ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
U
PHÁP LUẬT
VỀ BÁN HÀNG ĐA CẤP Ở VIỆT NAM
Ngành
: Luật Kinh tế
Chuyên ngành
: Luật Tổ chức kinh doanh
Niên khóa
: 2012 2016
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
SINH VIÊN THỰC HIỆN : HOÀNG ĐỖ THANH NHÂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN
: TS. LÊ THỊ PHÚC
THỪA THIÊN HUẾ, năm 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Khóa luận tốt nghiệp chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận tốt nghiệp
đảm bảo độ chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của trường Đại
học Luật trực thuộc Đại học Huế. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị trường
Đại học Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ KHÓA LUẬN
HOÀNG ĐỖ THANH NHÂN
2
Lời Cảm Ơn
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, em đã nhận
được sự động viên và giúp đỡ nhiều mặt từ thầy cô,
gia đình và bạn bè.
Trước tiên, em muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất
đến cô giáo, Tiến sĩ Lê Thị Phúc người đã tận tình
hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận
tốt nghiệp.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến những thầy
cô giáo đã giảng dạy em trong bốn năm qua, những
kiến thức mà em nhận được trên giảng đường đại học
sẽ là hành trang giúp em vững bước trong tương lai.
Cuối cùng, em muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc đến
tất cả bạn bè, và đặc biệt là cha mẹ và người thân,
những người luôn kịp thời động viên và giúp đỡ em
vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.
Thừa Thiên Huế, ngày 5 tháng 4 năm 2016
Sinh viên
4
Hoàng Đỗ Thanh Nhân
THỐNG KÊ TRÍCH DẪN
STT
Tác giả tài liệu trích dẫn
Trang
Tần suất
Khóa luận
trích dẫn
1.
2.
3.
Bạch Hoàng (2016)
Bách khoa toàn thư mở (2016)
Báo điện tử của Bộ Thông tin và
80
14
68
01
01
01
4.
Truyền thông (2016)
Báo điện tử đài truyền hình Việt
88
01
5.
Nam (2015)
Báo điện tử đài truyền hình Việt
68
02
6.
Nam (2016a)
Báo điện tử đài truyền hình Việt
78
01
7.
8.
9.
10.
Nam (2016b)
Báo điện tử VTV NEWS (2016)
Báo kinh doanh và pháp luật (2015)
Báo kinh doanh và pháp luật (2016)
Cổng thông tin điện tử kinh doanh
78
61
82
13
01
01
01
01
11.
tài chính SAGA (2014)
Công ty TNHH Herbalife Việt
99
01
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.
Nam
Cục quản lý cạnh tranh
Cục Quản lý cạnh tranh (2011)
Cục Quản lý cạnh tranh (2013)
Đào Minh Khoa (2014)
Đạt Lê (2016)
Đức – Thế (2015)
Đức Tuấn (2016)
Hiệp hội bán hàng đa cấp Việt
71
72
73
77
79
64
79, 81
14, 23
01
01
01
01
01
01
02
02
20.
21.
22.
23.
24.
25.
26.
27.
28.
29.
30.
31.
32.
33.
34.
35.
36.
37.
38.
39.
40.
