của các thành
phần kinh tế này không được khai thác và phục vụ cho mục tiêu chung của nền kinh tế.
Ngược lại, thành phần kinh tế quốc doanh đa phát triển ồ ạt, tràn lan trên mọi lĩnh vực trở
thành địa vị đọc tôn trong hầu hết các ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ (trừ ngành
nông nghiệp, thành phần kinh tế tập thể là chủ yếu).Thời điểm cao nhất, thànhphần kinh tế
quốc doanh đa cõ gần 13 nghìn doanh nghiệp với số tài sản cố định chiếm 70% tổng số tài
sản cố định của nền kinh tế. Thời kỳ này, kinh tế nước ta tuy có đạt được tốc độ tăng
trưởng nhất định nhưng sự tăng trưởng đó không có cơ sở để phát triển vì đa dựa vào điều
kiện bao cấp, bội chi ngân sách, lạm phát và vay nợ nước ngoài.
- Do phát triển tràn lan lại quản lý theo cơ chế bao cấp, kế hoạch hoá tập trung nên nhà
nước gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý, điều hành các doanh nghiệp quốc doanh,
nhiều doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, lực lượng sản xuất không được giải phóng,
nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng và tụt hậu.
3.Nguyên nhân
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần còn tồn tại trong thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận
dụng đúng lý luận và thực tiễn vào tinh hình nước ta.
Đến năm 1986, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về căn bản vẫn chưa bị xoá bỏ.
Cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ, nhiều chính sách, thể chế lỗi thời chưa được thay
đổi. Tình trạng tập trung quan liêu còn nặng, đồng thời những hiện tượng vô tổ chức, vô kỷ
luật còn khá phổ biến.
Việc đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý, việc điều hành không nhạy bén, là những
nguyên nhân quan trọng dẫn tới hành động không thống nhất từ trên xuống dưới.
Chúng ta mới nêu ra được phương hướng chủ yếu của cơ chế mới, hình thức, bước
đi, cách làm cụ thể thì còn nhiều vấn đề chưa giải quyết được thoả đáng cả về lý luận và
thực tiễn.
4. Tư tưởng chỉ đạo
Ta đa bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận trong thời kỳ quá độ:”Khuynh hướng
tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy,đặc biệt là những chính sách kinh tế là bệnh chủ
quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ
quan” (Đảng công sản Việt nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI-1986).
Chúng ta đa có những thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thừa nhận thật sự những
quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan.
Chúng ta đa ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách quá mức mà hiệu quả
kinh tế phát triển chậm. Hơn thế nữa, ta chưa chú ý đúng mức tới sản xuất nông nghiệp và
sản xuất hàng tiêu dùng nên đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Bên cạnh đó, sự tan ra của hệ thống các nước xa hội chủ nghĩa vào những năm
cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 làm cho chúng ta mất đi một thị trường truyền thống,
nguồn viện trợ quan trọng, gây nhiều khó khăn đối với sản xuất và đời sống.
- Chính sách cấm vận của Hoa Kỳ kéo dài, sự thù địch của các thế lực phản động
cũng có tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xa hội của đất nước.
Tất cả những nguyên nhân trên cộng với thiên tai, mất mùa liên tiếp vào những năm
1979 - 1980 đa đưa nước ta vào tình trạng khủng hoảng, công nghiệp chỉ tăng 0,6%, nông
nghiệp tăng 1,9% trong khi lạm phát ở mức siêu cấp năm 1986 : 74%
Chính vì vậy, bài học kinh nghiệm được rút ra trong “ Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VI về phát triển kinh tế phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hoạt
động theo quy luật khách quan là hoàn toàn đúng đắn. Chính từ những khó khăn trên đòi
hỏi phải đổi mới nền kinh tế, xa hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đa đánh dấu một
mốc phát triển quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước.
III. Biện pháp giải quyết tình hình để phát triển kinh tế
Để khắc phục khuyết điểm, chuyển biến được tình hình, Đảng ta trước hết phải thay đổi
nhận thức , đổi mới tư duy. Phải nhận thức và hành động đúng đắn, đề ra những chủ
trương, chính sách phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong đó các quy luật đặc
thù của chủ nghĩa xa hội ngày càng chi phối mạnh mẽ phương hướng phát triển chung của
xa hội. Mọi chủ trương, chính sách, biện pháp kinh tế gây tác động ngược lại đều biểu hiện
sự vận dụng không đúng quy luật khách quan, phải được sửa đổi hoặc huỷ bỏ.
- Trên cơ sở đó, chúng ta phải vận dụng tổng hợp hệ thống các quy luật đang tác
động lên nền kinh tế. Trong hệ thống các quy luật đó, quy luật kinh tế cơ bản cùng với các
quy luật đặc thù khác của chủ nghĩa xa hội ngày càng phát huy vai trò chủ đạo, được vận
dụng trong một thể thống nhất với các quy luật của sản xuất hàng hoá, đặc biệt là quy luật
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
giá trị, quy luật cùng cầu, quy luật cạnh tranh Kế hoạch hoá phải luôn luôn gắn liền với
việc sử dụng các đòn bảy kinh tế.
