Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Thực trạng thị trường lao động việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.7 KB, 15 trang )

Mục lục

1


Lời mở đầu
Kinh tế càng phát triển, khoa học công nghệ càng hiện đại thì nhu cầu về lao động
ngày càng tăng lên. Nếu trước đây, nhu cầu nhân lực chất lượng cao còn ít thì ngày
nay, nhu cầu nguồn nhân lực có trình độ cao đang ngày càng tăng lên. Tuy nhiên có
một thực tế đáng buồn là nhân lực của nước ta đang trong tình trang vừa thừa lại
vừa thiếu. Ngồn lao động phổ thông chưa qua đào tạo của nước ta vô cùng dồi dào
tuy nhiên nhu cầu đối với nguồn nhân lực này lại không lớn, còn nhu cầu về nhân
lực trình độ cao rất lớn thì nước ta lại thiếu rất nhiều. Điều này đã gây nên rất
nhiều phiền toái cũng như sự thất thoát không hề nhỏ cho nền kinh tế quốc dân.
Chính vì lẽ đó, em đã làm bài tiểu luận với chủ đề: “Phân tích thị trường lao động
Việt Nam” với mục đích làm sáng tỏ một số vấn đề nổi cộm của thị trường lao
động ở Việt Nam hiện nay. Bài tiểu luận gồm có 3 phần:
-

Phần 1: Cơ sở lý luận
Phần 2: Thực trạng thị trường lao động Việt Nam hiện nay
Phần 3: Nguyên nhân và giải pháp
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng trong quá trình làm bài tiểu luận này cũng
không thể tránh khỏi những sai sót, rất mong được sự góp ý và chỉnh sửa của
thầy giáo đề bài tiểu luận được hoàn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn!

2


1.



Chương 1: Cơ sở lý luận
Khái niệm thị trường lao động
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm của cac nhà khoa học xung quanh vấn
đề khái niệm thị trường lao động:

-

Theo Adam Smith, thị trường lao động là không gian trao đổi dịch vụ lao
động (hàng hóa sức lao động) giữa một bên là người mua sức lao động (chủ
sử dụng lao động) và người bán sức lao động (người lao động).Với định
nghĩa về thị trường lao động này, chúng ta có thể thấy rằng, Adam Smith chú
trọng đến đối tượng trao đổi trên thị trường là dịch vụ lao động mà không hề
đề cập đến người lao động.

-

Theo Từ điển kinh tế MIT, thị trường lao động là nơi cung và cầu lao động tác
động qua lại với nhau. Từ định nghĩa này chúng ta thấy rằng, quan hệ cung-cầu
của thị trường được nhấn mạnh như ở bất kỳ một thị trường nào khác của nền
kinh tế.

-

Theo tài liệu tại văn kiện Đại hội IX của Đảng, thị trường lao động là: "Thị
trường mua bán các dịch vụ của người lao động, về thực chất là mua bán sức
lao động, trong một phạm vi nhất định. Ở nước ta, hàng hóa sức lao động
được sử dụng trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân, các doanh nghiệp tư
bản nhà nước, các doanh nghiệp tiểu chủ, và trong các hộ gia đình neo đơn
thuê mướn, người làm dịch vụ trong nhà. Trong các trường hợp đó có người

đi thuê, có người làm thuê, có giá cả sức lao động dưới hình thức tiền lương,
tiền công. Với cách định nghĩa này, thì thị trường lao động đã bị bó hẹp lại
trong một vài thành phần kinh tế mà thôi. Và điều này đã đẩy những quan hệ
lao động trong khu vực kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế tập thể và quan hệ
lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp đã bị đặt ra ngoài các quy luật
của thị trường. Điều này đã khiến những lao động trong các thành phần kinh

