Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Hoàn thiện pháp luật về bán hàng đa cấp tại Việt Nam theo kinh nghiệm một số nước trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (784.39 KB, 97 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





VŨ VĂN TÚ





HOµN THIÖN PH¸P LUËT VÒ B¸N HµNG §A CÊP T¹I VIÖT NAM
THEO KINH NGHIÖM MéT Sè N¦íC TR£N THÕ GIíI


Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ QUANG



HÀ NỘI - 2014
1
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
độ chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!




TÁC GIẢ LUẬN VĂN






VŨ VĂN TÚ


















2
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BÁN HÀNG ĐA CẤP VÀ
VIỆC HỌC HỎI KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ
GIỚI VỀ BÁN HÀNG ĐA CẤP CỦA VIỆT NAM 4

1.1. Bán hàng đa cấp 4
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của bán hàng đa cấp 4
1.1.2. Vai trò bán hàng đa cấp 7
1.1.3. Nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động bán hàng đa cấp
tại Việt Nam 8
1.2. Pháp luật về bán hàng đa cấp 10
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bán hàng đa cấp 10
1.2.2. Nội dung pháp luật về bán hàng đa cấp 11
1.3. Vấn đề học hỏi kinh nghiệm một số nước trên thế giới về bán hàng đa
cấp của Việt Nam 14
1.3.1. Nhu cầu học hỏi kinh nghiệm quốc tế để hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về bán hàng đa cấp 14
1.3.2. Nguyên tắc học hỏi kinh nghiệm quốc tế 16
1.3.3. Kinh nghiệm của một số nước 16
Tiểu kết chương 1 41
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BÁN HÀNG ĐA CẤP CỦA
VIỆT NAM 42
2.1. Một số nét về ngành công nghiệp bán hàng đa cấp tại Việt Nam 42
2.1.1. Lịch sử phát triển 42



3
2.1.2. Thực trạng ngành công nghiệp bán hàng đa cấp tại Việt Nam 44
2.2. Thực trạng quy định pháp luật về bán hàng đa cấp của Việt Nam 45
2.2.1. Chủ thể của quan hệ pháp luật bán hàng đa cấp 45
2.2.2. Quản lý nhà nước đối với hoạt động Bán hàng đa cấp 48
2.2.3. Các hiệp hội có liên quan 49
2.2.4. Hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp 50
2.2.5. Kiểm soát hoạt động bán hàng đa cấp 55

2.3. Thực trạng thực thi quy định pháp luật và những khó khăn trong
việc quản lý về bán hàng đa cấp tại Việt Nam 57
2.3.1. Vi phạm pháp luật về bán hàng đa cấp 57
2.3.2. Xử lý vi phạm 61
2.3.3. Khó khăn, vướng mắc trong quá trình quản lý bán hàng đa cấp tại Việt Nam 65
Tiểu kết chương 2 72
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BÁN HÀNG ĐA CẤP TẠI
VIỆT NAM THEO KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ
GIỚI 73
3.1. Nhận định chung 73
3.1.1. Nhu cầu hoàn thiện những quy định pháp luật về Bán hàng đa cấp tại
Việt Nam 73
3.1.2. Một số nét chính có thể học hỏi trong kinh nghiệm các nước để hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về Bán hàng đa cấp ……………………………75
3.2. Các giải pháp cụ thể để hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam
về Bán hàng đa cấp 77
3.2.1. Tiếp tục thừa nhận phương thức bán hàng đa cấp và siết chặt quản lý 77
3.2.2. Điều chỉnh tên gọi của phương thức 77
3.2.3. Tội phạm hóa hành vi bán hàng đa cấp vi phạm pháp luật 78
3.2.4. Thừa nhận một cách chính thức bán hàng đa cấp đối với dịch vụ 79
3.2.5. Điều chỉnh các quy định về Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động Bán
hàng đa cấp 79



4
3.2.6. Các điều chỉnh khác 82
Tiểu kết chương 3 85
KẾT LUẬN 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO 87




5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BCT: Bộ công thương
BHĐC: Bán hàng đa cấp
BHTT: Bán hàng trực tiếp
GĐK: Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp
KDĐC: Kinh doanh đa cấp
KDTM: Kinh doanh theo mạng
NPP: Nhà phân phối
NTD: Người tiêu dùng
SCT: Sở Công thương
VCA: Cục Quản lý cạnh tranh















1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
BHĐC trên thế giới có lịch sử phát triển gần 80 năm và có những bước phát
triển nhất định tại Việt Nam. Trên thế giới có hơn 30.000 công ty phân phối sản
phẩm theo phương thức BHĐC [53]. Tại Việt Nam tính đến tháng 10/2012 đã có sự
xuất hiện của 77 doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức BHĐC với số lượng
NPP ngày càng tăng nhanh (khoảng 1 triệu người) [23]. Trong khi đó, làn sóng của
các công ty Việt Nam và các công ty có vốn đầu tư nước ngoài gia nhập thị trường
Việt Nam sẽ chưa dừng lại trong thời gian tới với sự xuất hiện của một số công ty
lớn có thể kể đến như TUPPERWARE (Indonesia), GANO EXCEL (Malaysia)…
Hiện nay, hệ thống pháp luật Việt Nam quản lý về hoạt động BHĐC còn
đang trong giai đoạn hoàn thiện với: Luật Cạnh tranh số 27/2004/QH11 ngày
03/12/2004 (Luật Cạnh tranh 2004) [26]; Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày
24/08/2005 của Chính phủ về quản lý hoạt động BHĐC (Nghị định 110) [7] được
thay thế bởi Nghị định số 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản
lý hoạt động BHĐC (Nghị định 42) [10]; Thông tư số 19/2005/TT-BTM hướng dẫn
một số nội dung quy định tại Nghị định 110 (Thông tư 19) [2] và Thông tư số
35/2011/TT-BCT sửa đổi, bổ sung một số nội dung về thủ tục hành chính tại Thông
tư 19 (Thông tư 35) [3] được thay thế bởi Thông tư số 24/2014/TT-BCT hướng dẫn
Nghị định 42 (Thông tư 24) [5]. Hệ thống pháp luật về BHĐC vẫn còn nhiều lỗ
hổng, hạn chế dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp lợi dụng gây khó khăn trong
công tác quản lý, tình trạng BHĐC bất chính diễn ra phổ biến, vi phạm quy định
hoạt động BHĐC xảy ra ngày một nhiều ảnh hưởng quyền lợi NTD. Do vậy, nhu
cầu sửa đổi, bổ sung là tất yếu để kiểm soát tốt sự phát triển ngành công nghiệp này.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, Việt Nam là một thành viên tích cực
và có trách nhiệm trong hội nhập kinh tế quốc tế. Chúng ta là thành viên của tổ chức
thương mại thế giới – WTO (2007), Diễn đàn hợp tác Châu Á – Thái Bình Dương –

