Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Thị truòng lao động Việt Nam định hướng và phát triển - N.doc.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.21 KB, 40 trang )

A. LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm vừa qua tình hình kinh tế xã hội nước ta đã có nhiều
thay đổi quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trên con đưòng phát triển: chỉ tiêu
tăng trưởng luôn được duy trì, trung bình năm khoảng 7%, các chỉ báo xoá
đói giảm nghèo, phát triển con người, bình đẳng giới tương đối khả quan
trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế với xuất phát điểm thấp, bối cảnh
thế giới và khu vực có nhiều biến động không thuận lợi. Những thành tựu đó
do đường lối đổi mới đã được Đảng và Nhà nước ta đề ra và thực hiện thông
qua các chính sách và biện pháp trên mọi lĩnh vực trong đó các chính sách
về tiền lương
Tiền lương là một trong những công cụ kinh tế cực kỳ quan trọng và
vô cùng nhạy cảm trong đời sống kinh tế - chính trị và xã hội của bất cứ một
quốc gia nào. Đồng thời, tiền lương cũng là một trong những vấn đề cực kỳ
phức tạp trên cả phương diện lý thuyết và thực tiễn. Chính vì vậy, sự cần
thiêt của việc nghiên cứu tiền lương nhất là về tiền lương tối thiểu phải luôn
luôn được xã hội quan tâm trao đổi thường xuyên và liên tục để có thể giúp
các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà chức trách có được một cái
nhìn đầy đủ, toàn diện, chính xác và sâu sắc hơn nữa về “đòn bẩy” kinh tế
đặc biệt quan trọng này.
Là một sinh viên của chuyên ngành kinh tế lao động, em đã được học
về một số vấn đề liên quan tới tiền lương, đăc biêt là đã nhận thấy được tầm
quan trọng và tính cấp thiết của tiền lương tối thiểu - vấn đề quan trọng bậc
nhất trong nền tài chính quốc gia trong giai đoạn hiện nay. Thông qua việc
thực hiện đề án em muốn tìm hiểu rõ hơn về một nội dung môn học của
mình. Tuy nhiên do kiến thức còn hạn chế nên đề án của em còn nhiều sai
sót, mong cô hướng dẫn và chỉ bảo để em hoàn thành đề án hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Phương Mai!

1
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận


1. Thị trường lao động, tiền lương và tiền lương tối thiểu
1.1 Hàng hoá sức lao động và giá cả sức lao động
Sức lao động là một trong các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất ,nó
bao gồm toàn bộ thể lực và trí lực, là năng lực lao động của con người. Theo
K.Mark để sức lao động là hàng hoá cần phải có hai điều kiện sau :
Một là, người phải có quyền sử dụng sức lao động, tức là phải là
người tự do sở hữu năng lực lao động của mình.
Hai là, người có sức lao động buộc phải cung cấp và bán chính ngay
sức lao động của mình chứ không phải bán những hàng hoá do lao động của
anh ta sản xuất ra
Trong nền kinh tế thị trường, mọi yếu tố đầu vào của sản xuất đều là
hàng hoá kể cả yếu tố sức lao động. Nó là một loại hàng hoá đặc biệt, là một
yếu tố chủ yếu của quá trình sản xuất, nhưng khác với các tư liệu sản xuất ở
chỗ nó đưa các yếu tố khác của sản xuất nào hoạt động và tạo ra một giá trị
mới, lớn hơn giá trị ban đầu. Hàng hoá sức lao động cũng giống như mọi
hàng hoá khác đều có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị sức lao động bao gồm
giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để bù đắp lại sức lao động đã hao phí
trong quá trình sản xuất, giá trị những chi phí để nuôi dưỡng con người
trước và sau tuổi có khả năng lao động, giá trị của những chi phí cần thiết
cho việc hoc hành. Những chi phí này không chỉ phụ thuộc vào nhu cầu tự
nhiên và sinh lý của con người mà còn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh
tế xã hội. Do vậy giá trị sức lao động không phải là yếu tố cố định, nó
thường xuyên thay đổi giữa các giai đoạn phát triển của lịch sử và có thể
khác nhau giữa các nước các vùng. Trong kinh tế thị trường giá cả sức lao
động có thể dao động quanh giá trị của nó tuỳ thuộc vào quan hệ cung cầu

2
sức lao động. Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện rõ trong
quá trình người chủ sử dụng sức lực của người làm thuê, nghĩa là trong việc
tiêu dùng sức lao động của người làm thuê