3


tế này bị đặt ngoài những quy luật của thị trường, điều đó đã tạo ra rất nhiều
khó khăn trong quá trình quản lý và sử dụng lao động.
Mặc dù còn rất nhiều tranh cãi về khái niệm thị trường lao động, xong trong
phạm vi bài tiểu luận này, chúng ta sẽ sử dụng khái niệm thị trường lao động sau:
“Thị trường lao động (hoặc thị trường sức lao động) là nơi thực hiện các quan hệ
xã hội giữa người bán sức lao động (người lao động làm thuê) và người mua sức
lao động (người sử dụng sức lao động), thông qua các hình thức thỏa thuận về giá
cả (tiền công, tiền lương) và các điều kiện làm việc khác, trên cơ sở một hợp đồng
lao động bằng văn bản, bằng miệng, hoặc thông qua các dạng hợp đồng hay thỏa
thuận khác.”
Với việc sử dụng định nghĩa về thị trường lao động này, việc phân tích và
làm rõ bản chất của thị trường sẽ trở nên dễ hiểu và trở nên dễ dàng cho người đọc.
2. Bản chất của thị trường lao động

Nhắc đến nền kinh tế thị trường, là việc nhắc đến nền kinh tế hàng hóa,
một thị trường với sự giao dịch của hàng hóa. Sức lao động cũng không
phải là ngoại lệ. Trong thị trường này, sức lao động cũng là một loại hàng
hóa, chính vì thế, nó cũng được mua-bán, cũng có giá cả , giá trị và giá trị
sử dụng như bất kỳ một loại hàng hóa khác. Tuy nhiên, hàng hóa sức lao
động lại là một loại hàng hóa đặc biệt, nó không đơn thuần như các hàng

hóa thông thường khác mà chúng ta hay sử dụng. Bởi lẽ, khi mua và bán
giá trị của hàng hóa được thanh toán, còn giá trị sử dụng được trưng tập,
mặt hàng đó được chuyển thành sở hữu của người mua. Tuy hiên đối với
hàng hóa sức lao động thì đối tượng mua và bán không phải là sức lao
động mà chính là lao động. Tuy nhiên, lao động là một quá trình và nó
4


không thể là đối tượng của mua và bán. Lao động được chuyển đến và
trung tập cho người mua, để từ đó chiếm hữu về mình những kết quả cụ
thể quá trình lao động tạo ra.
Giá trị của sức lao động, do sức lao động của người lao động tạo sẽ phải lớn hơn
giá trị sức lao động mà người lao động bỏ tiền ra mua, nếu không sẽ chẳng có một
ai quan tâm và mua nó. Theo C.Mac, giá trị sử dụng của sức lai động là ở chỗ nó
có khả năng tạo ra giá trị thặng dư và lợi nhuận từ nguồn vốn đầu tư của những nhà
tư bản. Tuy nhiên, không phải trong mọi xã hội, sức lao động đã trở thành hàng
hóa. Để hàng hóa trở thành sức lao động, cần có ba điều kiện tiên quyết sau đây:
- Người lao động bị mất công cụ để sản xuất và phương tiện tồn tại.
- Người lao động phải được tự do về mặt pháp lý, có khả năng hoàn toàn làm chủ
sức lao động của mình.
- Trên thị trường có người nắm giữ tư liệu sản xuất, đồng thời có khả năng mua sức
lao động.
Ba điều kiện này giúp chúng ta hiểu được rằng, vì sao mà trong nhiều xã hội trước,
sức lao động không thể trở thành hàng hóa bởi trong các xã hội đó, ba điều kiện
trên không được đáp ứng và nó đã làm cho sức lao động chưa thể trở thành một thứ
hàng hóa được mua bán trên thị trường.
Cùng với sự thay đổi căn bản của thị trường, các nhà làm luật đã phải sửa đổi
những đạoluật của mình cho phù hợp với sự thay đổi đó. Cùng với sự phát triển
của Luật Lao động, người lao động là người chủ sở hữu sức lao động đã nhận được
sự đảm bảo về mặt pháp lý nhiều hơn trong quá trình đàm phán với người thuê lao

