Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

tiểu luận sửa đổi lề lối lam việc “ sửa đổi lối làm việc” đối với vấn đề xây dựng đảng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.7 KB, 33 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Suốt chiều dài lịch sử dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã có những
đóng gớp vô cùng to lớn đối với cách mạng nước ta, giúp cho cách mạng Việt Nam
tìm ra được hướng đi đúng đắn, giải phóng người dân khỏi xiềng xích nô lệ cùa
thực dân, phong kiến, dành lại độc lập ấm no và tự quyết cho đất nước. Công lao
của Người còn được thể hiện qua những bài viết đăng báo : “ Người cùng khổ”,
trên báo : “Sự Thật” hay các tác phẩm mang tính chất cách mạng như: “ Đường
Kach Mênh”, “ Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” “ Di
chúc”..v..v
Là người đứng ra thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, vào ngày 3/2/1930, cả
cuộc đời hoạt động cách mạng của Người luôn luôn lo lắng quan tâm tới công tác
xây dựng chỉnh đốn Đảng, trong đó vấn đề được Người chú trọng nhấn mạnh nhiều
nhất là vấn đề cán bộ, đạo đức cán bộ đảng viên. Tác phẩm : “ Sửa đổi lối làm
việc” là một tác phẩm có nhiều ý nghĩa hết sức quan trọng đối với công tác xây
dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên, đảm bảo tính trong sạch vững
mạnh của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lấy bút danh X.Y.Z) viết sửa đổi lối làm việc vào lúc
cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ của nhân dân ta chống thực dân Pháp mới
bắt đầu. Đảng ta trở thành đảng cầm quyền được hơn hai năm. Đảng ta trở thành
đảng cầm quyền được hơn hai năm. Sự nghiệp cách mạng đang đứng trước nhiều
thử thách. Qua thực tiễn đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chính
quyền non trẻ, trong hàng ngũ cán bộ cách mạng đã sớm bộc lộ những nhược điểm,
sai sót trong phương thức, lề lối làm việc. Nếu chậm khắc phục sẽ ảnh hưởng tới
uy tín của Đảng và sự nghiệp cách mạng.
Nhằm vạch ra những sai lầm khuyết điểm, lệch lạc, chấn chỉnh lại nhận thức
tư tưởng, nâng cao trình độ chính trị, lý luận, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác


của cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng, Bác Hồ đã
viết tác phẩm này.
Đây là một tác phẩm rất quan trọng, đề cập nhiều vấn đề lớn, vừa có tính lý


luận, tính nguyên tắc, vừa có tính chỉ đạo thực tiễn sâu sắc về xây dựng Đảng trong
điều kiện Đảng cầm quyền, nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh,
gắn bó mật thiết với nhân dân, và ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ.
Nhận thấy tầm quan trọng của tác phẩm “ Sửa đổi lối làm việc” đối với công
tác xây dựng đảng, trong đó đặc biệt là công tác cán bộ đảng viên, do vậy em đã
quyết đinh chọn đề tài : Ý nghĩa của tác phẩm “ Sửa đổi lối làm việc” đối với vấn
đề xây dựng Đảng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay ” làm đề tài tiểu luận của
cho học phần của mình.


B. PHẦN NỘI DUNG
1 Hoàn cảnh ra đời và mục đích của tác phẩm: Sửa đổi lối làm viêc


Hoàn cảnh ra đời:

Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời, khó khăn chồng chất khó khăn như “ngàn cân treo sợi tóc”. Chính phủ của
Chủ tịch Hồ Chí Minh phải đương đầu với thù trong, giặc ngoài, nào là nạn đói,
giặc dốt, giặc ngoại xâm, nạn thiếu hụt ngân khố… Thực dân Pháp gây hấn ở Nam
Bộ, rồi tràn ra Bắc Bộ. Cuộc kháng chiến của dân tộc ta bắt đầu...
Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta; là người
sáng lập ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa- Một nhà nước pháp quyền hoàn
toàn mới, Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Để Đảng được vững mạnh, Nhà
nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, ngày 17/10/1945, trong Thư gửi Ủy ban
nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Người nhắc nhở: “ Chúng ta phải hiểu rằng,
các cơ quan chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là công bộc của dân,
nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời
kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.
Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ hoạt động bí mật, bất hợp pháp, trở

thành Đảng lãnh đạo chính quyền. Đây là vấn đề hoàn toàn mới và không đơn
giản. Từ khi có chính quyền, chưa một ngày Đảng có điều kiện để rút kinh nghiệm,
chưa kể đến sự kiện ngày 11-11-1945, trước sức ép của kẻ thù, để “ứng vạn biến”,
Đảng ta đã tuyên bố tự giải tán, nhưng thực chất Đảng vẫn lãnh đạo công cuộc
kháng chiến, kiến quốc của nhân dân.
Sau khi lên cầm quyền, Đảng ta đã lãnh đạo chính quyền đưa cách mạng
Việt Nam vượt ra khỏi tình trạng ngàn cân treo sợi tóc: củng cố xây dựng chính
quyền non trẻ, phát triển lực lượng cách mạng, đẩy lùi được giặc đói, giặt dốt; loại
bỏ được một số kẻ thù, phát động toàn quốc kháng chiến, chuyển trung ương,


Chính phủ và bộ đội chủ lực về chiến khu Việt Bắc an toàn… Nhưng một số căn
bệnh của đảng cầm quyền đã nảy sinh và phát triển.
Tháng 12-1946, các cơ quan của Đảng và Nhà nước ta về chiến khu Việt
Bắc để hoạt động lãnh đạo cuộc kháng chiến chống xâm lược trong muôn vàn khó
khăn. Thực dân Pháp đang tiếp tục thực hiện âm mưu tấn công lên chiến khu bằng
hai gọng kềm nhằm tiêu diệt đầu não kháng chiến, để kết thúc chiến tranh. Chiến
dịch Việt Bắc diễn ra từ 7-10-1947 đến 9-12-1947, quân và dân ta đã loại khỏi
vòng chiến đấu hơn 6.000 quân xâm lược, bắn rơi 16 máy bay, bắn chìm 11 tàu
chiến, ca nô, phá hủy hàng trăm khẩu pháo, hàng trăm xe quân sự, thu hàng chục
tấn chiến lợi phẩm.
Nhân dân cả nước đang tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ ở giai đoạn
khó khăn, gian khổ nhất mà trước mắt phải đánh bại kế hoạch chiến lược tấn công
Việt Bắc của thực dân Pháp với trên 12.000 tên của cả 4 quân binh chủng hiện đại
bộ binh, pháo binh, không quân, thuỷ quân… với âm mưu: tiêu diệt đầu não và phá
tan căn cứ địa của cuộc kháng chiến. Vào thời điểm lịch sử này, để hoàn thành
trọng trách lãnh đạo của mình, Đảng phải được xây dựng và chỉnh đốn để thực sự
nâng cao năng lực lãnh đạo, nâng cao uy tín đạo đức và sự gắn bó máu thịt của
Đảng, chính quyền với nhân dân. Đúng như trong “Thư gửi các đồng chí Bắc bộ”
năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trong lúc dân tộc đang ở ngã tư

đường, chết hay sống, mất hay còn, mỗi đồng chí và toàn cả đoàn thể phải đem tất
cả tinh thần và lực lượng ra để đưa toàn dân quay về một hướng, nhằm vào một
mục đích đánh đuổi thực dân Pháp làm cho nước thống nhất và độc lập. Vì vậy
mỗi một đồng chí và tất cả Đoàn thể phải: sáng suốt, khôn khéo, cẩn thận, kiên
quyết, siêng năng, nhất trí (…). Trong lúc này tư tưởng và hành động của mỗi một
đồng chí rất có quan hệ đến toàn quốc. Nếu một người sơ suất, một việc sơ suất là
có thể hỏng việc to, sai một ly đi một dặm.Vì vậy, chúng ta phải kiên quyết tẩy
sạch những khuyết điểm…”.


