Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

tiểu luận cao học ngoại giao về quan hệ quốc tế và sự vận dụng của đảng ta trong quan hệ đối ngoại hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.82 KB, 30 trang )

LI M U
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà ngoại giao kiệt xuất, ngời sáng lập nền ngoại
giao hiện đại Việt Nam. Trên cơng vị là Chủ tịch Đảng và Chủ tịch nớc, Ngời luôn
quan tâm chỉ đạo công tác đối ngoại nhằm phát huy sức mạnh của dân tộc, tranh
thủ sự ủng hộ của các nớc và nhân dân thế giới trong cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc và xây dựng đất nớc. Xuất phát từ thực tế Việt Nam, Ngời đề xuất và xây dựng
nhiều nguyên tắc, quan điểm, lý luận về thời đại, về đờng lối quan hệ quốc tế và
chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Nớc ta thực hiện đổi mới đất nớc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong bối cảnh thế giới đã có nhiều thay đổi, sự sụp đổ của Liên Xô và các nớc
Đông Âu trong hệ thống xã hội chủ nghĩa cuối thế kỷ XX làm cho trật tự thế giới
thay đổi từ lỡng cực Xô - Mỹ chuyển sang trật tự thế giới mới có lợi cho chủ nghĩa
t bản. Chủ nghĩa t bản cũng ra sức công kích những giá trị đích thực của học thuyết
Mác Lênin, tăng cờng âm mu lật đổ với các nớc xã hội chủ nghĩa, trong đó Việt
Nam là một trọng điểm chiến lợc diễn biến hoà bình của chúng.
Mặt khác, trớc xu thế hội nhập kinh tế để cùng nhau phát triển giữa các
quốc gia trong khu vực và trên thế giới, nên xu hớng tất yếu, khách quan là nớc ta
phải hội nhập để phát triển kinh tế - xã hội. Trớc tình hình đó đòi hỏi Đảng và Nhà
nớc ta phải có chính sách đối ngoại sáng suốt, nhạy bén, kết hợp nhuần nhuyễn các
nguyên tắc, phơng pháp, nghệ thuật ngoại giao, chiến lợc và sách lợc sao cho mềm
dẻo, uyển chuyển, tạo môi trờng hoà bình, thuận lợi cho công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nớc do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xớng và lãnh đạo từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã thu đợc
những thành tựu bớc đầu rất quan trọng, đa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh
tế - xã hội, từng bớc hội nhập với cộng đồng quốc tế. Nguyên nhân quan trong dẫn
đến những thắng lợi đó là Đảng và Nhà nớc ta đã có những chính sách đối nội và
đối ngoại đúng đắn. Điểm quan trọng trong đối ngoại của Việt Nam thời đổi mới là
vẫn tiếp tục thực hiện phơng châm: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nớc dân
chủ và không gây thù oán với một ai của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991), nêu rõ: Đảng
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và t tởng Hồ Chí Minh làm nền tảng t tởng, kim chỉ nam


cho hành động của Đảng, các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX, X của
Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm đó. Việc xác lập vị trí của t tởng Hồ Chí Minh
trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam là bớc phát triển quan trọng trong nhận thức
và t duy lý luận của Đảng, đáp ứng nhu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam.

1


Định hớng đó càng quan trọng đối với việc nghiên cứu t tởng Hồ Chí Minh về quan
hệ quốc tế để góp phần vào việc định ra đờng lối, chính sách đối ngoại thích hợp.
Việt Nam sau hơn 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới dới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nớc đã đạt đợc nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch
sử, trong đó phải kể đến những đóng góp của mặt trận ngoại giao. Báo cáo của Ban
Chấp hành Trung ơng Đảng khoá IX về các văn kiện đại hội X do Tổng Bí th Nông
Đức Mạnh trình bày nêu rõ: Vị thế nớc ta trên trờng quốc tế không ngừng đợc
nâng cao, sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực
mới cho đất nớc tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu t tởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế và sự
vận dụng của Đảng ta trong quan hệ đối ngoại hiện nay là đề tài nghiên cứu mang ý
nghĩa khoa học và thực tiễn cấp bách.

2


NI DUNG
I. Bối cảnh quan hệ quốc tế hiện nay
1. Tình hình thế giới
Bớc sang thế kỷ XXI, nhân loại đang tiến vào một nền văn minh mới, nền
văn minh thông tin hậu công nghiệp, một xã hội thông tin chứa đựng những vận hội
lớn về chính trị và phát triển về văn hóa. Tuy nhiên, quá trình đó diễn ra không

đồng đều ở các nớc, nó phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, vào năng lực nội sinh và
những yếu tố tác động bên ngoài. Do vậy, có một thời kỳ chuyển tiếp, ở đó xuất
hiện sự va chạm giữa những yếu tố của nền văn minh công nghiệp với những mầm
mống của nền văn minh hậu công nghiệp văn minh thông tin văn minh tri
thức.
Đó là tiền đề lý luận, nhận thức chung đặt ra cho Đảng ta, trên cơ sở đó,
Đảng phải nghiên cứu, hoạch định đờng lối lãnh đạo phù hợp nhằm phát triển đất
nớc. Về tình hình thế giới có những thay đổi lớn sau đây.
Một là: Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu sụp đổ, không còn hệ
thống XHCN thế giới.
Sau hơn bảy mơi năm tồn tại, CNXH đã sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu,
đánh dấu thời kỳ khủng hoảng tồi tệ nhất của hệ thống XHCN thế giới kể từ sau
Chiến tranh thế giới II (1945).
Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới sụp đổ, đặt các nớc XHCN còn lại(Trung
Quốc, Việt Nam, Cu Ba) đứng trớc những khó khăn, thử thách to lớn, đặt chủ nghĩa
Mác - Lênin, những lý tởng của CNXH, CNCS đứng trớc sự phê phán gay gắt và bị
tấn công từ nhiều hớng. Phong trào cộng sản và công nhân thế giới lâm vào thời kỳ
thoái trào, bị mất phơng hớng, từ chỗ là một lực lợng hùng hậu gồm 81 đảng và tổ
chức công nhân công đoàn theo xu hớng XHCN với Liên Xô làm trụ cột (năm
1960), đến nay mặc dầu vẫn còn sự tồn tại của hàng chục Đảng Cộng sản ở hầu
khắp thế giới, nhng không còn ngọn cờ tiên phong.
Nguyên nhân sụp đổ có tính hệ thống của chủ nghĩa xã hội. Ngời thì cho
rằng đó là sự khủng hoảng cơ cấu theo chu kỳ, (giống nh quy luật khủng hoảng của
chủ nghĩa t bản). Có ngời lại đánh giá, đó là khủng khoảng về mô hình CNXH lỗi
thời, không phù hợp. Cũng có không ít ngời khẳng định sự đổ vỡ của hệ thống xã
hội chủ nghĩa bắt đầu từ sự phản bội của cá nhân cựu Tổng thống Liên Xô M.K.
Goócbachốp. Song dù có là nguyên nhân nào, thì đây cũng là một mất mát to lớn
của phong trào cách mạng và giai cấp công nhân thế giới.
Tại sao có thể nói nh vậy? Bởi vì đó là một thực tế. Cho dù hiện nay còn sự
tồn tại của hàng chục Đảng Cộng sản và công nhân trên khắp thế giới, nhng phải

khách quan thừa nhận rằng, vai trò của các đảng cộng sản giờ đây rất mờ nhạt, mất
3


uy tín, thiếu tính cách mạng tiền phong và số đảng viên mỗi ngày lại teo dần lại. Ví
dụ: Đảng Cộng sản Mỹ, Đảng Cộng sản Italia trớc đây có hàng chục ngàn đảng
viên, là một thế lực chính trị có tiếng nói trên diễn đàn trên thế giới, là chỗ dựa tin
cậy của giai cấp công nhân trong nớc, bây giờ mỗi đảng chỉ còn vài ngàn đảng
viên, mất dần uy tín và trong tình trạng chia rẽ.
Tình hình đó tác động mạnh mẽ vào nớc ta, trớc hết là vào t tởng, tình cảm
của cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm cho một bộ phận không nhỏ hoang mang,
lo lắng, thậm chí dao động, mất lòng tin vào mục tiêu và con đờng đi lên CNXH.
Hai là: Kết thúc chiến tranh lạnh, chấm dứt tình trạng hai cực đối lập.
Trong sự thất vọng và khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội, trên thế giới có
những thay đổi lớn, toàn diện và mang tính toàn cầu. Đó là sự kết thúc của thời kỳ
chiến tranh lạnh kéo dài giữa hai hệ thống, chấm dứt tình trạng đối lập, chạy đua vũ
trang của một thế giới hai cực mà đại diện là Liên Xô và Mỹ.
Ngời ta đặt câu hỏi hiện nay thế giới đang ở trong tình trạng nào? Thế giới đa
cực hay một cực? Câu trả lời vẫn còn đang tranh luận cha ngã ngũ, song dẫu thế nào,
thì các nhà hoạch định chính sách ở tất cả các quốc gia đều phải điều chỉnh lại chiến
lợc, sách lợc của mình, nhất là các nớc lớn. Tất nhiên, mọi tính toán đều phải xuất
phát trớc hết từ lợi ích của nớc mình. Các cụm từ: quyền lợi dân tộc, lợi ích dân
tộc trớc đây thờng bị lấn át bởi khẩu hiệu: Tinh thần quốc tế vô sản cao cả, nay đã
công khai trở về đúng với suy nghĩ, bản chất và vị trí của nó.
Có thể nói rằng, với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội, một trật tự thế giới mới
đã đợc thiết lập. Một thế giới đa cực, nhiều chiều có vẻ đang thắng thế, và cũng
chính vì thế mà các quan hệ quốc tế đang diễn biến hết sức phức tạp. Xuất phát từ
tình hình khách quan nh vậy, đờng lối ngoại giao của Đảng về đa phơng hoá, đa
dạng hoá quan hệ, trên cơ sở giữ vững nguyên tắc: quyền lợi dân tộc là tối thợng;
nguyên tắc bình đẳng, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; ủng hộ xu