6
Nam
Hương Vũ (2013)
Huy Hoàng – Đức Dũng (2015)
Huyền Trân (2016)
Lê Hoài Điệp (2014)
Ngọc Linh (2016)
Ngọc Mai – Sơn Nhung (2006)
Ngọc Tuyên (2016)
Nguyễn Hòa (2016)
Phùng Bắc (2013)
Quang Lộc (2015)
Quyết Thắng (2012)
Sông Thu (2014)
T. Hòa (2013)
Thanh Tùng (2013)
Thu Huệ (2015)
Thi Hồng Hàn Ni (2014)
Trung Kiên (2016)
TTCN (2014)
Võ Đan Mạch (2015)
Vũ Văn Tú (2014)
Xuân Hải (2014)
62
62
76, 79
31, 33, 35
59
22
22, 24
69
77
65
59
88
75
63
85
44, 64
69
46
92
38
87
01
01
02
04
01
01
02
01
01
01
01
01
01
01
01
02
01
01
01
01
01
MỤC LỤC
7
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BCT:
Bộ Công Thương
BHĐC:
Bán hàng đa cấp
NTD:
Người tiêu dùng
SCT:
Sở Công Thương
STM:
Sở Thương Mại
VCA:
VietNam Competition Authority
Cục quản lý cạnh tranh
WFDSA:
World Federation of Direct Selling Associations
Liên đoàn các hiệp hội bán hàng trực tiếp thế giới
8
MỤC LỤC SƠ ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ
9
MỤC LỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH ẢNH
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong tình hình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế như hiện nay, đồng
thời Việt Nam là nước có nền chính trị khá ổn định giúp cho đất nước phát triển
bền vững. Vào thời điểm này, có rất nhiều loại hình kinh doanh, phương thức
kinh doanh hình thành trên thị trường Việt Nam. Kinh doanh theo mạng hay kinh
10
doanh đa cấp là một trong số phương thức kinh doanh triển vọng tại thị trường
Việt Nam những năm gần đây. Phương thức này hình thành đầu tiên trên thế giới
ở Mỹ vào những năm 1920 và sau đó lang rộng ra các nước Anh, Đức, Canada,
Nhật Bản,…Ở Việt Nam, BHĐC manh nha xuất hiện vào cuối thế kỷ 20 và sự
xuất hiện của phương thức kinh doanh này đã ảnh hưởng không ít đến nền kinh
tế xã hội của đất nước theo những hướng khác nhau. Mặc dù, bản chất của
phương thức kinh doanh đa cấp là không xấu nhưng khi vào Việt Nam, một số
đối tượng vì ham muốn lợi nhuận đã làm biến tướng nó khiến sự nhìn nhận về
BHĐC bị lệch lạc.
Việt Nam là một nước khá non trẻ về sự phát triển ngành công nghiệp
BHĐC, kéo theo kinh nghiệm quản lý hoạt động này của các cơ quan ban ngành
hết sức khiêm tốn làm cho sự phát triển của hoạt động BHĐC khá lộn xộn và
thường theo hướng BHĐC bất chính. Để đáp ứng tình hình thực tế tại Việt Nam,
hành lang pháp lý về bán hàng đa cấp đã dần hình thành: Luật Cạnh tranh 2004 1
được ban hành trong đó có những điều khoản quy định về bán hàng đa cấp, cùng
với đó là Nghị định 110/2005/NĐCP2 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp,
Thông tư 19/2005/TTBTM hướng dẫn một số nội dung tại Nghị định
110/2005/NĐCP3… Các văn bản trên đã góp phần quan trọng vào việc đưa hoạt
động bán hàng đa cấp tại Việt Nam đi vào khuôn khổ. Tuy nhiên, do được soạn
1 Quốc hội (2004), Luật Cạnh tranh số 27/2004/QH11, Hà Nội.
2 Chính phủ (2005), Nghị định số 110/2005/NĐCP ngày 24 tháng 8 năm 2005 nghị định về quản lý hoạt
động bán hàng đa cấp, Hà Nội.
3 Bộ Thương mại (2005), Thông tư số 19/2005/TTBTM ngày 8/11/2005 hướng dẫn một số nội dung quy
định tại Nghị định 110, Hà Nội.
11
thảo lần đầu tiên cũng như chưa có kinh nghiệm quản lý thực tiễn nên nội dung
Nghị định 110/2005/NĐCP, Thông tư 19/2005/TTBTM tới nay đã bộc lộ nhiều
bất cập, không đáp ứng được sự phát triển nhanh chóng của phương thức kinh
doanh này. Từ đó, Nghị định 42/2014/NĐCP về quản lý hoạt động bán hàng đa
cấp4 và Thông tư 24/2014/TTBCT quy định chi tiết thi hành một số điều của
Nghị định số 42/2014/NĐCP5 được ban hành, là một tín hiệu tích cực trong công
tác quản lý và chấn chỉnh hoạt động kinh doanh đa cấp.