động về điều kiện thuê mướn. Ký kết hợp đồng thuê mướn cho phép người làm
thuê được tiếp cận tư liệu sản xuất, sức lao động được hoạt động, có nghĩa là quá
5


trình lao động được bắt đầu. Thêm vào đó, người lao động hoàn toàn không mất
quyền sở hữu sức lao động của mình, bao gồm quyền nắm giữ, làm chủ và quyền
sử dụng.Theo các điều kiện của hợp đồng thì người lao động chỉ chuyển quyền sử
dụng sức lao động của mình trong thời gian mà quá trình lao động diễn ra.
Trong thế kỷ XVIII-XIX, người lao động làm thuê không được pháp luật bảo vệ
nên phải làm việc 12- 14 giờ trong một ngày, và quyền sở hữu sức lao động của
mình cũng chỉ là hình thức. Thực tế, người lao động phải làm việc hết sức mình
trong suất thời gian lao động, về cơ bản sức lao động của anh ta bị người chủ
chiếm đoạt. Người lao động chỉ được hưởng một phần rất nhỏ thành quả lao động
do mình làm ra (tương đương bằng tiền) để tái sản xuất sức lao động của mình.
Người lao động có nhiều thời gian rỗi để tái tạo khả năng lao động của mình.
Trong những điều kiện đó sở hữu sức lao động đã tìm được những đặc điểm thực
sự. Người lao động thực tế chỉ chuyển quyền sử dụng sức lao động của mình trong
một thời gian xác định. Nhưng cũng từ đó, người sử dụng lao động bắt đầu quan
tâm tới hiệu quả sử dụng sức lao động, hiệu lực của hợp đồng cá nhân và thoả ước
tập thể. Tiến bộ khoa học kỹ thuật, mở rộng những khát vọng mới, ảnh hưởng của
thời trang đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải thường xuyên hoàn thiện sản xuất, tạo
ra những mẫu mã sản phẩm mới, từ đó họ chú ý tới việc đưa ra những yêu sách
ngày càng tăng với sức lao động mà mình đã thuê mướn. Nhưng không phải tất cả
mọi người lao động đều có khả năng nắm bắt những kỹ thuật mới phức tạp để thoả
mãn những đòi hỏi của nền sản xuất hiện đại cũng như mong muốn ngày càng tăng
của giới chủ. Vì vậy, người thuê lao động có khuynh hướng sa thải một bộ phận
sức lao động không phù hợp, hợp đồng lao động với người làm thuê ngày càng
được làm đơn giản hơn, trong thời hạn ngắn hơn. Tất cả những điều đó dẫn đến sự
phân định ranh giới rõ ràng hơn về quyền sở hữu sức lao động giữa người lao động

và người sử dụng lao động trong quá trình lao động, mặc dù quyền này không
6


được ấn định trong văn bản của hợp đồng. Người lao động vẫn là người nắm giữ
sức lao động của mình, còn quyền làm chủ từng phần và sử dụng nó được chuyển
cho người thuê lao động trong quá trình lao động.
-

Chúng ta có thể nhận định được rằng những yếu tố cơ bản của thị trường lao
động là: cầu sức lao động; cung sức lao đọng; giá cả sức lao động (tiền
lương); cạnh tranh trên thị trường lao động và cơ sở hạ tầng của thị trường
lao động. Một câu hỏi đặt ra là tại sao đó lại là những yếu tố lại ảnh hưởng
đến thị trường lao động? Bởi lẽ sức lao động cũng là hàng hóa, chính vì thế
nó cũng chịu các quy luật kinh tế của thị trường như bất kì các loại hàng hóa
khác.
Vậy thì một câu hỏi khác đó chính là thị trường lao động có những chủ thể
nào và những chủ thể đó có đặc điểm gì?

-

Thị trường lao động bao gồm những chủ thể sau: những người thuê lao động
(người mua) và đại diện của họ; những người làm thuê (người bán) và đại
diện của họ; nhà nước và các đại diện của mình; các tổ chức môi giới trung

-

gian.
Trong các nền kinh tế thị trường mà một phần đáng kể các xí nghiệp và các
tổ chức là nhà nước (những xí nghiệp và các tổ chức này thuộc sở hữu nhà

nước), nhà nước trong trường hợp này tham gia như người thuê lao động.
Nhưng vấn đề quan trọng là nhà nước tham gia như một công cụ quan trọng
để điều tiết thị trường lao động, xác định luật chơi cho tất cả các chủ thể
tham trên thị trường này.
Tất cả những lao động làm thuê khi gặp bối cảnh thuận lợi đều sẵn sàng thay