thế hội nhập, cùng có lợi, cùng phát triển, với mục tiêu phấn đấu cho một thế giới
hoà bình, là hoàn toàn đúng đắn.
Ba là: Chủ nghĩa T bản hiện đại vẫn phát triển, đã trở thành CNTB lũng
đoạn toàn cầu, vẫn đang chi phối các nớc trên thế giới.
Từ năm 1848, khi viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác - Ăngghen
đã nói về những mặt thối nát của chủ nghĩa t bản đợc xây dựng từ máu và bùn
nhơ. Các ông nhận định rằng, cái ngày giai cấp công nhân thế giới đứng lên lật đổ
chế độ t bản để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn sẽ không còn xa nữa, Chủ
nghĩa t bản đang dãy chết...vv. Kể từ đó đến nay, thời gian hơn 160 năm đã trôi
qua. Ngời ta đã chứng kiến những cơn khủng hoảng trầm trọng của chủ nghĩa t bản,
có lúc tởng chừng nó sẽ bị diệt vong theo đúng lời tiên liệu của Mác. Nhất là sau
chiến tranh thế giới thứ II (1945), với sự ra đời và phát triển của hệ thống XHCN
4


đứng đầu là Liên Xô, thì ngay cả nhiều nhà cách mạng không có thói quen suy
nghĩ lạc quan, cũng đã bắt đầu mơ đến một kết cục tất yếu của chủ nghĩa t bản. Lý
luận về Ba dòng thác cách mạng thế giới, đã có thời gian dài đợc biên soạn, đa
vào sách giáo khoa lịch sử giảng dạy trong nhà trờng phổ thông.
Thế nhng, thực tế sau 150 năm (tính từ khi Tuyên ngôn... ra đời), 60 năm
(tính từ khi CNXH trở thành hệ thống thế giới), Chủ nghĩa t bản vẫn ngang nhiên
tồn tại, trái lại CNXH đã tan dã. Phân tích nguyên nhân xảy ra nghịch lý đó chúng
ta sẽ bàn trong một dịp khác. Nhng rõ ràng chúng ta phải thừa nhận, Chủ nghĩa t
bản đang tồn tại và phát triển là một thực tế. Giờ đây thế lực của chủ nghĩa t bản
trải rộng, hệ thống các công ty, các tập đoàn t bản công nghiệp có các công ty con,
các chi nhánh, đại diện trên khắp toàn cầu. Ví dụ: Các tập đoàn công nghiệp
Toyota, Sony của Nhật, Microsoft, Telecom của Mỹ... có số vốn lên tới hàng ngàn
tỷ USD, sản phẩm của họ có mặt trên khắp thế giới. Các công ty t bản công nghiệp
và tài chính xuyên quốc gia, liên kết với nhau lũng đoạn, thống trị thế giới. Điển
hình nhất là cơn khủng hoảng kinh tế (chủ yếu là khủng hoảng tài chính tiền tệ) của

châu á và Nam Mỹ mới đây. Nguyên nhân cơ bản là do các tập đoàn tài chính lớn
thế giới thao túng, gây ra khủng hoảng cục bộ để từ đó đầu cơ trục lợi. Các chính
sách cho vay của IMF (Quỹ tiền tệ thế giới), hay của ADB (Ngân hàng phát triển
châu á)...bao giờ cũng mang tính áp đặt, thậm chí buộc các nớc muốn vay tiền,
trong cơn khốn quẫn phải chấp nhận những điều kiện do họ đa ra, kể cả thay đổi đờng lối chính trị của mình. Nhìn vào thực tại, dờng nh chủ nghĩa t bản hiện đại cha
có vẻ gì giãy chết, nó vẫn còn đang trong giai đoạn phát triển và cha muốn dừng
lại.
Có đợc kết quả đó là do chủ nghĩa t bản hiện đại đã biết thích nghi với tình
hình mới: thay đổi cung cách quản lý, phơng thức bóc lột, chú trọng đầu t phát triển
công nghệ, khoa học, tăng cờng liên minh, liên kết với nhau, hoà hoãn và hợp tác
với nhau để điều hoà mâu thuẫn, cải tiến chế độ phân chia lợi nhuận, phân chia thị
trờng, khu vực ảnh hởng, chú trọng đến chính sách an sinh xã hội vv Chính vì thế
không những nó không bị diệt vong sớm nh chúng ta tởng, mà còn phát triển thành
chủ nghĩa t bản lũng đoạn toàn cầu, chi phối mọi hoạt động của thế giới. Nếu vậy,
dù có sự khác biệt về chế độ xã hội, chúng ta cũng phải thay đổi quan niệm, chuyển
từ đối đầu sang đối thoại, học hỏi những tiến bộ về khoa học quản lý,(quản lý Nhà
nớc, quản lý xã hội), áp dụng thành tựu khoa học công nghệ, học hỏi tất cả những
gì mang tính tiến bộ của Chủ nghĩa t bản để phát triển đất nớc. Bởi nói cho cùng,
những thành tựu văn hoá, khoa học, tiến bộ về công nghệ... đạt đợc ở bất cứ chế
độ xã hội nào, cũng đều là sản phẩm lao động trí tuệ của loài ng ời. Chúng ta phải
loại bỏ những t tởng ấu trĩ tả khuynh: Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thuỵ Sĩ.

5


Trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nớc Mỹ... một thời làm kìm hãm sự sáng tạo và
trói buộc sự phát triển của con ngời.
Nói nh vậy không có nghĩa chủ nghĩa t bản hiện đại là tốt đẹp, cần đề phòng
t tởng xét lại nh một số kẻ trớc đây đã từng làm. Phải luôn luôn khẳng định rằng,
ý kiến của Mác - Ăngghen và các nhà cách mạng tiền bối là đúng, bởi nó xuất phát

từ cơ sở thực tế trong thời đại của các ông. Vì thế, các nhà kinh điển hoàn toàn có
lý khi đa ra nhận định nh vậy. Bản chất của chủ nghĩa t bản vẫn không và sẽ không
bao giờ thay đổi (tính ăn bám, bóc lột, khủng hoảng có chu kỳ...). Tuy nhiên, ngày
nay, khi nghiên cứu về T bản, chúng ta thấy một số vấn đề, nhất là trong kinh tế,
không còn hoàn toàn đúng nữa, nhng điều này chính Ăngghen cũng đã thừa nhận
ngay từ khi viết lời tựa cho cuốn Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã đợc tái bản
ngay sau đó. Điều đáng nói là, chính vì nhận ra những khiếm khuyết của mình, chủ
nghĩa t bản đã kịp thời thay đổi, thích nghi, để từ đó tồn tại và phát triển. Những
ngời cộng sản có thể và cần phải học tập chủ nghĩa t bản ở tính linh hoạt, đổi mới t
duy nhanh nhạy theo thực tiễn, nhấn mạnh hơn nữa đến tính hiệu quả, khẳng định
lại nguyên tắc: lý luận chỉ có thể đợc coi là đúng đắn, phù hợp, khi đã đợc kiểm
nghiệm bằng thực tiễn.
Bốn là: Tất cả các nớc đều đi vào kinh tế thị trờng và đang bị cuốn hút vào
vòng toàn cầu hoá kinh tế do CNTB hiện đại chi phối.
Có thể nói rằng, ngày nay tất cả các quốc gia trên thế giới đều có liên quan
mật thiết với nhau. Bất cứ quốc gia nào, dù là quốc gia lớn mạnh nhất, cũng có sự
liên quan phụ thuộc vào quốc gia khác, trên từng lĩnh vực cụ thể, mức độ phụ thuộc
nhiều hay ít mà thôi. Sở dĩ nh vậy, bởi nền kinh tế thị trờng và toàn cầu hoá đã tác
động hết sức mạnh mẽ, làm thay đổi bộ mặt thế giới trên mọi lĩnh vực.
Trong thời kỳ chuyển tiếp từ cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp, sang
cơ chế thị trờng (ở một loạt nớc vốn là những nớc XHCN), đồng thời do còn tồn tại
sự chênh lệch giữa tiến bộ của công nghệ và trình độ của các thể chế xã hội, nên
nảy sinh nhiều mâu thuẫn xã hội trên phạm vi thế giới. Biểu hiện rõ nhất là sự phân
cực về kinh tế (phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc) giữa các nớc phát triển và
các nớc đang phát triển và các nớc thuộc diện đói nghèo. Đời sống của nhân dân
các nớc này đa phần còn dới mức nghèo khổ, thiếu thốn lơng thực, nớc uống, thực
phẩm thiết yếu, thì họ còn phải chịu sự chi phối, ảnh hởng của các nớc t bản giàu
có. Thông qua các hình thức viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại, cho
vay u đãi, cung cấp nguồn vốn đầu t phát triển..vv, các tổ chức tài chính tha hồ
ra điều kiện và áp đặt chính sách có lợi cho họ, vắt kiệt sức lực và của cải của các

nớc nghèo. Cái vòng luẩn quẩn đó vẫn đang thịnh hành không biết bao giờ mới
chấm dứt. Dòng đầu t của nớc ngoài tăng nhanh với sự có mặt của các công ty
xuyên quốc gia, đặc biệt ở khu vực Đông á và Đông Nam á trong hai thập niên gần
6