1.2 Thị trường lao động
Có khá nhiều định nghĩa về thị trường lao động, mặc dù còn có những
điểm khác biệt nhưng các định nghĩa hiện có đều thống nhất với nhau về mặt
nội dung cơ bản và được nêu ra như sau: Thị trường lao động là nơi thực
hiện các quan hệ xã hội giữa người bán sức lao động (người làm thuê) và
người mua sức lao động (người sử dụng lao động) thông qua các hình thức
thoả thuận về giá cả (tiền công, tiền lương) và các điều kiện làm việc khác
trên cơ sở một hợp đồng lao động bằng văn bản, bằng miệng hoặc thông qua
các dạng hợp đồng lao động hoặc thoả thuận khác
Thị trường lao động chỉ có thể được hình thành khi hội đủ các yếu tố
sau: 1) Có nền kinh tế hàng hoá phát triển theo cơ chế thị trường. 2) Có định
chế pháp luật cho phép tồn tại thị trường lao động. 3) Người lao động không
sở hữu tư liệu sản xuất đủ đảm bảo các nhu cầu cá nhân. 4) Có hệ thống thể
chế thị trường lao động thích hợp. Sự hình thành, phát triển và hoạt động của
thị trường lao động chịu sự tác động của hệ thống quy luật của nền kinh tế
thị trường như quy luật giá trị, giá cả, cạnh tranh, độc quyền ...Các quy luật
này tác động chi phối quan hệ cung cầu lao động
1.3 Cung lao động
Theo samuelson cung lao động biểu hiện số lượng lao động mà các hộ
gia đình sẵn lòng đem bán trên thị trường. Cung lao động là tập hợp những
người có khả năng và có nhu cầu làm việc. Lý thuyết cung lao động được
xác định trên cơ sở học thuyết tiêu dùng, việc tham gia vào hoạt động lao
động phụ thuộc vào mức lương thực tế họ dự kiến sẽ thu được và khả năng
thu nhập từ các nguồn khác mang lại. Điều này sẽ khiến quyết định lựa chọn

3
của con người tuỳ theo các mức tiền lương khác nhau trên thị trường cũng
như khả năng thoả dụng tối đa của các mức lương đó
Thông thường khi nói tới cung trên thị trường lao động thường phân

biệt rõ thành cung thực tế và cung tiềm năng. Cung thực tế về lao động gồm
tất cả những người đủ 15 tuổi đang làm việc và những người thất nghiệp.
Cung tiềm năng gồm tất cả những người đủ 15 tuổi trở lên đang lam việc,
những người thất nghiệp và những người đang đi học, đang làm công việc
nội trợ hoặc không có nhu cầu làm việc
Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới cung lao động: quy mô và tốc độ
tăng dân số, quy định về độ tuổi lao động, tình trạng bản thân người lao
động, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động….
1.4 Cầu lao động
Cầu lao động cho thấy sức lao động mà nhà sản xuất sẵn sàng thuê để
sản xuất hàng hoá dịch vụ với từng mức tiền lương nhất định. Trong nền
kinh tế thị trường cầu lao động là cầu dẫn xuất. Lao động là yếu tố đầu vào
cần thiết để sản xuất ra một khối lượng hàng hoá vật phẩm nhất định do vậy
quy mô của nó phụ thuộc vào mức cầu của hàng hoá do lao động sản xuất
cũng như là giá cả của hàng hoá đó trên thị trường
Cầu thực tế là nhu cầu thực tế về lao động cần được cung tại một thời
điểm nhất định thể hiện qua số lượng những chỗ làm việc trống và những
chỗ làm việc mới. Còn cầu tiềm năng là nhu cầu về lao động cho tổng số chỗ
làm việc có thể có được sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng tới khả
năng tạo việc làm trong tương lai như vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công
nghệ và cả những điều kiện khác như chính trị, xã hội …
Cầu về lao động gồm hai mặt: thứ nhất cầu về chất lượng lao động.
Thứ hai, cầu về số lượng lao động. Xét từ góc độ số lượng, trong điều kiện
năng suất lao động không biến đổi cầu về số lượng lao động xã hội tỷ lệ
thuận với quy mô và tốc độ sản xuất. Nếu quy mô sản xuất không đổi cầu về

