Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Pháp luật về bán hàng đa cấp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.23 MB, 20 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
­­­­­­
U

PHÁP LUẬT 
VỀ BÁN HÀNG ĐA CẤP Ở VIỆT NAM

Ngành

:  Luật Kinh tế

Chuyên ngành

: Luật Tổ chức kinh doanh

Niên khóa

: 2012 ­ 2016

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

SINH VIÊN THỰC HIỆN  : HOÀNG ĐỖ THANH NHÂN


NGƯỜI HƯỚNG DẪN

: TS. LÊ THỊ PHÚC

THỪA THIÊN HUẾ, năm 2016
LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp là công trình nghiên cứu của riêng 
tôi. Các kết quả nêu trong Khóa luận tốt nghiệp chưa được công bố trong bất kỳ 
công trình nào khác. Các số  liệu, ví dụ  và trích dẫn trong Khóa luận tốt nghiệp 
đảm bảo độ  chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả  các môn 
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của trường Đại  
học Luật trực thuộc Đại học Huế. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị trường  
Đại học Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ KHÓA LUẬN

HOÀNG ĐỖ THANH NHÂN

2



Lời Cảm Ơn
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, em đã nhận 
được sự  động viên và giúp đỡ  nhiều mặt từ  thầy cô, 
gia đình và bạn bè.
Trước tiên, em muốn gửi lời cảm  ơn sâu sắc nhất 
đến   cô   giáo,   Tiến   sĩ   Lê   Thị   Phúc   người   đã   tận   tình 
hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận 
tốt nghiệp. 
Em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến những thầy 
cô   giáo  đã  giảng  dạy  em trong  bốn  năm qua,   những 
kiến thức mà em nhận được trên giảng đường đại học 
sẽ là hành trang giúp em vững bước trong tương lai.
Cuối cùng, em muốn gửi lời cảm  ơn sâu sắc đến 

tất cả  bạn bè, và đặc biệt là cha mẹ  và người thân, 
những người luôn kịp thời  động viên và giúp đỡ  em 
vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.
Thừa Thiên Huế, ngày 5 tháng 4 năm 2016

Sinh viên

4


Hoàng Đỗ Thanh Nhân
THỐNG KÊ TRÍCH DẪN

STT

Tác giả tài liệu trích dẫn

Trang

Tần suất

Khóa luận

trích dẫn

1.
2.
3.

Bạch Hoàng (2016)

Bách khoa toàn thư mở (2016)
Báo điện tử  của Bộ  Thông tin và 

80
14
68

01
01
01

4.

Truyền thông (2016)
Báo điện tử  đài truyền hình Việt 

88

01

5.

Nam (2015)
Báo điện tử  đài truyền hình Việt 

68

02

6.


Nam (2016a)
Báo điện tử  đài truyền hình Việt 

78

01

7.
8.
9.
10.

Nam (2016b)
Báo điện tử VTV NEWS (2016)
Báo kinh doanh và pháp luật (2015)
Báo kinh doanh và pháp luật (2016)
Cổng thông tin điện tử kinh doanh 

78
61
82
13

01
01
01
01

11.


­ tài chính SAGA (2014)
Công   ty   TNHH   Herbalife   Việt 

99

01

12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.

Nam
Cục quản lý cạnh tranh
Cục Quản lý cạnh tranh (2011)
Cục Quản lý cạnh tranh (2013)
Đào Minh Khoa (2014)
Đạt Lê (2016)
Đức – Thế (2015)
Đức Tuấn (2016)
Hiệp   hội   bán   hàng   đa   cấp   Việt 

71
72
73

77
79
64
79, 81
14, 23

01
01
01
01
01
01
02
02


20.
21.
22.
23.
24.
25.
26.
27.
28.
29.
30.
31.
32.
33.

34.
35.
36.
37.
38.
39.
40.