Tuy nhiên, cần nhìn nhận một cách thực tế rằng với kinh nghiệm 12 năm
kể từ khi Luật cạnh tranh 2004 ra đời, pháp luật về BHĐC còn gặp rất nhiều
vướng mắt, nhận thức từ phía cơ quan quản lý chưa thực sự đầy đủ, kinh
nghiệm quản lý nhà nước chưa nhiều. Lợi dụng kẽ hở của pháp luật, các công ty
BHĐC bất chính đã lừa đảo chiếm đoạt hàng trăm tỷ đồng của hàng trăm nghìn
người dân, từ những người tri thức, những người đã có kinh nghiệm làm việc lâu
năm ở các cơ quan, doanh nghiệp, các sinh viên đại học cho đến những người
dân vùng sâu vùng xa. Thực trạng đó làm nổi lên làn sóng bức xúc trong nhân dân,
xuất hiện những ý kiến trái chiều về ngành kinh doanh này. Một số người cho
rằng đây là ngành kinh doanh lừa đảo, gian dối, thậm chí còn cho rằng BHĐC
không phù hợp với Việt Nam hay nên cấm tuyệt đối phương thức kinh doanh này
ở nước ta. Một số người khác hiểu biết hơn thì cho rằng BHĐC là phương thức
ưu việt.
Tuy đã qua sửa đổi, bổ sung và ban hành văn bản điều chỉnh mới, nhưng
khi nghiên cứu khoa học và trên thực tế xảy ra, một số quy định vẫn còn đang
4 Chính phủ (2014), Nghị định 42/2014/NĐCP ngày 14 tháng 05 năm 2014 nghị định về quản lý hoạt động
bán hàng đa cấp, Hà Nội.
5 Bộ Công thương (2014), Thông tư 24/2014/TTBCT ngày 30/7/2014 hướng dẫn NĐ 42, Hà Nội.
12
thiếu tính thực thi và khó khăn khi áp dụng vào thực tế. Trong bối cảnh hiện nay,
việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về bán hàng đa cấp ở Việt Nam” là hết sức
có ý nghĩa về mặt lý luận cũng như thực tiễn nói trên.
2. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật về BHĐC nói chung được rất nhiều nhà nghiên cứu Luật
học quan tâm, trong đó đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề
này ở Việt Nam. Tất cả các công trình này đều đã nêu ra được bản chất
pháp lý của BHĐC và BHĐC bất chính. Có thể kể đến một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu về BHĐC bao gồm: Luận văn Thạc sĩ "Một số vấn
đề pháp lý về bán hàng đa cấp ở Việt Nam" của tác giả Đoàn Văn Bình
(2006), Đại học Luật Hà Nội; Đề tài Tiến sĩ “Pháp luật về chống cạnh
tranh không lành mạnh ở Việt Nam” của tác giả Lê Anh Tuấn (2008) do
PGS.TS Nguyễn Như Phát hướng dẫn khoa học; Khóa luận tốt nghiệp
"Một số nội dung pháp lý về bán hàng đa cấp ở Việt Nam hiện nay" của
tác giả Nguyễn Thị Bích Hạnh (2010), Đại học Luật Hà Nội; Khóa luận
tốt nghiệp "Những vấn đề pháp lý về hoạt động bán hàng đa cấp ở Việt
Nam" của tác giả Nguyễn Thị Hằng (2011), Đại học Luật Hà Nội; Khóa
luận tốt nghiệp "Bán hàng đa cấp bất chính theo pháp luật cạnh tranh Việt
Nam" của tác giả Nghiêm Xuân Tuyên (2011), Đại học Luật Hà Nội; Luận
văn Thạc sĩ “Pháp luật về Bán hàng đa cấp bất chính ở Việt Nam” của tác giả
Ninh Thị Minh Phương bảo vệ năm 2012 do TS. Bùi Nguyên Khánh hướng
dẫn khoa học và một số bài báo, tạp chí chuyên ngành cũng như rất nhiều công
trình nghiên cứu về vấn đề cạnh tranh không lành mạnh, trong đó có đề cập
đến vấn đề BHĐC.