APEC (1998)… Do vậy, chúng ta cũng tranh thủ cơ hội để tiếp thu những thành tựu



2
của nền lập pháp thế giới để giải quyết vấn đề cấp bách hiện nay.
Do tính cấp bách của việc hoàn thiện pháp luật về BHĐC và ảnh hưởng của
xu thế toàn cầu hóa nên việc nghiên cứu, tìm hiểu các quy định pháp luật về BHĐC
tại Việt Nam trên cơ sở tham chiếu, học tập kinh nghiệm của một số nước trên thế
giới để hoàn thiện pháp luật trong nước là rất cần thiết. Bởi vậy, trong đề tài luận
văn thạc sĩ của mình, tác giả xin lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về Bán
hàng đa cấp tại Việt Nam theo kinh nghiệm một số nước trên thế giới” làm đề tài
nghiên cứu. Luận văn nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của quy định pháp luật
về BHĐC tại Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm lập pháp của một số nước để
thấy được những vấn đề còn tồn tại của hệ thống pháp luật Việt Nam và tìm ra
hướng hoàn thiện.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các đề tài nghiên cứu trước đây thường đề cập đến vấn đề BHĐC dưới góc
độ “Bất chính” “Cạnh tranh không lành mạnh”, có thể kể đến luận văn thạc sĩ
“Pháp luật về Bán hàng đa cấp bất chính ở Việt Nam” của tác giả Ninh Thị Minh
Phương bảo vệ năm 2012 do TS. Bùi Nguyên Khánh hướng dẫn khoa học, đề tài
tiến sĩ “Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam” của tác giả Lê
Anh Tuấn bảo vệ năm 2008 do PGS.TS Nguyễn Như Phát hướng dẫn khoa học…
Luận văn này sẽ cố gắng đi sâu vào các khía cạnh khác nhau của hoạt động
BHĐC, phân tích và đánh giá nó trên cơ sở học tập kinh nghiệm xây dựng pháp luật
của một số nước trên thế giới để đưa ra được định hướng hoàn thiện hệ thống pháp
luật và kiện toàn công tác quản lý trong thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu, luận văn sẽ khảo cứu hệ thống pháp luật Việt Nam về
quản lý hoạt động BHĐC, trên cơ sở đó, tìm hiểu thực trạng vi phạm và rà soát

công tác quản lý đối với các doanh nghiệp hoạt động BHĐC tại Việt Nam. Bên
cạnh đó, luận văn cũng khảo sát pháp luật của một số nước về quản lý hoạt động
BHĐC để học tập kinh nghiệm giúp hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu, luận văn tập trung đi sâu tìm hiểu quy định pháp luật về



3
BHĐC, thực trạng vi phạm và vấn đề xử lý vi phạm của các cơ quan quản lý đối với
các doanh nghiệp BHĐC tại Việt Nam những năm gần đây. Song song với nó, luận
văn cũng chú trọng tìm hiểu quy định pháp luật các nước: Malaysia, New Zealand,
Canada để học hỏi kinh nghiệm, hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích chung nhất là hoàn thiện pháp luật về BHĐC Việt Nam để quản lý
tốt hơn phương thức này trở thành một phương thức bán hàng đúng nghĩa của nó.
Trên cơ sở đó, xây dựng cơ chế quản lý, điều hành tốt hơn đem lại lợi ích cho các
bên liên quan. Để thực hiện mục đích nghiên cứu ở trên, tác giả sẽ triển khai đồng
bộ các nhiệm vụ sau: Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề chung về BHĐC; Phân
tích, đánh giá thực trạng pháp luật về BHĐC của Việt Nam để thấy những điểm còn
hạn chế, chưa hợp lí; Phân tích, đánh giá thực trạng vi phạm, thực tiễn xử lý vi
phạm pháp luật về BHĐC tại Việt Nam và nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm
pháp luật về BHĐC; Nghiên cứu, tìm hiểu quy định pháp luật về BHĐC của một số
quốc gia trên thế giới để rút ra bài học cho Việt Nam; Đề xuất các phương hướng,
giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quản lý hoạt động BHĐC.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Tác giả đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học trên cơ
sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử bao gồm: Phương pháp
tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh, đối chiếu
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu ra thành ba phần gồm lời mở đầu, nội dung chính và

kết luận. Phần nội dung chính tác giả bố cục thành ba chương theo hướng đi từ
những vấn đề chung mang tính khái quát đến những vấn đề cụ thể hơn. Chi tiết:
Chương 1: Những vấn đề chung về BHĐC và việc học hỏi kinh nghiệm một
số nước trên thế giới về BHĐC của Việt Nam
Chương 2: Thực trạng pháp luật về BHĐC của Việt Nam
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về BHĐC tại Việt Nam theo kinh nghiệm
một số nước trên thế giới



4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BÁN HÀNG ĐA CẤP VÀ VIỆC HỌC HỎI
KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ BÁN HÀNG ĐA
CẤP CỦA VIỆT NAM

1.1. Bán hàng đa cấp
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của Bán hàng đa cấp
BHĐC là thuật ngữ chung dùng để chỉ phương thức tiếp thị để bán lẻ sản
phẩm với đội ngũ bán hàng được trả thưởng không chỉ từ doanh số bán hàng của họ
mà còn từ doanh số bán hàng của những NPP cấp dưới, từ đó tạo thành hệ thống
gồm các cấp độ trả thưởng khác nhau.
Thông thường, các NPP sẽ bán sản phẩm trực tiếp tới tay NTD thông qua các
mối quan hệ quen biết hay thông qua trao đổi, gặp gỡ và tiếp thị trực tiếp. Khách
hàng cũng có thể lựa chọn mua hàng trực tiếp tại công ty hoặc qua một NPP của
công ty (nhưng không phải thông qua các đại lý hay cửa hàng bán lẻ). Nhờ vậy,
hình thức này tiết kiệm rất nhiều chi phí về tiền sân bãi, kho chứa, vận chuyển,
khuyến mại, quảng cáo… Số tiền này thay vào đó, được dùng để trả thưởng cho
NPP và nâng cấp, cải tiến sản phẩm (do đó chất lượng sản phẩm của các công ty
tiếp thị đa cấp thường cao và liên tục được nâng cấp).