đây đã tăng 16% năm đang đợc coi là khu vực năng động nhất thế giới. Tuy nhiên,
sự gia tăng lợng vốn đầu t, gia tăng tốc độ phát triển của kinh tế thị trờng thờng gắn
liền với sự lệ thuộc và rủi ro. Các cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ gần đây ở
châu á là một trong những bằng chứng rõ nhất. Một số nớc nghèo cũng đã bắt đầu
nhận ra mặt trái của cơ chế thị trờng và toàn cầu hoá. Các cuộc đấu tranh chống
toàn cầu hoá đang nổi lên ngày càng mạnh mẽ, trong đó có cả lực lợng lao động ở
các nớc t bản tham gia. Bởi vì, dù tham gia kinh tế thị trờng, các nớc lớn luôn luôn
gây sức ép trong các cuộc cạnh tranh thị trờng, giá cả... bằng các chính sách trợ giá
cho một số mặt hàng trong nớc, chính sách bảo hộ mậu dịch thông qua thuế xuất
nhập khẩu, mà điển hình nhất là hai vụ kiện bán phá giá cá da trơn (cá Ba sa) và
tôm vào thị trờng Hoa Kỳ, gây thiệt hại lớn cho Việt Nam và một số nớc châu á
khác.
Xu thế toàn cầu hoá không chỉ thể hiện trên lĩnh vực kinh tế, mà đang ngày
càng mở rộng sang các lĩnh vực khác: quân sự, văn hoá, khoa học, y tế...vv. Không
chỉ có mặt tích cực, kinh tế thị trờng và toàn cầu hoá đã và đang gây ra sự cạnh
tranh khốc liệt về thị trờng, khu vực ảnh hởng, dẫn đến các cuộc xung đột mang
màu sắc tôn giáo và sắc tộc, (xung đột ở Trécnhia Nga; ở Côxôvô - Nam T; ở
Trung Đông...). Hậu quả của các cuộc chiến tranh xung đột đem biến tớng thành
nạn khủng bố mang tính thế giới, hoành hành khắp các châu lục - hình thành nên
chủ nghĩa khủng bố (đứng đầu là tổ chức khủng bố của những ngời Hồi giáo có tên
gọi là Al-Qaeda). Đặc biệt, mới đây với chiêu bài chống khủng bố, Mỹ và một số
quốc gia lợi dụng làm nguyên cớ phát động các cuộc chiến tranh xâm lợc, thao
túng cả Liên hợp quốc, quốc tế hoá cuộc chiến tranh phục vụ cho mu đồ riêng của
họ, tạo ra một tiền lệ hết sức nguy hiểm. Ngoài ra, những vấn đề có tính chất toàn

cầu nh lơng thực, tài nguyên, nguồn nớc, ô nhiễm môi trờng sinh thái, khí quyển,
dân số - việc làm, dịch bệnh (HIV, SAT...), hoàn toàn không thể giải quyết trong
khuân khổ quốc gia, thậm chí không thể giải quyết đợc trong phạm vi vùng lãnh
thổ.
Mặc dầu vậy, sự hình thành nền kinh tế thị trờng mang tính toàn cầu và xu
thế toàn cầu hoá không có nghĩa là bỏ qua các biên giới quốc gia, mà chính là đa
các đặc tính quốc gia vào một hệ thống toàn cầu thống nhất. Trong điều kiện đó,
bất kể một quốc gia nào, nếu tiếp thu đợc những bài học của thị trờng, tạo lập đợc
những điều kiện cho phép cạnh tranh trong một thế giới không biên giới, thì mới có
cơ hội thành công. Những điều kiện đó gồm: Dân c đợc giáo dục tốt, một nguồn
nhân lực dựa trên trí tuệ và một quỹ tri thức dồi dào (hệ thống th viện, phòng thí
nghiệm, viện nghiên cứu); một hệ thống thông tin hiệu quả; một cơ cấu tài chính
linh hoạt; một độ ngũ các nhà quản lý, kinh doanh có năng lực và kinh nghiệm...vv.

7


Tóm lại, đây là một xu thế chứa đựng các cơ hội, đồng thời cũng mang tính
thách thức đối với mỗi quốc gia. Tuy nhiên, dù muốn hay không, xu thế toàn cầu
hoá và hội nhập là khách quan không thể đảo ngợc. Chỉ có thể huy động mọi tiềm
năng, thế mạnh để tăng cờng nội lực, vơn lên, chủ động hội nhập, nhằm thoát khỏi
cái vòng luẩn quẩn nghèo khó do hậu quả từ chính sách thực dân mới của chủ
nghĩa t bản lũng đoạn gây ra.
Năm là: Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra với
những bớc tiến nh vũ bão đa nhân loại bớc vào nền văn minh tin học.
Trong những thay đổi lớn mang tính toàn cầu, sự phát triển của lực lợng sản
xuất là yếu tố căn bản làm thay đổi phơng thức sản xuất, kéo theo sự thay đổi về
mặt kinh tế xã hội. Nhờ những tiến bộ vợt bậc của công nghệ thông tin, mạng
Internet toàn cầu; công nghệ sinh học; công nghệ chế tạo vật liệu mới; công nghệ
tự động hóa; công nghệ năng lợng mới...vv, phơng thức sản xuất mới sẽ dựa trên

nền công nghiệp quy mô nhỏ nhẹ, nhng năng động và có hiệu quả cao.
Chúng ta phải nhìn thấy đợc đặc trng của xã hội thông tin: thông tin và tri
thức trở thành yếu tố đầu vào của hệ thống sản xuất, quản lý, đó là công cụ để sáng
tạo của cải, là chìa khóa của quyền lực và an ninh kinh tế - xã hội. Điều đáng lu ý
đối với các nhà lãnh đạo và các nhà họach định chiến lợc là: tốc độ phát triển trong
xã hội thông tin rất nhanh, chắc chắn sẽ không kéo dài hàng trăm năm giống nh từ
xã hội nông nghiệp đến xã hội công nghiệp, mà chỉ trong vài chục năm, thậm chí
vài năm. Mặt khác, trong xã hội nông nghiệp, sự định hớng thờng dựa vào kinh
nghiệm, nhìn về quá khứ để học hỏi, còn trong xã hội thông tin, muốn có những
định hớng, những giải pháp đúng đắn, nhất thiết phải nhìn thấy đợc tơng lai. Câu
hỏi đồng thời cũng là câu trả lời về tơng lai của thế giới mà chúng ta đang sống là
một thế giới phụ thuộc lẫn nhau, một thế giới cần phải thống nhất theo hớng phát
triển bền vững, nếu nhân loại muốn tồn tại và tiến bộ.
Kinh tế thị trờng, toàn cầu hoá đợc hỗ trợ bởi Intenét, công nghệ chế tạo vật
liệu mới (nano siêu nhỏ, siêu nhẹ, siêu bền), công nghệ sinh học...một mặt gia
tăng tốc độ phát triển của nền kinh tế toàn cầu, mặt khác lại kéo theo sự phản ứng
của các nền kinh tế quốc gia về tăng cờng cạnh tranh, liên kết khu vực (Khối thị trờng chung châu Âu EU; Hiệp hội buôn bán tự do Bắc Mỹ NAFTA; Hiệp hội các nớc Đông Nam á ASEAN...), nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, khu vực.
Với sự biến đổi cơ cấu trong nền kinh tế theo hớng mềm hoá, thông tin
hoá, cùng với xu thế toàn cầu hoá nh đã phân tích ở trên, có thể thấy một nền kinh
tế thông tin mang tính toàn cầu đang dần dần hiện hữu và sẽ trở thành xu thế phát
triển cơ bản của thế kỷ XXI.

8


2. Tình hình trong nớc
Sự thay đổi có tính bớc ngoặt về đờng lối phát triển đất nớc của Đảng, chuyển
đổi từ nền kinh tế kế hoạch, tập trung, bao cấp, sang nền kinh tế thị trờng định hớng
XHCN, đã làm biến đổi toàn bộ cơ cấu kinh tế - xã hội nớc ta, tác động trực tiếp đến
cấu trúc, thành phần xã hội, đổi mới t duy, chuyển hoá tình cảm.