đổi chỗ làm việc. Ngược lại, những người thuê lao động thì chỉ lựa chọn cho mình
7


những người làm thuê xuất sắc trong số những người đang làm việc, chứ không
phải những người thất nghiệp.
3. Những đặc trưng hoạt động của thị trường lao động
Cũng giống như các thị trường khác, thị trường hàng hóa sức lao động
cũng chịu tác động rất lớn cảu các quy luật kinh tế. Thông qua việc phân
tích quan hệ Cung – Cầu, chúng ta sẽ tìm hiểu được những đặc trưng cơ
bản của thị trường này. Tuy nhiên, hoạt động của thị trường lao động có
nhiều đặc biệt, khác với các thị trường khác bởi nó gắn với tính chât và
những đặc thù của quá trình tái sản xuất sức lao động.
Thị trường sức lao động có cá đặc trưng tiêu biểu sau đây:
- Không tách rời quyền sở hữu hàng hóa - sức lao động khỏi sở hữu chủ. Trên thị
trường lao động, người mua chỉ có quyền sử dụng và làm chủ từng phần khả năng
lao động - sức lao động, mà hoạt động trong một khoảng thời gian nhất định.
Nhưng người mua không đơn giản là mua sức lao động như những loại hàng hóa
khác, mà có quan hệ với người có những quyền hạn nhất đỉnh như một cá nhân tự
do, mà anh ta phải tuân thủ. Nếu vi phạm những quyền hạn đó người mua phải
chịu trách nhiệm pháp lý và có thể có những tổn thất về kinh tế. Người mua sức lao
động, chính xác hơn, được gọi là người thuê lao động (người sử dụng lao động);
- Có trách nhiệm phối hợp hành động tương đối dài với nhau giữa người bán
và người mua nếu so sánh với thị trường hàng hóa, lương thực và thực phẩm. Đó là

mối quan hệ tương hỗ hai bên và đóng một vai trò không ít quan trọng trong khả
năng cạnh tranh của công ty. Người lao động, như một cá thể, có thể tự kiểm soát
chất lượng công việc của mình với những nỗ lực khác nhau, thể hiện mức độ trung
thực khác nhau với công ty đã thuê họ. Người thuê phải tính đến những yếu tố đó
để quản lý sản xuất, nghĩa là phải xây dựng một cơ chế đãi ngộ, kích thích, tạo
8


động lực đối với người lao động một cách phù hợp như: điều kiện làm việc, tiền
lương, tiền thưởng và các phúc lợi xã hội khác.
- Chất lượng lao động ở từng người lao động có khác nhau theo giới tính,
tuổi tác, thể lực, trí tuệ, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công tác, động lực
làm việc v.v… Vì vậy, mức độ cá thể hóa cao khi ký kết giao kèo, gắn với trình độ
chuyên môn khác nhau của sức lao động, sự đa dạng của công nghệ và tổ chức lao
động, nên việc đánh giá chất lượng lao động khi tuyển dụng, trả công phù hợp cho
từng người gặp nhiều khó khăn và phức tạp;
- Nhiều điểm độc đáo trong trao đổi sức lao động so với trao đổi hàng hóa
vật chất. Quá trình trao đổi sức lao động so với trao đổi hàng hóa vật chất được bắt
đầu trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa - quyền sử dụng khả năng lao động được
chuyển sang người mua theo những gì đã được ấn định trong hợp đồng hay thoả
ước tập thể. Quá trình trao đổi được tiếp tục trong sản xuất dưới hình thức trao đổi
sức lao động đang hoạt động, lao động thực tế thành lương danh nghĩa và kết thúc
trong lĩnh vực lưu thông của cải vật chất, có nghĩa là trên thị trường hàng hóa và
dịch vụ được trao đổi lương danh nghĩa thành phương tiện sống. Việc trao đổi hàng
hóa vật chất được bắt đầu và kết thúc trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa vật chất.
Từ đặc điểm nói trên đưa đến 2 kết quả: thứ nhất, thị trường lao động liên kết xung
quanh mình các thị trường khác nhau; thứ hai, tiền công lao động thực tế được thực
hiện tương ứng với kết quả cuối cùng, có nghĩa là với giá sản phẩm mà lao động đó
làm ra. Điểm này đặt cầu sức lao động phụ thuộc vào cầu hàng hóa và dịch vụ cuối
cùng.

