Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Luật thơ (10 tiết)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.22 KB, 15 trang )

TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 2
PHÊ CHUẨN KHOA: KHOA HỌC CƠ BẢN
Ngày…tháng…năm 2005
P. TRƯỞNG KHOA
Thiếu tá, Th/s Phan Thò Yến
BÀI GIẢNG
BÀI 6: THI LUẬT
Giảng viên:……………………………………………………………………
Tháng - 2006
1
PHÊ CHUẨN GIÁO ÁN
Ngày…tháng…năm 2004
TRƯỞNG BỘ MÔN
Bài 6: Thi luật
Đối tượng: Học viên dự bò – Khối A
Giảng viên:………………………………………...
Thời gian giảng bài:10 tiết
1. Mục đích
-Giúp h/v hiểu được tính nhạc trong văn tiếng Việt, vai trò của “tiếng”
trong thơ ca và các thể loại thơ của dân tộc ( thơ lục bát, hát nói, thơ thất ngôn,
thơ mới).
-Rèn luyện kó năng lónh hội, phân tích, lí giải tính nhạc trong văn, cách
ngắt nhòp và cách gieo vần trong thơ.
-Bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào về ngôn ngữ tiếng Việt với giá trò văn
hóa tinh thần cao q của nó đối với đời sống xã hội Việt Nam.
2.Yêu cầu
- H/v phải nắm được khái niệm tính nhạc, phương pháp phân tích tính
nhạc, vai trò của tiếng trong thơ ca và các thể loại thơ của dân tộc.
- Biết vận dụng những hiểu biết của mình về “Thi luật” vào bài tập thực hành.
3. Nội dung
- Tính nhạc trong văn tiếng Việt, vai trò của tiếng trong thơ ca.


- Thơ lục bát, hát nói, thơ thất ngôn, thơ mới.
4. Tổ chức
Biên chế theo lớp học.
2
5. Nội dung, thời gian, phương pháp
TT Nội dung Thời gian Phương pháp V.C
1 Phần mở đầu
- Nhận lớp, kiểm tra bài

-Quán triệt HL
25 phút Thuyết trình, nêu
vấn đề, nhận xét,
đánh giá
2 Phần nội dung:
-Tính nhạc trong văn tiếng
Việt, vai trò của “tiếng”
trong thơ ca
-Thơ lục bát, hát nói, thơ
thất ngôn, thơ mới
-Thực hành
350 phút
70 phút
70 phút
210 phút
-Thuyết trình, đàm
thoại, nêu vd minh
hoạ, hệ thống hoá
kiến thức
Thuyết trình, đàm
thoại, nêu vd minh

hoạ, hệ thống hoá
kiến thức
-Ra bài tập, gợí ý,
hướng dẫn học viên
thực hành.
3 Kết luận
-Kết luận bài
-Hướng dẫn nghiên cứu
25 phút -Khái quát nội
dung bài học.
-Ra câu hỏi và bài
tập về nhà.
6.Đòa điểm: Giảng đường
7.Tài liệu
Sách Tiếng Việt – Lớp 11 – NxbGD – 2000
8.Vật chất bảo đảm
Bảo đảm đủ phò ng học, tài liệu dạy và học cho giáo viên và học
viên
9.Những mốc thời gian chuẩn bò của giáo viên
9.1Chuẩn bò: Đọc sách, nghiên cứu và soạn bài trước 1 tháng
9.2Thông qua bài cấp Tổ1 tuần trước khi lên lớp.
GIẢNG VIÊN
3
MỞ ĐẦU
Chúng ta đã được tìm hiểu về nền văn học của nước nhà. Qua đó,
chúng ta không những hiểu được giá trò nội dung mà còn hiểu được giá trò
nghệ thuật của các tác phẩm, trong đó có các thể loại thơ. Trong bài học
này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về “Thi luật” để hiểu hơn về thi ca Việt
Nam.
PHẦN NỘI DUNG

1. Tính nhạc trong văn tiếng Việt, vai trò của “tiếng” trong thơ ca.
1.1 Tính nhạc trong văn tiếng Việt
Đọc một câu văn có tính nhạc, ta thấy dễ đọc, thuận miệng, thuận
hơi. Nghe một câu văn có tính nhạc, ta thấy dễ nghe, dễ nhớ. Tính nhạc có
thể tạo ra một sự tương hợp nào đấy giữa hình thức ngữ âm và nội dung.
Những đoạn văn hay, bài văn hay thường là có tính nhạc tốt.
11.1 Khái niệm tính nhạc
Tính nhạc của văn là kết quả của việc sử dụng tổng hợp các yếu tố
thanh điệu, vần điệu, độ cao, độ dài, độ mạnh của “ tiếng” (âm tiết) để tạo
nên sự hài hoà về âm thanh cho lời văn.
VD:
“Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay,
một dân tộc gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay,
dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” (Hồ Chí
Minh).
-Tính nhạc ở đoạn văn trên thể hiện bằng sự phối nhòp, phối thanh
do lặp cấu trúc, lặp từ ngữ làm cho đoạn văn mạnh mẽ, hùng hồn
- Tính nhạc sẽ không còn, nếu ta diễn đạt nội dung đoạn văn như
sau:
“Dân tộc Việt Nam phải được tự do, độc lập vì đã gan góc chống ách
nô lệ của Pháp 80 năm nay và đã gan góc đứng về phe đồng minh chống
phất xít mấy năm nay”
1.1.2 Phương pháp phân tích
Muốn phân tích, lí giải tính nhạc trong văn, ta phải so sánh cái đã
được người viết tuyển chọn với cái không thấy được người viết tuyển chọn
4
về các mặt phối thanh, phối âm, phối nhòp trong một câu, giữa các câu
trong một đoạn văn hay một bài văn.
VD:
So sánh hai lời văn đều cùng dòch từ nguyên văn chữ Hán bài “Bình