Kinh tế thị trờng huy động đợc tiềm năng thế mạnh của cải từ thiên
nhiên, khai thác trí tuệ con ngời phục vụ cho sản xuất và sáng tạo. Nói một cách
chính xác và khái quát hơn, công cuộc đổi mới đất nớc dới sự lãnh đạo của Đảng,
đã giải phóng lực lợng sản xuất, thúc đẩy phát triển toàn diện, trớc hết là kinh tế, đa
nớc ta thoát ra khỏi khủng hoảng, đi vào ổn định, phát triển.
Từ thay đổi về cơ cấu kinh tế, dẫn đến sự thay đổi cấu trúc xã hội và tác
động đến sự nhận thức văn hoá, đạo đức, lối sống... Mặc dầu vậy, quá trình chuyển
đổi cơ cấu quản lý kinh tế, xã hội vẫn đang trong giai đoạn mày mò, hớng tới hoàn
thiện một cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý thích hợp. Dĩ nhiên trong thời kỳ quá độ
của sự chuyển đổi, kinh tế thị trờng đang ở giai đoạn hình thành, nên có nhiều vấn
đề mới, nhiều vấn đề bất cập, khó khăn đặt ra. Những tiêu cực, thoái hoá đạo đức,
lối sống cũng từ đó nảy sinh, nhất là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Song song với quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế trong nớc là quá trình hội
nhập, hợp tác với thế giới bên ngoài. Đây là điều kiện cho phát triển, giao lu văn
hoá. Nhiều luồng t tởng mới, nhiều sắc thái văn hoá mới, hiện đại có cơ hội giao lu.
Nhng cũng rất nguy hiểm cho đạo đức văn hoá truyền thống, bởi văn hoá ngoài
luồng mang theo lối sống thực dụng, Tây hoá, lối sống truỵ lạc, sa đoạ cũng len
lỏi vào đời sống xã hội, gây nên tệ nạn và những vấn đề bức xúc. Đó là những nhân
tố tác động làm thay đổi phần nào thang giá trị, chuẩn mực đạo đức xã hội. Tất
nhiên, trong thang giá trị mới, những giá trị truyền thống tiêu biểu cho bản sắc và
phẩm giá của dân tộc vẫn đợc giữ gìn, vẫn là những định hớng chủ đạo cho tâm
thức, hành vi, ứng xử của con ngời Việt Nam. Trong bối cẩnh đó, định hớng của
Đảng về giữ gìn, nâng cao văn hoá, đạo đức truyền thống, có ý nghĩa hết sức quan
trọng cho sự phát triển bền vững, bản sắc dân tộc.
Dới tác động của kinh tế thị trờng và mở cửa, hội nhập quốc tế yếu tố đạo
đức của cán bộ, đảng viên bắt đầu bị chao đảo. Một số cán bộ đảng viên thoái hoá,
loá mắt trớc sự cám dỗ của đồng tiền, làm giàu bất chính, kiếm tiền bằng mọi giá,
bị bọn xấu mua chuộc đi vào con đờng sa đoạ, làm ảnh hởng đến uy tín của Đảng,
làm mất lòng tin của nhân dân.
Kinh tế thị trờng đã và đang thúc đẩy quá trình đô thị hoá mạnh mẽ. Từ chỗ

có hơn 90% dân số sống ở nông thôn, ngày nay con số đó đã hạ xuống chỉ còn
khoảng hơn 70%. Kinh tế thị trờng làm nảy sinh các giá trị đạo đức mới hoặc chí ít
là cũng làm thay đổi thang giá trị và một số phẩm chất đạo đức vốn có theo hớng
9


tiến bộ, hiện đại. Ví dụ: Dới thời bao cấp ngời ta thờng có quan niệm coi thờng
hình thức, đề cao nội dung. Câu châm ngôn: Tốt gỗ hơn tốt nớc sơn; hoặc: Cái
nết đánh chết cái đẹp, rõ ràng là đề cao nội dung, coi thờng hình thức (kể cả khi
đánh giá con ngời tốt hay xấu). Nhng ngày nay, một hàng hoá chỉ đợc đánh giá cao
khi có chất lợng tốt và mẫu mã đẹp. Con ngời cũng vậy, một ngời đợc coi là đẹp,
đồng thời đợc xã hội kính trọng, chỉ khi ngời ấy có cả vẻ đẹp về trí tuệ, đạo đức; có
địa vị, danh vị nhng cũng phải có năng lực hoạt động thực tiễn, đem lại hiệu quả
cho cá nhân và cho xã hội. Cũng về vấn đề phẩm chất đạo đức, trớc đây ngời ta ca
ngợi, đề cao những con ngời trọng nghĩa, khinh tài, đôi khi bất chấp cả pháp luật,
hành động theo tình cảm chủ quan kiểu: Thấy sự bất bằng không tha; hoặc: Một
bồ cái lý không bằng một tý cái tình. Ngày nay, giá trị chuẩn mực đạo đức có vẻ
đơn giản hơn: Mọi công dân bình đẳng trớc pháp luật, mọi hành vi dù đẹp đến
đâu cũng chỉ đợc coi là đúng, là tốt khi hành vi đó đợc thực hiện theo đúng luật.
Nh vậy, kinh tế thị trờng căn bản đem đến những thay đổi tích cực trong đời
sống kinh tế - xã hội, Mặt khác, phải thừa nhận rằng Đảng, Nhà nớc ta cha lờng hết
đợc mặt trái của kinh tế thị trờng, cha có những giải pháp kịp thời về t tởng và khả
năng ứng phó cho cán bộ, đảng viên. Do đó, xã hội ta vẫn tồn tại một bộ phận đôi
khi là một xu hớng, xuất hiện những cán bộ, đảng viên tôn thờ chủ nghĩa thực
dụng, đề cao giá trị của đồng tiền, coi thờng các phẩm chất đạo đức truyền thống,
chạy theo lối sống gấp, sa đọa, trụy lạc, sống buông thả, ảnh hởng của lối sống
Tây hoá.... Tất cả những vấn đề đó có tác động không nhỏ đến quá trình đổi mới,
cản trở tốc độ phát triển của nền kinh tế, làm mất uy tín quốc gia, đặc biệt là gây
ảnh hởng trực tiếp đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tác động của mặt trái cơ chế
thị trờng đã và đang làm suy thoái đạo đức, lối sống, t tởng cơ hội, tiêu cực: quan

liêu, tham ô, tham nhũng, buôn lậu, chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ đảng viên, làm
mất lòng tin của nhân dân với Đảng. Đây là mối hiểm hoạ rất đáng lo ngại, cần
phải có biện pháp ngăn chặn hiệu quả, nó có thể làm mất ổn định chính trị, nguy cơ
đe doạ đến sự tồn vong của Đảng và chế độ.
Một số vụ án tham ô, tham nhũng lớn gần đây đợc phanh phui: Tân Trờng
Sanh, Tamexco Minh Phụng, Năm Cam, Lã Thị Kim Oanh...đã khiến ngời ta không
khỏi bàng hoàng vì tính chất, phạm vi, mức độ thiệt hại to lớn mà nó gây ra. Chính
từ quan liêu, tham ô, tham nhũng, hủ bại, là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự phai
nhạt niềm tin của dân với Đảng, là điểm yếu cho bọn phản động, bọn đội lốt tôn
giáo lợi dụng, kích động gây bất ổn chính trị ở một số địa phơng thuộc Tây Nguyên
(trong hai năm 2/2001 và 4/2004). Gần đây là các vụ PMU 18, Đồ Sơn, ...
Cơ chế thị trờng thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá là tích cực.
Nhng đằng sau nó là gia tăng số ngời thất nghiệp ở nông thôn. Sự phân hoá giàu
nghèo, khoảng cách thu nhập giữa những ngời giàu và những ngời nghèo ngày càng
10


xa. Chính sách an sinh xã hội, chính sách đầu t cho giáo dục, nhất là giáo dục phổ
thông cho con em các gia đình có thu nhập thấp, chính sách u đãi đối với các gia
đình chính sách, ngời có công...và nhiều vấn đề bất cập khác đặt ra. Trong khi Đảng
và Nhà nớc còn cha kịp điều chỉnh và có những chủ trơng, chính sách mới cho hợp
lý, thì một số cán bộ, đảng viên tỏ ra bất mãn, nói xấu chế độ, nói xấu Đảng.
Hiện tại một số vấn đề kinh tế xã hội lớn, cấp thiết, yêu cầu Đảng và Nhà nớc ta phải giải quyết một cách kịp thời, triệt để đồng bộ, nhằm giải phóng lực l ợng
sản xuất, kích thích sản xuất phát triển ở tầm vĩ mô. Ví dụ: vấn đề cổ phần hoá các
doanh nghiệp nhà nớc. Báo cáo gần đây cho biết, trong số gần 5000 doanh nghiệp
Nhà nớc đang hoạt động, có hơn 40% số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, đặc biệt có
15% số doanh nghiệp lỗ rất nặng. Điển hình nh nhà máy Dệt Long An mỗi tháng lỗ
tới hơn 1 tỷ đồng. Khi có quyết định giải thể (1/7/2004), con số d nợ ngân sách lên
tới hàng trăm tỷ đồng. Có thể nói, việc thực hiện cha triệt để, nghiêm minh, cha
thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa các công ty trong thành phần

doanh nghiệp Nhà nớc một cách sòng phẳng theo cơ chế hạch toán kinh doanh, đã
làm cho t tởng trốn thuế, buôn lậu, ỷ lại và nhiều vấn đề tiêu cực khác phát sinh
trong cán bộ đảng viên thuộc các ngành sản xuất kinh doanh.
Một số vấn đề về chính sách thuế, chính sách khuyến khích đầu t, kể cả các
chính sách về phát triển giáo dục, y tế, chính sách u tiên phát triển đối với khu vực
miền núi, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, đã làm nhng hiệu quả cha cao, còn bị
ăn chặn ở nhiều cấp trớc khi về đến cơ sở hoặc chủ đầu t. Hiện tợng chạy dự án,
để rồi khi đợc sẽ lại quảkhông phải là hiếm, tỷ lệ thất thoát vốn trong đầu t xây
dựng cơ bản mới đây đợc Ban thanh tra Nhà nớc công bố có nơi lên tới trên 40%.
Hiện tợng mua thầu, chỉ định thầu đối với những công trình do Nhà nớc bỏ vốn
đầu t bị lợi dụng, móc ngoặc, thực hiện một cách bất bình đẳng với nhiều thủ đoạn,
nhằm kiếm tiền hối lộ của không ít cán bộ công chức có chức có quyền.
Tất nhiên cũng còn những vấn đề khó lờng trớc, hoặc có những thay đổi mà
Đảng ta cha kịp bổ sung, phát triển. Đó là những vấn đề về lý luận và thực tiễn mới
nảy sinh trong quá trình đổi mới, nhất là những vấn đề về xây dựng đờng lối đối
ngoại của Đảng.
II. Quỏn trit v vn dng nhng quan im cú ý ngha phng phỏp
lun ca H Chớ Minh trong ngoi giao
1. H Chớ Minh luụn luụn t t duy ca minh trong dũng chy ca thi
i, kt hp dõn tc vi quc t, gn cỏch mng Vit Nam vi cỏch mng th gii,
coi ú nh l mt quy lut thng li cu cỏch mng Vit Nam.