6

Nam
Hương Vũ (2013)
Huy Hoàng – Đức Dũng (2015)
Huyền Trân (2016)
Lê Hoài Điệp (2014)
Ngọc Linh (2016)
Ngọc Mai – Sơn Nhung (2006)
Ngọc Tuyên (2016)
Nguyễn Hòa (2016)
Phùng Bắc (2013)
Quang Lộc (2015)
Quyết Thắng (2012)
Sông Thu (2014)
T. Hòa (2013)
Thanh Tùng (2013)
Thu Huệ (2015)
Thi Hồng ­ Hàn Ni (2014)
Trung Kiên (2016)
TTCN (2014)
Võ Đan Mạch (2015)

Vũ Văn Tú (2014)
Xuân Hải (2014)

62
62
76, 79
31, 33, 35
59
22
22, 24
69
77
65
59
88
75
63
85
44, 64
69
46
92
38
87

01
01
02
04
01

01
02
01
01
01
01
01
01
01
01
02
01
01
01
01
01


MỤC LỤC

7


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BCT:

Bộ Công Thương

BHĐC:


Bán hàng đa cấp

NTD:

Người tiêu dùng

SCT:

Sở Công Thương

STM:

Sở Thương Mại

VCA:

VietNam Competition Authority
Cục quản lý cạnh tranh

WFDSA:

  World Federation of Direct Selling Associations
Liên đoàn các hiệp hội bán hàng trực tiếp thế giới

8


MỤC LỤC SƠ ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ

9



MỤC LỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH ẢNH

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong tình hình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế như hiện nay, đồng 
thời Việt Nam là nước có nền chính trị khá ổn định giúp cho đất nước phát triển 
bền vững. Vào thời điểm này, có rất nhiều loại hình kinh doanh, phương thức 
kinh doanh hình thành trên thị trường Việt Nam. Kinh doanh theo mạng hay kinh  

10


doanh đa cấp là một trong số  phương thức kinh doanh triển vọng tại thị trường  
Việt Nam những năm gần đây. Phương thức này hình thành đầu tiên trên thế giới  
ở  Mỹ  vào những năm 1920 và sau đó lang rộng ra các nước Anh, Đức, Canada,  
Nhật Bản,…Ở Việt Nam, BHĐC manh nha xuất hiện vào cuối thế  kỷ  20 và sự 
xuất hiện của phương thức kinh doanh này đã ảnh hưởng không ít đến nền kinh 
tế  ­ xã hội của đất nước theo những hướng khác nhau. Mặc dù, bản chất của  
phương thức kinh doanh đa cấp là không xấu nhưng khi vào Việt Nam, một số 
đối tượng vì ham muốn lợi nhuận đã làm biến tướng nó khiến sự  nhìn nhận về 
BHĐC bị lệch lạc.
Việt Nam là một nước khá non trẻ  về  sự  phát triển ngành công nghiệp 
BHĐC, kéo theo kinh nghiệm quản lý hoạt động này của các cơ  quan ban ngành 
hết sức khiêm tốn làm cho sự  phát triển của hoạt động BHĐC khá lộn xộn và 
thường theo hướng BHĐC bất chính. Để đáp ứng tình hình thực tế tại Việt Nam,  
hành lang pháp lý về bán hàng đa cấp đã dần hình thành: Luật Cạnh tranh 2004 1
được ban hành trong đó có những điều khoản quy định về bán hàng đa cấp, cùng  

với đó là Nghị  định 110/2005/NĐ­CP2  về  quản lý hoạt động bán hàng đa cấp, 
Thông   tư   19/2005/TT­BTM   hướng   dẫn   một   số   nội   dung   tại   Nghị   định  
110/2005/NĐ­CP3… Các văn bản trên đã góp phần quan trọng vào việc đưa hoạt 
động bán hàng đa cấp tại Việt Nam đi vào khuôn khổ. Tuy nhiên, do được soạn 
1 Quốc hội (2004), Luật Cạnh tranh số 27/2004/QH11, Hà Nội.

2 Chính phủ (2005), Nghị định số 110/2005/NĐ­CP ngày 24 tháng 8 năm 2005 nghị định về quản lý hoạt 
động bán hàng đa cấp, Hà Nội.

3 Bộ Thương mại (2005), Thông tư số 19/2005/TT­BTM ngày 8/11/2005 hướng dẫn một số nội dung quy 
định tại Nghị định 110, Hà Nội.