Ngô đại cáo”
Lời dòch theo nghóa câu chữ:
“Đánh một hồi trống thì diệt lũ giặc mạnh như cá kình, cá ngạc.
Đánh một hồi trống nữa thì lũ giặc hoảng sợ, tan tác như chim muông. Giặc
thua tan tác như ta quét lá khô, giặc tan vỡ như đê cũ bò đổ sụt bởi tổ kiến
đào”.
Lời dòch của Bùi Kỷ:
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông.
Cơn gió to, quét sạch lá khô,
Tổ kiến hổng, sụt toang đê cũ”
*Phân tích:
-Đối với lời dòch theo nghóa câu chữ:
+Phối nhòp, phối thanh(lặp cấu trúc, lặp từ ngữ)
+Độ dài trùng lặp của từng cặp câu
-Đối với lời dòch của Bùi Kỷ:
+Phối nhòp: nhòp 3 / 4, lặp cú pháp tuyệt đối(nhân quả)
+Phối thanh: liệt kê tăng tiến (đánh một trận, đánh hai trận…), kết
thúc câu: ngạc, muông, khô, cũ (nhóm thanh thấp)
+Phối thanh, phối nhòp: sạch không / tan tác; quét sạch / sụt toang.
→ Lời văn của Bùi Kỷ tuy chưa sát từng chữ theo câu chữ, nhưng nhờ tính
nhạc trong đoạn dòch(đó là âm điệu nhòp nhàng, có hơi văn mạnh tương
hợp với nội dung) cho nên trên cơ sở dữ kiện của văn bản và cách đọc diễn
cảm, đoạn dòch đã bộc lộ sự quyết đoán của chiến thuật, sự thuận lợi
nhanh chóng và tuyệt đối của cuộc chiến, niềm tự hào của người chiến
thắng. Đó là điều mà lời dòch theo nghóa câu chữ không có được.
1.2 Vai trò của “tiếng” trong thơ ca
“Tiếng” không chỉ đóng vai trò quyết đònh tạo ra tính nhạc trong văn
mà còn đóng vai trò quyết đònh trong việc tạo ra ngôn ngữ thơ ca.
1.2.1 “Tiếng” trong truyền thống thơ ca

Từ xưa, các “tiếng” trong thơ của ta có thể “ca” theo các làn điệu
dân ca, theo các điệu hò Bắc - Trung – Nam. Khi đặt lời cho làn điệu,
người ta cũng thường làm thơ để có “tiếng”mà “ca” theo làn điệu.
5
- “Tiếng”là cái cầu nối gắn thơ với ca: thơ có thể ca, ca có thể dùng
thơ làm lời. Cho nên ta nói “thơ”, ta lại cũng có thể nói “thơ ca”để chỉ
“thơ”
VD:
Các bài thơ lục bát có thể ca theo các làn điệu như: Cò lả, trống
quân, hát ví…v.v.
1.2.2 “Tiếng” là căn cứ để lập ra các thể thơ
Các thể thơ của ta ( lục bát, song thất lục bát, nói lối) và các thể thơ
mượn của Trung Quốc xưa (thơ ngũ ngôn, thơ thất ngôn) đều lấy số
“tiếng” trong mỗi câu thơ để xác đònh vì mỗi “tiếng” có một diện mạo ngữ
âm rõ ràng, tách rời “tiếng” khác
VD:
-Thơ lục bát
“Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”
(Ca dao)
-Thơ thất ngôn tứ tuyệt:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ Người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”.
(Cảnh khuya – Hồ Chí Minh)
-Thơ ngũ ngôn:
…“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc
Ôi ! con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”…
(Mùa xuân nho nhỏ – Thanh Hải)
1.2.3 “Tiếng” là căn cứ để ngắt nhòp trong mỗi câu thơ
- Ngắt nhòp không chỉ để hiểu thơ mà còn để đọc thơ
- Nhòp thơ căn cứ vào số tiếng trong mỗi bộ phận của câu thơ
VD:
“Trèo lên / cây bưởi / hái hoa
6

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×