4
số lượng lao động tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Còn xét từ góc độ
chất lượng, việc nâng cao năng suất lao động, mở rộng quy mô, tiền vốn, tri
thức… của doanh nghiệp ngày càng đòi hỏi nâng cao cầu về chất lượng sức

lao động
1.5 Thất nghiệp
Trong một thị trường cạnh tranh hoàn hảo do cung cầu điều chỉnh linh
hoạt theo mức tăng của tiền công thì thất nghiệp không xảy ra( tuy nhiên
mức tiền lương có thể thấp một cách tuỳ ý). Nhưng không phải lúc nào thị
trường lao động cũng vận hành suôn sẻ, sự mất cân bằng cung cầu lao động
sẽ dẫn tới hiện tượng thất nghiệp. Theo quan điểm của các nhà kinh tế, hiện
tại trong nền kinh tế thị trường thất nghiệp là hiện tượng không thể tránh
khỏi do vậy mối bận tâm của mọi chính phủ là làm sao tìm ra và duy trì một
tỷ lệ thất nghiệp hợp lý sao cho việc tăng việc làm không dẫn tới việc tăng
lạm phát và kết hợp đồng thời với mức độ tăng tiền lương thực tế cho người
lao động. Thất nghiệp - tiền lương - việc làm có mối quan hệ với nhau
thông qua chỉ số lạm phát. Theo nguyên lý của đường cong Phillips nếu thất
nghiệp thấp hơn giới hạn tự nhiên của nó( nhằm mục đích tăng việc làm) thì
lạm phát có xu hướng tăng lên, kết quả là giảm mức tiền lương thực tế của
người lao động
1.6 Mối quan hệ giữa giá cả sức lao động và cân bằng cung cầu lao
động
Kinh tế thị trường là một thể thống nhất của các thị trường: hàng hoá
tiêu dùng và dịch vụ, vật tư, vốn, tài chính, sức lao động, trong đó thị trường
sức lao động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong lịch sử phát triển, so với
các thị trường khác thì thị trường lao động được hình thành và phát triển
chậm hơn, có mối quan hệ và chịu ảnh hưởng của các thị trường nói trên.
Thị trường sức lao động là một loại thị trường gắn với các yếu tố đầu vào

5
của quá trình sản xuất – kinh doanh, là sự biểu hiện mối quan hệ tác động
giữa một bên là người sử dụng sức lao động và một bên là người có sức lao
động dựa trên nguyên tắc thoả thuận để xác định giá cả sức lao động. Và giá
cả sức lao động cũng như cũng như các loại hàng hoá khác có thể biến động

tăng giảm phụ thuộc vào quan hệ cung cầu sức lao động. Sự vận động của
cung cầu lao động sẽ chi phối số lượng người tham gia vào thị trường lao
động và mức tiền công. Nếu mức cung lao động phù hợp với mức cầu với
điều kiện mức cầu có khả năng thu hút tất cả những người có khả năng lao
động và mong muốn làm việc thì thị trường lao động vận hành tốt. Nếu cung
lớn hơn thì tiền lương sẽ giảm xuống, ngược lại nếu cung nhỏ hơn cầu, tiền
lương sẽ được nâng cao. Mặt khác giá trị sức lao động bằng giá trị các tư
liệu sinh hoạt cần thiết bù đắp lại sức lao động đã hao phí. Nếu giá cả các tư
liệu sinh hoạt thay đổi thì tiền lương danh nghĩa cũng phải thay đổi theo.
Như vậy tiền lương thường xuyên biến động nhưng nó phải xoay quanh giá
trị sức lao động. Tuy nhiên không có thị trường lao động hoàn hảo, trong đó
các yếu tố của nó hoạt động cân bằng tuyệt đối, không có tình trạng thất
nghiệp, không có bất bình đẳng về tiền công và thu nhập vì vậy Nhà nước
luôn nỗ lực tìm cách kiểm soát cung cầu lao động và tiền công sao cho giữ
chúng ở vị trí cân bằng nhưng sự cạnh tranh với mục đích tạo ra động lực lại
phá vỡ sự cân bằng. Các yếu tố thị trường lao động luôn thay đổi theo sự
phát triển kinh tế xã hội. Xã hội càng phát triển thì các yếu tố càng được
kiểm soát hiệu quả hơn và ngược lại các nước kém phát triển thì sự dao động
của các yếu tố này xung quanh vị trí cân bằng càng lớn tính tự phát của thị
trường càng lớn