BHĐC là phương thức tiếp thị tận dụng chính thói quen của NTD khi sử
dụng sản phẩm, dịch vụ tốt là thường chia sẻ cho người thân, bạn bè và những
người xung quanh. NPP có vai trò như những đại lý bởi họ dùng những kinh
nghiệm sử dụng sản phẩm của bản thân và những người quen biết để chia sẻ, từ đó
thu hút khách hàng. Trên cơ sở đó, họ đem về lượng khách hàng cho công ty và bản
thân họ. Ngoài ra họ còn có thể tìm kiếm những đối tác khác để có thể trở thành
NPP cùng làm việc với mình, việc này được quản lý bằng mã số. Khi đó, mã số của
một NPP mới được kết nối với mã số của người bảo trợ hay còn gọi là tuyến trên
của người đó.
Tại Việt Nam, BHĐC được định nghĩa trong Luật Cạnh tranh 2004 cũng
mang những đặc điểm chung của BHĐC như sau:



5
BHĐC là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa đáp ứng các điều
kiện sau đây:
a) Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng
lưới người tham gia BHĐC gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau;
b) Hàng hóa được người tham gia BHĐC tiếp thị trực tiếp cho NTD
tại nơi ở, nơi làm việc của NTD hoặc địa điểm khác không phải là địa
điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người tham gia;
c) Người tham gia BHĐC được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng
hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của
người tham gia BHĐC cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và
mạng lưới đó được doanh nghiệp BHĐC chấp thuận [26, Điều 3 khoản
11]
Căn cứ vào định nghĩa được nêu ra tại khoản 11 Điều 3 Luật Cạnh tranh
2004, các đặc trưng của phương thức BHĐC bao gồm:
- BHĐC là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa

Với phương thức bán lẻ hàng hoá thông qua mạng lưới tiếp thị, doanh nghiệp
BHĐC thiết lập mối quan hệ mua bán sản phẩm trực tiếp với NTD không cần đầu
tư thành lập, duy trì mạng lưới phân phối dạng cửa hàng giới thiệu sản phẩm, đại lý
phân phối. Doanh nghiệp BHĐC có thể là doanh nghiệp sản xuất trực tiếp tiếp thị
và bán lẻ bằng phương thức đa cấp (Công ty TNHH Amway Việt Nam, Công ty
TNHH Mỹ phẩm AVON Việt Nam…) hoặc là các doanh nghiệp phân phối hàng
hóa do doanh nghiệp khác sản xuất (Công ty TNHH Kangzen-Kenko Việt Nam,
Công ty TNHH Nu Skin Enterprises Việt Nam, Công ty TNHH Tupperware Việt
Nam…). Cầu nối giữa doanh nghiệp và NTD là hệ thống NPP. Họ được cung cấp
tài liệu và hướng dẫn các thông tin về đặc tính của sản phẩm để họ có thể giới thiệu
chi tiết tới khách hàng. Họ được trả hoa hồng thay vì lương, cộng tác với doanh
nghiệp và tìm kiếm đối tác để xây dựng hệ thống của chính mình thay vì được tuyển
dụng. Điều này giúp cho cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp BHĐC gọn nhẹ, tiết kiệm
chi phí hệ thống và giảm giá thành sản phẩm.



6
Đối tượng của phương thức BHĐC hiện nay vẫn chỉ là hàng hoá. Mặc dù
Nghị định số 42 được thông qua có ghi nhận trường hợp BHĐC đối với dịch vụ có
thể được phép [10, Điều 4.3]. Tuy nhiên, cho đến khi nào nhà làm luật có những
quy định cụ thể hơn thì việc BHĐC với dịch vụ mới được triển khai. Hiện tại, dịch
vụ vẫn chưa phải là đối tượng được phép BHĐC. Mặt khác, không phải mọi hàng
hóa đều là đối tượng có thể được phân phối dưới hình thức BHĐC. Theo quy định
của pháp luật hiện hành, những hàng hóa như: dược phẩm, hóa chất, chế phẩm diệt
côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế, hàng hóa pháp luật cấm
kinh doanh… không được phân phối dưới phương thức BHĐC.
- Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới người
tham gia gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau.
Người tham gia BHĐC là những cộng tác viên trong việc tiếp thị, bán lẻ

hàng hoá (họ được gọi với nhiều tên khác nhau như NPP độc lập, tư vấn viên…)
trực tiếp cho NTD mà không nhân danh doanh nghiệp. Như vậy, doanh nghiệp
không phải là chủ thể trực tiếp thiết lập quan hệ với NTD mà thông qua mạng lưới
người tham gia. Do người tham gia BHĐC không phải là nhân viên của mình, nên
doanh nghiệp không phải chịu trách nhiệm trước khách hàng tiêu thụ sản phẩm về
hành vi của người tham gia, mà chỉ chịu trách nhiệm trong giới hạn phạm vi chất
lượng sản phẩm và các thông tin liên quan đến sản phẩm do họ cung cấp.
Khi tham gia mạng lưới BHĐC, người tham gia không phải là các đại lý phân
phối theo quy định của Luật Thương mại 2005 [29], không thuộc các cửa hàng tiêu thụ
sản phẩm do doanh nghiệp thành lập. Luật Cạnh tranh 2004 quy định: “người tham gia
tiếp thị hàng hoá tại nơi ở, nơi làm việc của NTD mà không phải là địa điểm bán lẻ
thường xuyên của doanh nghiệp hay của người tham gia” [26, Điều 3 khoản 11]. Do
trực tiếp gặp gỡ NTD để giới thiệu và bán lẻ sản phẩm, người tham gia không phải
đăng ký kinh doanh khi tham gia BHĐC.
Người tham gia được tổ chức thành những cấp khác nhau. Trong quan hệ nội
bộ, người tham gia ở cấp trên có vai trò tổ chức và điều hành hoạt động của những
người trong mạng lưới cấp dưới của mình và khi số người trong hệ thống đạt đến
một mức độ nhất định thì hệ thống sẽ tách nhánh. Số lượng bao nhiêu để một hệ



7
thống tách nhánh tùy thuộc vào chính sách của mỗi doanh nghiệp.
- Người tham gia được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế
khác từ kết quả bán hàng của mình và của người tham gia khác trong mạng lưới do
mình tổ chức ra và được doanh nghiệp BHĐC chấp nhận.
Như vậy, thù lao của người tham gia được hưởng xuất phát từ hai nguồn: Hoa
hồng trực tiếp được tính trên doanh số BHTT của người tham gia; Hoa hồng gián
tiếp: là khoản tiền thưởng cho công sức xây dựng mạng lưới tiêu thụ của người tham
gia. Cách thức phân chia lợi ích như trên vừa kích thích người tham gia tích cực tiêu