11


thảo lần đầu tiên cũng như chưa có kinh nghiệm quản lý thực tiễn nên nội dung  
Nghị  định 110/2005/NĐ­CP, Thông tư  19/2005/TT­BTM tới nay đã bộc lộ  nhiều  
bất cập, không đáp  ứng được sự  phát triển nhanh chóng của phương thức kinh  
doanh này. Từ  đó, Nghị  định 42/2014/NĐ­CP về  quản lý hoạt động bán hàng đa  
cấp4  và Thông tư  24/2014/TT­BCT quy định chi tiết thi hành một số  điều của  
Nghị định số 42/2014/NĐ­CP5 được ban hành, là một tín hiệu tích cực trong công 
tác quản lý và chấn chỉnh hoạt động kinh doanh đa cấp.
Tuy nhiên, cần nhìn nhận một cách thực tế rằng với kinh nghiệm 12 năm 
kể  từ  khi Luật cạnh tranh 2004 ra đời, pháp luật về  BHĐC còn gặp rất nhiều  
vướng   mắt,   nhận   thức   từ   phía   cơ   quan   quản  lý   chưa   thực   sự   đầy  đủ,   kinh  
nghiệm quản lý nhà nước chưa nhiều. Lợi dụng kẽ hở của pháp luật, các công ty 
BHĐC bất chính đã lừa đảo chiếm đoạt hàng trăm tỷ đồng của hàng trăm nghìn  
người dân, từ những người tri thức, những người đã có kinh nghiệm làm việc lâu  
năm  ở  các cơ  quan, doanh nghiệp, các sinh viên đại học cho đến những người  
dân vùng sâu vùng xa. Thực trạng đó làm nổi lên làn sóng bức xúc trong nhân dân,  

xuất hiện những ý kiến trái chiều về  ngành kinh doanh này. Một số  người cho 
rằng đây là ngành kinh doanh lừa đảo, gian dối, thậm chí còn cho rằng BHĐC 
không phù hợp với Việt Nam hay nên cấm tuyệt đối phương thức kinh doanh này  
ở nước ta. Một số người khác hiểu biết hơn thì cho rằng BHĐC là phương thức  
ưu việt.
Tuy đã qua sửa đổi, bổ  sung và ban hành văn bản điều chỉnh mới, nhưng 
khi nghiên cứu khoa học và trên thực tế  xảy ra, một số  quy định vẫn còn đang 
4 Chính phủ (2014), Nghị định 42/2014/NĐ­CP ngày 14 tháng 05 năm 2014 nghị định về quản lý hoạt động  
bán hàng đa cấp, Hà Nội.

5 Bộ Công thương (2014), Thông tư 24/2014/TT­BCT ngày 30/7/2014 hướng dẫn NĐ 42, Hà Nội.

12


thiếu tính thực thi và khó khăn khi áp dụng vào thực tế. Trong bối cảnh hiện nay,  
việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về bán hàng đa cấp ở Việt Nam” là hết sức 
có ý nghĩa về mặt lý luận cũng như thực tiễn nói trên.

2. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật về BHĐC nói chung được rất nhiều nhà nghiên cứu Luật 
học quan tâm, trong đó đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về  vấn đề 
này  ở  Việt Nam. Tất cả các công trình này đều đã nêu ra được bản chất 
pháp lý của BHĐC và BHĐC bất chính. Có thể kể đến một số công trình 
nghiên cứu tiêu biểu về  BHĐC bao gồm: Luận văn Thạc sĩ "Một số vấn 
đề  pháp lý về  bán hàng đa cấp  ở  Việt Nam" của tác giả  Đoàn Văn Bình  
(2006), Đại học Luật Hà Nội; Đề  tài Tiến sĩ “Pháp luật về  chống cạnh  
tranh không lành mạnh  ở  Việt Nam” của tác giả  Lê Anh Tuấn (2008) do  
PGS.TS Nguyễn Như  Phát hướng dẫn khoa học; Khóa luận tốt nghiệp 
"Một số nội dung pháp lý về  bán hàng đa cấp  ở  Việt Nam hiện nay" của  