11


Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới đày biến động, trật tự cũ
đã thay đổi, trật tự mới chưa hình thành. Tình hình thế giới đnag diễn biến phức
tạp, chứa đựng nhiều yếu tố bất trắc và thay đổi khôn lường. Khu vực châu Á –
Thái bình Dương và tiểu vùng Đông Nam Á là nơi có sự đan xen về lợi ích và mâu
thuẫn giữa các cường quốc trong khu vực và thế giới, đặc biệt là về chủ quyền lãnh

thổ và an ninh biển Đông.
Để xác lập được một đường lối và chính sách đối ngoại khôn ngoan, mềm
dẻo, có khả năng thích ứng với những diễn biến phức tạp của tình hình, chúng ta
phải nhận thức được thời đại mình đang sống một cách thaath sâu rộng, chỉ có như
thế mới nắm bắt chính xác đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại, dự đoán
được tương lai.
Nói cách khác, công tác đối ngoại phải làm tốt chức năng thông tin, nghiên
cứu và dự báo tình hình khu vực và thế giới để kịp thời làm tham mưu cho Đảng ta
về những chủ trương, chính sách mới khi tình hình thay đổi.
2. Hồ Chí Minh luôn nêu cao nguyên tắc độc lập tự chủ, tự lực tự cường,
chủ trương tận lực phát huy sức mạnh nội lực – sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước,
sức mạnh của người làm chủ, của đại đoàn kết dân tộc… Chỉ có trên cơ sở sức
mạnh bên trong chúng ta mới có thể tranh thủ và tận dụng được sự hợp tác, giúp
đỡ của các tổ chức, các lực lượng bên ngoài, nhằm thực hiên thắng lợi mục tiêu
cách mạng mỗi thời kỳ.
Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
Chúng ta phải mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tranh thủ vốn công nghệ cao,
từng bước gia nhập thị trường quốc tế. Nhưng phải trên cơ sở độc lập tự chủ, phát
huy đầy đủ các yếu tố nội lực, bao gồm nguồn lực con người. đát đai, tài nguyên,
truyền thống ( lịch sử và văn hóa), trí tuệ. Nếu không phát huy đầy đủ nội lực thì
cũng không thể đi lên một cách vững chắc, không giữ được độc lập tự chủ và cũng
không thể hội nhập quốc tế một cách bình đẳng.
Theo số liệu của Hội nghị Trung Ương lần thứ IV ( khóa VIII) tháng 12
năm 1997, “ hiện nay vốn nước ngoài đã chiếm tới 49% tổng vốn đầu tư xã hội cảu
chúng ta, trong khi ở các nước đang phát triển trên thế giới cũng ít có nước nào
12


vượt quá 205 trong thời gian dài. Nguồn vốn trong nước thấp đã trở thành nhân tố
quan trọng hạn chế tiếp nhận vốn bên ngoài, hơn nữa tỷ lệ vốn nước ngoài trong

tổng vốn đầu tư và tỷ lệ nợ nước ngoài trong GDP quá cao, chứng tỏ mức độ độc
lập tự chủ của nền kinh tế thấp, tính phụ thuộc vào bên ngoài nặng, đay là điều
chúng ta cần hết sức chú ý, không thể xem thường”
3. Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho đường lối ngoại giao rộng mở,
đa phương hóa, đa dạng hóa, hợp tác nhiều mặt với tất cả các nước, các tổ chức
quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, không can thiệp vào công việc của nhau, bình đẳng cùng có lợi, giải quyết
các vấn đề tranh chấp đang tồn tại bằng phương pháp hòa bình thương lượng.
Hiện nay cục diện thế giới và khu vực đang biến động nhanh chóng, đang
tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định:
-

Việt Nam với vị trí địa lý – chính trị, với tài nguyên và dân số, với tiềm

năng về nhiều mặt…đang chiếm vị trí nhất định trong nhìn nhận chiến lược của
các nước lớn và sự tập hợp lực lượng trong khu vực. Điều đó tạo khả năng và tiền
đề để Việt Nam tham gia giải quyết các vấn đề khu vực và thế giới; mặt khác cũng
tạo ra nguy cơ Việt Nam có thể trở thành địa bàn tranh chấp, xung đột lợi ích giữa
các nước lớn và giữa các tập hợp lực lượng với nhau.
-

Việt Nam tiến hành đổi mới mở cửa, hội nhập với thế giới vào lúc chủ

nghĩa xã hội đang lâm vào thoái trào, hệ thống giá trị xã hội chủ nghĩa tạm thời suy
yếu, hệ thống giá trị tư bản chủ nghĩa có điều kiện lan tràn. Lợi dụng tình hình đó,
các lực lượng đế quốc đang đẩy mạnh “ diễn biến hòa bình” dưới nhiều hình thức,
nhằm làm suy yếu, tiến tới lật đổ chế độ cac hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
-

Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đang phát triển như vũ bão,


thúc đẩy xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế găn liền với cạnh tranh gay gắt, mở ra
thời cơ cho các nước có thể phát triển nhanh, thực hiện con đường phát triển rút
ngắn; đồng thời cũng tạo ra nguy cơ tụt hậu nhanh chóng, biến một số nước thành
“ bãi thải công nghệ”.
Trước bối cảnh đó, để đứng vững và phát triển, chúng ta phải kế thừa và
vận dụng tốt tư tưởng và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh, xử lý khéo léo, nhạy
13


bộn trc mi tỡnh hỡnh, trc mi quan h, theo tinh thn d bt bin, ng vn
bin, kiờn nh v mc tiờu, linh hot, mm do v sỏch lc, gi vng nguyờn
tc c lp t ch nhng cng bit i thoi, nhõn nhng khi cn thit chốo lỏi
con thuyn cỏch mng Vit Nam vt qua nhng khỳc quanh him tr, a nc
ta c bn tr thnh nc cụng nghip vo cui nhng nm 20 ca th k mi.
III. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng t tởng Hồ Chí Minh về ngoi
giao trong giai đoạn hiện nay
1. Quá trình hình thành t duy đối ngoại đổi mới của Đảng Cộng sản
Việt Nam
Là sự tiếp tục của đờng lối đối nội đợc coi nh một mặt trận, hợp thành sức
mạnh của toàn dân, đối ngoại đợc Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan
tâm.
Đờng lối chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nớc nhằm khai thác tốt nhất
các nhân tố quốc tế phục vụ cho nhu cầu phát triển của đất nớc, đồng thời mở rộng
và phát huy ảnh hởng của dân tộc ta, đóng góp với cộng đồng quốc tế trong cuộc
đấu tranh chung vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ trong cuộc đấu tranh chung
vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ
rõ thực lực của đất nớc, là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng. Thực lực đất nớc
mạnh, tức là chiêng lớn thì tiếng vang và ảnh hởng của nó càng lớn trên trờng quốc
tế.

Từ nhận thức đúng đắn của quan hệ quốc tế trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta
đã từ thực tiễn dần hoàn thiện đờng lối đối ngoại đổi mới.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng - Đại hội mở đầu thời
kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trơng cần phải thực hiện sách lợc thêm bạn bớt thù, phá
thế bao vây cấm vận của Mỹ. Chủ trơng về đối ngoại là mở cửa và hội nhập quốc
tế, quan hệ với tất cả các nớc có chế độ chính trị xã hội khác nhau trên nguyên tắc
bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đây là bớc
đột phá trong t duy đối ngoại của Đảng và thực hiện di huấn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là làm sao cho đất nớc ta càng ít kẻ thù nhất và có nhiều bạn đồng minh hơn
hết.
Năm năm thực hiện mở cửa và hội nhập quốc tế đã đợc Đảng tổng kết tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII năm 1991. Đờng lối đối ngoại của Đảng đợc xác
định với chủ trơng đa dạng hoá, đa phơng hoá trong quan hệ quốc tế. Nếu trớc đổi
mới trong đờng lối ngoại giao với các nớc chúng ta chú trọng quan hệ chủ yếu với
các nớc phe xã hội chủ nghĩa, với các nớc thế giới thứ ba đoàn kết trong cuộc đấu
14


tranh giành độc lập dân tộc, thì hiện tại Đảng nhấn mạnh chủ trơng đa dạng hoá và
đa phơng hoá trong quan hệ quốc tế, trên cơ sở giữ vững nguyên tắc bình đẳng, cùng
có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Tại Đại hội này, Đảng ta
khẳng định nền tảng t tởng, kim chỉ nam cho hành động của toàn đảng, toàn quân,
toàn dân ta là chủ nghĩa Mác - Lênin và t tởng Hồ Chí Minh. Về chủ trơng đối ngoại,
đây là sự trở lại t tởng ngoại giao Hồ Chí Minh làm bạn với tất cả mọi nớc dân chủ
và không gây thù oán với một ai. T duy đối ngoại của Đảng đợc khẳng định Việt
Nam là bạn với tất cả các nớc trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình độc
lập dân tộc, phát triển. Trong giai đoạn mới, mục tiêu chung của các quốc gia là hoà
bình, độc lập và phát triển. Các nớc có chế độ chính trị khác nhau, có điểm xuất phát
từ kinh tế, chính trị, xã hội không giống nhau, thậm chí mục tiêu tiến lên khác nhau
vẫn có thể tìm thấy những tiếng nói chung trên nhiều vấn đề mà mỗi nớc quan tâm.