thụ hàng hoá, vừa kích thích họ tích cực tạo lập hệ thống phân phối cấp dưới. Tùy
vào chính sách cụ thể của từng doanh nghiệp mà người tham gia BHĐC được hưởng
các khoản hoa hồng khác nhau. Nhưng, nhìn chung hoa hồng được trích cho người
tham gia từ khoản tiền chênh lệch giá mà họ lấy từ hàng hóa của doanh nghiệp với
giá sỉ và bán ra với giá bán lẻ đã được công ty ấn định và số hoa hồng trích ra từ phần
trăm hoa hồng của những người tham gia cấp dưới do mình xây dựng lên.
1.1.2. Vai trò của bán hàng đa cấp
- BHĐC là phương thức tiếp cận NTD hữu hiệu, có thể đem lại nhiều lợi ích
thiết thực cho NTD như: mua hàng trực tiếp từ nhà sản xuất, tránh được nạn hàng
giả, hàng kém chất lượng. Vào năm 1990, BHĐC đã được nhận định là phương
thức tiếp cận NTD hữu hiệu nhất những năm 90 trên tạp chí Business – một tạp chí
kinh doanh hàng đầu của Mỹ [54]. Cho đến ngày nay, người ta vẫn không thể phủ
nhận đây là một ngành kinh doanh hiệu quả và nhiều triển vọng.
- Đối với doanh nghiệp, BHĐC tiết kiệm được chi phí quảng cáo, cắt giảm
được hàng loạt các chi phí khác như chi phí thuê mặt bằng trưng bày, chi phí vận
chuyển. Mặt khác do có mạng lưới phân phối để đưa hàng hoá trực tiếp đến NTD,
BHĐC tạo nhiều thuận lợi cho quảng bá hàng hoá một cách trực tiếp và hữu hiệu.
- BHĐC là một thay đổi lớn về thương mại. Thay vì đi siêu thị hay đến tận
các cửa hàng mua sắm theo kiểu truyền thống, giờ đây với sự ra đời của loại hình
BHĐC, NTD đang dần chuyển sang mua sắm qua internet, qua catalogue, qua tivi
Và BHĐC với mô hình kinh doanh tiếp thị đa cấp (MLM – Multi Level Marketing)



8
đang ngày càng đóng vai trò lớn trong sự thay đổi này. BHĐC là một phương thức
tiếp cận khách hàng hiệu quả trong thời buổi NTD vô cùng bận rộn hiện nay.
- Cung cấp hàng hóa chất lượng cao, giá cả phù hợp cho xã hội. Các công ty
BHĐC phân phối rất nhiều mặt hàng khác nhau như: thời trang, đồ trang sức, sản
phẩm dinh dưỡng, hóa mỹ phẩm Các sản phẩm của các công ty đều đã được

chứng nhận chất lượng trước khi lưu hành. Mặt khác, vì các doanh nghiệp BHĐC
không phải tốn chi phí cho quảng cáo, thuê kho bãi, lưu thông hàng hóa nên giá
cả hàng hóa của các doanh nghiệp này thường rất cạnh tranh với sản phẩm cùng loại
của các doanh nghiệp khác.
- Giải quyết việc làm cho xã hội. BHĐC tạo ra nhiều việc làm cho xã hội do
phương thức kinh doanh này không giới hạn số lượng người tham gia. Điển hình
như ở Việt Nam, số lượng người tham gia BHĐC lên tới hơn 1 triệu người [23], nó
mang lại nguồn thu nhập cho nhiều người. BHĐC có khả năng giải quyết nhiều
công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống. Đối với những
nghành nghề khác để được làm việc trong các doanh nghiệp thì người lao động phải
đáp ứng những điều kiện nhất định như vốn, bằng cấp, kinh nghiệm…. Còn tham
gia mạng lưới BHĐC thì họ không bị yêu cầu nhiều như vậy. Họ sẽ được công ty
đào tạo, trang bị những kiến thức liên quan về BHĐC. Do đó từ những người nội trợ
đến học sinh, sinh viên đều có thể tranh thủ thời gian nhàn rỗi của mình để BHĐC
tăng thêm thu nhập. Thực tế trong thời gian qua đã có số lượng người tham gia
BHĐC ngày càng tăng với rất nhiều thành phần khác nhau trong xã hội.
1.1.3. Nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động bán hàng đa
cấp tại Việt Nam
Một trong những đặc trưng của pháp luật là tính dự báo và định hướng. Tuy
nhiên, nhà làm luật Việt Nam chưa làm tốt công tác này đối với vấn đề quản lý hoạt
động BHĐC. Chúng ta không thấy trong chương trình của các nhà lập pháp có định
hướng lập pháp trong vấn đề này khi chúng chưa vào Việt Nam.
Một trong những yêu cầu của pháp luật là bám sát đòi hỏi thực tiễn quản lý.
Tuy nhiên, chúng ta đã cũng không làm tốt được khâu này khi điều chỉnh hoạt động
BHĐC quá chậm. Năm 1998 manh nha của phương thức BHĐC tiếp cận với thị



9
trường Việt Nam và liền sau đó chúng ta đã bắt đầu chứng kiến mặt trái của nó. Tuy

nhiên, phải đến khi các hiện tượng tiêu cực do hoạt động này gây ra đã gần như
vượt xa mức kiểm soát thì các nhà làm luật mới loay hoay để xây dựng các quy định
pháp luật điều chỉnh.
Khi vấn đề trở nên nóng trên diễn đàn lập pháp bởi các hậu quả của BHĐC,
nhiều quan điểm về hướng điều chỉnh đã được đưa ra. Có quan điểm cho rằng cần
phải cấm toàn diện hoạt động này do nó gây ảnh hưởng xấu đến xã hội và gây thiệt
hại đến lợi ích của nhà nước, người tham gia và NTD. Quan điểm này không thừa
nhận rằng nó tồn tại khách quan và chúng ta không có cách nào khác là phải kiểm
soát nó. Một quan điểm khác đã nhìn ra được vấn đề là BHĐC tự nó đã có đời sống
riêng, nhà làm luật có trách nhiệm là định hướng và kiểm soát đời sống riêng đó.
Quan điểm thứ hai được thừa nhận rộng rãi và từ đó, các nhà làm luật tập
trung vào cách thức điều chỉnh BHĐC. Nhiều quan điểm đã được đưa ra. Có quan
điểm cho rằng BHĐC là hành vi thương mại tương tự như quảng cáo, khuyến mại
hay đại lí… Quan điểm này chưa hợp lí do BHĐC không phải là hoạt động kinh
doanh mà là phương thức kinh doanh mà thôi. Bởi vậy, không thể đưa nó thành một
bộ phận dưới sự điều chỉnh của Luật Thương mại được. Quan điểm khác dưới giác
độ kinh tế thị trường, góc nhìn của Luật cạnh tranh đã đưa ra được một lập luận hợp
lí hơn. Theo đó, BHĐC cần phải có quy phạm riêng điều chỉnh. Đối với những hành
vi sai trái hay biến dạng thì sử dụng công cụ đặc thù của nền kinh tế thị trường là
Luật Cạnh tranh để điều chỉnh. Cùng quan điểm này, Nhóm tác giả biên soạn Giáo
trình Luật cạnh tranh Đại học Kinh tế Luật – Đại Học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí
Minh xuất bản tháng 06/2010 viết: “hệ thống truyền tiêu đa cấp là cách thức đặc
thù để xây dựng mạng lưới tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm, là một thủ pháp cạnh
tranh trong kinh doanh, nhằm tạo lập vị thế của mình trên thương trường. Hành vi
thiết lập hoặc vận hành hệ thống BHĐC ẩn chứa trong mình nó những toan tính
thiết lập trong mình nó hệ thống phân phối ảo xâm phạm đến lợi ích của những
người tham gia, của NTD và của các doanh nghiệp khác, được chính sách cạnh
tranh coi là không lành mạnh cần phải được cấm đoán và trừng phạt nhằm bảo vệ
trật tự và sự lành mạnh trong thị trường cạnh tranh”. Nhiều quốc gia cùng cách