Luận văn này sẽ cố gắng đi sâu vào các khía cạnh khác nhau của
pháp luật về BHĐC, phân tích và đánh giá nó dựa trên các thực trạng về
pháp luật BHĐC đồng thời rút ra những kinh nghiệm từ thực tiễn để đưa
13
ra được định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật và kiện toàn công tác
quản lý trong thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là: Nêu lên những điểm bất cập, hạn chế
trong hệ thống pháp luật về BHĐC, từ đó thấy được sự những điểm yếu trong
hệ thống pháp luật và trong hiệu quả quản lý nhà nước về BHĐC nhằm hoàn
thiện hệ thống pháp luật BHĐC, đưa phương thức BHĐC trở về đúng với bản
chất của nó tạo thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Từ mục đích nghiên cứu, tác giả xác định nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
gồm: Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề chung về BHĐC; Phân tích, đánh
giá thực trạng pháp luật về BHĐC của Việt Nam để thấy những điểm còn hạn
chế, chưa hợp lí; Phân tích, đánh giá thực trạng vi phạm, thực tiễn xử lý vi phạm
pháp luật về BHĐC tại Việt Nam; đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về quản lý hoạt động BHĐC.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Dựa trên mục đích và những nhiệm vụ đặt
ra, khóa luận tốt nghiệp sẽ nghiên cứu những nội dung của pháp luật về BHĐC;
thực trạng pháp luật về BHĐC và thực tiễn xử lý vi phạm tại Việt Nam. Trên cơ
sở nghiên cứu các vấn đề như đã nêu trên, tác giả sẽ đưa ra kiến nghị về phương
hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về các vấn đề đã được đề cập.
Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu các quy định của
pháp luật về BHĐC trong Bộ luật dân sự 2005, Luật Cạnh tranh 2004, Nghị định
110/2005/NĐCP, Thông tư 19/2005/TTBCT, Nghị định 42/2014/NĐCP, Thông
tư 24/2015/TTBCT, Nghị định số 120/2005/NĐCP6... Từ đó tìm hiểu thực tiễn
6 Chính phủ (2005), Nghị định số 120/2005/NĐCP ngày 30/9/2005 quy định về xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực cạnh tranh, Hà Nội.
14
áp dụng các quy định pháp luật đồng thời nêu lên thực tiễn vi phạm và xử lý vi
phạm của các doanh nghiệp BHĐC những năm gần đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã sử dụng tổng h ợp các phươ ng pháp nghiên cứ u khoa học
bao gồm: Ph ươ ng pháp tổng hợp, phân tích, th ống kê, so sánh, điều tra khảo
sát thực tiễn...
Phương pháp tổng hợp và phân tích: Nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận về BHĐC và thực trạng pháp luật BHĐC ở Việt Nam.
Phương pháp thống kê: Dùng để thống kê các văn bản quy phạm pháp
luật, các tài liệu khác liên quan đến đề tài.
Phương pháp so sánh: So sánh việc áp dụng các quy định của pháp luật
với thực trạng áp dụng pháp luật tại các doanh nghiệp BHĐC, so sánh các quy
định của pháp luật hiện hành và các văn bản đã bị thay thế.
Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn: Nắm bắt những khó khăn,
vướng mắt trong công tác quản lý nhà nước về BHĐC ở địa phương, những sai
phạm thực tế mà các doanh nghiệp BHĐC vi phạm.