tác giả  Nguyễn Thị  Bích Hạnh (2010), Đại học Luật Hà Nội; Khóa luận 
tốt nghiệp "Những vấn đề  pháp lý về  hoạt động bán hàng đa cấp ở  Việt 
Nam" của tác giả  Nguyễn Thị  Hằng (2011), Đại học Luật Hà Nội; Khóa 
luận tốt nghiệp "Bán hàng đa cấp bất chính theo pháp luật cạnh tranh Việt  
Nam" của tác giả Nghiêm Xuân Tuyên (2011), Đại học Luật Hà Nội; Luận 
văn Thạc sĩ “Pháp luật về Bán hàng đa cấp bất chính ở Việt Nam” của tác giả 
Ninh Thị  Minh Phương bảo vệ  năm 2012 do TS. Bùi Nguyên Khánh hướng 
dẫn khoa học và một số bài báo, tạp chí chuyên ngành cũng như rất nhiều công  
trình nghiên cứu về vấn đề cạnh tranh không lành mạnh, trong đó có đề cập  
đến vấn đề BHĐC.
Luận văn này sẽ  cố  gắng đi sâu vào các khía cạnh khác nhau của  
pháp luật về  BHĐC, phân tích và đánh giá nó dựa trên các thực trạng về 
pháp luật BHĐC đồng thời rút ra những kinh nghiệm từ thực tiễn để  đưa 
13


ra được định hướng hoàn thiện hệ  thống pháp luật và kiện toàn công tác 
quản lý trong thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là: Nêu lên những điểm bất cập, hạn chế 
trong hệ  thống pháp luật về BHĐC, từ  đó thấy được sự  những điểm yếu trong  
hệ  thống pháp luật và trong hiệu quả  quản lý nhà nước về  BHĐC nhằm hoàn  
thiện hệ  thống pháp luật BHĐC, đưa phương thức BHĐC trở  về  đúng với bản  
chất của nó tạo thuận lợi cho sự phát triển kinh tế ­ xã hội.
Từ mục đích nghiên cứu, tác giả xác định nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài  
gồm: Nghiên cứu, làm sáng tỏ  những vấn đề  chung về  BHĐC; Phân tích, đánh 
giá thực trạng pháp luật về BHĐC của Việt Nam để thấy những điểm còn hạn 
chế, chưa hợp lí; Phân tích, đánh giá thực trạng vi phạm, thực tiễn xử lý vi phạm  
pháp luật về  BHĐC tại Việt Nam; đề  xuất các phương hướng, giải pháp hoàn 
thiện pháp luật Việt Nam về quản lý hoạt động BHĐC.

4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Dựa trên mục đích và những nhiệm vụ đặt 
ra, khóa luận tốt nghiệp sẽ nghiên cứu những nội dung của pháp luật về BHĐC; 
thực trạng pháp luật về BHĐC và thực tiễn xử lý vi phạm tại Việt Nam. Trên cơ 
sở nghiên cứu các vấn đề như đã nêu trên, tác giả sẽ đưa ra kiến nghị về phương 
hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về các vấn đề đã được đề cập.
Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu các quy định của 
pháp luật về BHĐC trong Bộ luật dân sự 2005, Luật Cạnh tranh 2004, Nghị định  
110/2005/NĐ­CP, Thông tư  19/2005/TT­BCT, Nghị  định 42/2014/NĐ­CP, Thông 
tư  24/2015/TT­BCT,  Nghị  định số  120/2005/NĐ­CP6... Từ  đó tìm hiểu thực tiễn 
6 Chính phủ (2005), Nghị định số 120/2005/NĐ­CP ngày 30/9/2005 quy định về xử lý vi phạm pháp luật 
trong lĩnh vực cạnh tranh, Hà Nội.

14


áp dụng các quy định pháp luật đồng thời nêu lên thực tiễn vi phạm và xử  lý vi  
phạm của các doanh nghiệp BHĐC những năm gần đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả  đã sử  dụng tổng h ợp các phươ ng pháp nghiên cứ u khoa học  
bao gồm: Ph ươ ng pháp tổng hợp, phân tích, th ống kê, so sánh, điều tra khảo  
sát thực tiễn...
Phương pháp tổng hợp và phân tích: Nhằm làm sáng tỏ những vấn đề  lý 
luận về BHĐC và thực trạng pháp luật BHĐC ở Việt Nam.
Phương pháp thống kê:  Dùng để  thống kê các văn bản quy phạm pháp 
luật, các tài liệu khác liên quan đến đề tài.
Phương pháp so sánh:  So sánh việc áp dụng các quy định của pháp luật 
với thực trạng áp dụng pháp luật tại các doanh nghiệp BHĐC, so sánh các quy 
định của pháp luật hiện hành và các văn bản đã bị thay thế.
Phương  pháp điều  tra,   khảo sát  thực   tiễn:   Nắm  bắt  những  khó  khăn, 