10
tiếp cận này như: Canada, Đài Loan…
Quy phạm hóa quan điểm trên, Luật Cạnh tranh 2004 đã ghi nhận BHĐC.
Sau đó, các văn bản quy định về quy chế pháp lý đối với hoạt động BHĐC cũng lần
lượt ra đời. Cụ thể: Nghị định 110 sau đó được thay thế bởi Nghị định 42; Thông tư
19 hướng dẫn một số nội dung quy định tại Nghị định 110; Thông tư 35 sửa đổi, bổ
sung một số nội dung về thủ tục hành chính tại Thông tư 19. Hai thông tư này được
thay thế bởi Thông tư 24 có hiệu lực từ 15/09/2014.
Việc ghi nhận và có chính sách quản lý BHĐC đã cho thấy quan điểm đúng
đắn của nhà làm luật khi tác dụng điều chỉnh của các văn bản này đã được ghi nhận,
góp phần nào đó hạn chế được các hành vi vi phạm pháp luật đang diễn ra đưa hoạt
động BHĐC vào một khuôn khổ mà nhà nước là chủ thể kiểm soát khuôn khổ đó.
1.2. Pháp luật về bán hàng đa cấp
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bán hàng đa cấp
Hiện tại, chưa có một nhà nghiên cứu pháp lý nào đưa ra khái niệm pháp luật
về BHĐC. Qua khảo cứu các giáo trình, bài báo, tạp chí, bài nghiên cứu… các tác
giả mới chỉ bàn đến khái niệm BHĐC bất chính hay tính không lành mạnh của hành
vi BHĐC bất chính [33, tr.149-151] [35, tr.190-198]. Bởi vậy, việc xây dựng một
khái niệm pháp luật về BHĐC là một vấn đề mới và cần thiết trong khoa học pháp
lý. Để xây dựng được khái niệm này, chúng ta cần nhận thức rõ được nội hàm của
nó và mối quan hệ với pháp luật khác.
Pháp luật về BHĐC có phạm vi điều chỉnh là hoạt động BHĐC và quản lý
hoạt động BHĐC. Vậy nên, đối tượng điều chỉnh chủ yếu nó hướng đến là những
đối tượng chịu ảnh hưởng của hoạt động BHĐC là doanh nghiệp BHĐC, người
tham gia BHĐC và NTD. Tuy nhiên, quy định pháp luật Việt Nam hiện tại mới chỉ
chú trọng đến hai đối tượng là doanh nghiệp BHĐC và người tham gia. NTD là đối
tượng cần được quan tâm bảo vệ trong mối quan hệ này thì chưa được đề cập nhiều.
Tại Việt Nam, quy định pháp luật quản lý hoạt động BHĐC chủ yếu ghi

nhận tại Nghị định 42 mà chưa đưa lên thành Luật như nhiều nước (Canada,
Malaysia, …). Trong phần căn cứ để ban hành Nghị định này có đề cập đến Luật



11
Cạnh tranh. Tính đến thời điểm tác giả viết luận văn này, luật duy nhất đề cập trực
tiếp đến phương thức BHĐC là luật Cạnh tranh. Theo tác giả, đó là lí do nhà làm
luật đưa Luật cạnh tranh là căn cứ khi ban hành Nghị định 42 và có thể khẳng định
pháp luật về BHĐC là một bộ phận quan trọng trong pháp luật Cạnh tranh.
Tuy nhiên, pháp luật cạnh tranh chỉ điều chỉnh một phần trong các nội dung
quản lý hoạt động BHĐC khi có dấu hiệu bất chính xảy ra. Cụ thể, hành vi BHĐC
bất chính là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Phần điều chỉnh liên quan
đến quản lý hành chính đối với hoạt động BHĐC không thuộc phạm vi điều chỉnh
của luật Cạnh tranh. Nó là tập hợp những quy phạm pháp luật có tính chất quản lý
hành chính riêng.
Trên cơ sở phân tích ở trên, chúng ta có thể đưa ra định nghĩa về pháp luật về
BHĐC như sau:
Pháp luật về Bán hàng đa cấp là một bộ phận quan trọng của pháp luật cạnh
tranh điều chỉnh những mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình nhà nước
quản lý hoạt bán hàng đa cấp.
1.2.2 Nội dung pháp luật về bán hàng đa cấp
1.2.2.1. Chủ thể của quan hệ pháp luật bán hàng đa cấp.
Có nhiều chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật BHĐC bao gồm: Nhà nước
với vai trò quản lý, doanh nghiệp BHĐC, người tham gia BHĐC, khách hàng là
NTD. Chủ thể chính tham gia quan hệ pháp luật BHĐC bao gồm doanh nghiệp
BHĐC và người tham gia BHĐC:
Thứ nhất, doanh nghiệp BHĐC có thể là doanh nghiệp trực tiếp sản xuất ra
các sản phẩm đem bán hoặc là doanh nghiệp phân phối các sản phẩm từ các thương
nhân khác nhau, nó có thể là doanh nghiệp trong nước hoặc nước ngoài tùy thuộc

vào mức độ mở cửa thị trường của mỗi nước cũng như môi trường kinh doanh nội
địa. Doanh nghiệp BHĐC có thể được thành lập dưới các hình thức khác nhau như
công ty TNHH một thành viên, công ty TNHH hai thành viên, công ty cổ phần.
Pháp luật mỗi quốc gia quy định về điều kiện (dào cản) để các doanh nghiệp tham
gia phân phối sản phẩm theo phương thức BHĐC khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm



12
tình hình thị trường, quy mô dân số, quan điểm xây dựng…
Thứ hai, người tham gia BHĐC tham gia vào mạng lưới BHĐC thông qua
hợp đồng. Lợi nhuận của người này nhận được từ phía công ty BHĐC thông qua
việc bán hàng của chính mình và của những người khác thuộc hệ thống do mình lập
ra. Về địa vị pháp lý, người tham gia BHĐC có địa vị hết sức đặc biệt. Họ vừa được
ví như là người đại lý, nhân viên tiếp thị, vừa là nhân viên bán hàng cũng là người
vận chuyển sản phẩm đến tay NTD. Pháp luật của mỗi quốc gia quy định những
điều kiện đối với người tham gia căn cứ vào đặc điểm nhân thân, mức độ nhận thức,
mật độ dân cư, chính sách lao động…
1.2.2.2. Nhà nước-chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật bán hàng đa cấp
Nhà nước là chủ thể đặc biệt trong quan hệ pháp luật BHĐC. Sự tham gia
của nhà nước giữ vai trò điều tiết và quản lý. Ví dụ: Mức hoa hồng trả cho người
tham gia thường bị khống chế ở một mức độ nhất định (Việt Nam không quá
40% [26, Điều 27, Khoản 2]).
Nhà nước thể hiện vai trò của mình thông qua việc ban hành các văn bản
pháp luật điều chỉnh về BHĐC; ban hành bộ thủ tục đăng ký để được cấp GĐK, chế
độ báo cáo, chế độ thanh, kiểm tra phát hiện và xử lý vi phạm (nếu có)… Nhà nước
có chính sách khuyến khích tạo điều kiện hoặc kìm hãm sự phát triển của ngành
công nghiệp này tùy thuộc quan điểm của họ theo từng thời kỳ khác nhau.
Ngoài ra, nhà nước còn là một chủ thể có quyền năng đặc biệt vì chỉ có nhà
nước mới quyết định được việc có hay không cho phép sự tồn tại của phương thức