Tháng 10-1947, tại Việt Bắc, với bút danh XYZ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết tác phẩm : Sửa đổi lối làm việc. Những ngày bộn bề công việc, sục sôi khí thế
chiến đấu, kẻ thù bao vây, nhảy dù, tấn công chiến khu ta, Bác vẫn tranh thủ từng
giờ để viết tác phẩm này. Trên cơ sở của tư tưởng, ta nhất định thắng, thực dân
Pháp nhất định thua, sau chiến thắng Thu - Đông 1947, ta và Pháp bước vào giai
đoạn cầm cự. Ta có vùng tự do, Pháp có vùng chiếm đóng. Tại vùng tự do, ta có
chính quyền, có mặt trận, có các đoàn thể chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vai
trò của Đảng trong lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo các đoàn thể và mặt trận thế
nào? Làm thế nào để Đảng thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, đảng viên thực hiện tốt
vai trò lãnh đạo của mình? Là người suốt đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng
giải phóng dân tộc, mới hai năm trên cương vị đứng đầu đất nước, nhưng Bác đã
thấy những biểu hiện mang tính bệnh hoạn của một số cán bộ, đảng viên khi có
chức, có quyền. Căn bệnh lớn nhất là bệnh lười học, biết khuyết điểm nhưng không
cố gắng, quyết tâm sửa chữa. Người chỉ rõ khuyết điểm đó không chỉ ở cá nhân
đảng viên mà còn do tổ chức Đảng chưa thật sự chú ý đến việc tổ chức học tập cho
cán bộ, đảng viên. Hoàn cảnh lịch sử lúc đó, cán bộ đảng viên chưa được học, chưa
được đào tạo có bài bản mà chủ yếu làm theo kinh nghiệm. Vì vậy, trong tác phẩm,
Bác đề cập đến việc học trước hết là việc tự kiểm điểm, phê bình trước tập thể một
cách “ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt, phải vạch rõ cả ưu
điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc.

Phê bình việc làm, chứ không phê bình người. Đảng phải sửa đổi lối làm việc để
lãnh đạo sao cho có hiệu quả trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến trường kỳ, tuy mới
bắt đầu nhưng đầy gian khổ, khó khăn. Bằng tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng Cộng sản Đông Dương đang trực tiếp lãnh
đạo cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh của dân
tộc. Trong tác phẩm, Bác đã chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa lý luận với thực


tiễn, những kinh nghiệm trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, những khuyết điểm
chủ yếu và cách chữa.
Đấy là bối cảnh mà dưới bút danh X.Y.Z, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác
phẩm "Sửa đổi lối làm việc", như là đặt ra một cuộc vận động lớn về xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, làm cho "Sửa đổi lối làm việc" có ý nghĩa cách mạng sâu sắc,
giúp xây dựng nhân sinh quan mới, phục vụ đắc lực cho cuộc đấu tranh dân tộc và
tiến bộ xã hội.


Mục đích của tác phẩm:

Nâng cao trình độ lý luận tư tưởng và tình cảm cách mạng, nâng cao phẩm
chất đạo đức, tác phong công tác của người cán bộ cách mạng, nâng cao năng lực
lãnh đạo nhằm đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng.
Trong tác phẩm này, chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán : “ chủ nghĩa cá
nhân” vì đó là một thứ “ vi trùng rất độc” nó sinh ra các khuyết điểm nghiêm
trọng như bệnh tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, ham địa vị, thiếu kỷ luật, óc hẹp
hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ, bệnh hữu danh vô thực, kéo bè kéo cánh, bệnh cận
thị không biết nhìn xa, trông rộng...Đồng thời, Hồ Chi Minh vạch ra nguyên nhân
và phương hướng khắc phục. Tác phẩm “ Sửa đổi lối làm việc” không chỉ nhằm
phê phán mà chủ yếu là cách mạng, là vì, cách mạng mới là động lực của lịch sử.
Đảng là lực lượng tiên phong, ưu tú nhất của xã hội, là đầu tàu của lịch sử.

2. Nội dung cơ bản của tác phẩm:
Cuốn sách gồm 6 phần, nêu những căn bệnh cần phê bình và sửa chữa trong
Đảng; về những kinh nghiệm hay; về bản chất và đạo đức cách mạng; về vấn đề
cán bộ trong Đảng, về cách lãnh đạo; về việc chống thói ba hoa. Nội dung, nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc tự phê bình và phê bình; cách thức tiến hành; những
căn bệnh cần phải sửa chữa trong lối làm việc của Đảng. Người nhắc nhở cán bộ,
đảng viên làm việc không đúng, không khéo, thì còn nhiều khuyết điểm.
Phần nội dung của tác phẩm gồm có 6 phần:


Nội dung thứ I: Phê bình và sửa chữa lối làm việc
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của
Đảng, là vũ khí sắc bén để làm cho Đảng ta trong sạch, vững mạnh. Người chỉ rõ:
mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa chữa
cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ. Cũng vì
đối tượng phê bình là đồng chí của mình và bản thân mình, mục đích vì sự vững
mạnh và tiến bộ của Đảng, nên việc phê bình và thực hiện tự phê bình vừa phải
nghiêm túc nhưng cũng rất thân ái: tự phê bình mình cũng như phê bình người phải
ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm
và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, châm chọc. Phê
bình việc làm, chứ không phải phê bình người. Người nêu lên những căn bệnh mà
người cán bộ thường mắc phải cần phê bình, sửa chữa. Đó là bệnh chủ quan, bệnh
hẹp hòi và bệnh ba hoa. Một là, bệnh chủ quan. Đó là chứng bệnh nguy hiểm gây
tác hại lớn cho cách mạng. Vì mắc bệnh chủ quan, cán bộ, đảng viên ta thường giải
quyết công việc xuất phát từ ý muốn chủ quan, mà không căn cứ vào điều kiện cụ
thể và quy luật khách quan. Do không biết nhận rõ điều kiện, hoàn cảnh khách
quan, khăng khăng làm theo ý mình, nên kết quả thường nhận lấy thất bại. Người
chỉ rõ nguyên nhân của bệnh chủ quan là: Kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý
luận suông.Quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn được Bác diễn đạt sinh
động và thực tế. Người cho rằng, nguyên nhân của bệnh chủ quan là kém lý luận,