6. Kết cấu đề tài
Khóa luận tốt nghiệp được kết cấu ra thành ba phần gồm lời mở đầu, nội
dung chính và kết luận. Phần nội dung chính tác giả bố cục thành ba chương theo
hướng đi từ những vấn đề chung mang tính khái quát đến những vấn đề cụ thể
hơn từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật BHĐC. Bao gồm:
Chương 1: Lý luận chung về pháp luật bán hàng đa cấp ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng về pháp luật bán hàng đa cấp ở Việt Nam
Chương 3: Đề xuất hoàn thiện pháp luật bán hàng đa cấp ở Việt Nam
Ngoài ra, khóa luận tốt nghiệp còn có danh mục tài liệu tham khảo, danh
mục các từ viết tắt, phụ lục, thống kê trích dẫn.
15
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT BÁN HÀNG ĐA CẤP
1.1. Nguồn gốc của phương thức bán hàng đa cấp
Kinh doanh đa cấp là ngành kinh doanh hiện đại với phương thức kinh
doanh đa cấp hay còn gọi là kinh doanh theo mạng (Multi Level Marketing –
MLM) đã ra đời và phát triển mạnh mẽ ở thế kỷ 20, hứa hẹn là ngành kinh doanh
triển vọng ở thế kỷ 21. Phương thức BHĐC gắng liền với tên tuổi của nhà hóa
học người Mỹ Karl Renborg (18871973). Ông là người đầu tiên đã ứng dụng ý
tưởng tiếp thị mạng lưới vào trong cuộc sống, tạo ra một hệ thống kinh tế.
Nhận thức được vai trò của dinh dưỡng đối với sức khỏe, năm 1927 ông đã bắt
đầu chế biến các chất bổ sung dinh dưỡng khác nhau dựa trên cỏ linh lăng là một
loại cỏ có chứa rất nhiều vitamin, khoáng chất, đạm và nhiều vi chất có ích khác.
16
Ông đề nghị những người quen của ông thử nghiệm miễn phí sản phẩm nhưng
không ai dám dùng thử vì họ không muốn mình làm vật thí nghiệm. Sau nhiều cố
gắng mà không đem lại được kết quả, ông hiểu ra rằng chẳng ai chịu đánh giá
tốt những thứ cho không, vì vậy ông đã đưa ra một ý tưởng, mà sau này là nguyên
lý cho sự phát triển thành một ngành kinh doanh tiên tiến. Renborg đề nghị những
người bạn của mình giới thiệu sản phẩm của ông ấy cho những người quen của
họ, nếu những người quen của bạn ông mua sản phẩm thì bạn của ông sẽ được
hưởng hoa hồng từ việc bán sản phẩm đó. Không chỉ dừng lại ở đó, ông còn nảy
ra ý tưởng là nếu người quen của bạn ông giới thiệu tiếp cho người khác thì bạn
của ông vẫn lại nhận được hoa hồng. Với cách làm đó, thông tin của sản phẩm
đã lan truyền nhanh chóng và rộng rãi. Doanh thu mang lại tăng lên ngoài sức
tưởng tượng. Năm 1934, ông sáng lập ra công ty Vitamins California và nhờ
phương pháp phân phối mới này, khi người tiêu dùng cũng trở thành người phân
phối sản phẩm, công ty của ông đã nhanh chóng đạt doanh số 7 triệu USD mà
không hề mất một đồng quảng cáo nào. Sự độc đáo ở chỗ nhờ tiết kiệm được
chi phí quảng cáo và các khâu trung gian (đại lý, bán lẻ, kho bãi…) nên những
người tham gia vào hệ thống của ông có thể nhận được thù lao cao hơn. Đến
năm 1940, Renborg đổi tên công ty thành Nutrilite Products theo tên sản phẩm và
vẫn giữ nguyên phương pháp tiêu thụ. Những cộng tác viên của ông tự tìm người
mới, chỉ cho người mới đầy đủ thông tin về sản phẩm và dạy cho người mới
phương pháp xây dựng mạng lưới bắt đầu từ những người quen của mình. Công
ty đảm bảo cho tất cả nhà phân phối độc lập có đủ sản phẩm và nhận hoa hồng
không chỉ lượng sản phẩm họ bán ra mà còn trả hoa hồng cho lượng sản phẩm
được bán ra bởi những người do họ trực tiếp tìm ra. Những người tham gia mạng
lưới của công ty nhận được sự giúp đỡ hướng dẫn tận tình của người bảo trợ.