Quan hệ quốc tế rộng mở, đa phơng (bao gồm song phơng và đa phơng) và đa dạng
đợc Đảng khẳng định và theo chiều hớng cởi mở vì mục tiêu ổn định và phát triển.
Hội nhập là một nhu cầu cần phấn đấu để đáp ứng yêu cầu của đờng lối đối nội đổi
mới.
Trong bối cảnh quốc tế có sự thay đổi lớn về cục diện thế giới do sự sụp đổ
mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, sự tan rã Đảng Cộng sản Liên
Xô, những điều kiện giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa không còn nữa, Đại hội đại
biểu toàn quốc của Đảng đợc khẳng định với t duy chính trị mới. Vấn đề phát huy
sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, phát huy cao độ nội lực để tranh thủ hội nhập
quốc tế cho sự phát triển của đất nớc, nhiệm vụ đối ngoại đợc Đảng khẳng định là
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Văn kiện Đại hội lần
thứ VIII của Đảng khảng định: Củng cố môi trờng hoà bình và tạo điều kiện quốc
tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nớc, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội1. Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nớc trong tình hình mới, Đảng chỉ rõ phải tiếp tục thực hiện đờng lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, mở rộng, đa dạng hoá, đa phơng hoá các quan hệ đối ngoại. Trong
quan hệ với các nớc, ra sức tăng cờng quan hệ với các nớc láng giềng và các nớc
trong tổ chức ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ với các bạn bè truyền thống,
coi trọng quan hệ với các nớc đang phát triển và các trung tâm kinh tế chính trị trên
thế giới, với phong trào không liên kết, mở rộng các hoạt động trong các tổ chức,
các diễn đàn quốc tế. Phát triển quan hệ với các Đảng Cộng sản, đảng công nhân,
các lực lợng cách mạng, quan hệ với các đảng cầm quyền, mở rộng ngoại giao nhân
dân, các đoàn thể, các hội, các doanh nghiệp với các đối tác.

1

. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. NXB CTQG, HN, 1996, tr 120


15


Sự phát triển t duy đối ngoại của Đảng đợc khẳng định rõ hơn trong Đại hội
IX của Đảng. Lần đầu tiên, Đảng ta khẳng định: Phải chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế. Thực hiện nhất quán đờng lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phơng hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin
cậy của các nớc trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát
triển2. Nhiệm vụ đối ngoại trong những năm tiếp theo đợc khẳng định tiếp tục giữ
vững môi trờng hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển
kinh tế xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
bảo đảm độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới, vì hoà bình độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội3. Thực hiện nhất quán đờng lối đối ngoại, độc lập tự chủ, mở
rộng, chủ động đối ngoại kinh tế quốc tế và khu vực là t duy mới của Đảng trong
những năm đầu của thế kỷ XXI. Đảng đã chỉ thị cho Chính phủ, các bộ ngành, các
doanh nghiệp chủ động và nhanh chóng xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập
kinh tế quốc tế với lộ trình hợp lý và chơng trình hành động cụ thể, phát huy tính
chủ động của các cấp, các ngành và các doanh nghiệp, đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lí kinh tế - xã hội, hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế 4. Hớng u
tiên cho hoạt động đối ngoại đợc khẳng định, coi trọng và phát triển quan hệ hợp
tác hữu nghị với các nớc xã hội chủ nghĩa và các nớc láng giềng. Nâng cao hiệu
quả và chất lợng hợp tác với các nớc ASEAN, cùng xây dựng Đông Nam á thành
một khu vực hoà bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển. Thúc đẩy quan hệ đa dạng
với các nớc phát triển và các tổ chức quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề toàn
cầu, đấu tranh loại bỏ vũ khí giết ngời hàng loạt, bảo vệ hoà bình, chống chạy đua
vũ trang, góp phần xây dựng trật tự chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ, công bằng.
Đến Đại hội X, vấn đề quan hệ đối ngoại đã trở thành một nội dung quan
trọng của Đại hội. Với chủ trơng tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, Đại hội đã có sự phân tích, đánh giá về tình hình

thế giới và những tác động của nó đối với nớc ta. Đại hội nhận định rằng: hiện nay
trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Mặc dù tình hình
quốc tế có nhiều phức tạp và chứa đựng những yếu tố bất ổn, khó lờng, tuy nhiên
các thế lực thù địch, đế quốc cũng gặp nhiều khó khăn phải điều chỉnh chiến lợc
trên quy mô toàn cầu. Do đó diễn ra tình trạng các nớc lớn vừa cạnh tranh nhau
mạnh mẽ, vừa phải hợp tác với nhau để bảo vệ lợi ích của họ cùng tồn tại.
Đại hội cũng khẳng định vấn đề toàn cầu hóa, trớc hết toàn cầu hóa kinh tế là
xu thế tạo ra cơ hội phát triển cho các quốc gia dân tộc. Cùng với sự phát triển khoa
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB CTQG, HN, 2001, tr 119
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB CTQG, HN, 2001, tr 119 - 120
4 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB CTQG, HN, 2001, tr 120
2
3

16


học công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, nền kinh tế tri thức chiếm u thế và dần
thay thế nền kinh tế khoa học kỹ thuật của thế kỷ XX. Do đó những thay đổi diễn ra
trên toàn cầu với tốc độ nhanh hơn rất nhiều, nếu không chớp lấy thời cơ sẽ có nguy
cơ bị tụt hậu hoặc trở thành bị phụ thuộc vào các nền kinh tế lớn, do đó tiềm tàng
nguy cơ chệch hớng XHCN.
Một trong những mặt trái của toàn cầu hóa chính là sự phân cực giàu nghèo
ngày càng sâu sắc, cùng với các vấn đề bùng nổ dân số ở các nớc nghèo, vấn đề ô
nhiễm môi trờng, cạn kiệt tài nguyên, dịch bệnh ...có chiều hớng gia tăng, đòi hỏi
các quốc gia phải hợp tác giải quyết, nhng sự hợp tác không dễ thống nhất, cho nên
mâu thuẫn vẫn luôn luôn tiềm ẩn và mức độ gay gắt theo hớng ngày càng tăng, có
thể bùng nổ các cuộc tranh chấp bất cứ lúc nào.
Mặt khác, hiện nay trên thế giới mâu thuẫn thời đại vẫn rất gay gắt, biểu
hiện bằng các cuộc chiến tranh khu vực, xung đột tôn giáo, sắc tộc. Chủ nghĩa đế

quốc đứng đầu là Mỹ lợi dụng chiêu bài chống khủng bố để tiến hành các cuộc
chiến tranh xâm lợc, do đó chúng ta phải hết sức cảnh giác, đề phòng những âm mu
chống đối của các lực lợng thù địch, chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ dới
các chiêu bài dân chủ, nhân quyền.
Đại hội một lần nữa khẳng định tiếp tục vận dụng những quan điểm cơ bản
trong t tởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại theo chủ
trơng: Thực hiện nhất quán đờng lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và
phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phơng hóa, đa dạng hóa các quan hệ
quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác
quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nớc trong
cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.5
Theo chủ trơng đó, Đại hội đề ra ba phơng châm đối ngoại rất quan trọng:
Một là:
- Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, coi đó là lợi ích cao nhất, đồng thời thực hiện
nghĩa vụ quốc tế theo khả năng thực tế của ta.
- Giữ vững độc lập tự chủ, tự cờng đi đôi với đẩy mạnh đa phơng hóa, đa
dạng hóa quan hệ quốc tế.
- Trong quan hệ quốc tế luôn tồn tại quy luật hợp tác và đấu tranh, do đó cố
gắng khai thác những mặt có thể hợp tác đợc, tránh đối đầu, tự đẩy mình vào thế cô
lập.
- Mở rộng quan hệ hợp tác khu vực và thế giới, nhng chú trọng mối quan hệ
với các nớc lớn, chủ động tham gia các tổ chức đa phơng khu vực và toàn cầu.(trên
cơ sở cộng đồng lợi ích, giàng buộc lẫn nhau).
5

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đạihội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB. CTQG. H. 2006, tr. 112.