khinh lý luận hoặc lý luận suông. Lênin đã dạy: Không có lý luận cách mạng thì
không có phong trào cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa: “Lý luận là
đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét,
so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với
thực tế. Đó là lý luận chân chính”. Lý luận như cái la bàn, nó chỉ cho ta định
hướng đúng để đi. Người khẳng định “ Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành
phải nhằm theo lý luận.Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng


như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không
có tên.” Nếu kém lý luận, khi giải quyết công việc, nghĩ thế nào làm như thế ấy,
kết quả thường kém. Giữa kinh nghiệm và lý luận có quan hệ biện chứng chặt chẽ
“có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ” cho
nên rất cần thiết là phải nghiên cứu, học tập lý luận.
Học lý luận là cốt để vận dụng vào thực tế, học lý luận không phải để thao
thao bất tuyệt, để lòe thiên hạ. Nếu chỉ thao thao bất tuyệt thì lý luận ấy là lý luận
suông. Học phải đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, lý luận phải liên hệ
với thực tế. Đây chính là những nguyên lý mà Bác đã chỉ ra: cả lý luận và thực tiễn
đều quan trọng. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn, trở về với thực tiễn, thực tiễn kiểm
nghiệm lý luận và bổ sung để hoàn thiện lý luận; cho nên bên cạnh việc đề cao lý
luận, không được tuyệt đối hóa lý luận. Mặt khác, cũng không được đề cao thực
tiễn quá mức đến độ mắc phải bệnh kinh nghiệm rồi xem thường lý luận, không
chịu học hỏi, không chịu tổng kết kinh nghiệm để bổ sung nhằm từng bước hoàn
thiện lý luận…
Người mắc bệnh chủ quan đều coi khinh lý luận, làm việc chỉ theo kinh
nghiệm của bản thân, không biết khái quát thành lý luận chung, giải quyết công
việc một cách sự vụ, vụn vặt. Đó là bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Chủ nghĩa kinh
nghiệm chính là một biểu hiện của chủ nghĩa chủ quan, nguyên nhân của bệnh chủ
quan, bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa là do kém lý luận hay khinh lý luận. Vì vậy,
không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi. Ngược lại, lý luận là cốt để áp

dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận
suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn cuốn lý luận, nếu không biết đem ra
thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách. Xem nhiều sách để mà lòe, để làm
ra ta đây, thế không phải là biết lý luận. Khi phân tích các biểu hiện của bệnh chủ
quan như: kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông, Hồ Chí Minh còn chỉ rõ
bệnh lý luận suông là bệnh giáo điều chủ nghĩa. Đó là sự bắt chước kinh nghiệm


của người khác, kinh nghiệm của các nước anh em một cách máy móc, mù quáng;
xem thường kinh nghiệm của quần chúng, không năng đi xuống cơ sở để học tập
và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn...
Hai là, bệnh hẹp hòi. Đây là căn bệnh rất nguy hiểm, mà nhiều cán bộ và
đảng viên còn mắc phải. Trong, thì bệnh này ngăn cản Đảng thống nhất và đoàn
kết. Ngoài, thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân. Nhiều thứ bệnh, như chủ nghĩa
địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng,
tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa... đều do bệnh hẹp hòi mà ra! Biểu hiện
của bệnh hẹp hòi là ham danh vọng và địa vị, cho nên khi phụ trách một bộ phận
nào thì lôi người này, kéo người khác, ưa ai thì kéo vào, không ưa thì tìm cách đẩy
ra. Thế là chỉ biết có mình, chỉ biết có bộ phận mình mà quên cả Đảng. Bệnh hẹp
hòi trái hẳn với nguyên tắc tập trung và thống nhất trong Đảng. Từ trước đến nay,
vì bệnh hẹp hòi mà có những sự lủng củng giữa bộ phận và toàn cục, đảng viên với
Đảng, cán bộ địa phương với cán bộ phái đến, cán bộ quân sự với cán bộ mặt trận,
cán bộ mới và cán bộ cũ, cơ quan này và cơ quan khác. Bệnh hẹp hòi của cán bộ,
đảng viên còn biểu hiện ở thói tự tôn tự đại, khinh rẻ người ta, không muốn biết,
muốn học những ưu điểm của người khác. Những cán bộ, đảng viên mắc bệnh này
quên rằng: chỉ đoàn kết trong Đảng, cách mạng cũng không thành công được, còn
phải đoàn kết nhân dân cả nước. Họ cố tình không hiểu: so với nhân dân thì số
đảng viên chỉ là tối thiểu, hàng trăm người dân mới có một người đảng viên. Nếu
không có nhân dân giúp sức thì Đảng không làm được việc gì hết. Cũng vì bệnh
hẹp hòi mà không biết dùng nhân tài, việc gì cũng ôm lấy hết. Ôm lấy hết thì cố

nhiên làm không nổi. Cũng vì bệnh hẹp hòi mà không biết cách xử trí khôn khéo
với các hạng đồng bào (như tôn giáo, dân tộc thiểu số, anh em trí thức...). Điều đó
tất yếu dẫn đến phá hoại chính sách đoàn kết, cũng như ảnh hưởng không nhỏ tới
sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Ba là, bệnh ba hoa. Ba hoa là nói và viết dài
dòng, rỗng tuyếch, dùng chữ cầu kỳ, khó hiểu, không nhằm đúng đối tượng, quần


chúng không hiểu, cho nên không có tác dụng gì cả. Người nhắc nhở: cán bộ tuyên
truyền bao giờ cũng tự hỏi: Viết cho ai xem? Nói cho ai nghe? Nếu không vậy, thì
cũng như có ý không muốn cho người ta nghe, không muốn cho người ta xem.
Như vậy, sửa đổi lối làm việc của Đảng ở các cấp, theo tư tưởng của Hồ Chí
Minh, trước hết phải phê bình và sửa chữa bệnh chủ quan, bệnh ích kỷ, bệnh giáo
điều, bệnh hẹp hòi, bệnh ba hoa... Mỗi chứng bệnh đó là một kẻ địch nguy hiểm.
Mỗi kẻ địch bên trong là bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài, trong đó kẻ địch
bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra. Vì vậy, ta phải ra sức đề
phòng những kẻ địch đó. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Để chữa khỏi những bệnh trên, ta
phải tự phê bình ráo riết và phải lấy lòng thân ái, lấy lòng thành thật, mà ráo riết
phê bình. Hai việc đó phải đi đôi với nhau. Mỗi cán bộ, đảng viên mỗi ngày phải tự
kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày rửa mặt. Được như vậy Đảng ta
mới thực sự trong sạch, vững mạnh.
Nội dung thứ hai: Mấy điều kinh nghiệm.
Trong phần này, tác phẩm đề cập đến một số vấn đề cơ bản như:


Có cán bộ tốt thì việc gì cũng xong .Người viết: “ Muốn việc thành công hay

thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định”.