BHĐC ở mỗi nước.
1.2.2.3. Các hiệp hội có liên quan
Sự ra đời cũng như tham gia vào các hiệp hội đánh dấu sự phát triển quan hệ
hợp tác của các doanh nghiệp BHĐC. Hiệp hội ra đời và tồn tại đem lại nhiều lợi
ích cho thành viên, đặc biệt hiệp hội có tiếng nói lớn hơn và giúp truyền tải tốt hơn
nguyện vọng của các thành viên tới cơ quan có thẩm quyền và cộng đồng.
1.2.2.4. Hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp



13
Quan hệ BHĐC giữa doanh nghiệp BHĐC với người tham gia vào mạng lưới
BHĐC được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lí là hợp đồng. Có thể
hiểu rằng hợp đồng tham gia BHĐC là việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền
và nghĩa vụ trong quan hệ BHĐC giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật
này. Với tư cách là hình thức pháp lí của quan hệ pháp luật BHĐC, hợp đồng tham
gia BHĐC có những dấu hiệu pháp lí sau:
- Chủ thể của hợp đồng: Doanh nghiệp BHĐC và người tham gia BHĐC;
- Hình thức của hợp đồng là phương tiện để ghi nhận kết quả mà các bên đã
thỏa thuận với nhau. Nó có thể thể bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể. Tuy
nhiên, với tính chất phức tạp của quan hệ BHĐC, khả năng phát sinh tranh chấp
trong quá trình thực hiện hợp đồng là rất lớn nên hợp đồng tham gia BHĐC luôn
phải được thể hiện dưới những hình thức đảm bảo rõ ràng nhất để giúp cho quá
trình thực hiện và giải quyết tranh chấp trở nên thuận tiện hơn.
- Đối tượng của hợp đồng: Đối tượng của hợp đồng tùy thuộc vào từng quốc
gia khác nhau. Nhiều quốc gia thừa nhận cả hàng hóa và dịch vụ nhưng có những
quốc gia chỉ công nhận hàng hóa là đối tượng của hợp đồng này.
- Nội dung cơ bản của hợp đồng: Nội dung của hợp đồng là thỏa thuận giữa
các bên về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ BHĐC. Pháp luật về BHĐC thường có
những quy định hướng dẫn về những nội dung chủ yếu của hợp đồng tham gia

BHĐC như: Chủ thể, hàng hóa, cách tính tiền hoa hồng, quyền và nghĩa vụ của các
bên, chấm dứt thanh lý hợp đồng, xử lý khi có tranh chấp và vi phạm hợp đồng…
1.2.2.5. Kiểm soát hoạt động bán hàng đa cấp
BHĐC là một biện pháp tiên tiến trong việc đem sản phẩm đến gần hơn với
NTD. Tuy nhiên, phương thức BHĐC cũng tiềm ẩn rất nhiều những nguy cơ ảnh
hưởng xấu đến quyền lợi của NTD, của người tham gia và gây xáo trộn trật tự xã
hội. Bởi vậy, vấn đề kiểm soát hoạt động BHĐC là cần thiết. Các cơ chế có thể
được áp dụng đối với việc kiểm soát hoạt động BHĐC gồm: Bồi thường dân sự; Xử
lý hành chính; Xử lý hình sự.



14
1.3. Vấn đề học hỏi kinh nghiệm một số nước trên thế giới về bán hàng
đa cấp của Việt Nam
1.3.1. Nhu cầu học hỏi kinh nghiệm quốc tế để hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về bán hàng đa cấp
Thứ nhất, thế giới ngày càng phẳng hơn, thế giới mở ra với xu thế chính
trong quan hệ quốc tế vẫn là hội nhập. Đứng trước xu thế chính đó, Việt Nam
không thể tự cô lập, tách mình ra khỏi cộng đồng quốc tế trở thành một ốc đảo.
Chúng ta cũng đã nhận định được đúng đắn vấn đề này. Do vậy, quan điểm đối
ngoại của Việt Nam là hội nhập và muốn làm bạn với tất các nước trong cộng đồng
quốc tế để học hỏi, tiếp thu và rút ngắn khoảng cách phát triển giữa chúng ta và thế
giới [14, 15]. Chúng ta cần phải tích cực hội nhập sâu sắc và tiếp thu những thành
tựu của các nước trong cộng đồng quốc tế trong đó có thành tựu lập pháp liên quan
đến pháp luật về quản lý hoạt động BHĐC .
Thứ hai, BHĐC trên thế giới có lịch sử phát triển gần 80 năm nhưng vào
Việt Nam rất muộn (chưa tròn hai chục năm). Chúng ta đi sau nên việc học tập kinh
nghiệm của các nước có quá trình điều chỉnh lâu dài và phù hợp là điều cần thiết và
hợp quy luật. Ra đời từ đầu thế kỉ 20, BHĐC gắn liền với tên tuổi của nhà hóa học

người Mỹ Carl Renborg (1887-1973). Ông là người đầu tiên ứng dụng ý tưởng tiếp
thị mạng lưới vào trong cuộc sống, tạo ra một hệ thống kinh tế, một ngành kinh
doanh được coi là có triển vọng nhất trong thế kỷ 21 [21]. Thời điểm được coi là bắt
đầu phương thức kinh doanh này là cuối năm 1939 đầu 1940. Hiện nay, KDĐC đã
và đang phát triển mạnh ở hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ trên khắp các châu
lục, với hơn 30.000 công ty lớn đã áp dụng phân phối hàng hóa theo mô hình
BHĐC [53].
Thứ ba, nền công nghiệp BHĐC trên thế giới đã gặt hái được nhiều thành tựu
và cũng bộc lộ những khuyết điểm. Do vậy, việc tìm hiểu và học tập kinh nghiệm các
nước sẽ giúp cho Việt Nam giảm thiểu được những khiếm khuyết phát huy được
những mặt tích cực của phương thức này. Năm 2013, doanh số bán lẻ theo phương
thức BHĐC toàn cầu đạt 178,52 tỉ USD [51]. Tại Mỹ KDTM phát triển rất mạnh mẽ.