6
2. Cơ sở lý luận và bản chất tiền lương trong nền kinh tế thị trường
có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước
2.1 Về cơ sở lý luận
Khi phân tích quá trình sản xuất của cải vật chất K.Mark đã nêu ra ba
yếu tố của lao động đó là: lao động của con người, đối tượng lao động và
công cụ lao động. Thiếu một trong ba yếu tố đó quá trình sản xuất sẽ không
diễn ra. Trong đó xét về mức độ quan trọng thì lao động của con người là

yếu tố đóng vai trò quyết định, nếu không có sự kết hợp và tác động của sức
lao động con người thì tư liệu sản xuất không thể phát huy được tác dụng. Vì
vậy việc không đánh giá đúng vai trò quyết định của con người trong lao
động sản xuất sẽ dẫn tới hậu quả tiêu cực và ngược lại. Muốn phát huy vai
trò và tính sáng tạo của người lao động chúng ta phải tìm hiểu động cơ hoạt
động cũng như nhu cầu và lợi ích kinh tế của họ để từ đó xây dựng chính
sách tiền lương đáp ứng tốt nhu cầu và lợi ích đó. Vì vậy vấn đề quan trọng
đối với các nhà kinh tế, quản lý cũng như các nhà sản xuất là phải quan tâm
tới các nhu cầu và phải biết làm cho con người thoả mãn hợp lý các nhu cầu
để thúc đẩy họ lao động. Trong nền kinh tế thị trường nhu cầu được thể hiện
tập trung ở lợi ích kinh tế - động lực trực tiếp thúc đẩy người lao động làm
việc và làm việc có năng suất, chất lượng, hiệu quả
2.2 Về bản chất
Trước đây quan niệm cũ cho rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa không
thể là nền kinh tế thị trường mà là nền kinh tế hoạt động trên cơ sở kế hoạch
hoá tập trung và do đó về bản chất tiền lương không phải là giá cả sức lao
động mà là một phần thu nhập quốc dân được Nhà nước phân phối một cách
có kế hoạch cho người lao động theo số lượng và chất lượng lao động. Như
vậy tiền lương chịu sự tác động của quy luật phát triển cân đối, có kế
hoạch và chịu sự chi phối trực tiếp của Nhà nước. Từ đó mỗi chính sách chế

7
độ và mức lương cụ thể đều do Nhà nước thống nhất ban hành để áp dụng
cho mỗi người lao động bất kỳ họ công tác ở khu vực hành chính sự nghiệp
hay các đơn vị sản xuất kinh doanh
Theo quan điểm mới tiền lương là số tiền mà người sử dụng lao động
trả cho người lao động để hoàn thành công việc theo chức năng, nhiệm vụ
quy định. Với khái niệm này bản chất tiền lương là giá cả sức lao động được
hình thành trên cơ sở giá trị sức lao động thông qua sự thoả thuận giữa
người có sức lao động và người sử dụng sức lao động, đồng thời chịu sự chi

phối của các quy luật kinh tế trong đó có quy luật cung cầu. Mặt khác lương
phải bao gồm đủ các yếu tố cấu thành để đảm bảo là nguồn thu nhập, là
nguồn sống chủ yếu của bản thân và gia đình người lao động và là điều kiện
để người hưởng lương hoà nhập vào thị trường xã hội. Khái niệm về tiền
lương nêu trên đã khắc phục được quan niệm cho rằng tiền lương là một
phần thu nhập quốc dân được Nhà nước phân phối một cách có kế hoạch cho
người lao động. Đồng thời khái niệm mới về tiền lương đã nghiêng về việc
thừa nhận sức lao động là hàng hoá đặc biệt và đòi hỏi phải trả lương cho
người lao động theo sự đóng góp và hiệu quả cụ thể.
Để phù hợp với khái niệm mới về bản chất tiền lương trong nền kinh tế
thị trường ở nước ta, có một yêu cầu mới là phải làm cho tiền lương thực
hiện đầy đủ các chức năng của nó: chức năng thước đo giá trị - là cơ sở để
điều chỉnh giá cả cho phù hợp mỗi khi giá cả biến động. Chức năng tái sản
xuất sức lao động nhằm duy trì năng lực làm việc lâu dài, có hiệu quả trên
cơ sở tiền lương bảo đảm bù đắp được sức lao động đã hao phí cho người
lao đông. Chức năng kích thích bảo đảm khi người lao động làm việc có
hiệu quả, có năng suất cao thì về mặt nguyên tắc tiền lương phải được nâng
lên và ngược lại. Chức năng tích luỹ đảm bảo tiền lương của người lao đông
không những duy trì cuộc sống hàng ngày trong thời gian làm việc mà còn
để dụ phòng cho cuộc sống lâu dài khi họ hết khả năng lao động hoặc gặp
bất trắc rủi ro