Chính sách khẩu hiệu thì đúng, nhưng cách làm thực hành chưa đúng, vì thế


kết quả chưa mỹ mãn. Người lấy ví dụ: “ Muốn lập làng kiểu mẫu, đội kiểu
mẫu,.v.v..thì trước hết phải đào tạo ra những người kiểu mẫu, để làm cán bộ cho làng
đó, đội đó. Làm được một làng, một đội rồi lấy đó làm kiểu mẫu, để khuyến khích và
cổ động nơi khác. Từ trước đến nay, chúng ta làm điều trái ngược lại. Chúng ta nghĩ
ra một làng, một đội kiểu mẫu trong tư tưởng, mà không bắt đầu từ một làng, một đội
sẵn có, cho nên kế hoạch không ăn khớp với những hoàn cảnh thiết thực ( khách
quan). Đó cũng là bệnh chủ quan của chúng ta. Cho nên khẩu hiệu tuy đúng, nhưng
thực hành không có kết quả mỹ mãn.”. Chính sách và ý dân luôn luôn phải ăn khớp


với nhau, làm việc cần có hiệu quả. Phải căn cứ vào tình hình cụ thể để có những
phương pháp cách thức làm việc cho phù hợp.


Phải biết nghiên cứu kinh nghiệm đến gốc. Bất kỳ công việc nào, thành

công hay thất bại , cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tích thật rõ ràng rồi kết luận.:
“ Kết luận đó sẽ là cái thìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới.
Có như thế người có tài mới có dụng.” (HCM, t5.tr243)


: “ Phải nâng cao sáng kiến và lòng hăng hái”. (t5.tr244).Dân chủ, sáng

kiến, lòng hăng hái. Ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ
và quần chúng đề ra sáng kiến. Sáng kiến được khen ngợi thì người thêm hăng hái. “
Bất kỳ việc to việc nhỏ, hễ thêm điều lợi, trừ điều hại cho quần chúng, giúp quần
chúng giải quyết các vấn đề khó khăn, tăng kết quả của việc làm, tăng sức sản xuất
của xã hội, đánh đổ sức áp bức của quân thù, đó là điều sáng kiến” [1.244]



Bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm

với nhân dân. Người đã thấu hiểu và nhìn thấy rõ được vấn đề cốt yếu, Người viết :
“Nếu chúng ta hỏi cán bộ: “ Việc đó, làm cho ai? Đối với ai phụ trách?” chắc chắn
số đông cán bộ sẽ trả lời: “ Làm cho Chính Phủ hoặc Đảng, phụ trách trước cấp
trên”..Câu trả lời đo chỉ đúng một nửa. Nếu chúng ta lại hỏi: “ Chính phủ và Đảng vì
ai mà làm việc đó? Và phụ trách với ai?” Thì e nhiều cán bộ không trả lời được.
Chính phủ và Đảng chỉ muốn giải phóng cho nhân dân, vì thế, bất kỳ việc gi cũng vì
lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân.” Nhận thấy được
vai trò hết sức to lớn của quần chúng nhân dân “ Quần chúng nhân dân là những
người làm nên lịch sử”, nhân dân là những người góp nên thắng lợi của mọi cuộc cách
mạng, muốn giữ vững chính quyền, xây dựng đất nước thì cần phải dựa vào dân, cần
phải được lòng dân, được sự ủng hộ của nhân dân, vì vậy chủ tịch Hồ Chi Minh đã
đúc rút ra kinh nghiệm quí báu để giáo dục giác ngộ cán bộ đảng viên: “ Chúng ta
phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đều hiểu thì việc gì khó khăn
mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ. Nhưng trước hết cần phải


chịu khó tìm đủ cách giải thích cho họ hiểu rằng : những việc đó là vì lợi ích của họ
mà làm.”


Cần khắc phục hai chứng bệnh ở cán bộ là:

- Bệnh khai hội: khai hội không có kế hoạch, không chuẩn bị kỹ lưỡng, không
thiêt thực, khai hội lâu, khai hội nhiều mà không có hiệu quả thiết thực. Đây là một
căn bệnh mà Người rất quan tâm nhắc nhở các cán bộ đảng viên khi làm công tác
Đảng, công tác tuyên huấn, phải thiết thực, phù hợp với đối tượng và nguyện vọng
của đối tượng. Người nhấn mạnh : “ Bất cứ việc to việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ và

làm cho hợp trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm
tranh đấu,lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Do đó mà định
cách làm việc, cách tổ chức. Có như thế, mới có thể kéo được quần chúng. Nếu không
vậy cứ làm theo ý muốn chủ quan của mình, rồi đem cột vào quần chúng, thì khác
nào “ khoét chân cho vừa giầy”. Chân là quần chúng. Giầy là cách tổ chức và làm
việc của ta. Ai cũng đóng giầy theo chân. Không ai đóng chân theo giầy.” Từng lời
nói của Người vô cùng sâu sắc và ý nghĩa, mang tính giáo dục cao, đồng thời cũng rất
hợp tình hợp lý có tính thuyết phục khiến cho đối tượng dễ đón nhận.
- Bệnh nể nang không thiết thực phê bình, sợ mất lòng.
Nội dung thứ ba : Tư cách và đạo đức cách mạng.
Ở phần này, tác phẩm lại được chia làm ba phần:
Phần thứ nhất phân tích 12 điều thuộc về tư cách của Đảng chân chính cách
mạng, trong đó, Người cũng đề cập tới công tác cán bộ, phải được trang bị lý luận sắc
bén, nắm vững lý thuyết đồng thời đi đôi với thực hành có hiêu quả. Cán bộ đảng
viên phải tuyệt đối trung thành với Đảng, quần chúng nhân dân và phải kiên quyết đấu
tranh chống lại những phần tử cơ hội, cá nhân, hủ hóa ra khỏi Đảng.
Phần thứ hai: tác phẩm nêu rõ phận sự của người cán bộ , đảng viên:


Trọng lợi ích của Đảng là hơn hết:


Ngoài lơi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác, cho
nên Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân dân để giải phóng nhân dân. Vì
toàn dân tộc giải phóng, tức là Đảng được giải phóng.Vì vậy, mỗi người trong Đảng
phải hiêu rằng: Lợi ích của cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích
của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng lợi ích của tập thể. Lợi ích tạm thời nhất
định phải phục tùng lợi ích lâu dài... Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và
cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc
cao nhất của Đảng. Đó là tính Đảng.

2.