vướng mắt trong công tác quản lý nhà nước về  BHĐC ở  địa phương, những sai  
phạm thực tế mà các doanh nghiệp BHĐC vi phạm.
6. Kết cấu đề tài
Khóa luận tốt nghiệp được kết cấu ra thành ba phần gồm lời mở đầu, nội  
dung chính và kết luận. Phần nội dung chính tác giả bố cục thành ba chương theo  
hướng đi từ những vấn đề  chung mang tính khái quát đến những vấn đề  cụ  thể 
hơn từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật BHĐC. Bao gồm:
Chương 1: Lý luận chung về pháp luật bán hàng đa cấp ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng về pháp luật bán hàng đa cấp ở Việt Nam
Chương 3: Đề xuất hoàn thiện pháp luật bán hàng đa cấp ở Việt Nam
Ngoài ra, khóa luận tốt nghiệp còn có danh mục tài liệu tham khảo, danh 
mục các từ viết tắt, phụ lục, thống kê trích dẫn.

15


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT BÁN HÀNG ĐA CẤP

1.1. Nguồn gốc của phương thức bán hàng đa cấp
Kinh doanh đa cấp là ngành kinh doanh hiện đại với phương thức kinh  
doanh đa cấp hay còn gọi là kinh doanh theo mạng (Multi Level Marketing –  
MLM) đã ra đời và phát triển mạnh mẽ ở thế kỷ 20, hứa hẹn là ngành kinh doanh 
triển vọng  ở thế kỷ 21. Phương thức BHĐC gắng liền với tên tuổi của nhà hóa  
học người Mỹ  Karl Renborg (1887­1973). Ông là người đầu tiên đã  ứng dụng ý  
tưởng tiếp thị  mạng lưới vào trong cuộc sống, tạo ra một hệ  thống kinh tế.  
Nhận thức được vai trò của dinh dưỡng đối với sức khỏe, năm 1927 ông đã bắt 
đầu chế biến các chất bổ sung dinh dưỡng khác nhau dựa trên cỏ linh lăng là một  
loại cỏ có chứa rất nhiều vitamin, khoáng chất, đạm và nhiều vi chất có ích khác. 


16


Ông đề  nghị  những người quen của ông thử  nghiệm miễn phí sản phẩm nhưng 
không ai dám dùng thử vì họ không muốn mình làm vật thí nghiệm. Sau nhiều cố 
gắng mà không đem lại được kết quả, ông hiểu ra rằng chẳng ai chịu đánh giá  
tốt những thứ cho không, vì vậy ông đã đưa ra một ý tưởng, mà sau này là nguyên 
lý cho sự phát triển thành một ngành kinh doanh tiên tiến. Renborg đề nghị những 
người bạn của mình giới thiệu sản phẩm của ông ấy cho những người quen của  
họ, nếu những người quen của bạn ông mua sản phẩm thì bạn của ông sẽ được 
hưởng hoa hồng từ việc bán sản phẩm đó. Không chỉ dừng lại ở đó, ông còn nảy  
ra ý tưởng là nếu người quen của bạn ông giới thiệu tiếp cho người khác thì bạn 
của ông vẫn lại nhận được hoa hồng. Với cách làm đó, thông tin của sản phẩm 
đã lan truyền nhanh chóng và rộng rãi. Doanh thu mang lại tăng lên ngoài sức 
tưởng  tượng.   Năm  1934,  ông  sáng  lập ra   công  ty  Vitamins   California   và   nhờ 
phương pháp phân phối mới này, khi người tiêu dùng cũng trở thành người phân  
phối sản phẩm, công ty của ông đã nhanh chóng đạt doanh số  7 triệu USD mà 
không hề  mất một đồng quảng cáo nào. Sự  độc đáo  ở  chỗ  nhờ  tiết kiệm được 
chi phí quảng cáo và các khâu trung gian (đại lý, bán lẻ, kho bãi…) nên những  
người tham gia vào hệ  thống của ông có thể  nhận được thù lao cao hơn. Đến 
năm 1940, Renborg đổi tên công ty thành Nutrilite Products theo tên sản phẩm và 
vẫn giữ nguyên phương pháp tiêu thụ. Những cộng tác viên của ông tự tìm người 
mới, chỉ  cho người mới đầy đủ  thông tin về  sản phẩm và dạy cho người mới 
phương pháp xây dựng mạng lưới bắt đầu từ những người quen của mình. Công  
ty đảm bảo cho tất cả nhà phân phối độc lập có đủ sản phẩm và nhận hoa hồng  
không chỉ lượng sản phẩm họ bán ra mà còn trả  hoa hồng cho lượng sản phẩm  
được bán ra bởi những người do họ trực tiếp tìm ra. Những người tham gia mạng 
lưới của công ty nhận được sự  giúp đỡ  hướng dẫn tận tình của người bảo trợ.  
Phương   pháp   phân   phối   hàng   hóa   của   ông   Renborg   chính   là   khởi   điểm   của  