8
Thêm vào đó khi xây dựng các chế độ tiền lương và tổ chức trả lương
phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Trả lương ngang nhau cho các lao động ngang nhau
- Đảm bảo năng suất lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình quân
- Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người lao
động làm việc trong các ngành nghề khác nhau trong nền kinh tế quốc dân
Trên đây là một số vấn đề cơ bản thuộc cơ sở lý luận và bản chất kinh

tế của tiền lương. Ngoài bản chất kinh tế, tiền lương còn mang bản chất xã
hội vì nó gắn liền với người lao động và cuộc sống của họ. Sức lao động của
con người không giống với hàng hoá khác mà là tổng thể các mối quan hệ xã
hội. Vì vậy trong quá trình nghiên cứu xây dựng chính sách, chế độ tiền
lương lần này không những chỉ tính về mặt kinh tế mà còn đề cập và tính
toán đầy đủ cả về mặt xã hội của tiền lương

2.3 Tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế
Tiền lương danh nghĩa được hiểu là số tiền mà người sử dụng lao
động trả cho người lao động. Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc trực tiếp vào
năng suất lao động và hiệu quả làm việc của người lao động, phụ thuộc vào
trình độ, kinh nghiệm làm việc ... ngay trong quá trình lao động
Tiền lương thực tế được hiểu là số lượng các loại hàng hoá tiêu dùng
và các loại dịch vụ cần thiết mà người lao động hưởng lương có thể mua
được bằng tiền lương danh nghĩa của họ
Như vậy, tiền lương thực tế không chỉ phụ thuộc vào số tiền lương
danh nghĩa mà còn phụ thuộc vào giá cả của các loại hàng hoá tiêu dùng và
các loại dịch vụ cần thiết mà họ muốn mua. Mối quan hệ giữa tiền lương
thực tế và tiền lương danh nghĩa được thể hiện qua công thức sau đây:

9
Itltt = Itldn / Igc
Ta có thể thấy rõ nếu giá cả tăng lên thì tiền lương thực tế giảm đi.
Điều này có thể xảy ra ngay cả khi tiền lương danh nghĩa tăng lên( do có
những thay đổi, điều chỉnh trong chính sách tiền lương). Đây là một quan hệ
rất phức tạp do sự thay đổi của tiền lương danh nghĩa, của giá cả và phụ
thuộc những yếu tố khác nhau. Trong xã hội tiền lương thực tế là mục đích
trực tiếp của người lao động hưởng lương. Đó cũng là đối tượng quản lý trực
tiếp trong các chính sách về thu nhập, tiền lương và đời sống
3. Tiền lương tối thiểu

3.1 Phương pháp luận xác định tiền lương tối thiểu
Nhu cầu tối thiểu: được hiểu như là một sự đòi hỏi của người lao động
về điều kiện sinh hoạt tối thiểu về vật chất và tinh thần để tồn tại và làm
việc, được phân chia thành hai hệ thống là nhu cầu sinh học và nhu cầu xã
hội học. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội thì nhu cầu của con
người ngày càng tăng
Mức sống tối thiểu: là một mức độ thoả mãn những nhu cầu tối thiểu
của người lao động trong một thời kỳ nào đó được biểu hiện dưới hai dạng
hiện vật và giá trị. Mức sống tối thiểu bao gồm cơ cấu, chủng loại các tư liệu
sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động giản đơn. Về mặt giá trị,
được biểu hiện giá trị của các tư liệu sinh hoạt và công việc dịch vụ, nó liên
quan chặt chẽ với lương tối thiểu. Mức sống tối thiểu được đảm bảo thông
qua tiền lương tối thiểu và các phúc lợi công cộng
Tiền lương tối thiểu: Lương tối thiểu là mức tiền trả công (mức lương)
thấp nhất do luật định, có thể được trả theo giờ, ngày hoặc tháng cho lao
động giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường, nhằm đảm bảo
mức sống tối thiểu theo nhu cầu thiết u của người lao động và gia đình họ,
phù hợp với giá cả sinh hoạt, quan hệ cung - cầu lao động và điều kiện kinh
tế - văn hoá - xã hội của mỗi nước; được đảm bảo thực hiện bằng pháp luật,