Coi trọng đạo đức cách mạng : nhân, nghĩa, lễ, trí, dũng, liêm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất mực coi trọng đạo đức cách mạng của người cán bộ

đảng viên : “ Người đảng viên, người cán bộ tốt, muốn trở nên người cách mạng
chân chính, không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình
chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư.
Mình đã có chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ càng ngày càng ít, mà những tính tốt
như sau, ngày càng thêm. Nói tóm tắt tính tốt ấy gồm 5 điều: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí,
Dũng, Liêm.” Trong bài nói chuyện tại lớp hướng dẫn viên các trại hè cấp I vào ngày
12 tháng 6 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhắc nhở cán bộ, đảng viên về ý thức
đạo đức cách mạng như sau: “ Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ
thông mà phải có đạo đức cách mạng. Có tài phải có đức. Có tài không có đức,
tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa,
không giúp ích gì được ai”.
Trong tác phẩm, Người lý giải rõ, từng ngữ nghĩa của các phẩm chất đạo
đức cách mạng đó để mỗi cán bộ có thể hiểu một cách đúng đắn và sâu sắc nhất:
a. NHÂN là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chi đồng bào. Vì thế
mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân.
Vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ.
Vì thề mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền.


b. NGHĨA là ngay thẳng, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu
Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc Đảng giao
việc, thì bất kỳ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc thì làm, thấy việc phải
nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người khác cũng luôn luôn
đúng đắn.
c. TRÍ vì không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch

sáng suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. Biết xem người. Biết xét việc.
Vì vậy, mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà
cất nhắc người tốt, đề phòng người gian.
d. DŨNG là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết
điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng. Có gan chống lại
những sự vinh hoa, phú quí, không chính đáng. Nếu cần, thì có gan hy sinh cả tính
mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè nhút nhát.
đ. LIÊM là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung
sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không
bao giờ hủ hóa. Chỉ có ham tiến bộ, ham làm.
Đó là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là
đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích
chung của Đảng, của dân tộc và của loài người.


Phải giữ kỷ luật:
“ Bất kỷ ở hoàn cảnh nào, đảng viên và cán bộ cần phải luôn luôn ra sức

phấn đấu, ra sức cố gắng làm việc, cố gắng học tập, để nâng cao trình độ văn hóa,
tri thức và chính tri của mình. Luôn luôn giữ gìn kỷ luật. (t5.tr253,254)
Đối với hạng đảng viên thì số đông là vì dân, vì nước mà vào Đảng, nhưng
có một số vì lẽ khác mà vào Đảng, vì thế phải cảm hóa họ, dạy dỗ họ, nâng cao sự
hiểu biết và lòng phụ trách của họ. “ Đối với những người không chịu nổi khó
nhọc, không chịu nổi kỷ luật nghiêm khắc mà xin ra khỏi Đảng, thì Đảng vẫn bằng


lòng”(t5.254). Đảng viên và cán bộ cũng là người. Ai cũng có tính tốt và tính xấu.
Song đã hiểu biết, đã tình nguyện vào một Đảng vì dân, vì nước, đã là một người
cách mạng thì phải cố gắng phát triển những tính tốt và sửa bỏ những tính xấu.
Những khuyết điểm sai lầm: Trong Đảng vì có những người chưa học được,

chưa làm được bốn chữ : Chí công vô tư, cho nên mắc phải chứng “ chủ nghĩa cá
nhân”. Đó là thứ vi trùng rất độc gây ra các bệnh như: bệnh tham lam, bệnh lười
biếng, bệnh kiêu ngạo, bênh hiếu danh, thiếu bí mật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc
lãnh tụ..v..v..bệnh hữu danh vô thực, kéo bè kéo cánh, bệnh cận thị, bệnh cá nhân,
bệnh lười biếng.
Những bệnh khác như là : bênh hữu danh vô thực, bệnh kéo bè kéo cánh,
bện cận thị, bệnh cá nhân, bệnh lười biếng, bệnh tị nạnh, bệnh xu nịnh a dua. Đồng
thời Người cũng đưa ra những biện pháp để chữa trị những căn bệnh nói trên.
Đảng ta không phải từ trên trời rơi xuống, Đảng ở trong xã hội mà ra. Nói chung
đảng viên phần nhiều là tốt, nhưng bên cạnh đó vẫn còn những một số chưa bỏ hết
thói xấu từ xã hội vào Đàng. Đảng phải làm công việc giải phóng dân tộc to lớn,
phưc tạp, Đảng mang trong mình những trọng trách lớn lao mà dân tộc giao cho,
do vậy, Đảng cần phải cố sức sửa chữa những yếu kém, khuyết điểm còn tồn đọng,
phải chữa trị cho tiệt nọc các chứng bệnh để cho Đảng ngày càng trong sạch, vững
mạnh, đảm đương vai trò sứ mệnh lịch sử đưa đường dẫn lối cho đất nước đi lên.
Những khuyết điểm sai lầm vì đâu mà có, và từ đâu đến?. Mỗi đảng viên cán
bộ cần phải thật thà, tự nhận xét và phê bình khuyết điểm của mình, của đồng chí
mình, ai có khyết điểm nào thì thật thà sửa chữa và cũng giúp nhau sửa chữa “
Thang thuốc hay nhất và thiết thực là phê bình và tự phê bình.” (tr262)
Đối với các khuyết điểm cần phải phân tích rõ ràng, cái gì đúng, cái gì sai, ra
sức tranh đấu sửa chữa những khuyết điểm, khéo dùng cách phê bình và tự phê
bình để giúp đồng chí mình sửa chữa những lỗi lầm, đoàn kết Đảng bằng sự tranh
đấu nội bộ, nâng cao kỷ luật của Đảng.


Phần thứ ba : tác phẩm nêu lên tư cách bổn phận của người đảng viên.
Phần thứ tư : tác phẩm nêu tầm quan trọng của việc rèn luyện tính Đảng,
nghĩa là cần đặt lợi ích của Đảng, cuả dân tộc lên hàng đầu, làm việc gì cũng phải
điều tra rõ ràng, cẩn thận, lý luận luôn phải đi cùng với thực tiễn.
Nội dung thứ IV: vấn đề cán bộ

Cán bộ cách mạng là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ
giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân
chúng báo cáo cho Chính phủ rõ, để đặt chính sách cho đúng. Từ định hướng đó,
Người khẳng định, cán bộ là cái "gốc" của mọi công việc. Công việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Thực hiện tư tưởng của Người, các nghị
quyết của Đảng ta đều dành sự quan tâm cho công tác cán bộ. Nghị quyết Trung
ương 3, khóa VIII của Đảng xác định, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại
của cách mạng; là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng. Kinh nghiệm thực
tiễn chỉ rõ, mức chính xác của đường lối và việc cụ thể hóa đường lối chính xác,
kịp thời cũng như việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng thắng lợi đều tùy
thuộc ở chất lượng đội ngũ cán bộ. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người
phê bình những khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ, đồng thời đề ra
những quan điểm và giải pháp về vấn đề cán bộ.
Người đặt ra yêu cầu đối với cán bộ :
Yêu cầu về tư cách. Có ba nội dung chủ yếu nhất sau đây có tính bao quát
toàn bộ các mặt của nó mà Hồ Chí Minh hay nêu:
Một là: Cán bộ phải suốt đời phấn đấu hy sinh cho lý tưởng của Đảng.
Hai là: Người cán bộ phải đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết
và lên trước hết, “ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi
ích gì khác. Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân dân để
giải phóng nhân dân và để nâng cao sinh hoạt, văn hoá, chính trị của nhân dân. Vì
toàn dân được giải phóng, tức là Đảng được giải phóng”. Hồ Chí Minh đề ra


nguyên tắc: “Lợi ích cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích
của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời
nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài”.
Ba là: Người cán bộ phải có một đời tư trong sáng, phải là một tấm gương
sáng trong cuộc sống. Điểm nổi bật của Hồ Chí Minh so với nhiều danh nhân khác
ở trong nước và trên thế giới là toàn bộ cuộc đời của Người là tấm gương sáng về