17



- Coi trọng các hoạt động đối ngoại, ngoại giao bằng nhiều hình thức.
- Kiên định nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và CNXH, đồng thời phải
năng động, sáng tạo, linh hoạt về sách lợc.
Hai là: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc
tế trên các lĩnh vực khác.
Ba là: Kiên trì chủ trơng Việt Nam sẵng sàng là bạn, là đối tác tin cậy của
các nớc trong cộng đồng quốc tế.
Có thể nói, t tởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế là cơ sở lý luận và cũng
là cơ sở thực tiễn để Đảng ta xây dựng đờng lối đối ngoại từ trớc đây cũng nh hiện
nay. Trong mỗi kỳ Đại hội, Đảng đều nghiên cứu, vận dụng những nguyên tắc,
quan điểm của Ngời về quan hệ quốc tế để xây dựng đờng lối đối ngoại cho phù
hợp. Tuy Ngời đã đi xa gần nửa thế kỷ, nhng những quan điểm của Ngời về quan hệ
quốc tế vẫn mang tính thời sự sâu sắc. Điều đó nhắc nhở chúng ta phải tiếp tục
nghiên cứu, vận dụng t tởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế toàn diện hơn, hiệu
quả hơn.
Thực tiễn triển khai đờng lối đối ngoại đổi mới trong 15 năm cuối của thế
kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI Đảng đã ngày càng hoàn chỉnh đờng lối
đối ngoại mở rộng, xác lập vị thế của đất nớc trên trờng quốc tế, góp phần quan
trọng trong sự nghiệp đổi mới giành đợc thắng lợi.
2. Vận dụng t tởng Hồ Chí Minh về ngoi giao trong giai đoạn hiện nay
Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội IX có nêu lên một bài học sâu sắc: Đổi
mới phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Công cuộc
đổi mới của nhân dân ta diễn ra vào lúc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế
giới phát triển, xu thế toàn cầu hoá ảnh hởng đến nhịp độ phát triển và cuộc sống
các dân tộc, cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội, vì một trật tự chính trị, kinh tế thế giới thật sự dân chủ, công
bằng, hợp lý đang dâng cao. Tiến hành đổi mới chúng ta phải ra sức tranh thủ tối đa
mọi cơ hội tốt do những xu thế nói trên tạo ra, phát huy nội lực và nâng cao hiệu
quả hợp tác quốc tế.

Để làm đợc điều đó, chúng ta cần quán triệt và vận dụng tốt những quan
điểm có ý nghĩa phơng pháp luận của Hồ Chí Minh trong việc kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại.
2.1 Đảng Cộng sản Việt Nam phải kết hợp đợc sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, coi đó nh là
một quy luật thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới đầy biến động, trật tự cũ
đã thay đổi, trật tự mới cha hình thành. Tình hình thế giới đang diễn biến phức tạp,
chứa đựng nhiều yếu tố bất trắc và thay đổi khôn lờng. Khu vực châu á - Thái Bình
Dơng và tiểu vùng Đông Nam á - là nơi có sự đan xen về lợi ích và mâu thuẫn giữa
18


các cờng quốc trong khu vực và thế giới, đặc biệt là về chủ quyền lãnh thổ và an
ninh biển Đông.
Việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là vô cùng quan trọng
và việc vận dụng t tởng Hồ Chí Minh về vấn đề này có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Thế
và lực của đất nớc không ngừng đợc củng cố tạo tiền đề thuận lợi để tranh thủ đợc
sức mạnh của thời đại và kết hợp sức mạnh thời đại với sức mạnh dân tộc. Sức
mạnh của thời đại bao hàm những nội dung mới nh đã trình bày ở trên. Chính vì
thế, việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trong giai đoạn mới
diễn ra đa dạng và đa tầng với phơng thức mới.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:
Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Công cuộc đổi mới
diễn ra vào lúc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới phát triển nh vũ
bão, toàn cầu hoá kinh tế ảnh hởng đến cuộc sống các dân tộc, cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội diễn ra sôi
nổi. Tiến hành đổi mới, nhân dân ta ra sức tranh thủ tối đa cơ hội tốt do những xu
thế nói trên tạo ra.
Chủ động hội nhập quốc tế và tham gia vào quá trình toàn cầu hoá cũng là để

tận dụng sức mạnh của thời đại. Việc thực hiện đa dạng hoá và đa phơng hoá quan
hệ quốc tế mở ra khả năng tập hợp lực lợng rộng rãi phù hợp với mục tiêu cách
mạng trong giai đoạn mới.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại còn đồng thời phát huy
triệt để những thế mạnh của chính mình để tận dụng mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu
cực của các quan hệ quốc tế. Thế mạnh của đất nớc ta là những mục tiêu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc do Đảng ta đề ra phù hợp với xu thế phát triển
tiến bộ của thời đại. Dựa vào cái chung để phát huy cái riêng nhằm tăng thế và lực
của đất nớc, dùng thế và lực ấy bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Tham gia vào những
hình thức tập hợp lựng lợng quốc tế có lợi là vừa góp phần bảo đảm an ninh quốc
gia, vừa tranh thủ cao độ mọi nguồn lực từ bên ngoài để kết hợp và bổ sung cho nội
lực, phục vụ cho phát triển và bảo vệ đất nớc. Trong quá trình ấy cần nêu cao chính
nghĩa, tính phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, gắn kết sự nghiệp của đất nớc
với những mục tiêu tiến bộ của nhân loại, chủ nghĩa yêu nớc chân chính với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng.
Để tận dụng đợc sức mạnh thời đại nhằm bổ sung, hỗ trợ cho các tiềm năng
phát triển ở trong nớc, cần tranh thủ mọi hình thức tập hợp lực lợng và khai thác
tính tuỳ thuộc lẫn nhau và sự ràng buộc lẫn nhau về lợi ích để thêm bạn bớt thù,
hạn chế sự chống phá và làm thất bại mọi âm mu của các thế lực bên ngoài gây mất
ổn định và làm suy yếu nớc ta.

19


Để xác lập đợc một đờng lối và chính sách đối ngoại khôn ngoan, mềm dẻo,
có khả năng thích ứng với những diễn biến phức tạp của tình hình, chúng ta phải
noi gơng Hồ Chí Minh: Phải nhận thức đợc thời đại mình đang sống một cách thật
sâu rộng, chỉ có nh vậy mới nắm bắt chính xác đặc điểm và xu thế phát triển của
thời đại, dự đoán đợc tơng lai. Nói cách khác, công tác đối ngoại phải làm tốt chức
năng thông tin, nghiên cứu và dự báo tình hình khu vực và thế giới để kịp thời làm

tham mu cho Đảng ta về những chủ trơng, chính sách mới khi tình hình thay đổi
2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam phải luôn nêu cao nguyên tắc độc lập tự
chủ, tự lực tự cờng, chủ trơng tận lực phát huy sức mạnh nội lực và tận dụng đợc sự hợp tác, giúp đỡ của các tổ chức, các lực lợng bên ngoài, nhằm thực hiện
thắng lợi mục tiêu cách mạng mỗi thời kỳ
Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay,
chúng ta phải mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tranh thủ vốn, công nghệ cao,
từng bớc gia nhập thị trờng quốc tế. Nhng phải trên cơ sở độc lập tự chủ, phát huy
đầy đủ các yếu tố nội lực, bao gồm nguồn lực con ngời, đất đai, tài nguyên, trí tuệ,
truyền thống (lịch sử và văn hoá). Nếu không phát huy đầy đủ nội lực thì cũng
không thể đi lên một cách vững chắc, không giữ đợc độc lập tự chủ và cũng không
thể hội nhập quốc tế một cách bình đẳng.
Theo số liệu của Hội nghị Trung ơng lần thứ IV (khoá VIII) tháng 12 năm
1997, Hiện nay vốn nớc ngoài đã chiếm tới 49% tổng vốn đầu t xã hội của nớc ta,
trong khi ở các nớc đang phát triển trên thế giới cũng ít có nớc nào vợt quá 20%
trong thời gian dài. Nguồn vốn trong nớc thấp đã trở thành nhân tố quan trọng hạn
chế tiếp nhận vốn bên ngoài, hơn nữa tỷ lệ vốn nớc ngoài trong tổng vốn đầu t và tỷ
lệ nợ nớc ngoài trong GDP quá cao, chứng tỏ mức độ độc lập tự chủ của nền kinh tế
thấp, tính phụ thuộc vào bên ngoài nặng, đây là điều chúng ta cần hết sức chú ý,
không thể xem thờng(1)
2.3. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục đờng lối ngoại giao rộng mơ, đa phơng hoá, đa dạng hoá, hợp tác nhiều mặt với tất cả các nớc, các tổ chức quốc tế
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau,
không can thiệp vào công việc của nhau, bình đẳng có lợi, giải quyết các vấn đề
tranh chấp đang tồn tại bằng phơng pháp hoà bình thơng lợng
Hiện nay cục diện thế giới và khu vực đang biến động nhanh chóng, đang
tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định:
Việt nam với vị trí địa - chính trị, với tài nguyên và dân số, với tiềm năng về
nhiều mặt, đang chiếm vị trí nhất định trong nhìn nhận chiến lợc của các nớc lớn
và sự tập hợp lực lợng trong khu vực. Điều đó tạo khả năng và tiền đề để Việt Nam
tham gia giải quyết các vấn đề khu vực và thế giới; mặt khác cũng tạo nguy cơ Việt