ngành kinh doanh theo mạng, ở đây ông chỉ mới áp dụng một tầng, và trong nhiều  

17


tài liệu thì năm 1940 là năm khởi đầu của kinh doanh đa cấp và Renborg được coi  
là ông tổ của ngành kinh doanh này7.
Nhận thấy được tiềm năng của ngành kinh doanh này, Rich De Vos và Jay 
Van Andel (2 cộng tác viên của công ty) đã sáng lập ra công ty riêng của mình 
mang tên American Way Corporation, viết tắt là Amway và hiện nay Amway đã 
trở  thành một trong những công ty hàng đầu thế  giới trong ngành kinh doanh đa 
cấp với chi nhánh trên 80 quốc gia.
Vào những năm đầu thuộc thập niên 70, kinh doanh đa cấp bắt đầu nhận  
được sự quan tâm cũng như sự phản đối quyết liệt từ  dư  luận. Năm 1975, trong 
hội đồng liên bang Hoa Kỳ có những người phản đối kinh doanh đa cấp và quy  
kết nó với cái gọi là “hình tháp  ảo” ­ một hình thức kinh doanh bất hợp pháp bị 
cấm ở Hoa Kỳ. Với sự nhầm lẫn đó, công ty Amway đã phải theo đuổi vụ  kiện  
kéo dài 4 năm (1975 – 1979). Cuối cùng Tòa án thương mại liên bang Hoa Kỳ cũng 
tuyên bố phương thức kinh doanh đa cấp mà Amway đang áp dụng không phải là mô  
hình “Kim thự tháp ảo” và được chấp nhận về mặt luật pháp. Từ vụ việc đó, những 
quy định đầu tiên của pháp luật về BHĐC ra đời, đánh dấu những bước thăng trầm 
của BHĐC.
Theo nhiều tài liệu ghi nhận kinh doanh đa cấp trên thế giới đã trải qua ba  
thời kì như sau:
Từ năm 1940 đến 1979 chỉ có khoảng 30 công ty kinh doanh theo mạng  
ra đời tại Mỹ, đây là giai đoạn được gọi tên là thời kì thứ  nhất ­  thời kì hình  
thành phương thức BHĐC.
Từ  1979­1990 là thời kỳ  bùng nổ  của kinh doanh theo mạng. Mỗi ngày 
chúng ta có thể thấy hàng trăm công ty kinh doanh theo mạng tuyên bố thành lập 