- Đối với người lao động, vấn đề quan trọng không chỉ là tiền công và tiền lương,
mà còn là nội dung và điều kiện lao động, bảo đảm duy trì chỗ làm việc, tương lai
9


công việc và triển vọng thăng tiến trong nghề nghiệp, bầu không khí làm việc trong
tập thể và quan hệ giữa người lao động với người thuê lao động .

10


Chương 2: Thực trạng thị trường lao động Việt Nam hiện nay
1.

Bối cảnh xã hội
Trong quá trình hội nhập , nền kinh tế Việt Nam đã có sự thay đổi rất lớn về
mọi mặt từ kinh tế, cơ sở hạ tầng…Những sự thay đổi đó không chỉ tác động
đến đời sống của người dân mà còn có tác động không nhỏ đền thị trường
lao động. Việc mở rộng giao lưu cộng đồng giwac các khu vực khác nhau đã
tạo điều kiện cho người lao động nắm bắt thông tin , tăng cơ hội học nghề,

2.
-

học các kỹ năng lựa chọn nghề nghiệp.
Thực trạng thị trường lao động Việt Nam hiện nay
Thị trường lao động Việt Nam mới được hình thành và hoạt động trong điều
kiện hệ thống thể chế, tức là dựa trên các văn bản, quy định của pháp luật và
bộ luật lao động, nhưng những hoạt động điều chỉnh trên thị trường lao động
còn yếu và kém hiệu quả, chưa bao trùm các cấp, hiện nay mới chỉ có Bộ

luật lao động, và một số văn bản pháp lý khác thể hiện vai trò điều tiết tích
cực của Nhà nước đối với thị trường lao động. Nền kinh tế và thị trường lao
động đang hình thành ở Việt Nam hiện nay chưa tương thích với cơ chế thị
trường: cung lao động đang lớn hơn cầu lao động. Hệ thống định hướng
nghề nghiệp và giới thiệu việc làm, tư vấn, trợ giúp không đáp ứng được nhu

-

cầu của thị trường lao động.
Trong những năm gần đây, đầu tư nước ngoài tăng nhanh kéo theo lực lượng
lớn lao động nước ngoài vào Việt Nam đã tạo nên sự cạnh tranh quyết liệt
trên thị trường lao động cao cấp. Tính chuyên nghiệp, trình độ ngoại ngữ và
tính trách nhiệm với công việc của lao động trong nước chưa được cao vì
vậy lực lượng lao động Việt Nam chưa phát huy được khả năng của mình.

11


Xét về trình độ chuyên môn, lực lượng lao động trên thị trường lao động nhìn
-

chung chưa có chuyên môn vững, chưa có tay nghề cao.
Dù trong những năm gần đây đã chứng kiến sự di chuyển lao động từ nông
thôn lên thành thị khiến tỷ lệ lực lượng lao động tại nông thôn giảm, song với
số lượng còn rất lớn đòi hỏi có hướng giải pháp để đẩy mạnh phát triển kinh
tế và tạo việc làm cho người lao động.Theo phân tích của các cuộc tổng điều
tra cho thấy sự chuyển đổi của cơ cấu thị trường lao động Việt Nam từ
những việc làm trong ngành nông nghiệp có năng suất lao động thấp, đòi hỏi
nhiều lao động chuyển sang các ngành công nghiệp và dịch vụ có giá trị tăng
cao hơn được đầu tư công nghệ và tài chính nhiều hơn. Sự tăng trưởng kinh

tế mạnh mẽ trong thời gian qua, và các chỉ số chính của thị trường lao động cho
thấy xu hướng chung của thị trường lao động và tỷ số việc làm trên dân số tạo
cơ hội việc làm bị thu hẹp lại, tuy nhiên thực tế là khi lực lượng lao động và số