Phương pháp phân phối hàng hóa của ông Renborg chính là khởi điểm của
ngành kinh doanh theo mạng, ở đây ông chỉ mới áp dụng một tầng, và trong nhiều
17
tài liệu thì năm 1940 là năm khởi đầu của kinh doanh đa cấp và Renborg được coi
là ông tổ của ngành kinh doanh này7.
Nhận thấy được tiềm năng của ngành kinh doanh này, Rich De Vos và Jay
Van Andel (2 cộng tác viên của công ty) đã sáng lập ra công ty riêng của mình
mang tên American Way Corporation, viết tắt là Amway và hiện nay Amway đã
trở thành một trong những công ty hàng đầu thế giới trong ngành kinh doanh đa
cấp với chi nhánh trên 80 quốc gia.
Vào những năm đầu thuộc thập niên 70, kinh doanh đa cấp bắt đầu nhận
được sự quan tâm cũng như sự phản đối quyết liệt từ dư luận. Năm 1975, trong
hội đồng liên bang Hoa Kỳ có những người phản đối kinh doanh đa cấp và quy
kết nó với cái gọi là “hình tháp ảo” một hình thức kinh doanh bất hợp pháp bị
cấm ở Hoa Kỳ. Với sự nhầm lẫn đó, công ty Amway đã phải theo đuổi vụ kiện
kéo dài 4 năm (1975 – 1979). Cuối cùng Tòa án thương mại liên bang Hoa Kỳ cũng
tuyên bố phương thức kinh doanh đa cấp mà Amway đang áp dụng không phải là mô
hình “Kim thự tháp ảo” và được chấp nhận về mặt luật pháp. Từ vụ việc đó, những
quy định đầu tiên của pháp luật về BHĐC ra đời, đánh dấu những bước thăng trầm
của BHĐC.
Theo nhiều tài liệu ghi nhận kinh doanh đa cấp trên thế giới đã trải qua ba
thời kì như sau:
Từ năm 1940 đến 1979 chỉ có khoảng 30 công ty kinh doanh theo mạng
ra đời tại Mỹ, đây là giai đoạn được gọi tên là thời kì thứ nhất thời kì hình
thành phương thức BHĐC.
Từ 19791990 là thời kỳ bùng nổ của kinh doanh theo mạng. Mỗi ngày
chúng ta có thể thấy hàng trăm công ty kinh doanh theo mạng tuyên bố thành lập
7 Cổng thông tin điện tử kinh doanh tài chính SAGA (2014), Lịch sử ngành bán hàng đa cấp,
/>
18
với đủ loại sản phẩm và mô hình kinh doanh. Đây là thời kì thứ hai – thời kì
hưng thịnh phát triển của phương thức BHĐC
Từ năm 1990, nhờ sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ và truyền thông,
kinh doanh theo mạng mang màu sắc mới, các nhà phân phối có thể đơn giản hoá
công việc của mình nhờ vào điện thoại, internet... Ở giai đoạn này mà theo các
chuyên gia gọi là thời kì thứ ba nhà phân phối giỏi phải là một nhà hùng biện
và đi lại như con thoi giữa các mạng lưới. Bất kỳ ai cũng có thể sử dụng thời
gian nhàn rỗi của mình để tham gia công việc và làm việc ở bất cứ đâu. Các công
ty bán hàng truyền thống như Ford, Colgate, CocaCola và nhiều công ty nổi
tiếng khác đã bắt đầu áp dụng phương pháp kinh doanh theo mạng để phân phối
sản phẩm độc đáo của mình8.