7 Cổng thông tin điện tử kinh doanh ­ tài chính SAGA (2014), Lịch sử ngành bán hàng đa cấp, 
/>
18


với đủ  loại sản phẩm và mô hình kinh doanh. Đây là thời kì thứ  hai – thời kì 
hưng thịnh phát triển của phương thức BHĐC
Từ năm 1990, nhờ sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ và truyền thông, 
kinh doanh theo mạng mang màu sắc mới, các nhà phân phối có thể đơn giản hoá 
công việc của mình nhờ vào điện thoại, internet...  Ở giai đoạn này ­ mà theo các 
chuyên gia gọi là thời kì thứ  ba  ­ nhà phân phối giỏi phải là một nhà hùng biện 
và đi lại như  con thoi giữa các mạng lưới. Bất kỳ  ai cũng có thể  sử  dụng thời  
gian nhàn rỗi của mình để tham gia công việc và làm việc ở bất cứ đâu. Các công 
ty bán hàng truyền thống như  Ford, Colgate, Coca­Cola và nhiều công ty nổi 
tiếng khác đã bắt đầu áp dụng phương pháp kinh doanh theo mạng để phân phối  
sản phẩm độc đáo của mình8.
1.2. Khái niệm bán hàng đa cấp
Phương diện kinh tế  học, BHĐC hay còn được gọi là  Kinh doanh tiếp thị 
mạng lưới (tiếng Anh: Multi­level Marketing ) hoặc Kinh doanh theo mạng (Network 
Marketing)  là   thuật   ngữ   chung   dùng   để   chỉ   một   phương   thức   marketing   sản 
phẩm kinh doanh, bán hàng trực tiếp đến tay người tiêu dùng, họ có thể trực tiếp đến 
mua hàng tại công ty (hoặc qua một nhà phân phối duy nhất) mà không phải thông 
qua các đại lý hay cửa hàng bán lẻ9.
Thông qua hệ  thống người tham gia BHĐC, sản phẩm sẽ  đến tay người  
tiêu dùng trực tiếp bằng cách trao đổi, gặp gỡ  và mua bán trực tiếp mà không  
phải qua bất kì khâu trung gian nào cả. Khách hàng cũng có thể  mua hàng trực  
tiếp tại công ty hoặc người tham gia BHĐC bất kì mà không phải là đại lý hay  
8 Hiệp hội bán hàng đa cấp Việt Nam, Lịch sử ngành bán hàng đa cấp  />option=com_content&view=article&id=65:lch­s­nganh­ban­hang­a­cp&catid=38&Itemid=77&lang=vi.

9 Bách khoa toàn thư mở (2016), Kinh doanh đa cấp,  />%C4%91a_c%E1%BA%A5p, truy cập ngày 25/2/2016.


19


cửa hàng bán lẻ nào. Với phương thức marketing sản phẩm trực tiếp thậm chí là 
chào bán trực tiếp sản phẩm của mình đến tay người tiêu dùng là một phương 
thức hữu hiệu nhằm tăng tính tương tác giữa nhà phân phối và người tiêu dùng  
ngoài ra còn giúp tiết kiệm chi phí sân bãi, kho vận, quảng cáo,… do đó giá thành 
của sản phẩm sẽ  giảm so với phương thức bán hàng truyền thống là thông qua 
các đại lý hay rất nhiều cửa hàng bán lẻ. Thay vào đó số  tiền này sẽ   đươc  
chuyển thành những khoản tiền thưởng cho các người tham gia BHĐC khi bán 
được sản phẩm, cải thiện chất lượng sản phẩm.
Phương thức bán hàng này dựa trên đặt tính “dây chuyền” trong thông tin 
của con người, khi một người sử  dụng loại sản phẩm này có hiệu quả, thì sẽ 
giới thiệu thông tin về  sản phẩm đó cho người thân, bạn bè cùng biết. Người  
tham gia BHĐC không chỉ đơn thuần là nhà bán hàng mà còn chính là người tiêu 
dùng sản phẩm trong trường hợp này, họ sử dụng những kinh nghiệm của mình 
để tiếp thị cho sản phẩm. Từ đó đem về khách hàng cho công ty và cho chính bản  
thân của mình. Mỗi người tham gia BHĐC tuyến trên sẽ có những nhà phân phối  
tuyến dưới, việc quản lý nội bộ này sẽ thông qua một mã số.
Phương diện khoa học pháp luật ở Việt Nam, BHĐC được định nghĩa tại  
khoản 11 Điều 3 Luật cạnh tranh 2004 như sau:
Bán hàng đa cấp là phương thức tiếp thị  để  bán lẻ  hàng hóa đáp ứng các 
điều kiện sau đây:
a) Việc tiếp thị  để bán lẻ  hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới  
người tham gia bán hàng đa cấp gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau;
b) Hàng hóa được người tham gia bán hàng đa cấp tiếp thị  trực tiếp cho 
người tiêu dùng tại nơi  ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác 
không phải là địa điểm bán lẻ  thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người  
tham gia;

c)   Người   tham   gia   bán   hàng   đa   cấp   được   hưởng   tiền   hoa   hồng,   tiền 
thưởng hoặc lợi ích kinh tế  khác từ  kết quả  tiếp thị  bán hàng của mình và của  

20



×