10
không thể bị giảm bớt bởi thoả ước lao động tập thể hoặc thoả thuận cá
nhân. Các mức lương thấp nhất không được ấn định bằng luật thì không
được gọi là mức lương tối thiểu. Mức lương tối thiểu không bao gồm các
khoản tiền thưởng, phúc lợi xã hội, không phải là trợ cấp xã hội.
3.2 Chức năng của tiền lương tối thiểu:
Chức năng xã hội (chức năng cơ bản)
Mức lương tối thiểu là lưới an toàn đối với mọi người làm công ăn
lương, không một người sử dụng lao động nào được trả thấp hơn nhằm loại
trừ bóc lột quá đáng và ngăn cản sự đói nghèo của người lao động dưới mức

cho phép; đồng thời là một công cụ để phòng ngừa và giải quyết tranh chấp
lao động
Chức năng kinh tế
Loại bỏ cạnh tranh không công bằng, buộc chủ doanh nghiệp phải tìm
cách khác (ngoài tiền lương) để giảm chi phí sản xuất; đồng thời người lao
động được chia sẻ lợi ích từ sự phát triển, tạo động lực lao động của người
lao động.
3.3 Các phương pháp xác định mức lương tối thiểu
3.3.1 Xác định mức lương tối thiểu chung
Việc xác định mức lương tối thiểu chung trong nền kinh tế thị trường
là vấn đề rất phức tạp, phải bảo đảm tái sản xuất sức lao động cho người lao
động, phù hợp với khả năng chi trả tiền lương của người sử dụng lao động
nhằm thúc đẩy thị trường lao động phát triển. Trên cơ sở khuyến nghị của
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), ở nước ta từ năm 1993 đến nay, khi cải
cách tiền lương theo yêu cầu kinh tế thị trường đã sử dụng 4 phương pháp
tiếp cận để xác định mức lương tối thiểu chung như sau:
Phương pháp 1: Xác định từ mức sống tối thiểu theo nhu cầu thiết
yếu của người lao động có nuôi con (gọi tắt là từ nhu cầu tối thiểu)
Phương pháp này được xác định trên cơ sở hệ thống nhu cầu tối thiểu
(chi cho ăn uống và nhu cầu xã hội khác) của người lao động có nuôi con để

11
người lao động hoà nhập vào thị trường lao động. Kết quả của phương pháp
này phụ thuộc vào việc xác định rổ hàng hoá lương thực, thực phẩm, hệ số
nuôi con, tỷ lệ chi cho ăn uống (lương thực, thực phẩm) và chi nhu cầu xã
hội khác trong tổng chi tiêu của gia đình người lao động (về việc xác định
các yếu tố này còn có ý kiến khác nhau).
Phương pháp 2: Xác định từ điều tra mức chi trả tiền lương đối với
lao động giản đơn (chưa qua đào tạo nghề) trên thị trường lao động
Phương pháp này được xác định trên cơ sở: (1) thống kê các mức lương

thấp nhất Chính phủ quy định áp dụng cho các đối tượng hưởng lương khác
nhau; và (2) tính bình quân các mức lương thấp nhất thực trả trên thị trường
lao động. Kết quả của phương pháp này phụ thuộc vào mẫu và các tiêu chí
điều tra tiền lương thực trả thấp nhất trên thị trường lao động (hiện chưa có
mẫu điều tra chuẩn).
Phương pháp 3: Xác định từ khả năng của nền kinh tế
Phương pháp này được xác định trên cơ sở các số liệu công bố của
Tổng cục Thống kê về quỹ tiêu dùng cá nhân dân cư trong GDP, lao động
làm việc trong nền kinh tế, quy mô hộ gia đình, thời gian làm việc hưởng
lương, năng suất lao động xã hội và tương quan về thu nhập giữa các tầng
lớp dân cư. Kết quả của phương pháp này phụ thuộc vào việc xác định hệ số
nuôi con, tỷ trọng tiền lương trong tổng thu nhập, quan hệ giữa lương bình
quân so với lương thấp nhất... (về các hệ số điều chỉnh này còn có ý kiến
khác nhau).
Phương pháp 4: Xác định từ chỉ số tăng giá tiêu dùng
Kết quả của phương pháp này là tính đủ trượt giá tiêu dùng vào
lương tối thiểu hiện áp dụng để giữ tiền lương thực tế bằng thời kỳ trước
(chưa tính tăng trưởng GDP và mức tăng năng suất lao động xã hội). Trước
năm 2001, bù đủ trượt giá vào lương là mục tiêu của chính sách tiền lương ở
nước ta, nhưng từ năm 2001 mức lương tối thiểu chung đã được điều chỉnh
cao hơn mức tăng giá tiêu dùng do Tổng cục Thống kê công bố. Tuy nhiên,