20


Nam có thể trở thành địa bàn tranh chấp, xung đột lợi ích giữa các nớc lớn và giữa
các tập hợp lực lợng với nhau.
Việt Nam tiến hành đổi mới mở cửa, hội nhập với thế giới vào lúc chủ nghĩa
xã hội đang lâm vào thoái trào, hệ thống giá trị xã hội chủ nghĩa tạm thời suy yếu,
hệ thống giá trị t bản chủ nghĩa có điều kiện lan tràn. Lợi dụng tình hình đó, các
lực lợng đế quốc đang đẩy mạnh diễn biến hoà bình dới nhiều hình thức, nhằm
làm suy yếu, tiến tới lật đổ chế đỗh chủ nghĩa ở Việt Nam.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển nh vũ bão, thúc đẩy
xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế gắn liền với cạnh tranh gay gắt, mở ra thời cơ
cho các nớc có thể phát triển nhanh, thực hiện con đờng phát triển rút ngắn; đồng
thời cũng tạo ra nguy cơ tụt hậu nhanh chóng, biến một số nớc thành bãi thải công
nghệ.
Trớc bối cảnh đó, để đứng vững và phát triển, chúng ta phải kế thừa và vận
dụng tốt t tởng và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh, xử lý khéo léo, nhạy bén trớc mỗi tình hình, trớc mỗi quan hệ, theo tinh thần dĩ bất biến, ứng vạn biến, kiên
định về mục tiêu, linh hoạt, mềm dẻo về sách lợc, giữ vững nguyên tắc độc lập tự
chủ nhng cũng biết đối thoại, nhân nhợng khi cần thiết để chèo lái con thuyền cách
mạng Việt Nam vợt qua những khúc quanh hiểm trở, đa nớc ta cơ bản trở thành
một nớc công nghiệp vào cuối những năm 20 của thế kỷ XXI.
III. Nhng thnh tu ngoi giao ni bt trong 20 nm i mi
Di s ch o sỏt sao ca B Chớnh tr, ban bớ th, Chớnh ph, ngnh
ngoi giao ó phỏt huy mnh m tinh thn ch ng sỏng to, tớch cc tham mu
xõy dng v thc hin thng li cỏc ch trng, ng li i ngoi ca ng ta,
vn dng sỏng to t tng v phong cỏch, ngh thut ngoi giao H Chớ Minh
nh thờm bn bt thự, d bt bin ng vn bin gúp phn xng ỏng vo nhng
thnh tu to ln ca t nc ta trong 20 nm qua, to dng th v lc mi ca t
nc tip tc tin bc vo th k XXI.
Mt l, sau khi phỏ th bao võy, cm vn, chỳng ta ó n lc, ch ng m

rng quõn h i ngoi theo hng a dng húa, a phng húa, to mụi trng
thun li v tranh th s hp tỏc, giỳp quc t phc v s nghip xõy dng v
bo v t quc, to ra th v lc mi cho t nc ta.
Trờn c s xỏc nh nhim v i ngoi trng tõm giai on u ca thi
k i mi l phỏ th bao võy, cm vn, ngoi giao ó tớch cc thỳc y vic tỡm

21


kiếm một giải pháp chính trị hợp lý cho vấn đề Campuchia, coi đây là khâu đột phá
trong triển khai đường lối đối ngoại đổi mới.
Trong 20 năm đổi mới, ta đã thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với 57 nước,
nâng tổng số quốc gia có quan hệ chính thức với ta lên 169 nước, quan hệ thương
mại với 224/255 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ và đầu tư với 64 quốc
gia cà vùng lãnh thổ, bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ, ký Hiệp định khung
hợp tác với liên minh châu âu ( EU) và chính thức gia nhập Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN); ta vừa là thành viên tích cực của nhiểu tổ chức khu vực
và quốc tế, như Liên hiệp quốc, Phong trào Không liên kết, ASEAN, Diên đàn hợp
tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương ( APEC), Diễn đàn hợp tác Á – Âu
( ASEM), Cộng đồng Đông Á, Công jđồng các nước sử dụng tiếng Pháp…nhờ vậy
mà sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo thế và lực mới cho
đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Hai là, quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giêng, khu vực ngày
càng được củng cố, đi vào chiều sâu, tạo dựng mối trường khu vực hết sức thuận
lợi cho phát triển kinh tế của Việt Nam, đồng thời tạo ra thế và lực mới của ta
trong quan hệ với các đối tác khác. Quan hệ với các nước bạn bè truyền thống
được đổi mới và mở rộng.
Sau khi bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, chúng ta đã cùng bạn
xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác trên tất cả các lĩnh vực. Hai bên duy trì
việc trao đổi các đoàn cấp cao, trao đổi về những vấn đề lý luận, tăng cường giao

lưu nhân dân, đặc biệt là giao lưu giữa những thế hệ trẻ 2 nước nhằm tăng cường
sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Hai bên đã ký hiệp ước biên giới trên đất liền và
đã tiến hành cắm mốc 2008 và hoàn thành lại mốc năm 2012. Trung Quốc là bạn
hàng lơn nhất của ta, kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt 8,89 tỷ đô la Mỹ
trong năm 2005. Về đầu tư, Trung Quốc đứng thứ 14 trong số các nước và vùng
lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với tổng số vốn đầu tư cảu Trung Quốc vào nước ta
ngày càng tăng. Bên canh đó, các mối quan hệ về văn hóa, giáo dục, du lịch cũng
không ngừng được phát triển.

22


Mối quan hệ đặc biệt với Lào không ngừng được thúc đẩy và mở rộng; hợp
tác kinh tế, giáo dục, y tế, xây dựng cơ sỏ hạ tầng, khoa học kỹ thuật ngày càng
chặt chẽ, hiệu quả. Việt Nam đã giúp Lào đào tạo nhiều cán bộ, sinh viên. Sự tin
cậy và hiểu biết lân nhau giữa hai đảng,hai chính phủ và nhân dân hai nước tiếp tục
được củng cố. Hợp tác giữa các bộ, ngành và các địa phương hai nước từng bước
đi vào chiều sâu và chú trọng đến hiệu quả.
Với Campuchia, quan hệ được điều chỉnh và đổi mới theo hướng mở rộng,
nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, phối hợp giải quyết các vấn đề an ninh, biên
giới lãnh thổ, theo phương châm “ hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị
truyền thống, ổn định lâu dài”. Việt Nam và Campuchia đã ký nhiều hiệp ước làm
tăng tình hữu nghị giữa hai quốc gia, đưa quan hệ hợp tác giữa hai nước có bước
phát triển mới.
Ba là, đi từ bình thường hóa quan hệ đến từng bước nâng cấp và xác lập
khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với tất cả các nước lớn, các nước công nghiệp
phát triển. Đây được coi là bước phát triển lớn, mang tính đột phá trong triển khai
hoạt động đối ngoại thời kỳ đổi mới.
Chúng ta đã phát triển quan hệ với Trung Quốc theo phương châm “láng
giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và “ láng

giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tôt, đối tác tôt” đáp ứng lợi ích lâu dài và cơ bản cảu
hai nước. Đặc biệt, các chuyến thăm Trung Quốc của các vị cấp cao Việt Nam và
của Trung Quốc sang thăm Việt Nam đã tăng cường sự tin cậy lẫn nhau, thúc đẩy
sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa hai nước là những mốc lớn về quan hệ hợp tác
giữa các nước.
Trên tinh thần “ gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”Việt Nam và Hoa Kỳ
đã ký hiệp định thương mại thắng 7/2000, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng,
đẩy nhanh quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực.
Bốn là, xác đinh nhiệm vụ “ phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế” là ưu
tiên hàng đầu trong hoạt động ngoại giao, ngnhf ngoại giao đã phối hợp các các
bộ ngành chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, tranh thủ được nhiều

23


nguồn FDI và ODA; mở rộng thị trường ngoài nước cho xuất khẩu hàng hóa và
lao động.
Xuất phát từ nhu cầu nội tại của nền kinh tế nước ta, xu thế quốc tế hóa và
toàn cầu hóa nề sản xuất thế giới, ta đã tích cực kết hợp ngoại giao chính trị với
ngoại giao kinh tế, chủ động hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới theo từng
bước tuần tự, vững chắc, từ cấp độ khu vực đến toàn cầu.
Năm là, hoạt động ngoại giao đa phương có bước trưởng thành vượt bậc,
hỗ trợ đắc lực cho ngoại giao song phương và các hình thức ngoại giao khác như
ngoại giao nghị viện, ngoại giao nhân dân tạo thành sức mạnh tổng hợp trên mặt
trận ngoại giao, nâng cao hơn nữa vai trò và uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế.
Chúng ta từng bước từ hoạt động ngoại giao song phương là chủ yếu sang
đẩy mạnh hoạt động ngoại giao đa phương, kết hợp chặt chẽ giữa ngoại giao song
phương và ngoại giao đa phương, góp phần nâng cao hơn nữa vai trò và uy tín cảu
Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực như: Liên hợp quốc, Phong trào

Không liên kết, ASEAN, ASEM, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp.
Sáu là, đạt được những kết quả quan trọng trong việc giải quyết hòa bình
các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan, góp phần giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định để tập trung phát triển kinh tế.
Việc giải quyết chue quyền biên giới đất liền, biển đảo luôn là những vấn
đề phức tập, nhạy cảm giữa các nước có chung đường biên giới. Vấn đề cực kỳ
quan trọng đặt ra đối với Việt Nam là làm sao vẫn giữ được độc lập, chủ quyền
quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, vừa phát triển được quan hệ hòa bình, hữu nghị và
hợp tác với các nước láng giềng..Với tinh thần đó, trong 20 năm đổi mới, phối hợp
với các bộ, ngành hữu quan, Ngoại giao đã có những bước đi chủ động, tích cực và
đạt được kết quả to lớn trong vấn đề biên giới lãnh thổ.

24


25


×