-

người có việc làm ngày càng tăng.
Khi nhìn nhận dưới góc độ xã hội học thị trường lao động là một tổ hợp các
tương tác xã hội dựa trên các quan hệ xã hội. Quá trình trao đổi giữa người
lao động và người sử dụng lao động diễn ra liên tục. Người lao động sẽ sử
dụng sức lao động để đạt được thu nhập và song song là việc sử dụng lao

-

động của chủ sở hữu lao động dựa trên chế độ tiền lương.
Ngoài ra dưới góc độ xã hội thị trường lao động hoạt động dựa trên các quy
tắc chuẩn mực của xã hội. Chuẩn mực đó được cụ thể hóa bằng các hợp
đồng lao động hợp pháp, thông qua các thể chế các quan hệ xã hội được duy
trì ổn định. Chuẩn mực đó sẽ làm hạn chế các xung đột xã hội còn tồn tại
trong mối quan hệ giữa chủ sở hữu lao động và nhân viên.

12


Chương 3: Nguyên nhân và giải pháp
1. Nguyên nhân
-

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta mới chỉ diễn ra trên
diện rộng mà chưa hề đi vào chiều sâu, việc phát triển quá nhanh của công

nghệ đã khiến cho thị trường lao động có nhiều thay đổi và nó khiến một
nghịch lý được đặt ra là luật chưa theo kịp với sự phát triển của thị trường
lao động. Điều này tạo nên những nỗ hổng trong công tác quản lý của nhà
nước.

-

Cùng với việc đầu tư của nhà nước và các thành phân tư nhân, việc đầu tư
của nước ngoài tăng nhanh vào Việt Nam. Vì chưa có những quy định cụ thể
nên việc các doanh nghiệp nước ngoài đưa lao động nước ngoài vào nước ta
đã tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa những người lao động. Điều
đó làm cho người lao động của chúng ta không phát huy hết khả năng của
mình đồng thời gây tổn hại rất lớn cho nền kinh tế.

-

Chưa có những quy hoach cụ thể trong việc sử dụng lao động làm cho việc
lao động từ nông thôn ồ ạt kéo lên thành phố. Tuy nhiên, lực lượng lao động
này lại không có trình độ, điều đó không chỉ gây áp lực về mặt xã hội mà
còn tạo ra những hệ lụy không tốt cho nền kinh tế.
2. Giải pháp

Để cải thiện thực trạng thị trường lao động Việt Nam hiện nay, chúng ta
nên sử dụng đồng bộ các giải pháp sau:

13


-


Nghiên cứu thị trường và đưa ra những sửa đổi, những dự luật nhằm ổn định
thị trường lao động, điều này không chỉ có tác dụng trong việc kiểm soát thị
trường lao động trong hiện tại mà còn có tác động rất lớn trong tương lai.

-

Cùng với việc mở rộng đầu tư nước ngoài, chúng ta cũng nên siết chặt các
quy định về việc sử dụng lao động của các công ty.

-

Có định hướng phất triển lao động trong hiện tại và tương lai nhằm định
hướng lại sự phát triển của thị trường.

-

Cải thiện mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động, làm
sao để lợi ích của hai bên đều được đảm bảo, đồng thời dựa vào các chuẩn
mực xã hội, chúng ta có thể áp dụng nó trong quá trình ký kết hợp đồng lao
động.

14


Kết luận
Lao động là nhân tố quan trọng để thúc đấy sự phát tiển của nền kinh tế. Tuy
nhiên nếu trong quá trình hoạch định nhân lực, chúng ta không có cái nhìn
“lớn’, cái nhìn bao quát thì rất dễ dấn đến việc thị trường lao động gặp nhiều
bất ổn như hiện nay. Chính vì vậy, trong thời gian tới, Đảng và Nhà nước ta
nên tập trung xây dựng các chiến lược để ổn định thị trường lao động của

nước nhà. Hy vọng rằng, bài tiểu luận này đã giúp người đọc có thêm những
kiến thức về thị trường lao động Việt Nam hiện nay.

15



×