đạo đức. Sức mạnh của đạo đức đã lan toả, thẩm thấu trong suốt chiều dài lịch sử
của dân tộc, trở thành giá trị cốt lõi, vĩnh hằng của văn hoá trong các thế hệ các
dân tộc ở trên đất nước Việt Nam. Nếu cán bộ không có một đời tư trong sáng thì
sẽ không thuyết phục, vận động được nhân dân trong các phong trào cách mạng.
Người cán bộ, ngoài việc phải hoàn thành tốt công việc chung của Đảng đã được
phân công, lại phải còn là một thành viên tốt của gia đình, là một người công dân
tốt, kiểu mẫu ở khu dân cư và ngoài xã hội, sống cuộc sống chan hoà, gần gũi với
mọi người chung quanh trong cùng bản làng, phum, sóc, thôn xóm…
Yêu cầu về phẩm chất, năng lực. Trước hết, cán bộ phải có đạo đức cách
mạng. Đây là yêu cầu “gốc”, “nguồn” đúng như Hồ Chí Minh đã nêu. Đây cũng
chính là quan điểm xuất phát, một yêu cầu có tính chất tiên quyết đối với cán bộ
cách mạng. Không ít lần, Hồ Chí Minh lưu ý rằng: “Đảng không phải là một tổ
chức để làm quan phát tài”, người cán bộ cách mạng không phải là người “làm
quan cách mạng”, không phải vào Đảng, không phải làm cán bộ là để “thăng quan
tiến chức”, không phải như dưới thời thực dân-phong kiến “một người làm quan cả
họ được nhờ”, không phải làm cán bộ để “đè đầu cưỡi cổ dân chúng như dưới thời
thực dân-phong kiến”, v.v. Người cán bộ phải tận tụy với sự nghiệp cách mạng,
phải trung thành với Đảng, với Tổ quốc, “phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân
tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. Trung thành ở đây trước
hết đòi hỏi cán bộ phải hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình
được giao, kể cả trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và kể cả khi


thời bình, xây dựng đất nước; khi gặp thắng lợi thì không kiêu căng, chủ quan, tự
mãn; khi gặp khó khăn, gian khổ, trở ngại thì không hoang mang, dao động; “vô
luận hoàn cảnh thế nào, lòng họ cũng không thay đổi” , phải luôn luôn có ý thức
và hành động bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc. Trung thành với cách mạng là phải hết
lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, là việc gì có lợi cho dân, dù
nhỏ, cũng gắng sức làm, việc gì có hại cho dân, dù nhỏ, cũng hết sức tránh. Đồng
thời, về năng lực, cán bộ phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối,

chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Muốn thế,
phải “chuyên”. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quyết
định của đoàn thể chỉ biến thành hiện thực trong cuộc sống, ngoài yêu cầu về việc
đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định đó phải đúng đắn, còn có việc phải
tổ chức lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân ra sức thực hiện thắng lợi. Không như thế thì
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quyết định của đoàn thể
nhân dân chỉ nằm trên giấy. Cán bộ phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
Đây là yêu cầu đối với cán bộ ở tất cả các thời kỳ cách mạng, nhưng trong thời kỳ
Đảng cầm quyền càng đặc biệt quan trọng hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng,
người cán bộ, bằng hành động thực tế của mình, phải làm cho dân tin, dân yêu, dân
kính, dân phục; đừng có mang danh cộng sản để đè đầu cưỡi cổ nhân dân; phải yêu
dân, kính dân; phải việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại
cho dân dù nhỏ cũng cố tránh; phải khổ trước thiên hạ và vui sau thiên hạ; phải vừa
là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Cán bộ phải luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt. Học suốt
đời, học không biết chán, dạy không biết mỏi (Nho giáo); học, học nữa và học mãi
(V.I.Lênin)… đó là những điều mà Hồ Chí Minh đã chú ý vận dụng vào trong cuộc
sống của chính bản thân mình và giáo dục, rèn luyện cho cán bộ, đảng viên. Hồ
Chí Minh quan niệm: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Hồ Chí Minh cho rằng,
ngày nay không thể lãnh đạo chung chung được nữa, rằng, chỉ có lòng nhiệt tình


không thôi thì chưa đủ, mà còn phải có tri thức nữa. Hồ Chí Minh suốt đời chăm
chỉ học tập, già rồi, cuối đời rồi vẫn còn học; học ở nhà trường, học trong cuộc
sống, và quan niệm của Hồ Chí Minh học không phải là để có bằng cấp, để thăng
chức.
Cán bộ phải có phong cách tốt. Theo Hồ Chí Minh, muốn có phong cách
công tác tốt, phải phòng và chống tác phong chủ quan, tác phong quan liêu, đại
khái, ham chuộng hình thức, phô trương cho oai, làm đại khái, qua loa. Phải sâu
sát, tỷ mỉ; nắm việc lớn, phải giải quyết bắt dầu từ những việc cơ bản, không cận

thị (tức là chỉ nhìn gần mà không nhìn xa trông rộng được), có đầu óc quan sát;
phải chân đi, miệng nói, tay làm, không như thế thì đầy túi quần thông cáo, đầy túi
áo công văn nhưng công việc không chạy. Hồ Chí Minh đã nêu lên những vấn đề
lý luận cơ bản nhất về quy luật Đảng thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản
thân mình. Điều này đúng như điều tất yếu mà Hồ Chí Minh đã nêu: Đảng ta
không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra, do đó, Đảng phải thường
xuyên phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, và đó chính là quy luật phát triển của một
Đảng Mác – Lênin, một Đảng chiến đấu dưới lá cờ của chủ nghĩa cộng sản, vì một
xã hội tốt đẹp, vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con người. Riêng về phong cách
công tác của cán bộ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới các vấn đề chủ yếu: Sửa cách
lãnh đạo về công tác cán bộ; Biết chọn trình tự ưu tiên công việc; Thường xuyên
tổng kết công tác; Phải luôn luôn có sáng kiến; Sâu sát, gần gũi nhân dân, có tinh
thần phụ trách trước dân; Phải kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ; Có lãnh đạo chung,
nhưng có chỉ đạo điểm.
Phần thứ V: Cách lãnh đạo
1.