12
đến nay mức lương tối thiểu chung (450.000 đồng/tháng), theo nhiều chuyên
gia đánh giá là vẫn chưa đáp ứng được mức sống tối thiểu của người lao
động, chưa thực hiện được các chức năng của tiền lương tối thiểu. Vì vậy,
phương pháp này chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi tiền lương tối thiểu đã đảm
bảo được mức sống tối thiểu theo nhu cầu thiết yếu của người lao động.
Căn cứ kết quả của 4 phương pháp tiếp cận xác định mức lương tối
thiểu chung nêu trên, từ năm 1993 đến nay khi trình Chính phủ ấn định mức

lương tối thiểu chung, chúng ta đều đưa ra một miền xác định lương tối
thiểu, với sự chênh lệch nhau nhiều lần giữa mức cao nhất so với mức thấp
nhất (thấp nhất bằng mức bù trượt giá; cao nhất là nhu cầu tối thiểu, theo
những tính toán thời gian gần đây đó là mức lương thấp nhất được áp dụng ở
doanh nghiệp nhà nước 1.050.000 đồng/tháng). Với cách làm này và trong
điều kiện ngân sách khó khăn thì đương nhiên quyết định chính sách là ấn
định mức lương tối thiểu thuộc miền xác định gần cận dưới. Đây là nhược
điểm cơ bản của việc xác định tiền lương tối thiểu ở nước ta từ năm 1993
đến nay; đồng thời do mức lương tối thiểu chung là “nền” của chế độ tiền
lương đã dẫn đến chính sách tiền lương rất lạc hậu so với thực tiễn, gây khó
khăn cho cải cách cơ bản chính sách tiền lương theo yêu cầu của nền kinh tế
thị trường.
3.3 .2 Xác định mức lương tối thiểu vùng
Mức lương tối thiểu vùng có thể được xác định theo 5 yếu tố: (1)
mức sống tối thiểu của người lao động trong vùng; (2) mức sống chung đạt
được trong vùng (vùng mức sống); (3) mặt bằng tiền lương trong vùng; (4)
giá cả tiêu dùng trong vùng; và (5) các yếu tố về vị trí, vai trò, mức độ hấp
dẫn của vùng.
3.3.3 Xác định mức lương tối thiểu ngành
Mức lương tối thiểu ngành có thể được xác định theo 3 yếu tố: (1)
chất lượng và điều kiện lao động theo yêu cầu của ngành; (2) quan hệ cung

13
cầu lao động của ngành; và (3) các yếu tố về vị trí, vai trò, mức độ hấp dẫn
của ngành.
I. Thực trạng
1.Cải cách tiền lương ở Việt Nam
Từ năm 1993 trở lại đây, Nhà nước quy định mức lương tối thiểu và
được điều chỉnh từng năm theo mức độ trượt giá để bù đắp tiền lương thực
tế và cải thiện đời sống theo mức độ tăng trưởng GDP. Cụ thể là:

+) Năm 1993 : 120.000đ/tháng
+) Năm 1997: 144.000đ/tháng
+) Năm 1999: 180.000đ/tháng
+) Năm 2001: 210.000đ/tháng
+) Năm 2003: 290.000đ/tháng
+) Từ 01/10/2005 đến 01/10/2006: 350.000đ/tháng
+) Từ 01/10/2006 đến nay: 450.000đ/tháng
Như vậy tính ra từ năm 1993 đến tháng 10/2006 đã có đến 7 lần điều
chỉnh mức lương tối thiểu. Tính bình quân, chưa đến 2 năm thì lại có một
lần điều chỉnh tiền lương tối thiểu.
Đặc biệt từ năm 2000 đến năm 2006, chỉ trong vòng 6 năm, Nhà nước
đã phải thực hiện 5 lần điều chỉnh tiền lương tối thiểu. Xét về mặt bản chất,
việc điều chỉnh lương tối thiểu trong thời gian qua có cả yếu tố tăng thu
nhập thực tế cho người lao động, và có cả yếu tố bù đắp phần thu nhập thực
tế bị mất đi do giá của nhiều mặt hàng thiết yếu tăng lên. Tất nhiên, đây là cả
một sự nỗ lực rất lớn của Đảng và Nhà nước trong việc chăm lo đời sống của
người lao động trong khu vực Nhà nước.
Tuy nhiên, nhìn vào diễn biến của chỉ số lạm phát tiền tệ trong những
năm gần đây thì chỉ số giá hàng tiêu dùng vẫn cao; do vậy, tác động làm