15
Hiệp hội BHTT (DSA – Direct selling association), một cơ quan thuộc ngành công
nghiệp Mỹ, đã đưa ra báo cáo năm 1990, con số thành viên của hiệp hội này kinh
doanh theo phương thức đa cấp mới chỉ đạt 25%, nhưng đến năm 1999 con số này
tăng lên tới 77,3% [47]. Các công ty lớn như Avon, Electrolux, Tupperware, và Kirby
dù ban đầu rất thành công với phương thức kinh doanh đơn cấp nhưng sau đó cũng đã
chuyển sang KDĐC [49]. Đến năm 2009, 94,2% thành viên của hiệp hội đã kinh
doanh theo phương thức đa cấp. Số lượng NPP của những công ty đó chiếm 99,6% số
lượng nhân viên bán hàng của toàn bộ các công ty thành viên, và trong đó doanh số
bán hàng của hiệp hội có đến 97,1% doanh số bán hàng từ các công ty BHĐC
[45]. Số liệu báo cáo năm 2011, DSA có 200 thành viên [46] và ước tính tại Mĩ hiện
có khoảng hơn 2.000 công ty hoạt động kinh doanh theo mô hình BHĐC. Cứ 10 gia
đình tại Mĩ thì có một người làm trong ngành, chiếm khoảng 15% dân số, có khoảng
500.000 người trở thành triệu phú nhờ BHĐC [36]. Bên cạnh những thành tựu trên,
chúng ta cũng sẽ rất thảng thốt khi nghe đến các vụ lừa đảo đa cấp làm rúng động thị

trường trên thế giới như: Vụ việc của PrimeAmerica làm thiệt hại cho nền kinh tế
Hoa Kỳ 57.6 tỷ USD/năm hay vụ việc ủy ban SEC (U.S Securities And Exchange
Commission) của Hoa Kỳ - một cơ quan có sứ mệnh bảo vệ nhà đầu tư, duy trì công
bằng, trật tự và hiệu quả của thị trường cũng như tạo điều kiện cho việc tạo lập nguồn
vốn, đã ra quyết định chấm dứt hoạt động của Công ty ZEEKREWARDS.COM với
1,5 triệu NPP vì bị kết luận kinh doanh đa cấp bất chính.
Thứ tư, BHĐC là phương thức do nước ngoài du nhập vào Việt Nam nên
chúng ta tiếp thu bị động. Cả người dân và chính quyền đều chưa có sự chuẩn bị
đầy đủ để đón nhận phương thức mới mẻ này. Trong khi chính quyền còn bộc lộ
những yếu kém về năng lực quản lý thì người dân lại vô cùng nhẹ dạ cả tin. Muốn
chuyển từ bị động sang chủ động đòi hỏi chúng ta phải học tập kinh nghiệm quốc tế
để hoàn thiện pháp luật trong nước. Năm 1998, tại TP. Hồ Chí Minh một nhóm
người từ Đài Loan sang Việt Nam liên doanh với Công ty Incomex và kinh doanh
dưới hình thức BHĐC đánh dấu sự xuất hiện lần đầu tiên của phương thức BHĐC
tại Việt Nam [33].



16
1.3.2. Nguyên tắc học hỏi kinh nghiệm quốc tế
Chúng ta đi sau, chúng ta chậm phát triển hơn nên việc học hỏi một cách chủ
động và có chọn lọc là cần thiết. Chúng ta cần đặc biệt chú ý tới 02 nguyên tắc khi
tiếp thu kinh nghiệm quốc tế là:
Thứ nhất, kinh nghiệm của các nước phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của
Việt Nam. Đặc thù, hoàn cảnh của mỗi quốc gia khác nhau là khác nhau, do vậy,
quá trình hình thành, phát triển và điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động
BHĐC cũng khác nhau. Chúng ta cần phải lưu tâm đến nguyên tắc này nếu không
muốn bị xa vào tình trạng thiếu thực tế khi điều chỉnh dẫn đến hiệu quả không cao.
Thứ hai, kinh nghiệm các nước đã được kiểm chứng qua thực tiễn quản lý,
kiểm soát, điều hành. Tính thực tiễn cần được đặt ở một ví trí rất cao khi đánh giá

và học tập những quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động BHĐC của các nước.
Phải thấy được quá trình điều chỉnh bằng pháp luật một cách toàn diện và lâu dài
của các nước mới thấy được những ưu điểm, nhược điểm của nó, từ đó làm cơ sở
rút ra những vấn đề nào nên học tập vấn đề nào không. Kết hợp hệ quy chiếu này
với hoàn cảnh, điều kiện Việt Nam sẽ giúp chúng ta có được một sự tiếp thu khoa
học, khách quan và giàu tính sáng tạo đem lại hiệu quả cao trong thực tiễn.
1.3.3. Kinh nghiệm của một số nước
1.3.3.1. Malaysia
Giới thiệu chung:
Malaysia là một quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, thành viên sáng lập
của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) có những điểm tương đối gần
gũi với Việt Nam về vị trí địa lí, văn hóa. Đây là lí do tại sao tác giả chọn Malaysia
là quốc gia đầu tiên để học hỏi kinh nghiệm về quản lý hoạt động BHĐC. Malaysia
theo mô hình liên bang bao gồm 13 bang và 02 vùng liên bang. Malaysia theo thể
chế quân chủ nghị viện, lưỡng viện với hệ thống pháp luật theo hệ thống pháp luật
của Anh [60]. Tính đến 02/2013 dân số Malaysia là 29.179.952 người trong đó
người Malay chiếm 50.4%, người Trung Quốc chiếm 23.7% và các dân tộc khác
chiếm 25,9 % [61].



17
Số liệu về BHTT tại Malaysia
Theo báo cáo của Liên đoàn các Hiệp hội BHTT thế giới năm 2013 doanh
thu từ hoạt động BHTT của Malaysia đạt con số tương đối ấn tượng là 4,659 tỷ
USD (chiếm khoảng 3% doanh số BHTT toàn cầu – tương đương với mức doanh số
của Pháp, một quốc gia có dân số cao hơn rất nhiều là 65,8 triệu người năm 2013
[80]). Số lượng NPP đạt 4.250.000 người (chiếm hơn 15% dân số) [43].
Trong các sản phẩm BHĐC của Malaysia, thảo dược và thực phẩm bổ sung
có doanh thu cao nhất chiếm khoảng 33%, tiếp đó là mỹ phẩm & EPC đạt 23%,

thiết bị gia dụng 13%, thực phẩm, đồ dùng gia đình chiếm 8%, sản phẩm thêu/đồ lót
chiếm 6%, đồ uống chiếm 6% [62].
Hiệp hội Bán hàng trực tiếp tại Malaysia
Hiệp hội BHTT Malaysia (DSAM - Direct Selling Association of Malaysia)
được thành lập năm 1978, là hiệp hội thương mại quốc gia với mục tiêu thúc đẩy và
quảng bá ngành BHTT và giữ vai trò người phát ngôn thực tiễn cho ngành công
nghiệp này. Hiệp hội có 64 thành viên, trong đó 50% thành viên là các công ty đa
quốc gia. Sau 30 năm, vào năm 2008, biểu tượng của DSAM đã được thay đổi và sử
dụng cho đến nay, tương xứng với tầm ảnh hưởng và sự phát triển của ngành công
nghiệp BHTT [62].
Cơ quan quản lý hành chính đối với hoạt động BHTT
Bộ Thương Mại Nội Địa, Hợp Tác Và Bảo Vệ Quyền Lợi Người Tiêu Dùng
(MDTCC - Ministry of Domestic Trade, Co-operatives and Consumerism) là cơ
quan quản lý nhà nước đối với hoạt động BHTT tại Malaysia. Được thành lập ngày
27/10/1990, cơ quan này ra đời để đẩy mạnh sự phát triển của thương mại nội địa và
bảo vệ quyền lợi của NTD Malaysia [63]. Để thực hiện hoạt động quản lý hành
chính đối với hoạt động BHTT tại quốc gia này, nhà làm luật đã ban hành rất nhiều
văn bản và giao cho MDTCC tổ chức và thực hiện như:
Đạo Luật Bán hàng Trực tiếp 1993 (Luật 500);
Năm 2011, Đạo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Bán Hàng Trực tiếp và Chống
Bán Hàng theo Mô Hình Kim Tự Tháp 1993 được ban hành;



18
Đạo Luật Cạnh Tranh 2010, Đạo Luật Bảo Vệ Dữ Liệu Cá Nhân 2010, Đạo
Luật Kiểm Soát Giá và Chống Đầu Cơ 2011, Đạo Luật Bảo vệ NTD 1999.
Một số nét chính trong quy định pháp luật quản lý hoạt động BHTT
Yêu cầu về giấy phép: Để hoạt động theo phương thức BHTT tại Malaysia,
việc đăng ký để được cấp giấy phép là một yêu cầu bắt buộc [43, Điều 4]

Đối tượng được phân phối theo phương thức BHTT: Pháp luật Malaysia thừa
nhận BHTT đối với cả hàng hóa và dịch vụ. Trong đó: hàng hóa được định nghĩa là
tất cả các loại động sản ngoại trừ các quyền tài sản khác, thương phiếu, cổ phiếu,
trái phiếu và tiền; dịch vụ bao gồm các quyền và lợi ích bất kỳ loại trừ việc cung
cấp hàng hóa và thực hiện các công việc theo hợp đồng dịch vụ, và một tham chiếu
đến từ dịch vụ trong Luật 500 liên quan đến BHTT và bán hàng kim tự tháp; [43,
Điều 2]
Khách hàng của kênh phân phối theo phương thức BHTT tại Malaysia chỉ có
thể là cá nhân [43, Điều 1(3)(a)].
Đối tượng BHTT tại Malaysia được mở rộng khi nhà làm luật thừa nhận cả
hàng hóa và dịch vụ đều là đối tượng của hoạt động này. Nhà làm luật cũng quy
định rõ những hàng hóa, những dịch vụ nào được tiến hành phân phối theo phương
thức BHTT. Qua đó, chúng ta thấy rằng thị trường BHTT của Malaysia là tương đối
rộng mở đối với nhà đầu tư.
Tên gọi và định nghĩa: Tại Malaysia, hoạt động phân phối theo phương thức
BHĐC được gọi là: Bán hàng trực tiếp. Theo pháp luật Malaysia, hoạt động BHTT
được định nghĩa bao gồm: Bán hàng tận cửa, bán hàng qua thư điện tử và bán hàng
qua giao dịch điện tử. Bán hàng tận cửa được định nghĩa là phương thức bán hàng
hóa hoặc dịch vụ được thực hiện theo cách thức: Một người hoặc bất kỳ người nào
được ủy quyền đến các địa điểm mà không phải là địa điểm kinh doanh cố định
hoặc tiến hành thông qua các cuộc điện thoại để tìm ra những người có thể ký hợp
đồng trở thành người mua hàng hóa, dịch vụ. Sau đó, người này hoặc một số người
khác đàm phán với những người mua tiềm năng để ký những hợp đồng tương tự.



19
Điện tử có nghĩa là các công nghệ sử dụng điện, quang, từ, điện tử, sinh trắc
học, quang tử hoặc công nghệ tương tự khác.
Bán hàng qua lệnh thư điện tử nghĩa là việc bán hàng hóa hoặc dịch vụ do cá

nhân tự mình hoặc thông qua người được ủy quyền tiến hành nhận đặt hàng cho hợp
đồng bán hàng thông qua thư điện tử hoặc bất kỳ phương tiện nào khác thông qua
công cụ điện tử [43, Điều 2].
Như vậy, theo quy định của pháp luật Malaysia, các hành vi BHTT được
thừa nhận bao gồm cả bán hàng qua điện thoại và bán hàng qua lệnh thư điện tử. Nó
phù hợp với sự phát triển của ngành công nghiệp này khi thói quen của người tiêu
dùng đang ngày càng thay đổi với xu hướng sử dụng ngày một nhiều phương tiện
điện tử để cho việc mua sắm trở lên tiện lợi hơn.
Ngoài khái niệm BHTT, nhà làm luật còn xây dựng thuật ngữ bán hàng kim
tự tháp. Theo đó, hệ thống bán hàng kim tự tháp là bất kỳ hệ thống, sự sắp đặt, kế
hoạch, quá trình vận hành hoặc chuỗi có những đặc trưng:
Việc xúc tiến cho một mô hình hoặc thanh toán tiền thưởng hoặc lợi ích khác
chỉ hoặc chủ yếu thông qua việc tuyển dụng hoặc giới thiệu người tham gia;
Việc trả thưởng hoặc lợi ích khác người tham gia được nhận chỉ hoặc chủ
yếu thông qua việc tuyển dụng hoặc giới thiệu người khác vào hệ thống;
Không cung cấp cho người tham gia hợp đồng hoặc tuyên bố chỉ ra điều
khoản của thỏa thuận;
Bắt buộc mua hàng hóa, dịch vụ hoặc tài sản vô hình hoặc thanh toán mức
tối thiểu hoặc yêu cầu bán hàng được ấn định như điều kiện để thỏa mãn những tiêu
chuẩn hoặc yêu cầu ban đầu cho việc tham gia hoặc thanh toán phần thưởng hoặc
lợi ích khác;
Người tham gia bị yêu cầu mua hàng hóa, dịch vụ hoặc tài sản vô hình theo
một lượng không hợp lý vượt quá khả năng bán lại hoặc tiêu dùng trong một
khoảng thời gian hợp lý. Người tham gia không được tự do mua hàng, họ chịu áp
lực mua những gói được lựa chọn để phù hợp với yêu cầu bán hàng cho vị trí hoặc
việc trả thưởng;

×