Lãnh đạo đúng là quyết định mọi vấn đề cho đúng, kịp thời chính xác, hiệu

quả, tổ chức lãnh đạo cho đúng, tổ chức thi hành cho đúng, tô chức kiểm soát cho
đúng. Người lãnh đao không được kiêu ngạo, mà phải hiểu thấu được tâm tư
nguyện vọng của cấp dưới và của quần chúng nhân dân. : “ Sự hiểu biết và kinh


nghiệm của mình cũng chưa đủ cho sự lãnh đạo đúng đắn, vì vậy, ngoài kinh
nghiệm của mình, người lãnh đạo còn phải dùng kinh nghiệm của người đảng
viên, của dân chúng để thêm cho kinh nghiệm của mình ”. Như vậy có nghĩa là
Người muốn nhấn mạnh đến mối quan hệ mật thiết giữa cán bộ với quần chúng
nhân dân, người lãnh đạo, phải biết lắng nghe những ý kiến của quần chúng, chắt
lọc những ý kiến đóng góp của mọi người dân, nhưng tuyệt đối không phải là theo

đuôi quần chúng.
2.

Lãnh đạo thế nào?
Bất kỳ công việc gì cũng phải dùng hai cách lãnh đạo, một là, liên hợp

chính sách chung với sự chỉ đạo riêng, hai là liên hợp người lãnh đạo với quần
chúng. : “Bất kỳ việc gì, nếu không có chính sách chung, kêu gọi chung, không thể
động viên khắp quần chúng. Song, nếu người lãnh đạo chỉ làm chung, làm khắp cả
một lúc, mà không trực tiếp chỉ đạo những nơi khác, thì không thể biết chính sách
của mình đúng hay sai. Cũng không thể làm cho nội dung của chính sách đó đầy
đủ, thiết thực.” Sự lãnh đạo thiết thực trong mọi công việc của Đảng là: Từ trong
quần chúng mà ra, trở lại nơi quần chúng.
Liên hợp lãnh đạo với quần chúng, là người lãnh đạo phải có một số người
hăng hái làm trung kiên cho sự lãnh đạo, và nhóm trung kiên này phải có mối liên
hệ mật thiết với quần chúng, để nắm rõ được tình hình quần chúng, từ đó, tạo nên
sự thân thiết gần gũi giữa cán bộ lãnh đạo với quần chúng nhân dân. : “Tuy nhiên,
nếu chỉ có sự hăng hái làm trung kiên, mà không liên hợp với sự hăng hái của
quần chúng, nhóm trung kiên này sẽ phải chạy suốt ngày mà không đạt hiệu quả
gì.” Trong tác phẩm, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ là bất kỳ ở đâu có quần
chúng, thì ở đó có ba hạng người: hạng hăng hái, hạng vừa vừa, hạng kém. Mà
trong số đó thì hạng vừa vừa là chiếm phần đa, hai hạng còn lại chiếm số it hơn.
Do vậy, người lãnh đạo giỏi, phải biết nhìn nhận và sử dụng hạng hăng hái để tổ
chức làm nhóm trung kiên, thu hút hạng vừa vừa và hạng kém.


3.

Học hỏi quần chúng nhân dân, nhưng không được theo đuôi quần chúng.
Quần chúng nhân dân, là thành phần hăng hái của cách mạng, là những


người làm nên lịch sử. Họ có kinh nghiệm thực tế, Người căn dặn cán bộ, đảng
viên trước hết phải có lòng tin vào quần chúng nhân dân: "Chúng ta phải ghi tạc
vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ
cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ" và phải biết dựa vào ý kiến của
dân chúng để chỉnh sửa cán bộ và tổ chức, từ đó không ngừng nâng cao năng lực
phục vụ nhân dân. cán bộ, đảng viên phải giữ mối liên hệ chặt chẽ với dân, làm
việc gì cũng phải giữ nguyên tắc bàn bạc cùng dân và giải thích cho dân hiểu, để
khơi dậy không khí dân chủ và tinh thần hăng hái ở họ. Trong tác phẩm, khá nhiều
lần cụm từ "từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng" và "lãnh đạo liên hợp
với quần chúng" được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, coi đó là những nguyên
tắc quan trọng trong quá trình lãnh đạo, làm việc của tổ chức Đảng và đảng viên,
bởi lẽ, "Sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình cũng chưa đủ cho sự lãnh đạo đúng
đắn. Vì vậy, ngoài kinh nghiệm của mình, ...còn phải dùng kinh nghiệm của đảng
viên, của dân chúng, để thêm cho kinh nghiệm của mình" . Nhưng bên cạnh đó,
Người cũng nhấn mạnh một điểm hết sức đáng lưu ý và quan trọng, Hồ Chí Minh
căn dặn cán bộ, đảng viên đánh giá đúng vai trò, sức mạnh của quần chúng song
tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng, bởi "Trong dân chúng, có nhiều tầng
lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau. Có lớp tiên tiến, có lớp
chừng chừng, có lớp lạc hậu" . Cán bộ, đảng viên lắng nghe ý kiến của quần
chúng, song không phải dân nói gì cũng nhắm mắt nghe theo, mà phải biết chọn
lựa, vận dụng những ý kiến tích cực, tiến bộ vào công việc, để phục vụ dân tốt hơn.
Phần cuối cùng, phần thứ VI: chống thói ba hoa
Ở phần này, Hồ Chí Minh đề cập tới bệnh ba hoa, căn bệnh mà cán bộ ,đảng
viên dễ mắc phải. Người chỉ ra những biêu hiện của thói ba hoa như: dài dòng,


rỗng tuếch, thói cầu kỳ, khô khan, lúng túng, báo cáo lông bông, lụp chụp, cẩu thả,
sáo cũ, nói không ai hiểu. Thói ba hoa gắn với bệnh chủ quan và hẹp hòi...
- Đồng thời Người cũng đưa ra những biện pháp để chữa trị căn bệnh này như:

- Mỗi câu nói, mỗi chữ viết cần phải tỏ rõ tư tưởng, và lòng ước ao của quần
chúng
- Phải luôn luôn dùng những lời lẽ, những thí dụ đơn giản, thiết thực và dễ hiểu.
- Khi nói khi viết phải cố gắng làm cho ai cũng có thể hiều được.
- Chưa nghiên cứu, tìm hiểu, chưa điều tra rõ ràng, kỹ càng, thì chưa nói, chưa
viết.
- Trước khi nói, phải nghĩ cho chín chắn, phải chắc chắn những điều mình nói, sắp
đặt ý cẩn thận, có trình tự , lo gic, sau khi viết xong phải xem đi xem lại nhiều lần,
nếu tài liệu quan trọng thì phải xem đi xem lại chín mười lần.
3. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh qua tác phẩm sửa đổi lối làm
việc của Người đối với công tác Xây dưng Đảng ở nước ta hiện nay :
Đảng cộng sản từ khi ra đời cho đến nay, đã hơn 80 năm. Mỗi bước đi của
lịch sử đều có những đóng góp vô cùng to lớn của Đảng. Đảng đã dẫn dắt cách
mạng nước ta đi hết thắng lợi này, đến thắng lợi khác, giành lại độc lập tự do cho
đất nước, hòa bình ấm no cho dân tộc. Công lao Đảng quả thật vĩ đại.
Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc ta và tinh hoa văn hoá của nhân loại, là tài sản tinh thần vô giá của
Đảng và nhân dân ta; là tấm gương sáng để mọi người Việt Nam học tập và noi
theo.
Việc thực hiện học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nhằm để
phục vụ cho công tác xây dựng Đảng ở nước ta hiện nay. Công tác xây dựng Đảng
bao gồm ba mặt : đó là Xây dựng Đảng về chính trị, xây dựng Đảng về tổ chức và
xây dựng Đảng về tư tưởng. Đảng ta đã và đang vận dụng những quan điểm tư
tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh qua tác phẩm Sửa đổi lối làm việc phục vụ cho


công cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng.
3.1 Về xây dựng Đảng về chính trị và tư tương
Xây dựng Đảng về chính trị,là việc bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận, gắn

chặt lý luận với thực tiễn cách mạng Việt Nam để nâng cao năng lực hoạch định
đường lối cách mạng, góp phần phát triển lý luận Mác-Lê nin, soi sáng con đường
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Điều cốt yếu là Đảng ta luôn lấy Chủ nghĩa Mác-Lê
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động
của mình. Lập trường nguyên tắc của Đảng là kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với Chủ nghĩa xã hội để tìm ra hình thức và bước đi phù hợp, chống mọi biểu
hiện chủ quan, giáo điều và mọi biểu hiện cơ hội trong Đảng dưới mọi mầu sắc.
Xây dựng đảng về tư tưởng là Xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tư tưởng là làm
cho hệ thống lý luận của Chủ nghĩa Mác -Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh thật sự
trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn
dân ta, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp côngnhân của Đảng. Tại lớp huấn
luyện đảng viên mới của Thành uỷ Hà Nội, ngày 14-5-1966. Bác Hồ nói: ''Để lãnh
đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các
đảng viên đều tốt. Muốn xây dựng chi bộ "bốn tốt'' thì phải bồi dưỡng lập trường
vô sản cho đảng viên. Muốn có lập trường vô sản vững chắc thì đảng viên phải có
ý thức giai cấp, đồng thời phải có lý luận cách mạng. Không có lý luận về chủ
nghĩa xã hội khoa học thì không thể có lập trường giai cấp vững vàng.
Tiếp thu theo tư tưởng của Người trong tác phẩm, Công tác xây dựng Đảng
về chính trị tư tưởng, được coi là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng ta.
Việc đề ra đường lối chính trị để lãnh đạo đất nước phát triển, theo quan điểm của
Người phải phù hợp với tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân, mọi đường
lối chủ trương Đảng đề ra cần phai biết lắng nghe ý kiến từ nhân dân,Xây dựng,
chỉnh đốn Đảng về chính trị là kiên định con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa


chọn, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong những bài học
mà Đại hội VIII của Đảng đã tổng kết sau mười năm đổi mới, bài học về giữ vững
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được đưa lên hàng đầu. Độc lập dân
tộc gắn liềnvới chủ nghĩa xã hội là bài học xuyên suốt trong lịch sử lãnh đạo cách
mạng của Đảng ta.Các đại hội và hội nghị Trung ương từ khoá VI đến khoá VIII

đã chỉ ra những yếu kém, khuyết điểm trong Đảng và đề ra các biện pháp khắc
phục. Tình hình có chuyển biến nhất định, nhưng một số khuyết điểm chậm được
khắc phục, có mặt diễn biến xấu hơn. Đó là tình trạng thiếu thống nhất trong Đảng
về nhận thức, ý chí và hành động; là sự sa sút, thoái hoá, biến chất của một bộ phận
cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống, nhất là tình trạng tham nhũng, lãng phí,
quan liêu; là tình trạng thực hiện không nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ,
chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng v.v. Hội nghị Trung ương 3, khóa VII,
tháng 6-1993, với Nghị quyết về “Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng” đã
trở thành một cuộc vận động lớn trong toàn Đảng. Nghị quyết chỉ rõ: Đây là một
nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đối với vận mệnh của chế độ ta và Đảng ta.
Mục tiêu của đổi mới, chỉnh đốn Đảng là, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, phù hợp với yêu cầu khách quan của cách mạng trong tình
hình mới, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, bảo đảm thực hiện có kết quả
các nhiệm vụ chính trị do Đại hội VII đề ra, trọng tâm là phát triển kinh tế, làm cho
dân giàu, nước mạnh, giữ vững ổn định chính trị. Nguyên tắc của đổi mới, chỉnh
đốn Đảng là, quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, kiên trì đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt đảng; củng cố mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Yêu cầu và nội
dung của đổi mới, chỉnh đốn Đảng là, tăng cường xây dựng Đảng về chính trị và tư
tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo của Đảng, trình độ, kiến


thức, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, khắc phục có hiệu quả tệ tham
nhũng, tăng cường dân chủ và kỷ luật, củng cố khối thống nhất trong Đảng và
trong nhân dân. Cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng được chỉ đạo khá tập trung và kiên
quyết, từ đó tới cuối năm 1998, đạt những kết quả nhất định nhưng chưa đáp ứng
yêu cầu đề ra. Ngày 2-2-1999, Trung ương Đảng khóa VIII ra Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 6 (lần 2) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng

Đảng hiện nay” đã phát động trong toàn Đảng cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình. Đây là sự tiếp nối Nghị quyết Trung
ương 3, khoá VII, tháng 6-1993, nhưng có yêu cầu cao hơn, nội dung tập trung hơn
và chỉ đạo thực hiện với tinh thần quyết liệt hơn. Với mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ
và cách làm thích hợp, cuộc vận động đã đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn
và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân, nên đã tạo ra một không khí mới trong
công tác xây dựng Đảng. Sau mấy năm thực hiện cuộc vận động, công tác xây
dựng Đảng đã đạt được những kết quả quan trọng. Nhận thức chính trị của cán bộ,
đảng viên được nâng lên một bước, nhất là về đường lối, quan điểm của Đảng; về
vị trí then chốt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; về sự kiên định đối với
nguyên tắc, Cương lĩnh và Điều lệ Đảng; ý thức đề phòng, ngăn ngừa sự suy thoái
về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên được nâng cao. Nêu cao hơn tinh thần
trách nhiệm, coi trọng việc mở rộng và phát huy dân chủ. Xử lý được nhiều việc
nổi cộm, tồn đọng, thực hiện một bước chỉnh đốn, kiện toàn tổ chức đảng các cấp;
thi hành kỷ luật và thay đổi một số cán bộ vi phạm, trong đó có cả cán bộ cao cấp,
góp phần tích cực vào việc lựa chọn nhân sự đúng tiêu chuẩn cho bầu cử đại biểu
Quốc hội khúa XI, XII và nhân sự cho Đại hội IX và X của Đảng. Mặc dù còn
nhiều hạn chế, nhưng những kết quả thu được là đáng ghi nhận, từ đó Đảng ta cũng
rút ra một số kinh nghiệm để tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới. Đặc biệt, trong giai đoạn mới của
cách mạng nước ta, trước yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện


×