1.2. Khái niệm bán hàng đa cấp
Phương diện kinh tế học, BHĐC hay còn được gọi là Kinh doanh tiếp thị
mạng lưới (tiếng Anh: Multilevel Marketing ) hoặc Kinh doanh theo mạng (Network
Marketing) là thuật ngữ chung dùng để chỉ một phương thức marketing sản
phẩm kinh doanh, bán hàng trực tiếp đến tay người tiêu dùng, họ có thể trực tiếp đến
mua hàng tại công ty (hoặc qua một nhà phân phối duy nhất) mà không phải thông
qua các đại lý hay cửa hàng bán lẻ9.
Thông qua hệ thống người tham gia BHĐC, sản phẩm sẽ đến tay người
tiêu dùng trực tiếp bằng cách trao đổi, gặp gỡ và mua bán trực tiếp mà không
phải qua bất kì khâu trung gian nào cả. Khách hàng cũng có thể mua hàng trực
tiếp tại công ty hoặc người tham gia BHĐC bất kì mà không phải là đại lý hay
8 Hiệp hội bán hàng đa cấp Việt Nam, Lịch sử ngành bán hàng đa cấp />option=com_content&view=article&id=65:lchsnganhbanhangacp&catid=38&Itemid=77&lang=vi.
9 Bách khoa toàn thư mở (2016), Kinh doanh đa cấp, />%C4%91a_c%E1%BA%A5p, truy cập ngày 25/2/2016.
19
cửa hàng bán lẻ nào. Với phương thức marketing sản phẩm trực tiếp thậm chí là
chào bán trực tiếp sản phẩm của mình đến tay người tiêu dùng là một phương
thức hữu hiệu nhằm tăng tính tương tác giữa nhà phân phối và người tiêu dùng
ngoài ra còn giúp tiết kiệm chi phí sân bãi, kho vận, quảng cáo,… do đó giá thành
của sản phẩm sẽ giảm so với phương thức bán hàng truyền thống là thông qua
các đại lý hay rất nhiều cửa hàng bán lẻ. Thay vào đó số tiền này sẽ đươc
chuyển thành những khoản tiền thưởng cho các người tham gia BHĐC khi bán
được sản phẩm, cải thiện chất lượng sản phẩm.
Phương thức bán hàng này dựa trên đặt tính “dây chuyền” trong thông tin
của con người, khi một người sử dụng loại sản phẩm này có hiệu quả, thì sẽ
giới thiệu thông tin về sản phẩm đó cho người thân, bạn bè cùng biết. Người
tham gia BHĐC không chỉ đơn thuần là nhà bán hàng mà còn chính là người tiêu
dùng sản phẩm trong trường hợp này, họ sử dụng những kinh nghiệm của mình
để tiếp thị cho sản phẩm. Từ đó đem về khách hàng cho công ty và cho chính bản
thân của mình. Mỗi người tham gia BHĐC tuyến trên sẽ có những nhà phân phối
tuyến dưới, việc quản lý nội bộ này sẽ thông qua một mã số.
Phương diện khoa học pháp luật ở Việt Nam, BHĐC được định nghĩa tại
khoản 11 Điều 3 Luật cạnh tranh 2004 như sau:
Bán hàng đa cấp là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa đáp ứng các
điều kiện sau đây:
a) Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới
người tham gia bán hàng đa cấp gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau;
b) Hàng hóa được người tham gia bán hàng đa cấp tiếp thị trực tiếp cho
người tiêu dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác
không phải là địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người
tham gia;
c) Người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền
thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của
20