14
tăng thu nhập thực tế cho người lao động qua các lần điều chỉnh tiền lương
tối thiểu vẫn chưa đủ độ để “khoả lấp” phần tiền thu nhập thực tế bằng tiền
lương bị giảm sút do tốc độ tăng giá vẫn cao hơn tốc độ tăng của tiền lương.
Để khắc phục được nhược điểm này, có thể có nhiều giải pháp khác nhau.
Trong số các giải pháp đó thì hoặc là ổn định được giá cả; hoặc là tiền lương
tối thiểu cần được điều chỉnh kịp thời hơn mỗi khi giá cả hàng hoá - dịch vụ
tiêu dùng tăng lên. Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã kết hợp cả hai giải
pháp này. Tuy nhiên, việc kết hợp đó còn những hạn chế nhất định nên hiệu
quả của mỗi lần điều chỉnh lương tối thiểu là chưa cao; thậm chí còn có

những tác động ngược lại đối với phát triển kinh tế - xã hội. Đó là tình trạng,
việc điều chỉnh tiền lương đã được mọi người “biết trước” một cách quá
sớm, nên lương chưa được điều chỉnh thì giá cả đã tự động tăng lên. Vì vậy,
ý nghĩa kinh tế - xã hội của mỗi lần điều chỉnh tiền lương không được thể
hiện một cách rõ nét. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này được
bắt nguồn từ việc quan niệm quan hệ giữa giá cả trong nước với giá cả trên
thị trường thế giới qua một số mặt hàng chiến lược như xăng dầu, sắt thép,
phân bón chưa thật phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Đó là quan niệm về
sự thống nhất giữa các hệ thống giá cả nội địa ở từng quốc gia với giá cả trên
thị trường mang tính toàn cầu. Do quan niệm như vậy, nên mỗi lần giá cả
trên thị trường trong nước tăng lên là được giải thích ngay là, do giá dầu thô,
giá sắt thép, giá phân bón trên thị trường thế giới tăng lên, thì giá trên thị
trường trong nước cũng phải tăng theo. Những cách quan niệm còn khác
nhau trong giới hoạch định chính sách là một trong những nguyên nhân dẫn
đến tình trạng tiền lương tối thiểu đã được điều chỉnh một cách liên tục. Bên
cạnh đó là các quan niệm còn khá xa nhau về tiền lương tối thiểu. Lương tối
thiểu được sử dụng để làm cơ sở cho việc trả lương cho những người lao
động trong bộ máy Nhà nước có gì khác với mức lương tối thiểu của các
thành phần kinh tế không phải là Nhà nước. Tình trạng chưa rõ ràng về quan
niệm lương tối thiểu là một trong những nguyên nhân chủ yếu tạo ra sự

15
không công bằng về thu nhập trong xã hội. Đây cũng chính là nguyên nhân
dẫn đến tình trạng bỏ Nhà nước ra làm ngoài. Vấn đề đáng lưu tâm hơn là,
do chưa có sự rõ ràng trong quan niệm về lương tối thiểu, về thu nhập giữa
các thành phần kinh tế khác nhau nên đã và đang tồn tại tình trạng không ít
khu vực Nhà nước có mức lương rất cao; đặc biệt là ở một số ngành dịch vụ.
Rõ ràng là, với những ngành như vậy, Ngân sách Nhà nước đã và đang bị
mất đi một khoản thu khá lớn. Do vậy, ý nghĩa của việc xác định lương tối
thiểu là rất lớn.

1. Hệ thống tiền lương tối thiểu ở nước ta hiện nay
Bộ luật Lao động hiện hành đã quy định hệ thống tiền lương tối thiểu
ở nước ta có mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng và mức
lương tối thiểu ngành.
Mức lương tối thiểu chung là mức lương sàn thấp nhất (lưới an toàn)
bắt buộc áp dụng chung trong mọi quan hệ lao động. Ở nước ta hiện nay,
mức lương tối thiểu chung được dùng làm "nền" để tính các mức lương
trong các thang, bảng lương và phụ cấp của người hưởng lương và là căn cứ
để tính các chế độ bảo hiểm xã hội, trợ cấp thôi việc (trừ khu vực kinh tế có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có mức lương tối thiểu riêng).
Mức lương tối thiểu vùng (cao hơn mức lương tối thiểu chung) được
quy định để nhấn mạnh yếu tố đặc thù vùng mà khi xác định mức lương tối
thiểu chung chưa tính đến. Mức lương tối thiểu vùng có 3 chức năng cơ bản:
(1) bảo đảm sức mua ngang nhau của mức lương tối thiểu tại các vùng khác
nhau; (2) điều tiết cung cầu lao động; và (3) khuyến khích phân bố đầu tư
hợp lý giữa các vùng. ở nước ta hiện nay, khu vực kinh tế FDI đã được áp
dụng các mức lương tối thiểu vùng (còn khu vực trong nước chưa áp dụng).

16

×