- Đại hội đảng lần thứ VI có ý nghĩa đặc biệt quan trọng . Những quan điểm, đường
lối do Đại hội VI vạch ra là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của đất nước . Công cuộc đổi mới của Đảng từ sau Đại
hội VI đến nay ở nước ta không nằm ngoài những quy luật phổ biến của phép biện chứng,
Đảng ta đa vận dụng phép biện chứng vào nhận thức hiện thực xa hội, phân tích các mối
liên hệ biện chứng của đời sống hiện thực, tìm ra các mâu thuẫn đó và tạo ra động lực
mạnh mẽ cho quá trình đổi mới vững chắc.
Vì trước đây, nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế, xa hội với nhiều khó khăn phức
tạp, gay gắt, lạm phát phi ma do tư duy lý luận bị lạc hậu, giữa lý luận và thực tiễn có
khoảng cách xa. Tư duy cũ về chủ nghĩa xa hội theo mô hình tập trung quan liêu bao cấp
đa cản trở sự phát triển của thực tiễn sản xuất. Bị chi phối bởi quy luật mâu thuẫn khách
quan nên để giải quyết mâu thuẫn đó Đảng ta đa tiến hành đổi mới và cải cách kinh tế.
- Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất. Để làm đủ ăn
và có tích luỹ, phải ra sức phát triển sản xuất, xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, trước
hết là cơ cấu các ngành kinh tế phù hợp với tính quy luật về sự phát triển các ngành sản
xuất vật chất, phù hợp với sự phân công lao động và hợp tác quốc tế. Cơ cấu kinh tế đó
đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối với nhịp độ tăng trưởng ổn định. Phải thông qua
việc sắp xếp lại sản xuất, đi đôi với việc xây dựng thêm cơ cấu kinh tế hợp lý.
- Hướng vào việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu
dùng, xuất khẩu.
- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Củng cố thành phần kinh tế xa hội chủ nghĩa bao gồm cả
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
khu vực quốc doanh, tập thể. Bằng các biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các
thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh
tế xa hội chủ nghĩa. giải pháp đó xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan
điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ
quá độ. Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hoá theo phương
thức hoạch toán kinh doanh xa hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Tiến hành phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, chống tập trung quan liêu,
chống tự do vô tổ chức. Bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, tự chủ tài chính của
các đơn vị kinh tế cơ sở, quyền làm chủ của các tập thể lao động.
Áp dụng lý luận thực tiễn trong quá trình đổi mới hiện nay
Việc Đảng ta tổng kết những bài học ở Đại hội VI, lần đầu tiên chỉ rõ sai lầm chủ
quan, duy ý chí, coi thường các quy luật khách quan dẫn tới làm sai, làm hỏng và phải sửa
chữa trong các chính sách xây dựng kinh tế, phát triền văn hoá có ý nghĩa tự giải phóng và
mở đường cho sự phát triển mới rất to lớn.
Trên thực tế, đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lanh đạo có một sự tương đồng về
hoàn cảnh, nội dung và ý nghĩa như”Chính sách kinh tế mới của Lênin”
(NEP). Với đổi mới, quan niệm về chủ nghĩa xa hội và con đường đi lên chủ nghĩa xa hội
của Đảng ta đa ngày được xác định rõ hơn. Nó thấm nhuần quan điểm lịch sử cụ thể, quan
điểm thực tiễn và quan điểm phát triển.
I. Lý luận về thực tiễn trong sự nghiệp phát triển kinh tế và đổi mới kinh tế hiện nay.
Công cuộc đổi mới chính thức bắt đầu từ việc Đảng ta thừa nhận và cho phép phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là một tất yếu
khách quan khi ở vào thời kỳ quá độ như ở nước ta hiện nay. Phải dung hoà và tồn tại
nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu do lịch sử để lại song đưa chúng cùng tồn tại và
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
phát triển mới là một vấn đề nan giải, khó khăn. Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của
kinh tế tư bản tư nhân, đương nhiên phải thường xuyên đấu tranh với xu hướng tự phát tư
bản chủ nghĩa và những mặt tiêu cực trong các thành phần kinh tế, giải quyết mâu thuẫn
tồn tại trong sản xuất giữa chúng để cùng phát triển.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức. Đó là bài
học về quán triệt quan điểm thực tiễn - nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan
điểm cơ bản và hàng đầu của triết học Mác xít. Sự nghiệp đổi mới với tính chất mới mẻ và
khó khăn của nó đòi hỏi phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý luận phải trở
thành tiền đề và điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thức tiễn. Tuy
nhiên, lý luận không bỗng nhiên mà có và cũng không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về lý
luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa, thực tiễn lại là cơ sở để nhận thức, của lý luận.
Phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm, mới có cơ sở đề khái quát thành lý luận.
Vì vậy, quá trình đổi mới ở nước ta chính là quá trình vừa học vừa làm, vừa làm vừa
tổng kết lý luận, đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi quay trở lại quá trình đổi
mới. Có những điều chúng ta phải mò mẫm trong thực tiễn, phải trải qua thể nghiệm, phải
làm rồi mới biết, thậm chí có nhiều điều phải chờ thực tiễn. Ví dụ như vấn đè chống lạm
phát, vấn đề khoán trong nông nghiệp, vấn đề phân phối sản phẩm Trong quá trình đó, tất
nhiên sẽ không tránh khỏi việc phải trả giá cho những khuyết điểm, lệch lạc nhất định.
ở đây, việc bám sát thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ và nhân dân là rất
quan trọng. Trên cơ sở, phương hướng chiến lược đúng, hay làm rồi thực tiễn sẽ cho ta
hiểu rõ sự vật hơn nữa - đó là bài học không chỉ của sự nghiệp kháng chiến chống ngoại
xâm mà còn là bài học của sự nghiệp đổi mới vừa qua và hiện nay.
Trong khi đề cao vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp, không hề coi nhẹ
lý luận. Quá trình đổi mới là quá trình Đảng ta không ngừng nâng cao trình độ lý luận của
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
mình, cố gắng phát triển lý luận, đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xa hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xâ hội ở nước ta. Nó được thể hiện qua năm bước chuyển của đổi mới tư
duy phù hợp với sự vận động của thực tiễn cuộc sống trong những hoàn cảnh và điều kiện
mới
1. Bước chuyển thứ nhất:
Từ tư duy, dựa trên mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối hoá sở hữu xa hội
(Nhà nước và tập thể) với sự phát triển vượt trước của quan hệ sản xuất đối với sự phát
triền của lực lượng sản xuất dẫn tới hậu quả kìm ham sự phát triển sản xuất sang tư duy
mới. Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo trong sự thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng
các hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động làm đặc trưng chủ yếu nhằm thúc đẩy
sản xuất phát triển.
Đây chính là bước chuyển căn bản mà có ý nghĩa sâu xa vì nó là tôn trọng quy luật
khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất; tuỳ thuộc vào trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất mà từng bước thiết lập quan hệ sản xuất cho phù hợp .
2. Bước chuyển thứ hai:
Từ tư duy quản lý dựa trên mô hình một nền kinh tế chỉ huy tập trung, kế hoạch hoá
tuyệt đối với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư duy quản lý mới thích ứng với nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng Xa hội Chủ nghĩa
3. Bước chuyển thứ ba:
Đó là tiến hành đổi mới hệ thống chính trị, từ chế độ tập trung quan liêu với phương
thức quản lý hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hoá các lĩnh vực của đời sống xa hội,
thực hiện dân chủ toàn diện.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
4. Bước chuyển thứ tư:
Đổi mới quan niệm về sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xa hội ở một nước
phải xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lê nin trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước
đó. Và đây cũng chính là tính khách quan, là cơ sở khách quan quy định nhận thức và
những tìm tòi sáng tạo của chủ thể lanh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xa hội. Nó cũng
đồng thời một lần nữa làm sáng tỏ quan điểm thực tiễn chi phối sự hoạch định đường lối
chính sách.
5. Bước chuyển thứ năm:
Đó là sự hình thành quan niệm mới của Đảng ta về Chủ nghĩa Xa hội những nhận
thức mới về nhân tố con người.
Sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lê nin là ở chỗ trong khi khái quát thực tiễn cách
mạng, lịch sử xa hội, nó vạch rõ quy luật khách quan của sự phát triển, dự kiến những
khuynh hướng cơ bản của sự tiến hoá xa hội. Trong giai đoạn hiện nay của sự nghiệp xây
dựng kinh tế xa hội đòi hỏi phải nắm vững và vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin. Để khắc phục những quan niệm lạc hậu trước đây cần chúng ta phải
đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết có hệ thống sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xa hội, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới. Có như vậy, lý luận mới thực hiện vai trò tích cực của
mình đối với thực tiễn.
Đổi mới nhận thức lý luận và công tác lý luận là một quá trình phức tạp, đòi hỏi
phải đấu tranh với tính bảo thủ và sức ỳ của những quan niệm lý luận cũ. đồng thời, đấu
tranh với những tư tưởng, quan niệm cực đoan từ bỏ những nguyên tắc cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lê nin, phủ định sạch trơn mọi giá trị, mọi thành tựu của chủ nghĩa xa hội.
Tóm lại đổi mới tư duy chỉ đạo trong sự nghiệp đổi mới nói chung là một bộ phận
không thể thiếu được của sự phát triển xa hội cũng như sự phát triển kinh tế xa hội nước ta
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -