Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

50 reading test 50 bài đọc dịch tiếng Anh chuyên nganh kinh tế ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.71 KB, 28 trang )

Reading 1/50

A Bank a/c

Một Tài khoản (TK) ngân hàng

For the safety, convenience and many other
benefits, more and more people open a bank a/c.
An a/c is a record of a customer’s money
transactions (deposits and withdrawls). Its form is
like the letter T with Debits on the left and Credits
on the right. An a/c can have either credit or debit
balance. A credit balance is the statement of an
a/c when more money is deposited than
withdrawn while a debit balance is when less
money is deposited than withdrawn. Every month
a/c holders are given an a/c statement showing
the month’s transactions, consiting Date, Detail,
Debits, Credits and Balance and pay an a/c
charge, but if they can keep their a/c in credit, this
service will be free of charge.

Với sự an toàn, thuận tiện và nhiều tiện ích khác, ngày
càng có nhiều người mở tài khoản ngân hàng. Một tài
khoản là bảng ghi chép lại các giao dịch tiền mặt của
một khách hàng (gửi tiền và rút tiền). TK tại ngân hàng
có dạng như chữ cái T với mục “Nợ” bên trái và “Có”
bên phải. Một TK có thể có Dư có hoặc Dư nợ. Số dư
Có trong bản sao kê của một TK khi mà số tiền gửi
vào hơn số tiền rút ra và Tài khoản dư Nợ là khi số
tiền gửi vào ít hơn số tiền rút ra. Hàng tháng, các chủ


TK nhận được một bản sao kê cho thấy các giao dịch
của tháng đó, bao gồm các cột Ngày giao dịch, Chi
tiết giao dịch, Phát sinh Nợ, Phát sinh Có và
Số dư, và chi trả một khoản phí duy trì TK, nhưng
nếu họ có thể giữ tài khoản Dư có, dịch vụ này sẽ
được miễn phí.

Banks will make a note of credit or debit entry in
customer’s a/c when they pay money in or out
their a/cs. When a customer deposits $50 in his
a/c, the bank credits this amount to the customer’s
a/c and at the same time debits $50 to the
bank’s a/c. This is an example of double entry.

Các ngân hàng sẽ thực hiện ghi bút toán ghi Có
hoặc ghi Nợ vào TK của các khách hàng khi họ chi trả
tiền hoặc gửi tiền vào TK. Khi một khách hàng gửi 50
đôla vào tài khoản anh ta, ngân hàng ghi Có số tiền đó
vào tài khoản của khách hàng đồng thời ghi Nợ 50
đôla vào tài khoản của ngân hàng. Đây là một ví dụ về

Deposits on an a/c may be demand or time.
Normally, the demand deposit a/c pays no or very
little interest whereas the time to pays interest.
The interest rates paid by banks vary from bank to
bank, depending on how long customers leave
their money in the bank: short, medium or long
term. The longer the money remains in the
bank, the more interest it earns. With time
deposits, a/c holders usually withdraw their money

at maturity date but they can take the money out
of the a/c before the maturity date if they want. In
this case, some interest will be lost.

Gửi tiền vào một TK có thể là Tiền gửi không kỳ hạn
hoặc có kỳ hạn. Thông thường, TK tiền gửi không kỳ
hạn không được hoặc được trả lãi rất thấp trong khi
TK tiền gửi có kỳ hạn lại được hưởng lãi suất. Tỷ lệ lãi
suất chi trả khác nhau giữa các ngân hàng, phụ thuộc
vào thời gian khách hàng để tiền của họ tại ngân
hàng: ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn. Số tiền

A withdrawal slip is usually used to withdraw
money from an a/c. However, current a/c holders
can withdraw money from their a/c by writing
cheques. In this case, they do not need to write
their names as the payee of the cheque, but write
“cash” or “self”.

Một phiếu rút tiền thường được sử dụng để rút tiền từ
một TK. Tuy nhiên chủ TK vãng lai có thể rút tiền từ tài
khoản của họ bằng việc viết Séc. Trong trường hợp
này, họ không cần viết tên của họ như tên người thụ
hưởng trên séc, mà chỉ cần viết “Rút tiền” hoặc “Cho
chính tôi”

To open an a/c, the applicant is required to fill in
an a/c opening application form and to
deposit some money. An a/c can be opened for
individuals or a company. The former is the

personal while the latter is the coporate or a

Để mở một TK, người yêu cầu cần điền đầy đủ các
thông tin vào một mẫu Đơn xin mở TK và gửi
vào một ít tiền. Một TK có thể được mở cho các cá
nhân hoặc một công ty. Cái đầu tiên gọi là TK cá nhân
trong khi cái sau gọi là TK công ty hoặc TK doanh

Bút toán kép.

được duy trì càng lâu thì lãi nhận được càng
nhiều. Với TK tiền gửi có kỳ hạn, chủ TK thường rút
tiền của họ vào ngày đáo hạn tuy nhiên họ có thể lấy
tiền khỏi TK trước ngày đáo hạn nếu họ muốn. Trong
trường hợp như vậy, một số lãi sẽ bị mất.


business a/c. In general, the procedures of

nghiệp. Nhìn chung, các thủ tục mở một TK công

opening a coporate a/c are

ty là

(S = “The procedures of opening a coporate a/c”
that’s why we use “are”)

more complicated than a personal one.


(Chủ ngữ =”Các thủ tục mở một tài khoản công ty” do
đó chúng ta dùng “are”)
phức tạp hơn khi mở một TK cá nhân.

To close an a/c, it is necessary to withdraw all the
blance on it.

Để đóng một TK, điều cần thiết là phải rút toàn bộ số
dư trong TK đó.

There are different types of a/c to meet the various
needs customers: current (checking), deposit

Có nhiều loại TK khác nhau đáp ứng các nhu cầu
khác nhau của các khách hàng: TK vãng lai (TK ký

and savings a/c, sole and joint a/cs,
personal and coporate a/cs.

phát Séc), TK tiền gửi và TK tiết kiệm, TK riêng
và TK chung, TK cá nhân và TK doanh nghiệp

Reading 2/50

Current A/c

Tài khoản vãng lai

A current a/c, known as checking a/c in USA, is
the most popular bank a/c. It provides both safety

and convenience. Like any other types of bank
a/c, it is safe because the a/c holders do not need
to carry cash, which can be easily lost or stolen. It
is also convenient since the holders are given a
cheque book-small booklet full of cheques – to
pay their daily bills easily and to withdraw money
from their a/cs. Moreover, current a/c holders may
be provided with a cash card, which can be used
to withdraw money from their a/cs by using ATMs
(Automated Teller Machines) and a debit card
used to pay for goods or services through autopayment system without making out a cheque.

Một tài khoản (TK) vãng lai, giống như tài khoản ký
phát séc ở Mỹ, là TK ngân hàng được biết đến nhiều
nhất. Giống một số loại TK ngân hàng khác, nó an
toàn bởi chủ TK không cần mang theo tiền mặt, rất dễ
bị mất hoặc bị trộm. TK vãng lai cũng mang lại sự tiện
lợi khi chủ TK được nhận một quyển sổ Séc-một
quyển sổ nhỏ có đầy đủ các thông tin như một tờ Séc
– dùng để chỉ trả các hoá đơn hằng ngày một cách dễ
dàng và rút tiền từ tài khoản của các khách hàng. Hơn
thế nữa, TK vãng lai có thể được cung cấp kèm một
thẻ tiền mặt, nó được dùng để rút tiền mặt từ tài
khoản của khách hàng khi sử dụng các máy ATM
(Máy đọc thẻ tự động) và thẻ ghi Nợ để chi trả các
hàng hoá hoặc các dịch vụ thông qua hệ thống thanh
toán tự động mà không cần phải ký phát một tờ Séc
nào.

However, current a/c do not usually pay interest

since money on this is usually demand deposit,
which can be withdrawn at any time. This does
not allow banks to use this deposit to lend out
with interest to those who need capital.

Tuy vậy, TK vãng lai thường không được trả lãi do
tiền trong TK thường là tiền gửi không kỳ hạn, nó có
thể bị rút bất kỳ lúc nào. Nó không cho phép ngân
hàng sử dụng như đối với tiền gửi tiết kiệm để cho
vay lấy lãi từ nhưng người cần vốn.

Current a/c holders may overdraw their a/cs up to
a limit called agreed overdraft limit. Sometimes
customers write a cheque for more money than
they have in their a/c. This is called bouncing a
cheque. And if a current a/c holder bounces a
cheque the bank usually charges a bounced
cheque fee. This is necessary to prevent the
holders from writing bad cheques. In practice,
however, banks usually require that the holders
keep a minimum amount of money in the a/c. This
guarantees that the banker will at least be able to
lend out a certain amount with interest to pay the

Các chủ TK vãng lai có thể thấu chi TK của họ đến
một giới hạn gọi là hạn mức thấu chi thoả thuận.
Đôi khi khách hàng ký phát một tờ Séc với số tiền lớn
hơn số tiền họ có trong TK. Trường hợp này gọi là ký
phát Séc quá số dư. Và nếu chủ TK vãng lai ký phát
Séc quá số dư ngân hàng thường tính phí trên tờ Séc

bị ký phát quá đó. Điều này rất cần thiết nhằm tránh
trường hợp chủ TK ký phát séc xấu. Nhưng trong
thực tế, các ngân hàng thường yêu cầu các chủ TK
giữ một mức tiền tối thiểu trong TK. Nó đảm bảo rằng
ngân hàng sẽ có thể ít nhất cho vay với một số tiền
nhất định, số lãi thu được sẽ dùng để trang trải cho


costs of processing cheques. If the depositors
withdraw money and the balance falls below the
minimum the bank will then charge a service
charge-a small fee each month.

quá trình xử lý Séc. Nếu những người gửi tiền rút tiền
và số dư xuống thấp hơn mức số dư tối thiểu, ngân
hàng theo đó sẽ tính phí một khoản phí dịch vụ-một
mức phí nhỏ hằng tháng.

CHEQUE

SÉC

A cheque is an order by the account holder to
withdraw funds from his a/c, either is cash through
payment to another party

Một tờ séc là lệnh từ chủ tài khoản rút vốn từ tài
khoản của anh ta, cũng như rút tiền mặt thông qua
hệ thống thanh toán để chi trả cho người khác.


Cheques provide both safety and convenience. A
cheque is a non-cash payment instrument, i.e
customer do not need to carry large amounts of
cash with them, which is easy to be lost or stolen.
In addtion, a cheque is only valid when it is signed
by the a/c holder and is secured by a cheque
card so your money can not be withdraw from your
a/c if someone finds your cheque book. Using
cheques is convenient because they are easy to
use. The a/c holder can draw a cheque anywhere
without going to the bank such as in shops,
supermarkets, restaunrants, hotels and so on.

Séc mang lại cả sự an toàn và tiện lợi. Một tờ séc
là một công cụ thanh toán phi tiền mặt, ví dụ
việc khách hàng không cần mang nhiều tiền mặt,
vì nó dễ bị mất hoặc bị mất cắp. Ngoài ra, séc chỉ
có giá trị khi có chữ kí của chủ tài khoản (TK) và
nó được đảm bảo bởi Thẻ sử dụng Séc do vậy
tiền của bạn không thể bị rút ra khỏi TK của bạn
khi có ai đó lấy được Sổ Séc. Sử dụng Séc tiện lợi
bởi vì chúng rất dễ sử dụng. Chủ TK có thể ký
phát Séc ở bất cứ đâu mà không cần đến ngân
hàng ví dụ như tại các cửa hàng, siêu thị, tiệm ăn,
khách sạn, vân vân…

When drawing a cheque, it is obligatory to
complete all. The drawer must write cheques in ink
and avoid as much blank as possible for
fraudulence and use the ruler to cross out any

blanks. In the case of a blank cheque book being
used, all the cheques need to be crossed, with
“not negotiable”. If the cheque is corrected or
changed, the drawer must initial the correction in
addition to his usual signature. In effect, a cheque
presented will be honoured if there is enough
money in the drawer’s a/c.

Khi ký phát một tờ Séc, điều bắt buộc là phải
điền đầy đủ thông tin. Người ký phát phải ghi lên
Séc bằng mực và tránh để trống trên Séc ở mức
tối đa có thể và sử dụng thước để gạch những
khoảng trống. Trong trường hợp sử dụng một Sổ
Séc trắng, tất cả các tờ Séc cần phải bị gạch bỏ,
với dòng chữ “không thể chuyển nhượng”.
Nếu tờ Séc bị điền thông tin sai hoặc có thay đổi
thì người ký phát cần xác nhận chính xác các
thông tin thêm cho chữ ký thông thường của anh
ta. Trên thực tế, một tờ Séc khi trình diện sẽ được
thanh toán nếu có đủ tiền mặt trong TK của
người ký phát.

Different types of cheque book are supplied to a/c
holders free of charge according to their
requirements either with or without stubs, bear or
order, crossed or uncrossed.

Những điểm khác biệt giữa Sổ Séc là nó cung cấp
miễn phí cho chủ TK theo yêu cầu của họ có hoặc
không có cuống séc, séc vô danh hoặc theo lệnh,

séc gạch chéo hoặc không gạch chéo.

Cheque books can be sent to an a/c holder by
registered post, or may be given to him at the
counter against his signed receipt.

Sổ Séc có thể được gửi tới một chủ TK thông qua
cổng thông tin đã đăng ký, hoặc có thể gửi cho
anh ta qua quầy thanh toán thông qua biên lai
đã kí nhận của chủ TK.

Cheque books are considered as security
documents in view of danger of their misuse by
persons trying to commit fraud.

Sổ Séc được xem là một tài liệu bảo mật trong
việc kiểm soát những sai sót khi một người cố tình
sử dụng và gửi những Séc lỗi


AMERICAN EXPRESS TRAVELERS
CHEQUES

SÉC DU LỊCH CỦA NGÂN HÀNG
AMERICAN EXPRESS

Nothing ruins a trip faster than having your wallet
lost or stolen. If you lose cash, it’s gone.

Không có gì tàn phá một chuyến đi du lịch nhanh

hơn việc bạn bị mất hoặc mất trộm ví. Nếu bạn sợ
mất tiền, điều lo lắng này đã chấm dứt.

Unlike cash, American Express Travelers

Không giống như tiền mặt, Séc Du Lịch

Cheques are protected, from the moment you sign
them to the moment you spend them. If they’re lost
or stolen, they can be replaced quickly and easily
with one call, virtually anywhere in the world,
usually within 24 hours. So Travelers Cheques let
you bring along peace of mind every time you
travel.
And Travelers Cheques are easy to buy. They’re
avaible for purchase online, by phone or at
convenient American Express Travel Service
Locations. So don’t take a chance with cash.

American Express đã được bảo đảm, từ lúc bạn ký
Séc và tới lúc sử dụng chúng. Nếu chúng bị mất
hoặc mất trộm, bạn có thể lấy lại nhanh chóng và
dễ dàng chỉ với một cuộc gọi, thực tế là ở bất cứ
đâu trên thế giới, thường chỉ trong vòng 24 giờ. Do
vậy Séc Du lịch mang lại cho bạn giây phút
an tâm trong cả chuyến đi.
Và những tờ Séc Du lịch này cũng rất dễ mua.
Chúng cho phép bạn đặt mua qua mạng, bằng
gọi điện thoại hoặc tiện nhất là thông qua Các


Điểm Cung Cấp Séc Du lịch American
Express. Bạn không cần mang theo bất cứ loại
tiền mặt nào bên người.

American Express Travelers Cheques let you know
just how much you’re spent at all time, so it’s easy
to track and control your travel expenses.

Séc Du Lịch American Express sẽ cho bạn biết
bạn đã chi tiêu bao nhiêu vào bất cứ lúc nào, do
đó thật dễ dàng để tự điều chỉnh chi phí cho
chuyến du lịch của bạn.

There are different types of Cheque to meet all
your travel needs.

Có nhiều loại Séc khác nhau cho tất cả các nhu
cầu trong chuyến du lịch của bạn.

American Express Travelers Cheques are easy to
use . They come in a variety of currencies and
denominations, and are accepted around the
world. American Express Travelers Cheques don’t
expire, either. So you can save unused Travelers
Cheques and bring them on your next trip.

Séc Du Lịch American Express rất dễ sử dụng.
Chúng thân thiện và đa dạng về đơn vị tiền tệ lẫn
mệnh giá, được chấp nhận trên toàn thế giới.
Séc Du Lịch American Express không có ngày hết

hạn, bởi vậy bạn có thể giữ lại những tờ Séc Du
lịch chưa dùng đến và mang chúng cho chuyến
đi tiếp theo.

5/50 Readings
MONEY

TIỀN TỆ

All value in the economic is measured in terms of
money. Our goods and services are sold for money,
and that money is in turn exchanged for our goods

Tất cả các giá trị của nền kinh tế đều được đo lường
bởi tiền tệ. Các hàng hoá và dịch vụ cảu chúng ta đều
được bán để thu tiền và ta lại dùng thứ tiền đó để trao


and services. Coins are adequate for small
transactions while paper notes are used for general
business. There is additionally a wider sense of the
word money, covering anything which is used as a
means of exchange whatever form it may take.
Originally, a valuable metal (gold, silver or copper)
served as a constant store of value, and even today
the America dollar is technically backed by the store
of gold which the US government maintains.
Because gold has been universally regarded as a
very valueable metal, national currencies are
considered to be as strong as the national

economies which support them.

đổi lấy thứ hàng hoá và dịch vụ ta cần. Những đồng
tiền thích hợp cho các giao dịch nhỏ trong khi đó tiền
giấy được sử dụng cho các giao dịch thông thường.
Ngoài ra từ tiền tệ còn có khái niệm rộng hơn, bao
trùm bất cứ vật gì được dùng làm như một phương
tiện trao đổi. Điển hình như một miếng kim loại có giá
trị (vàng, bạc hoặc đồng) phục vụ như một thước đo
giá trị chuẩn, và thậm chí ngày nay Đôla Mỹ về mặt kĩ
thuật vẫn được đảm bảo bởi vàng, chúng được Chính
Phủ Mỹ cất giữ. Do vàng được lưu thông rộng rãi như
một loại tiền kim loại rất có giá, tiền tệ của các nước
được xem xét mạnh hay không phụ thuộc rằng họ
cung cấp ra bao nhiều tiền vàng kim loại.

Valuable metal has generally been replaced by
paper notes. These notes are issued by government
authorized bank, and are known as “legal tender”.
Other arrangements such as cheques and money
orders are not legal tender. They perform the
function of subsititue money and are known as
“instrument of credit”. Credit is offered only when
creditors believe that they have a good chance of
obtaining legal tender when they present such
instruments at a bank or another authorized
institution. If a man’s assets are known to be
considerable, then his credit will be good. If his
assets are in doubt, then it may be difficult for him to
obtain large sums of credit or even to pay for goods

with a cheque.

Đồng kim loại có giá đã được thay thế rộng rãi bởi các
loại giấy bạc có giá. Những loại giấy bạc này được
phát hành bởi Ngân hàng được Chính phủ uỷ quyền,
và được biết đến với tên gọi “Tiền tệ chính thức”. Các
công cụ tài chính khác như Séc và ngân phiếu không
được gọi là Tiền tệ chính thức. Chúng thực hiện các
chức năng của tiền tệ và được biết đến như những
“Công cụ cho vay”. Khoản vay được cấp chỉ khi người
cho vay tin tưởng rằng chúng có cơ hội tốt để được
chấp nhận như là tiền tệ chính thức khi được đưa ra
tại một ngân hàng hay một tổ chức nào khác. Nếu tài
sản (thế chấp) một người có giá trị đáng kể, thì khoản
cho vay của anh ta sẽ được đảm bảo. Nếu tài sản của
anh ta có vấn đề, thì có thể rất khó để anh ta được vay
một khoản tiền lớn thậm chí là chi trả hàng hoá bằng
Séc.

The value of money is bassically its value as a
medium of exchange, or as economists put it, its
purchasing power. This puschasing power is
dependent on supply and demand. The demand for
money is reckonable as the quantity needed to
effect business transactions. An increase in
business requires an increase in the amount of
money coming into general circulation. But the
demand for money is related not only to the quantity
of business but aslo to the rapidity with which the
business is done. The supply of money, on the

other hand, is the actual amount in notes and coins
availble for business purposes. If too much money
is availble, its value decreases, and it does not buy
as much as it did, say, five years earlier. This
condition is known as inflation.

Giá trị của tiền về cơ bản là giá trị của một phương
tiện trao đổi, hoặc hiểu như nhiều nhà kinh tế đặt cho
nó – đó là sức mua của tiền. Sức mua của tiền phụ
thuộc vào quan hệ cung cầu. Nhu cầu tiền trong các
giao dịch kinh doanh được xác định là lượng tiền
cần có cho một giao dịch. Sự tăng của một đơn vị giao
dịch đòi hỏi mức tăng tương ứng một lượng tiền để
đáp ứng vòng tuần hoàn chung. Nhưng nhu cầu tiền tệ
không chỉ liên quan đến tần suất các giao dịch mà nó
còn thúc đẩy các giao dịch diễn ra nhanh chóng.
Cung về tiền tệ, trên khía cạnh khác, là lượng tiền
thực tế gồm tiền giấy và tiền đồng đáp ứng mục đích
của các thương vụ. Nếu có quá nhiều tiền mặt được
lưu hành, tiền sẽ bị giảm giá trị, khi đó nó sẽ không
mua được một lượng hàng hoá cùng giá trị như trước,
người ta nói, 5 năm sau. Đây là điều kiện được biết
đến như Lạm phát.

6/50 Readings
THANH TOÁN BÙ TRỪ


CLEARING
We have beeen trying to get non-cash society,

where there is not any or very little cash in
circulation because cash has caused many
problems to customers. In recent decades, noncash payment instruments such as cheques,
banker’s drafts, credit slips … have been used
increasing in banking field. The appearance of
clearing has become vital to banks because it
makes payment between banks or branches
simpler, cheaper and more efficient.

Chúng ta đang cố gắng tạo ra một xã hội phi tiền
mặt, đó sẽ là nơi mà không có hoặc rất ít tiền mặt
trong lưu thông bởi tiền mặt là nguyên nhân của
nhiều phiền toái cho các khách hàng. Trong
những thập niên gần đây, các công cụ thanh
toán không dùng tiền mặt như Séc, hối phiếu ngân
hàng, phiếu ghi nợ … ngày càng được sử dụng
nhiều hơn trong lĩnh vực ngân hàng. Sự xuất hiện
của Thanh toán bù trừ đã trở thành điều sống còn
đối với các ngân hàng, bởi vì nó khiến cho các giao
dịch giữa các ngân hàng hoặc các chi nhánh trở nên
đơn giản hơn, tiết kiệm hơn và hiệu quả hơn.

Clearing process may be seen as the payment of
cheques, credit slips, credit card, vouchers …
between two banks or two branches through the
clearing system. There are two types clearing:
Debit clearing and credit clearing. The former
involves initial credit and subsequent debit, while
the latter invovles initial debit and subsequent
credit. In other words, in debit clearing money is

first credited to the payee’s account and then
debited to the drawer’s account. Debit clearing
enables banks to collect payment, but credit
clearing enables them to make payment. Debit
clearing deals with debit instruments such as
cheques, credit card vouchers whereas credit
clearing deals with credit instruments such as
credit slips.

Quá trình thanh toán bù trừ có thể thấy như việc
thanh toán Séc, phiếu ghi có, thẻ tín dụng, hoá đơn
bán hàng … giữa 2 ngân hàng hoặc giữa 2 chi
nhánh thông qua hệ thống thanh toán bù trừ. Có 2
loại thanh toán bù trừ: Thanh toán bù trừ báo
ghi Nợ và Thanh toán bù trừ báo ghi Có. Cái
đầu tiên bao gồm việc ghi Có trước và ghi Nợ sau.
Hay nói cách khác, trong thanh toán bù trừ báo ghi
Nợ thì đầu tiên là ghi có vào tài khoản của người thụ
hưởng sau đó ghi nợ vào tài khoản của người chi
trả. Thanh toán bù trừ báo ghi Nợ cho phép các
ngân hàng thực hiện thanh toán, nhưng thanh toán
bù trừ báo ghi Có cho phép họ thanh toán. Thanh
toán bù trừ báo ghi Nợ giải quyết các công cụ ghi nợ
như Séc, thẻ ghi có, hoá đơn trong khi Thanh toán
bù trừ báo ghi có giải quyết các công cụ ghi có như
phiếu ghi có.

Nowadays the clearing becomes more efficient
then ever because banks have put the electronics
into their operation such as magnetic ink,


Ngày nay, thanh toán bù trừ thở nên hiệu quả hơn
bao giờ hết bởi vì các ngân hàng tự động hoá trong
các thao tác làm việc của họ ví dụ như các máy

optical character recognition machines…

nhận diện ký hiệu mực từ, các máy nhận
diện ký tự quang học…

7/50 Reading texts

BANK & BANKING

Ngân hàng và hoạt động của ngân
hàng

Banks are closely concerned with the flow of
money into and out of the economy. They often
cooperate with gorvernments in efforts to stabilize
economies and prevent inflation. They are
specialist in the business of providing capital, and
in allocating funds on credit. Banks originated as
places to which people took their valuables for

Các ngân hàng hoạt động liên quan đến dòng tiền
lưu thông trông nền kinh tế. Các ngân hàng thường
hợp tác với chính phủ để ổn định nền kinh tế và ngăn
chặn lạm phát. Họ có sự chuyên biệt về hoạt động
kinh doanh trong việc cung cấp vốn, và cấp phép các

hạn mức tín dụng. Các ngân hàng bắt nguồn là nơi
mà mọi người lưu giữ bảo quản những đồ vật có giá


safe-keeping, but today the great banks of the
world have many functions in addition to acting
as guardians of valuable private possessions.

trị, nhưng cho đến nay các ngân hàng lớn trên thế
giới có nhiều chức năng kể đến trong đó là chức
năng như một vệ sĩ bảo vệ các giá trị cá nhân.

Banks normally receive money from their
customers in two distinct forms: on current a/c
and on deposit a/c. With a current a/c, a
customer can issue personal cheques. No
interest is paid by the bank on this type of a/c.
With a deposit a/c, however, the customer
undertakes to leave his money in the bank for a
minimum specified period of time. Interest is paid
on this money.

Các ngân hàng thường nhận tiền mặt từ khách hàng
của họ theo 2 hình thức khác nhau: thể hiện trên tài
khoản vãng lai & tài khoản (TK) tiền gửi tiết kiệm. Với
một TK vãng lai, một khách hàng có thể phát hành
Séc cá nhân. Không có lãi được trả bởi ngân hàng
đối với loại tài khoản này. Tuy nhiên, với một tài
khoản tiền gửi, khách hàng buộc phải để tiền của anh
ta tại ngân hàng với số dư tối thiểu trong một khoảng

thời gian xác định. Số tiền này được hưởng lãi.

The bank in turn lends the deposited money to
customers who need capital. This activity earns
interest for the bank, and this interest is almost
always at a higher rate than any interest which
the bank pays to its depositors. In this way, the
bank makes its main profits.

Ngân hàng theo đó cho vay số tiền gửi này đến tay
của người cần vốn. Hoạt động này mang lại lợi
nhuận cho ngân hàng, và khoản lãi này hầu như cao
hơn mức lãi mà ngân hàng trả cho người gửi tiền.
Bằng cách này, ngân hàng tạo ra khoản lợi nhuận
chính cho mình.

We can say the the primary function of a bank
today is to act an intermediary between
depositors who wish to make interest on their
savings, and borrowers who wish to obtain
capital. The bank is a reservoir of loanable
money, with streams of money flowing in and out.
For this reason, economics and financies often
talk of money being liquid, or of the liquidity of
money. Many small sums which might not
otherwise be used as capital are rendered uesful
simply because the bank acts as a reservoir.

Chúng ta có thể nói chức năng chính của một ngân
hàng ngày nay đóng vai trò như một trung gian cho

vay giữa người gửi tiền những người muốn thu lãi từ
khoản tiết kiệm của họ, và những người cần vốn.
Ngân hàng giống như một kho quỹ với các dòng tiền
luân chuyển ra vào. Bởi vậy, các chủ thể kinh tế và tổ
chức tài chính thường nói tiền mặt tài sản thanh
khoản nhất hay còn gọi là sự thanh khoản của tiền.
Nhiều khoản vốn nhỏ sẽ được tập hợp tại kho quỹ
của ngân hàng với vai trò như một trung gian nhận
giữ tiền.

The system of banking rests upon a basis of
trust. Innumerable acts of trust build up the
system of which bankers, depositors and
borrowers are part. They all agree to behave in
certain predictable ways in relation to each other
and in relation to the rapid fluctuations of credit
and debit. Consequently, business can be done
and cheques can be written without any legal
tender visibly changing hands.

Hệ thống của ngân hàng hoạt động dựa trên cơ sở
tin tưởng. Giá trị vô hình này đóng vai trò xây dựng
niềm tin của hệ thống ngân hàng, người gửi tiền,
người đi vay là một phần trong đó. Họ đều chấp
nhận cho vay giữa các bên theo quan hệ tín chấp
một cách nhanh chóng và thực hiện việc ghi nợ,
có. Bởi vậy mà, các doanh nghiệp có thể thực
hiện kinh doanh và nhiều tờ Séc được phát hành
mà không cần chứng nhận hợp pháp trên nó.
(Đoạn này dịch ko chắc, vì tớ ko hiểu rõ main của

nó là ý nói về cái j. Nghe lủng củng quá. Chắc nó
muốn nói về cái Quan hệ tín chấp “trust”)

Reading 2/50

Current A/c

Tài khoản vãng lai


A current a/c, known as checking a/c in USA, is
the most popular bank a/c. It provides both safety
and convenience. Like any other types of bank
a/c, it is safe because the a/c holders do not need
to carry cash, which can be easily lost or stolen. It
is also convenient since the holders are given a
cheque book-small booklet full of cheques – to
pay their daily bills easily and to withdraw money
from their a/cs. Moreover, current a/c holders may
be provided with a cash card, which can be used
to withdraw money from their a/cs by using ATMs
(Automated Teller Machines) and a debit card
used to pay for goods or services through autopayment system without making out a cheque.

Một tài khoản (TK) vãng lai, giống như tài khoản ký
phát séc ở Mỹ, là TK ngân hàng được biết đến nhiều
nhất. Giống một số loại TK ngân hàng khác, nó an
toàn bởi chủ TK không cần mang theo tiền mặt, rất dễ
bị mất hoặc bị trộm. TK vãng lai cũng mang lại sự tiện
lợi khi chủ TK được nhận một quyển sổ Séc-một

quyển sổ nhỏ có đầy đủ các thông tin như một tờ Séc
– dùng để chỉ trả các hoá đơn hằng ngày một cách dễ
dàng và rút tiền từ tài khoản của các khách hàng. Hơn
thế nữa, TK vãng lai có thể được cung cấp kèm một
thẻ tiền mặt, nó được dùng để rút tiền mặt từ tài
khoản của khách hàng khi sử dụng các máy ATM
(Máy đọc thẻ tự động) và thẻ ghi Nợ để chi trả các
hàng hoá hoặc các dịch vụ thông qua hệ thống thanh
toán tự động mà không cần phải ký phát một tờ Séc
nào.

However, current a/c do not usually pay interest
since money on this is usually demand deposit,
which can be withdrawn at any time. This does
not allow banks to use this deposit to lend out
with interest to those who need capital.

Tuy vậy, TK vãng lai thường không được trả lãi do
tiền trong TK thường là tiền gửi không kỳ hạn, nó có
thể bị rút bất kỳ lúc nào. Nó không cho phép ngân
hàng sử dụng như đối với tiền gửi tiết kiệm để cho
vay lấy lãi từ nhưng người cần vốn.

Current a/c holders may overdraw their a/cs up to
a limit called agreed overdraft limit. Sometimes
customers write a cheque for more money than
they have in their a/c. This is called bouncing a
cheque. And if a current a/c holder bounces a
cheque the bank usually charges a bounced
cheque fee. This is necessary to prevent the

holders from writing bad cheques. In practice,
however, banks usually require that the holders
keep a minimum amount of money in the a/c. This
guarantees that the banker will at least be able to
lend out a certain amount with interest to pay the
costs of processing cheques. If the depositors
withdraw money and the balance falls below the
minimum the bank will then charge a service
charge-a small fee each month.

Các chủ TK vãng lai có thể thấu chi TK của họ đến
một giới hạn gọi là hạn mức thấu chi thoả thuận.
Đôi khi khách hàng ký phát một tờ Séc với số tiền lớn
hơn số tiền họ có trong TK. Trường hợp này gọi là ký
phát Séc quá số dư. Và nếu chủ TK vãng lai ký phát
Séc quá số dư ngân hàng thường tính phí trên tờ Séc
bị ký phát quá đó. Điều này rất cần thiết nhằm tránh
trường hợp chủ TK ký phát séc xấu. Nhưng trong
thực tế, các ngân hàng thường yêu cầu các chủ TK
giữ một mức tiền tối thiểu trong TK. Nó đảm bảo rằng
ngân hàng sẽ có thể ít nhất cho vay với một số tiền
nhất định, số lãi thu được sẽ dùng để trang trải cho
quá trình xử lý Séc. Nếu những người gửi tiền rút tiền
và số dư xuống thấp hơn mức số dư tối thiểu, ngân
hàng theo đó sẽ tính phí một khoản phí dịch vụ-một
mức phí nhỏ hằng tháng.

Reading 8/50

The bank of England


Ngân hàng nước Anh

The bank of England is the central bank of the
UK. For historical reasons, it is divided into
Issue Departments, each with separate
balance sheets.

Ngân hàng nước Anh là Ngân hàng Trung Ương của Anh.
Với nhiều lý do trong quá khứ, Ngân hàng Trung Ương
Anh được chia cắt thành nhiều Phòng phát hành, mỗi
phòng tách riêng biệt nhau về Bảng cân đối kế toán.

The Issue Department is responsible for
issuing banknotes, shown as liabilities. To
introduce notes into circulation, the Issue

Phòng phát hành chịu trách nhiệm việc phát hành giấy
bạc ngân hàng, phản ánh bên phần nguồn vốn. Để phát
hành tiền giấy ra lưu thông, Phòngp hát hành mua các


Department purchases financial securities:
bills and bonds issued by the government,
commercial firms, or local authorities. These
are shown as assets of the Issue Department.
The exchange of high powered money for
financial securities is called an open market
operation.


chứng khoán phái sinh: giấy tờ có giá và cổ phiếu phát
hành bởi chính phủ, các công ty thương mại, hoặc chính
quyền địa phương. Chúng cho thấy tài sản của Ban phát
hành. Việc trao đổi các đồng tiền mạnh lấy các chứng
khoán phái sinh được gọi là hoạt động thị trường mở.

The Banking Department acts as banker to the
commercial banks and to the government
Public Deposits and Bankers Deposits are
deposits by the government and the
commercial banking system. Reserves and
other a/cs are deposits by central bank of
other countries issued by private firms or local
authorities.

Phòng nghiệp vụ ngân hàng đóng vai trò như một nhà cho
vay tới các ngân hàng thương mại và tới chính phủ,
khoản mục tiền gửi của chính phủ và tiền gửi của ngân
hàng là các khoản tiền gửi bởi chính phủ và các hệ thống
các ngân hàng thương mại. Các quỹ dự trữ và các tài
khoản khác là các khoản tiền gửi từ ngân hàng trung
ương của các nước khác được phát hành qua các công ty
tư nhân hoặc các chính quyền địa phương.

In practice, the activities of the Issued
Department and the Banking Department are
carefully coordinated. Although much of The
Bank’s balance sheet resembles the one of a
commercial bank, there is one crucial
difference. There is no possibility that the Bank

can go bankrupt. The unique feature of the
central bank’s liabilities is that it can create
them in unlimited quantities without fear
bankruptcy. This was not always so. In the
days of the gold standard, notes could be
cashed in for gold and the central bank might
not have had sufficient gold to pay. Nowadays
there is no such obligation. The bank can
always meet withdrawals by its depositors by
printing new banknotes.

Trong thực tế, hoạt động của Phòng phát hành và Phòng
nghiệp vụ đều được xác định rất cẩn thận. Mặc dù hầu hết
bảng cân đối kế toán của ngân hàng đều giống như một
ngân hàng thương mại, nó vẫn có một vài yếu tố quan
trọng. Ở đây không thể có chuyện ngân hàng bị vỡ nợ.
Điểm riêng có của tài sản nợ của Ngân hàng Trung ương
dẫn đến Ngân hàng Trung ương có thể tạo ra không giới
hạn tiền mặt mà không sợ bị phá sản. Nhưng ngân hàng
Trung ương không thường xuyên làm vậy. Trong thời kỳ
lưu hành bản vị vàng, tiền giấy có thể đổi thành vàng và
Ngân hàng Trung ương có thể có đủ vàng để thanh toán.
Ngân hàng có thể luôn luôn gặp trường hợp rút tiền thông
qua người gửi tiền bởi việc phát hành giấy bạc mới.

Reading 9/50

Cheque Clearing System

Hệ thống thanh toán bù trừ Séc


The process of clearing may be defined as the
transmission and settlement of payments
between a/cs held at different banks or
different branches of the same bank.

Quá trình thanh toán bù trừ được hiểu như là một loại
giao và các thành viên thanh toán giữa các tài khoản
nằm ở các ngân hàng khác nhau hoặc các chi nhánh
khác nhau của cùng một ngân hàng.

When a cheque is paid into a customer’s a/c at
a branch of a bank or other financial
institutions, it is necessary for the cheque to
be sent to the branch on which it is drawn in
order to obtain payment. In effect the customer
requests his branch to “collect” the payment
and his branch is therefore known as the
collecting branch rather than deal with each
cheque individually. The collecting branch
uses the clearing system to obtain payment
from the branch on which the cheque is drawn.

Khi một tờ séc được chi trả vào một tài khoản khách
hàng ở một chi nhánh của một ngân hàng hoặc các tổ
chức tài chính, điều cần thiết là tờ Séc phải được
chuyển từ chi nhánh nơi nó ký phát theo lệnh đến nơi
nhận thanh toán. Thực tế, khách hàng yêu cầu chi
nhánh ngân hàng của anh ta “thu” khoản thanh toán
và do vậy chi nhánh ngân hàng anh ta còn được gọi là

chi nhánh thu hộ, việc này hơn việc chi nhánh xử lý
từng tờ Séc một. Chi nhánh thu hộ thường sử dụng hệ
thống thanh toán bù trừ để thu khoản thanh toán từ
chi nhánh nơi tờ Séc được ký phát.


Each branch sends the cheque which is has
accepted for collection to the clearing
department of its own bank which then
exchanges cheques with other banks at the
Clearing House. These dealings, which
involve two separate banks, are shown in the
clearing statistics as inter-bank items. When
a collecting branch receives a cheque drawn
on another branch of the same bank, the
cheque will not go to the Clearing House but it
will be exchanged in the Clearing Department
of the bank concerned and will be processed
in the clearing statistics as an inter-branch
item. Cheques which are paid in at the branch
on which they are drawn do not need to be
cleared and are processed “in house” within
that branch. Cashed cheques are processed in
a similar way to other cheques, although a
larger number of these will be “in house” items
where the customer is drawing cash from his
own branch.

Mỗi chi nhánh gửi tờ Séc đã được chấp nhận (tờ séc
hợp lệ) đến chi nhánh thu hộ, phòng Thanh toán bù

trừ của chi nhánh sau đó trao đổi tờ Séc với các ngân
hàng khác tại Trung tâm thanh toán bù trừ. Các quá
trình xử lý Séc này, bao gồm 2 ngân hàng riêng biệt,
chúng thể hiện trong bảng thống kê thanh toán bù
trừ séc thuộc các khoản mục liên ngân hàng. Khi một
chi nhánh nhờ thu nhận một tờ Séc đã được ký phát
từ một chi nhánh khác ở cùng ngân hàng, tờ Séc sẽ
không chuyển đến Trung tâm thanh toán bù trừ mà nó
sẽ được chuyển đổi tại Phòng Thanh toán bù trừ của
ngân hàng liên quan và sẽ được xử lý trong bảng
thống kê thanh toán bù trừ như một khoản mục Liên
chi nhánh. Các tờ Séc đã được trả tiền tại chi nhánh
nơi họ ký phát không cần phải thanh toán bù trừ và
hoặc xử lý tại “trung tâm thanh toán” trong chi nhánh
đó. Đổi các tờ Séc ra tiền mặt có cách xử lý tương tự
với các tờ Séc khác, mặt dù một lượng tiền lớn của tờ
Séc sẽ nằm trong khoản mục của “Trung tâm thanh
toán” nơi mà khách hàng ký phát séc ra tiền mặt từ chi
nhánh của họ.

The clearing system is also available to
financial institutions which are not Settlement
Members of the clearings. Several hundred
banks and building societies that lend money
allows them to obtain clearance of cheques on
behalf of themselves of their customers. Within
the clearing statistics banks having agency
arrangements are treated effectively as a
branch of the Settlement Members providing
the arrangements.


Hệ thống thanh toán bù trừ cũng cho phép các tổ chức
tài chính không phải là thành viên thực hiện xử lý Séc.
Hằng trăm ngân hàng và các căn nhà xã hội cho vay
tiền cho phép họ nhận thanh toán các tờ Séc thay mặt
các khách hàng của họ. Trong bảng thống kế thanh
toán bù trừ Séc, các ngân hàng sắp đặt các chi nhánh
để xử lý Séc sao cho thật hiệu quả và hoạt động như
một chi nhánh của Thành viên thành toán (cung cấp
các dịch vụ về Séc).

Reading 11/50

Overdraft

Thấu chi

An overdraft occurs when a check is written
on uncollected funds. In other words, an
overdraft is a facility which allows an
individual to with draw funds from his
checking a/c in excess of the credit balance.
If a bank pays on a check written against
uncollected balances, it is an unsecured
loan. Some overdraft loan are written with
prior permission of the bank, but most are
not. In the latter case, overdraft loan can be
for less than one day (daylight overdraft),
such as when a check is written in the
morning and the deposit to cover that check


Một khoản thấu chi xuất hiện khi việc kiểm tra được xác
nhận trên các khoản tiền (/vốn) đã bị rút quá số dư trong tài
khoản. Hay nói cách khác, một khoản thấu chi là một công
cụ cho phép các cá nhân có thể rút tiền (/vốn) từ tài khoản
ký phát Séc của anh ta vượt quá số dư Có. Nếu một ngân
hàng chi trả cho một tài khoản ký phát nhằm tránh cho số
dư tài khoản bị rút quá, đó là một khoản cho vay không
đảm bảo. Một vài khoản thấu chi chỉ được thực hiện theo
sự cho phép trước của ngân hàng, nhưng hầu như không
phải vậy. Trong các trường hợp sau này (/Để đề phòng),
khoản cho vay thấu chi có thể được cho phép được rút
quá số dư ít hơn một ngày (thấu chi trong ngày), giống
như khi một lệnh ký phát thực hiện vào buổi sáng và


is not made until that afternoon, or for one or
more days. The customer is charged interest
only on the amount he uses and the rate of
interest is calculated daily on the prime rate.
Normally no regular repayment is set. The
customer can repay any amount at any time
simply by paying money.

khoản tiền gửi được kiểm tra là bị rút quá đến cùng chiều
ngày hôm đó, hoặc có thể 1 hoặc hơn 1 ngày. Khách hàng
bị tính phí chỉ trong lượng tiền anh ta anh ta rút quá, và
khoản phí này được tính theo lãi suất cho vay cơ bản theo
ngày. Thông thường, không có quy định hoàn trả nào
được áp dụng. Khách hàng có thể trả tiền bất cứ lúc nào,

đơn giản chỉ bằng việc trả bằng tiền mặt.

Reading 12/50

The growth of Bank Credit cards

Sự phát triển của Thẻ tín dụng ngân hàng

In recent years, lending associated bank
credit cards has been the fastest growth
area in consumer lending. Bank credit
cards first became popular nearly 30 years
ago. At that time, individual banks issued
the cards to their existing customers and
recruited local retailers who agreed to
accept them from the customers.
Participating retailers daily presented the
bank with sales vouchers signed by their
card-using customers. The retailer’s bank
a/cs then received immediate credit, less
the bank’s discount.

Trong những năm gần đây, hoạt động cho vay thông
qua thẻ tín dụng ngân hàng đã phát triển nhanh chóng
trong hoạt động cho vay tiêu dùng. Các tấm thẻ tín
dụng ngân hàng đầu tiên đã trở nên phổ biến từ cách
đây 30 năm. Vào thời điểm đó, các ngân hàng tư nhân
đã phát hành các tấm thẻ cho các khách hàng của họ
và liên kết với các nhà bán lẻ địa phương những
người chấp nhận bán hàng cho khách hàng của ngân

hàng. Hàng ngày, các nhà bán lẻ xuất trình các hoá
đơn mua hàng ký bởi khách hàng sử dụng thẻ tín
dụng của ngân hàng cho ngân hàng. Tài khoản ngân
hàng của các nhà bán lẻ sau đó sẽ lập tức được ghi
Nợ, sau khi trừ đi khoản chiết khấu của ngân hàng.

This service provided benefits to all three
parties: issuing bank, cardholder and
retailer. The bank collected fee derived
from discounting retailer’s sales vouchers
and charged interest on cardholder
outstanding balances. Cardholders enjoyed
unquestionable credit from participating
retailers, avoided the burden of carrying
cash for large purchases, and were not
worried about uncertain acceptance of
written checks. Retailers expanded their
sales appeal to a growing pool of
cardholders.

Dịch vụ này đã cung cấp nhiều tiện ích cho cả 3 bên:
Ngân hàng phát hành thẻ, chủ thẻ và người bán lẻ.
Ngân hàng thu được khoản phí từ việc chiết khấu các
hoá đơn bán lẻ và tính phí trên khoản lãi mà chủ thẻ
tiêu quá số dư. Các chủ thẻ thích được mua hàng với
khoản tín dụng không hạn mức từ bên người bán lẻ,
việc này tránh được việc phải mang vác nhiều tiền để
mua hàng hoá số lượng lớn, và không phải lo lắng về
việc số dư trong tài khoản bị giới hạn. Người bán lẻ
cũng đã mở rộng được việc bán hàng cùng với quá

trình tăng lên của nhiều chủ sử dụng thẻ.

However, the local bank credit card had
serious drawbacks. The card’s usefulness
was restricted to a circle of participating
retailers in the card bank’s market areas.
Also, there was strong competition among
local banks that issued credit cards. These
drawbacks were overcome in the late
1960s when two national credit card
authorities emerged to replace the local
bank cards.

Tuy nhiên, các thẻ tín dụng của ngân hàng địa phương
có những hạn chế đáng kể. Sự tiện lợi của thẻ chỉ hạn
chế trong phạm vi giao dịch giữa các bên liên quan
đến thị trường thẻ của từng ngân hàng. Do vậy, có
một sự canh tranh lớn giữa các ngân hàng địa phương
khi phát hành thẻ tín dụng. Những hạn chế này đã bị
đẩy lùi vào cuối thập niên 1960 khi 2 loại thẻ tín dụng
quốc tế ra đời thay thế các loại thẻ của ngân hàng địa
phương.


Reading 13/50

Credit cards

Thẻ tín dụng


Credit cards are a means of exchange, not a
payment. Ultimate payment by the card user occurs
at the end of the month when a cheques is written or
a bank a/c is debited to settle the outstanding
balance. In that respect, credit cards are akin to
trade credit for the users, and a substitute credit long
extended by retailers to customers. However, to the
seller of goods, sales made to the credit card users
have similarities to those made to cheque writers.
Costs and fee may differ, but credit card sales
vouchers can be effectively credited to the
merchant’s bank a/c in a similar manner to cheque
received. Because the voucher is a claim on the
credit card company or card issuing bank, the risk of
non payment is lower.

Thẻ tín dụng là một phương tiện trao đổi, không phải
một phương tiện thanh toán. Bước thanh toán cuối
cùng bởi người sử dụng thẻ xảy ra ở cuối tháng khi
một tờ séc được ký phát hoặc một tài khoản ngân
hàng được ghi nợ để tất toán số dư. Trong quá
trình này, thẻ tín dụng thường giao dịch ghi có với
người sử dụng, và để đổi lại mức tín dụng dài hạn từ
người bán lẻ cấp cho khách hàng của họ. Tuy nhiên,
việc mua hàng từ những người bán hàng cũng
tương tự như việc ký phát séc. Phí mua hàng và phí
có thể khác nhưng hoá đơn mua hàng bằng thẻ tín
dụng có chức năng ghi có vào tài khoản của người
bán hàng ở ngân hàng, cũng giống với việc nhận
Séc. Bởi vì hoá đơn chính là việc đòi tiền từ công ty

cung cấp thẻ tín dụng hoặc ngân hàng phát hành thẻ
tín dụng, rủi ro không thanh toán đã được giảm
thiểu.

In the ways that most are currently structured, credit
card system can be thought of as similar to the
cheque payments system. Paper (i.e vouchers) flows
in a similar direction, the major difference being the
timing of transactions and liabilities incurred along
the way. The card holder/voucher writer is given
short-term credit (a short-term loan or long-term
float) by the card issuing body between the
immediate unconditional credit to the merchant
involved and delayed collection of value from card
holder. The combination of float to card holders
and more or less immediate reimbursement to stores
is thought to be one factor inhibiting the great use
of EFTPOS system, in which float is absent.

Trong số hầu hết các cách thức hiện nay, hệ thống
xứ lý thẻ tín dụng có thể thông qua một hệ thống
giống thanh toán Séc. Chứng từ (ví dụ hoá đơn)
cũng luân chuyển theo hướng tương tự như vậy, sự
khác nhau chủ yếu là việc tính toán thời gian giao
dịch và các khoản nợ phải chịu. Chủ thẻ/ người viết
hoá đơn nhận được một mức tín dụng ngắn hạn
(một khoản cho vay ngắn hạn hoặc dài hạn không cố
định) thông qua chủ thể phát hành thẻ kèm theo các
điều kiện phi tín dụng tức thời đến người bán hàng
và cả đìều kiện thu tiền chậm từ chủ thẻ. Việc kết

hợp linh hoạt các điều kiện tín dụng với chủ thẻ và
việc tăng hoặc giảm số hàng hoá hoàn lại là một
trong các nhân tố ngăn chặn việc sử dụng hệ thống
EFTPOS (Cách 2: là một trong các nhân tố ngăn cản phát huy
ưu điểm của hệ thống EFTPOS), ở đó các điều khoản linh
hoạt không có.
(Không chắc lắm đoạn màu đỏ, vì ý của nó đọc ra thì
chả hiểu nó nói về cái j nữa )

Reading 14/50

EFTPOS (*) and Debit cards

EFTPOS và Thẻ ghi nợ

Electronic Funds transfer at point of sales,
EFTPOS for short, is a progress to “non-cash
society”, where people do not need to carry
large amount of cash with them, but what
they need is only some change. The system
allows the value of the transactions to be

Chuyển tiền điện tử tại các điểm bán lẻ, viết tắt là
EFTPOS, là một bước tiến tới “xã hội phi tiền mặt”,
nơi mọi người không cần mang nhiều tiền mặt bên
người, bởi cái họ cần chỉ là một vài sự trao đổi. Hệ
thống cho phép giá trị của các giao dịch được tự
động ghi nợ vào tài khoản ngân hàng của khách



automatically debited to customer’s bank a/c
or credit a/c at point of sales and credited to
retailer’s a/c respectively. In addition to
reducing cash in circulation to minimum, the
system can reduce paperwork dramatically.
The EFTPOS services are available at retail
points, allowing customers to choose goods
and swipe their card through a machine for
checking. The card is fed into a card reader
and the value of transaction is put into
computer. The customer confirms the payment
by signing the receipt.

hàng hoặc ghi có vào tài khoản tại điểm bán lẻ là tài
khoản của người bán lẻ tương ứng. Ngoài ra để
giảm thiểu tiền mặt trong lưu thông đến mức nhỏ
nhất, hệ thống EFTPOS có thể giảm bớt đáng kể
các công việc bàn giấy. Dịch vụ EFTPOS được sử
dụng tại các điểm bán lẻ, nó cho phép các khách
hàng chọn mua hàng hoá và quẹt thẻ của họ thông
qua máy để kiểm tra. Tấm thẻ được đưa vào một
đầu đọc thẻ và giá trị của giao dịch được đưa vào
máy tính. Khách hàng xác nhận thanh toán bằng
việc ký vào giấy biên nhận.

Card used in EFTPOS are debit cards. Debit
cards are like credit cards except that they are
used to debit money to the customer’s bank
a/c when a purchase is made. With debit
cards, card users forgo (**) check writing,

card-issuing banks need not prepare monthly
billings, and, in the simplest debit card system,
credit risk is eliminated. If enough consumers
substitute debit cards for credit cards,
ultimately banks credit card lending might be
reduced. It is likely, however, that banks will
offer to tie debit cards to personal lines of
credit in the form of overdraft protection. With
this arrangement if the customer’s debit card
based purchases exceed the funds in the
consumer’s bank a/c, a prearranged line of
credit will be triggered. The size of the credit
line for overdraft protection for a consumer
presumably will be identical to the credit limit
on a credit card issued to that consumer. In
either case, the bank will be exposed to the
same risk of default.

Thẻ được dùng trong hệ thống EFTPOS là các tấm
thẻ ghi nợ. Thẻ ghi nợ cũng giống với thẻ tín dụng
ngoại trừ nó thường được dùng để ghi nợ tiền mặt
vào tài khoản ngân hàng của khách hàng khi việc
mua hàng được thực hiện. Với thẻ ghi nợ, các chủ
sử dụng thẻ kiểm tra việc kí thẻ, ngân hàng phát
hành thẻ không cần chuẩn bị hoá đơn hàng tháng,
và, trong hệ thống thẻ ghi nợ đơn giản nhất, rủi ro
tín dụng đã bị loại trừ. Nếu có đủ khách hàng để
thay thế thẻ ghi nợ cho thẻ tín dụng, cuối cùng các
tấm thẻ tín dụng ngân hàng có thể sẽ ít đi. Đây là
điều hợp lý, tuy nhiên, cái mà các ngân hàng sẽ

cung cấp thông quá thẻ ghi nợ là một mức giới hạn
tín dụng cá nhân theo hình thức thấu chi có đảm
bảo. Với sự sắp đặt này, nếu thẻ ghi nợ của khách
hàng cứ mua hàng vượt quá số tiền trong tài khoản
tại ngân hàng, một hạn mức tín dụng bắt buộc sẽ
được đưa ra. Hạn mức tín dụng cho khoản thấu chi
có đảm bảo cho một khách hàng có thể được xác
định bởi hạn mức tín dụng qua thẻ tín dụng phát
hành cho chính khách hàng đó. Trong mọi trường
hợp, ngân hàng cũng sẽ chịu rủi ro tương tự.

(*) EFTPOS: Electronic Funds transfer at point of sales, is the system which allows funds to
be switched automatically when goods are bought at point of sales (point of sales i.e are shops,
retailer’s shops, shopping centers… where EFTPOS is installed)
(*) EFTPOS: Chuyển tiền điện tử tại các điểm bán lẻ, là một hệ thống theo đó nó cho phép
khoản tiền được chuyển tự động khi hàng hoá được mua tại các điểm bán lẻ (Các điểm bán lẻ
ví dụ như các cửa hàng, các cửa hàng của người bán lẻ, các trung tâm mua sắm …nơi hệ
thống EFPOS được lắp đặt)
(**) forgo: Từ này chắc bị viết nhầm, ko biết từ gốc là “forge (giả mạo)” hay “forgot” (V_ed của
forget (quên)), hoặc là từ khác … =.=!
Reading 16/50

Debit cards VS. Credit cards

Thẻ ghi nợ và Thẻ tín dụng


A few years ago it was easy to tell the difference
between a credit card and a debit card. You used
your debit card at the ATM with a personal

identification number, and you used your credit for
purchases. But today both types of cards carry
familiar credit company logos, both can be swiped
at the checkout counter and both can be used to
make online purchases.

Một vài năm trước đây, rất dễ để nói về sự khác nhau
giữa thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ. Bạn thường dùng thẻ
ghi nợ ở các máy ATM khi dùng mã số xác nhận cá
nhân, và bạn thường dùng thẻ tín dụng của bạn cho
việc mua hàng. Nhưng ngày nay, cả 2 loại thẻ này đều
giống nhau về nhãn hiệu công ty phát hành, đều giống
khi sử dụng để quẹt thẻ tại các quầy thanh toán và đều
giống nhau khi đều có thể dung chúng thực hiện mua
hàng trực tuyến.

Government regulations and voluntary steals your
credit card you’re only responsible to pay the first
$50 of unauthorized charges. And if you notify the
issuer before the thief makes any charges, you
may not be out of anything. You’re also free from
liability if unauthorized purchases occur when the
card is not physically presented, say in an interest
purchases. Zero liability policies, like those
offered by Visa and Mastercard, add a second
layer of protection. Under these programs you
won’t pay anything if someone fraudulently uses
your credit card online or off.

Các qui định của chính phủ và các vấn đề về trộm cắp

thẻ tín dụng, bạn chỉ cần trả một khoản phí ban đầu là
50 đôla của phí phi uỷ quyền. Và nếu bạn thông báo
cho người phát hành trước khi kẻ cắp có cơ hội, bạn sẽ
không bị mất gì. Bạn cũng hoàn toàn tự do giữ những
khoản vốn của mình nếu việc mua hàng được cho phép
và thẻ không được xuất trình. Các chính sách về số dư
bằng Không, giống như các quy định với thẻ Visa và
Mastercard, như một lớp bảo vệ thứ hai. Dưới những
chương trình này, bạn không bị rút tiền bất hợp pháp từ
bất cứ ai khi sử dụng thẻ tín dụng qua hoặc không qua
mạng.

The rules are similar for debit cards, but there are
a few restrictions. For examples, your liability
under federal law is limited to $50, but only if you
notify the issuer within two business days of
discovering the card’s loss of theft. Your liability
could jump to $500 if you put it off. Federal
protections are a bit more generous if a thief just
steals your debit card number (and not the actual
card), but you still have 60 days after receiving
your bank statement to report any unauthorized
transactions. The Visa and Mastercard Zero
liability policies also apply to debit cards, but only
to non-PIN transactions. If a thief steals your card
and your PIN, the federal rules are your only
defense.

Các quy tắc giống với thẻ ghi Nợ, nhưng có một vài sự
hạn chế. Ví dụ, vốn của bạn theo qui định là giới hạn ở

mức 50 đôla, nhưng nếu như bạn thông báo cho nhà
phát hành trong vòng 2 ngày làm việc khi phát hiện thẻ
bị mất hoặc mất cắp. Tài khoản của bạn có thể nhảy
lên giới hạn tối thiểu là 500 đôla khi bạn yêu cầu. Sự
bảo vệ của luật liên bang có một chút hào phóng hơn
nếu một tên trộm vừa mới đánh cắp số thẻ ghi Nợ của
bạn (và không phải là đánh cắp thẻ), nhưng bạn vẫn có
60 ngày sau đó để nhận bản sao kê của ngân hàng
thông báo về các giao dịch không được uỷ quyền. Thẻ
Visa và chính sách số dư bằng Không của thẻ
Mastercard cũng áp dụng qui định này như thẻ ghi Nợ,
nhưng chỉ đối với các giao dịch không dùng mã PIN xác
nhận. Nếu 1 kẻ cắp trộm thẻ của bạn và số PIN của
bạn, các điều luật liên bang là sự bảo toàn duy nhất
cho bạn.

Reading 10/50

LENDING
The role of lending at commercial bank in the
United State has changed dramatically over
the years. In the distant past, short-term,
self-liquidating loans were the standard.
Today, banks provide loans of all maturities

Hoạt động cho vay
Vai trò của hoạt động cho vay tại một ngân hàng
thương mại ở Anh đã có nhiều thay đổi đáng kể qua
từng năm. Cách đây không lâu, các khoản cho vay
ngắn hạn, các khoản vay tự hoàn trả được thực hiện

theo đúng tiêu chuẩn. Ngày nay, ngân hàng cung cấp


and methods of repayment. The principal
categories of loans are commercial and
industrial, real estate, and individual
(consumer) loans.

các khoản cho vay với rất nhiều hình thức và cách
thức để trả nợ. Vấn đề chính của các khoản vay
thương mại và sản xuất công nghiệp, vay đầu tư bất
động sản và vay cá nhân (phục vụ cho tiêu dùng).

This paper provides the background
information about commercial and industrial
loans. Such loans are used to finance
temporary and permanent business assets.
Lines of credit and transaction loans are used
for temporary assets and involving loans and
term loans are used for permanent assets.
A/cs receivable, inventory, and real property
and equipment are the most commonly used
types of collateral for commercial and
industrial loans. The maximum amount that
national banks can lend to any customer is
limited to 25% of their equity capital. Most
banks will not risk too much on one customer.
The amount that they will loan depends on
their size, geographic location, and the risk
they are willing to face. Some of these limits of

other are explained in a bank’s written loan
policies. The Board of Directors of the bank,
which has the ultimate responsibility for all
loans that are made, acts as a guideline for
those involved in the lending process.

Chứng từ này cung cấp các thông tin cần thiết về các
khoản vay thương mại & vay sản xuất công nghiệp.
Các khoản vay như vậy có tác dụng cung cấp vốn kinh
doanh một cách bền vững và tạm thời. Các khoản tín
dụng và giao dịch cho vay được dùng thế chấp bằng
các tài sản tạm thời và có bao gồm các khoản vay,
điều kiện xử dụng tiền vay đi kèm với tài sản đã cầm
cố. Các khoản phải thu, hàng tồn kho và bất động sản
hay trang thiết bị thông thường được dùng như những
loại tài sản đảm bảo cho các khoản vay thương mại và
vay cho sản xuất công nghiệp. Giá trị tối đa mà ngân
hàng trung ương có thể cho một khách hàng vay tối đa
bằng 25% phần vốn chủ sở hữu của họ. Hầu như các
ngân hàng sẽ không gặp rủi ro quá lớn với một khách
hàng. Lượng tiền mà ngân hàng sẽ cho vay phụ thuộc
vào quy mô hoạt động kinh doanh của khách hàng,
vị trí địa lý, và rủi ro mà ngân hàng sẽ có thể phải gặp
phải. Một số các giới hạn được giải thích trong các
chính sách cấp khoản vay củan ngân hàng. Ban giám
đốc của ngân hàng chịu trách nhiệm ra quyết định cuối
cùng cho tất cả các khoản vay, họ đóng vai trò như
một người hướng dẫn trong ngân hàng, bao gồm cả
hoạt động cho vay.


Reading 28/50 (Page 32 – 33)

DOCUMENTARY COLLECTION

Collection is method of international

NHỜ THU KÈM CHỨNG TỪ

Nhờ thu là một phương thức thanh toán quốc tế. Thời

payment. The term collection refers to the

hạn nhờ thu ám chỉ thời gian để xử lý một giấy tờ được

process of presenting an item, such as a

xuất trình, ví dụ như một tờ séc, sử dụng cho thanh toán

check, to the maker for payment.
Collections are divided into two categories:

Nhờ thu được chia làm 2 loại: Nhờ thu trơn và nhờ

clean and documentary. Clean collections

thu kèm chứng từ. Nhờ thu trơn có nghĩa không cần bộ

means that there are no shipping documents

chứng từ giao hàng đi kèm. Séc du lịch và lệnh


attached. Traveler’s checks and money

chuyển tiền là các ví dụ về nhờ thu trơn

order are examples of clean collections.


Documentary collections means that there

Nhờ thu kèm chứng từ có nghĩa là cần chứng từ kèm

are documents included in the collection order

theo trong lệnh nhờ thu, bộ chứng từ này được gửi đi từ

which is sent to the exporter’s bank for

ngân hàng nhà xuất khẩu gửi lệnh nhờ thu đến nhà nhập

collection of the payment from the importer.

khẩu. Nhà xuất khẩu nói với ngân hàng anh ta xuất trình

The exporter tells his bank to present the draft

tờ hối phiếu và bộ chứng từ cho nhà xuất khẩu để nhờ

and documents to the importer for collection.


thu. Ngân hàng nhà xuất khấu sử dụng 1 ngân hàng ở

The exporter bank uses a bank in the

nước nhà nhập khẩu để hoàn thành việc này. Đó là

importer’s country to accomplish this. This

ngân hàng đại lý sẽ làm việc với ngân hàng nhà nhập

correspondent bank will work with the

khẩu, thực hiện thu tiền và xuất trình tờ vận đơn đường

importer’s bank, and collect the funds and

biển, các chứng từ khác cho nhà nhập khẩu. Ngân hàng

present the bill of lading and other

này sẽ nhận được một khoản phí vì đóng vai trò là đại lý

documents to the importer. The bank receives

của nhà xuất khẩu trong hoạt động nhờ thu.

a fee for acting as the exporter’s agent in the
collection process.
Banks that are actively engaged in such


Các ngân hàng đang tích cực tham gia vào các hoạt

collections may have form letters that give

động nhờ thu như vậy có thể có các mẫu đơn từ hướng

explicit instructions as to how the payments

dẫn rõ ràng là làm thế nào để các khoản thanh toán sẽ

are to be made, the documents that are

được thực hiện, các tài liệu có liên quan, và các thông

involved, and other pertinent information.

tin phù hợp.

The basic difference between the collection

Sự khác nhau cơ bản giữa phương thức nhờ thu và

method and a letter of credit is that an

một bức thư tín dụng là ở chỗ một bức thư tín dụng

irrevocable letter of credit is an obligation of

không thể huỷ ngang là một nghĩa vụ của ngân hàng phát


the issuing bank, whereas an exporter’s draft

hành, trong khi một tờ hối phiếu của nhà xuất khẩu được

is drawn on the importer. The collection is less

ký phát bởi nhà nhập khẩu (và trách nhiệm thuộc về nhà

costly than a letter of credit and is frequently

xuất khẩu). Hoạt động nhờ thu tốn ít chi phí hơn là hoạt

used when the risks to the exporter are

động thư tín dụng và thường được sử dụng hơn bởi rủi

relatively small

ro của nó đối với nhà xuất khẩu tương đối nhỏ.

Reading 34/50 (Page 38 – 39)

BANK DRAFTS

HỐI PHIẾU NGÂN HÀNG


Financial instruments, such as bank drafts

Các công cụ tài chính, như hối phiếu ngân hàng hay


and letter of credit, reduce some of the

thư tín dụng, giảm thiểu đi một số giao dịch không cần

uncertainties of international transactions. A

thiết trong thương mại quốc tế. Một tờ hối phiếu trả

sight draft is usually prepared by the exporter

ngay thông thường được ký phát bởi nhà xuất khẩu và

and addressed to the importer, ordering the

được gửi cho nhà nhập khẩu, yêu cầu nhà nhập khẩu

importer to pay on receipt of the goods and the

thanh toán các hàng hoá nhận được theo như tờ hối

draft. When the draft is signed and

phiếu. Khi tờ hối phiếu được ký và có dấu “đã chấp

“accepted” by the importer and formally

thuận” bởi nhà nhập khẩu, thông thường là bởi ngân

acknowledged by the importer’s bank, the


hàng nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu có thể sử dụng tờ

exporter can use the draft as collateral to

hối phiếu này như một vật thế chấp để vay vốn từ ngân

borrows funds from his or her own bank,

hàng anh/ chị ta, việc tạo ra hối phiếu ngân hàng, có tác

creating, in effect, an international form of a/c

dụng như là một cách thức tài trợ quốc tế cho các Khoản

receivable financing. A sight draft generally

phải thu. Một tờ hối phiếu trả ngay chỉ ngụ ý sự cam kết

implies only the importer’s promise to pay.

thanh toán của nhà nhập khẩu. Tuy nhiên, sự chấp

However, acceptance by the importer’s bank

nhận bởi ngân hàng của nhà nhập khẩu đã biến tờ hối

makes the draft an irrevocable instrument of

phiếu trở thành một công cụ thanh toán không thể huỷ


payment

ngang.

An alternative form of draft is the time draft,

Một dạng khác của hối phiếu là hối phiếu kỳ hạn, nó cho

which allows a specified period of time after

phép hàng hoá được vận chuyển trong một thời gian nhất

the goods are delivered and the draft is

định và tờ hối phiếu sẽ được xuất trình chỉ sau khi hàng

presented before payment is due. For

hoá được chuyển đến nơi. Ví dụ, thời hạn thanh toán có

example, payment terms might be 30, 60 or 90

thể là 30, 60 hoặc 90 ngày kể từ ngày ký phát hối phiếu.

day’s sight. A time draft that has been

Một tờ hối phiếu trả ngay đã đươc chấp nhận bởi ngân

accepted by the importer’s bank is called


hàng nhà nhập khẩu được gọi là Hối phiếu được ngân

banker’s acceptance. When the bank

hàng chấp thuận (Chấp phiếu ngân hàng. Khi ngân hàng

accepts the draft, the bank guarantees that it

chấp nhận hối phiếu, ngân hàng bảo đảm rằng tờ hối

will pay the draft on maturity; that is, it

phiếu sẽ được thanh toán đúng hạn; điều này có nghĩa,

effectively replaces the importer’s credit with

ngân hàng dùng uy tín của mình bảo đảm cho khả năng

its own credit. As a rule the exporter, as well

trả nợ của nhà nhập khẩu. Đây là một nguyên tắc của

as the investment markets, put greater stock in

nhà xuất khẩu, cũng như trên thị trường đầu tư, cổ phiếu

the bank’s creditworthiness than the

có độ tin cậy tín dụng của ngân hàng sẽ có giá hơn cổ


importer’s creditworthiness.

phiếu đảm bảo bằng độ tin cậy tín dụng của nhà nhập
khẩu.

The exporter may attempt to sell the banker’s

Nhà xuất khẩu có thể muốn bán đi chấp phiếu ngân


acceptance to an investor at a discount that is

hàng cho một nhà đầu tư với giá chiết khấu, mức giá đã

consistent with the market rate on banker’s

bao gồm lãi suất thị trường của tờ chấp phiếu ngân hàng

acceptance at the time. Alternatively, the

tại thời điểm đó. Ở khía cạnh khác, ngân hàng có thể

bank may effectively extend credit by buying

mở rộng hoạt động tín dụng bằng việc mua các tờ chấp

the acceptance from the exporter at

phiếu từ nhà xuất khẩu với mức giá chiết khấu hoàn lại.


appropriate discount. The bank typically

Ngân hàng thường bán các tờ chấp phiếu trên thị trường

sells it in the banker’s acceptance market and

giao dịch chấp phiếu ngân hàng và sau đó, tại thời điểm

later, at maturity, pays off the investor at par

đáo hạn, việc thanh toán toàn bộ của nhà đầu tư cũng

as the payment from the importer comes due.

giống như việc thanh toán của nhà nhập khẩu khi khoản
thanh toán đến hạn

Reading 40/50 (Page 32 – 33)

COMMERCIAL LETTERS OF
CREDIT

The sight or time draft transactions usually

THƯ TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI

Giao dịch hối phiếu trả ngay hoặc kỳ hạn thường bao

involve commercial or documentary letter of


gồm thư tín dụng thương mại hoặc thư tín dụng kèm

credit. The letter of credit (L/C) typically is

chứng từ. Thư tín dụng (L/C) điển hình được phát hành

issued by the importer’s bank, that is, the

bởi ngân hàng nhà nhập khẩu, đó cũng là, ngân hàng

issuing bank. The issuing bank’s L/C signifies

phát hành. Ngân hàng phát hành L/C ký xác nhận rằng

that the bank agrees to pay the importer’s

ngân hàng đồng ý thanh toán cho nghĩa vụ của nhà nhập

obligation to an exporter resulting from a sales

khẩu cho nhà xuất khẩu, theo như trong hợp đồng bán

agreement, contingent on receiving

hàng đã ký, tuỳ theo các chứng từ ngân hàng nhận

documentation proving that shipment was

được chứng minh rằng lô hàng đã được chuyên chở


made. In return for the L/C, the importer

xong hay chưa. Để đổi lấy L/C, nhà nhập khẩu phải bảo

warrants that he or she will pay the bank

đảm rằng anh hoặc chị ta sẽ thanh toán cho ngân hàng

(sales amount and any fees).

(số tiền bán hàng và một chút phí dịch vụ)

The L/C is crucial to exporters if a foreign

Thư tín dụng rất quan trọng với các nhà xuất khẩu nếu

customer is not well known or if the customer’s

như một khách hàng nước ngoài không có tiếng tăm

credit Is suspect for any reason.

hoặc mức độ tin tưởng của khách hàng bị nghi nghờ với
bất cứ lý do gì.

The issuing bank sends the L/C covering

Ngân hàng phát hành gửi đi L/C bao gồm số tiền bán



the amount of the sale to the exporter’s bank

hàng cho ngân hàng nhà xuất khẩu (còn được gọi là

(called the paying bank) in the exporter’s

ngân hành thanh toán) ở nước của nhà xuất khẩu. Ngân

country. The paying bank, in return, sends the

hàng thanh toán, đổi lại, gửi L/C tới nhà xuất khẩu. Khi

L/C to the exporter. When shipment is made,

việc giao hàng thực hiện xong, nhà xuất khẩu xuất trình

the exporter presents its sight or time draft

tờ hối phiếu trả ngay hoặc kỳ hạn cùng với bộ chứng từ

along with proof-of-shipment documents to

chứng nhận nguồn gốc lô hàng tới cho ngân hàng

its (paying) bank. The exporter’s bank then

(thanh toán) của anh ta. Ngân hàng nhà xuất khẩu theo

pays the seller, debits the a/c of the importer’s


đó sẽ thanh toán cho nhà xuất khẩu, ghi nợ vào tài khoản

bank, and sends the shipping documents and

ngân hàng nhà nhập khẩu, gửi đi bộ chứng từ giao hàng

the draft on to the importer’s bank. Upon

và tờ hối phiếu tới cho ngân hàng nhà nhập khẩu. Ở trên

receipt of the document and draft, the

giấy biên nhận của bộ chứng từ và tờ hối phiếu, ngân

importer’s bank debits the importer’s a/c (in

hàng nhà nhập khẩu ghi nợ tài khoản nhà nhập khẩu

the case of a sight draft; alternatively, with a

(trong trường hợp là hối phiếu trả ngay, trường hợp khác,

time draft, the importer’s a/c is debited at

tài khoản của nhà nhập khẩu được ghi nợ vào ngày đáo

maturity) and conveys the documents,

hạn hối phiếu) và mang bộ chứng từ này xuất trình để


representing title to the goods, to the importer.

nhận hàng hoá, cho nhà nhập khẩu

L/Cs may be confirmed or unconfirmed and

Các L/C có thể được xác nhận hoặc chưa xác nhận, có

revocable or irrevocable. Confirmed

thể huỷ ngang hoặc không thể huỷ ngang. Những L/C

irrevocable L/Cs bear the guarantee of

không thể huỷ ngang đã được xác nhận đem lại sự

payment by both the issuing and confirming

đảm bảo thanh toán cho cả ngân hàng phát hành L/C và

(paying) banks. An unconfirmed irrevocable

ngân hàng xác nhận (kiêm ngân hàng thành toán) L/C.

L/C bears the guarantee of the issuing bank

Một bức thư tín dụng không thể huỷ ngang chưa

only, and a revocable L/C carries only the


được xác nhận chỉ là sự đảm bảo từ ngân hàng phát

importer’s promise to pay and does not

hành, và một bức thư tín dụng có thể huỷ ngang chỉ là

carry either bank’s guarantee.

cam kết thanh toán của nhà nhập khẩu và không bao
gồm sự bảo đảm của ngân hàng nào khác.

Reading 48/50

COST ACCOUNTING

HẠCH TOÁN CHI PHÍ

One of these main objectives of industry is to
determine the selling price of the products or the
cost of services that are provided by a company.
To calculate a selling price that ensures a profit, it
is first necessary to determine the cost of making
the product or of providing the service. This is the
purpose of cost accounting.

Một trong những mục tiêu chính của ngành công
nghiệp là xác định giá bán cho các sản phẩm hoặc
chi phí của các dịch vụ được cung cấp bởi một
công ty. Để tính toán một mức giá bán cần tính đến

mức lợi nhuận, đây là điều cần thiết để xác định chi
phí tạo ra sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ đó. Đây
chính là mục đích của việc hạch toán chi phí.


For manufacturing, where raw materials are
assembled into a final product, job-order cost
accounting is used. With this method, the
account determines the cost of an individual item
or a batch of identical goods.

Trong ngành Công nghiệp sản xuất, nơi các
nguyên vật liệu thô được chế biến thành sản
phẩm cuối cùng, việc hạch toán chi phí theo thứ tự
công việc được sử dụng. Với phương pháp này, kế
toán viên xác định chi phí của một khoản mục riêng
biệt hoặc tương tự với các loại hàng giống nhau.

The accountant must first determine the direct
cost of the product. This includes the material
and labor costs. These costs are found by
analyzing inventories of raw material, products in
the process of being manufactured and final
goods. These records are kept in different
ledgers.

Nhân viên kế toán đầu tiên phải xác định khoản chi
phí trực tiếp làm nên sản phẩm. Khoản chi phí này
bao gồm chi phí nguyên vật liệu và nhân công trực
tiếp. Các khoản mục chi phí trong hàng tồn kho

được phân ra làm chi phí nguyên vật liệu, sản phẩm
đang trong quá trình sản xuất và thành phẩm. Các
khoản chi phí này được ghi chép trong các sổ cái
khác nhau

In addition to the direct labor and material
costs, the accountants must include overhead to
obtain factory cost. Overhead is an expense
that is not directly connected to the manufacture
of one particular good. Some examples are
depreciation of machines, property taxes for
the manufacturing plant, and the salary of the
plant manager. These indirect costs must be
allocated to different products on the basis of a
predetermine rate or percentage called the
burden rate

Ngoài các khoản chi phí nguyên vật liệu và nhân
công lao động trực tiếp, kế toán viên phải tính đến
cả khoản chi phí gián tiếp bao gồm chi phí cho
nhà xưởng. Chi phí gián tiếp là khoản chi phí
không liên quan trực tiếp đến quá trình sản xuất của
một sản phẩm cụ thể. Lấy ví dụ như khoản khấu
hao máy móc, tài sản chịu thuế cho quá trình sản
xuất, và khoản tiền lương cho ban quản trị. Các
khoản chi phí gián tiếp này phải được phân bổ trong
nhiều lần sản xuất khác nhau bởi một mức phân bổ
cho trước hoặc tính theo phần trăm và được gọi là
tỷ lệ phân bổ


Cost accounting provides a systematic and
logical process by which the cost of a product
can be determined. This cost can then be used
as a basis for determining the best selling price of
a product. It is also a valuable decision-making
tool management.

Việc hạch toán chi phí cung cấp một quy trình logích & có hệ thống qua đó chi phí sản xuất một sản
phẩm sẽ được xác định. Việc hạch toán chi phí này
có thể được sử dụng như một nguyên tắc hạch toán
kế toán cơ bản nhằm xác định mức giá bán tốt nhất
của một sản phẩm. Nó đồng thời là một công cụ ra
quyết định có giá trị cho ban lãnh đạo công ty.

Newwords:
1. cost accounting (n): Hạch toán chi phí
2. For manufacturing (adv): Trong ngành công nghiệp sản xuất
3. tobe assembled into (v): chuyển thành, biến thành, chế biến thành
4. depreciation (n): Khấu hao
5. tobe allocated (v): Phân bổ
6. burden rate (n): Tỷ lệ phân bổ
7. a valuable decision-making tool (n): Một công cụ ra quyết định có giá trị
8. (raw) material cost (n): Chi phí nguyên vật liệu (thô)
9. direct labor cost (n): Chi phí nhân công trực tiếp
10. overhead (n): Chi phí gián tiếp
11. factory cost (n): Chi phí nhà xưởng
12. Reading 49/50


TYPES AND USES OF WORKING

CAPITAL
Profitability is determined in part by the way in
which a company manages its working capital.
Basically there will be a drop in profits if working
capital is raised without a corresponding rise in
production. So one of the principal functions of
financial management is to provide the correct
amount of working capital at the right time and in
the right place to realize the greatest return on
investment.

CÁC LOẠI VÀ TÁC DỤNG CỦA VỐN
LƯU ĐỘNG
Khả năng sinh lời được xác định là một phần trong
các hoạt động của công ty, nó đánh giá hiệu quả một
công ty đã tạo ra lợi nhuận thông qua vốn lưu động
như thế nào. Về cơ bản nếu vốn lưu động tăng lên
nhưng không tương thích với sự tăng trong quá trình
sản xuất sẽ làm giảm lợi nhuận của công ty. Do vậy,
một trong những chức năng chính của quản trị tài
chính doanh nghiệp là cung cấp chính xác lượng vốn
lưu động cần thiết đúng thời điểm, đúng chỗ nhằm
thu được tối đa doanh thu qua hoạt động đầu tư.

Working capital can initially be broken down into
two types: permanent and temporary. Permanent
working capital is tied up in keeping the business
flowing throughout the year, while temporary
working capital is needed from time to time to
take account of seasonal, cyclical or unexpected

fluctuations in the business. The latter type is
usually serviced from an overdraft facility

Đầu tiên, Vốn lưu động có thể chia thành 2 loại: dài
hạn và ngắn hạn. Vốn lưu động dài hạn nằm trong
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong suốt 1
năm, trong khi vốn lưu động ngắn hạn luôn cần
thiết vào bất cứ lúc nào do tính thời vụ, vòng luân
chuyển hoặc các phát sinh không thể dự tính
được trong hoạt động kinh doanh. Loại Vốn lưu
động cuối cùng là loại vốn thường dùng để thanh
toán cho các khoản vay.

Both types of working capital have three major
applications: firstly inventories, secondly debtors
and finally cash.

Tất cả các loại vốn lưu động đều có 3 tác dụng
chính: đầu tiên (chúng) như một khoản hàng tồn
kho, thứ 2 là (để thanh toán) các khoản nợ và cuối
cùng là (một khoản) tiền mặt.

Inventories can be further divided into inventories of
raw materials, work in progress and finished goods.
There three can soak up an enormous amount of
excess working capital if not well managed. It is the
job of the financial manager to minimize the stocks
of raw materials, the level of work in progress and
the quantity of finished goods. However, overstringent control can lead to disruption in
production caused by the delay in receiving raw

materials, a failure to take account of costly price
rises in the pipeline, a failure to keep the
production volume required by future sales, and
resulting expensive and damaging effects on
customer goodwill. As one can see from the
foregoing diagram, this can become a vicious
circle where the loss of goodwill finally leads to loss
of sales and results once again in stringent cost
controls

Hàng tồn kho có thể được chia thành nguyên vật liệu
thô, bán thành phẩm và thành phẩm. Cả 3 loại này
có thể làm tiêu tốn một lượng lớn vốn lưu động
nếu không có biện pháp quản lý tốt. Đó chính là
công việc của các nhà quản trị tài chính nhằm tối
thiểu lượng hàng tồn kho là nguyên vật liệu, tỷ lệ
bánh thành phẩm hay thành phẩm. Tuy nhiên, chính
sách quản lý yếu kém có thể dẫn đến việc chậm trễ
trong sản suất do chậm nhân được nguyên vật liệu,
thất bại trong việc hạch toán các yếu tố chi phí
khiến giá thành bị đội lên, hay thất bại trong việc giữ
lượng hàng hoá sản xuất cần thiết cho việc bán
hàng sau này, và kết quả là gây nên ảnh hưởng xấu
đến uy tín khách hàng. Như bạn có thể thấy trong sơ
đồ đã đề cập trước, điều này có thể tạo ra một
vòng luẩn quẩn làm mất lòng tin của khách hàng
kết quả là doanh thu bán hàng giảm, cuối cùng làm
cho hoạt đồng kiểm soát chi phí trở nên khó khăn.

The just-in-time philosophy, developed in Japan,

is aimed at reconciling these often conflicting
interest and keeping inventory cost to a minimum.

Nguyên lý quản lý Hàng tồn kho tức thời, đã phát
triển ở Nhật Bản, nhắm tới việc giảm thiểu và tiết
kiệm các phí tổn trong quản lý hàng tồn kho tới mức
tối thiểu.

On the debtor side, working capital is required to

Về phía người mua hàng, vốn lưu động cần thiết cho
việc tài trợ trong khoảng thời gian thanh toán cho


finance the gap between payment due to suppliers
and payment owed by customers. It is the task of
financial management to see that generous credit
terms are negotiated with suppliers but minimal
credit is offered to customers. Again a balance
must be achieved between getting and giving
good credit terms in order to attract customers
and maintain relationship with suppliers on one
hand, and minimizing cash outlay on the other
hand.

Finally, cash is needed for both normal and
abnormal requirements. Sound cash management
will ensure that adequate cash is available for
meeting the company’s day-to-day debts and there
is also a small reserve on hand to meet

contingencies.

nhà cung cấo và khoảng thời gian doanh nghiệp
nhận được thanh toán nợ từ các khách hàng. Đây
chính là nhiệm vụ của nhà quản lý tài chính để thấy
được các điều khoản tín dụng rộng rãi đã đàm
phán với nhà cung cấp là những khoản tín dụng nhỏ
được cấp cho các khách hàng. Một lần nữa sự
cân bằng giữa nhận và cấp các điều khoản tín
dụng tốt phải được thông qua, một mặt để thu hút
được nhiều khách và duy trì được mối quan hệ bạn
hàng với nhà cung cấp, mặt khác tối thiểu được
lượng tiền mặt cần chi tiêu.
Cuối cùng, lượng (vốn lưu động là) tiền mặt cần cho
cả các yêu cầu thông thường và bất thường. Việc
quản lý tiền mặt sẽ chắc chắn rằng công ty có đủ
tiền mặt dáp ứng cho các khoản nợ hằng ngày của
công ty và đó cũng là khoản dự trữ nhỏ để phòng
tránh các trường hợp bất trắc.

13.
14. Mọi chi tiết xin liên hệ:
15.
16.
17. BONUS:

18. Chiến lược Just-In-Time (JIT) được gói gọn trong một câu: "đúng sản phẩm với
đúng số lượng tại đúng nơi vào đúng thời điểm". Trong sản xuất hay dịch vụ, mỗi
công đoạn của quy trình sản xuất ra một số lượng đúng bằng số lượng mà công
đoạn sản xuất tiếp theo cần tới. Các quy trình không tạo ra giá trị gia tăng phải

bỏ. Điều này cũng đúng với giai đoạn cuối cùng của quy trình sản xuất, tức là hệ
thống chỉ sản xuất ra cái mà khách hàng muốn.
19.
20. Nói cách khác, JIT là hệ thống sản xuất trong đó các luồng nguyên vật liệu, hàng
hoá và sản phẩm truyền vận trong quá trình sản xuất và phân phối được lập kế
hoạch chi tiết từng bước sao cho quy trình tiếp theo có thể thực hiện ngay khi
quy trình hiện thời chấm dứt. Qua đó, không có hạng mục nào rơi vào tình trạng
để không, chờ xử lý, không có nhân công hay thiết bị nào phải đợi để có đầu vào
vận hành.
Các dây truyền lắp ráp của hãng Ford đã áp dụng JIT từ những năm 30. Cần nói
thêm rằng Ford là người đi đầu trong việc áp dựng các dây truyền sản xuất. Tuy
nhiên, phải đến những năm 1970, quy trình sản xuất theo mô hình JIT mới được
hoàn thiện và được Toyota Motors áp dụng. Trong công cuộc công nghiệp hoá
sau Đại chiến thế giới thứ 2, nước Nhật thực hiện chiến lược nhập khẩu công
nghệ nhằm tránh gánh nặng chi phí cho nghiên cứu và phát triển (R&D) và tập
trung vào việc cải thiện quy trình sản xuất (kaizen). Mục tiêu của chiến lược này


là nâng cao chất lượng và độ tin cậy của sản phẩm. Eiji Toyoda và Taiichi Ohno
của Toyota Motor đã phát triển một khái niệm hệ thống sản xuất mới, mà ngày
nay được gọi là Hệ thống SX Toyota. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nước Nhật
có được ngày hôm nay xuất phát từ nền tảng sản xuất dựa trên hệ thống tuyệt
với đó.
Để thử cùng tìm hiểu JIT trong hệ thống sản xuất Toyota, trước hết cần phân
biệt được hai khái niệm sản xuất truyền thống là tinh xảo (craft) và đại trà
(mass). Sản xuất tinh xảo thường sử dụng các công nhân cực kỳ lành nghề cùng
với những công cụ đơn giản nhưng linh hoạt (đặc biệt trong các ngành nghề thủ
công) để tạo ra từng sản phẩm theo ý khách hàng. Chất lượng của hình thức
sản xuất này có lẽ khỏi cần phải bàn, tuy nhiên giá thành dẫn tới giá bán rất cao
là yếu tố làm thu hẹp thị trường. Cũng vì thế mà sản xuất đại trà đã ra đời, đánh

dấu một bước phát triển trong sản xuất đầu thế kỷ 20.
Sản xuất đại trà sử dụng công nhân có tay nghề bậc trung vận hành các máy
công nghiệp đơn năng, tạo ra các sản phẩm được tiêu chuẩn hoá với số lượng
rất lớn. Vì giá trị máy móc cũng như chi phí tái thiết kế rất đắt tiền nên nhà sản
xuất đại trà luôn cố gắng giữ các tiêu chuẩn thiết kế sản phẩm càng lâu càng tốt.
Kết quả là giá thành kéo theo giá bán giảm. Tuy nhiên tác phong công nghiệp
làm cho công nhân nhàm chán và mất động lực làm việc.
Toyota Motor đã kết hợp 2 phương thức sản xuất tinh xảo và đại trà, loại bỏ các
yếu điểm về giá thành và sự chặt chẽ công nghiệp, cho ra đời một phương thức
sản xuất mới với đội ngũ công nhân có tay nghề cao được trang bị hệ thống máy
móc linh hoạt, đa năng, có khả năng sản xuất với nhiều mức công suất. Phương
thức này được đánh giá là sử dụng ít nhân lực hơn, ít diện tích hơn, tạo ra ít phế
phẩm hơn, và sản xuất được nhiều loại sản phẩm hơn hình thức sản xuất đại
trà.
Nền tảng của hệ thống sản xuất Toyota dựa trên khả năng duy trì liên tục dòng
sản phẩm trong các nhà máy nhằm thích ứng linh hoạt với các thay đổi của thị
trường, chính là khái niệm JIT sau này. Dư thừa tồn kho và lao động được hạn
chế tối đa, qua đó tăng năng suất và giảm chi phí. Bên cạnh đó, mặc dù khả
năng giảm thiểu chi phí là yêu cầu hàng đầu của hệ thống, Toyota đã đưa ra 3
mục tiêu phụ nhằm đạt được mục tiêu chính yếu đó:
21. - Kiểm soát chất lượng: giúp cho hệ thống thích ứng hàng tháng hay thậm
chí hàng ngày với sự thay đổi của thị trường về số lượng và độ đa dạng.
- Bảo đảm chất lượng: đảm bảo mỗi quy trình chỉ tạo ra các đơn vị sản phẩm
tốt cho các quy trình tiếp theo.
- Tôn trọng con người: vì nguồn nhân lực phải chịu nhiều sức ép dưới nỗ lực
giảm thiểu chi phí.
Trong quy trình lắp ráp ô tô, các linh kiện phải được các quy trình khác cung cấp
đúng lúc với đúng số lượng cần thiết. Từ đó, tồn kho sẽ giảm đáng kể kéo theo
việc giảm diện tích kho hàng. Kết quả là chi phí cho kho bãi được triệt tiêu, tăng
tỷ suất hoàn vốn. Tuy nhiên, trong một ngành công nghiệp phức tạp như ngành

ô tô, việc áp dụng JIT vào tất cả các quy trình là điều rất kho khăn. Toyota Motor
đã thực hiện theo hướng ngược lại, tức là công nhân của quy trình sau sẽ tự


động lấy các linh kiện cần thiết với số lượng cần thiết tại từng quy trình trước
đó. Va như vậy, những gì mà công nhân quy trình trước phải làm là sản xuất cho
đủ số linh kiện đã được lấy đi.
Kanban là một hệ thống thông tin nhằm kiểm soát số lượng linh kiện hay sản
phẩm trong từng quy trình sản xuất. Mang nghĩa một nhãn hay một bảng hiệu,
mỗi kanban được gắn với mỗi hộp linh kiện qua từng công đoạn lắp ráp. Mỗi
công nhân của công đoạn này nhận linh kiện từ công đoạn trước đó phải để lại 1
kamban đánh dấu việc chuyển giao số lượng linh kiện cụ thể. Sau khi được điền
đầy đủ từ tất cả các công đoạn trong dây truyền sản xuất, một kamban tương tự
sẽ được gửi ngược lại vừa để lưu bản ghi công việc hoàn tất, vừa để yêu cầu
linh kiện mới. Kanban qua đó đã kết hợp luồng đi của linh kiện với cấu thành của
dây truyền lắp ráp, giảm thiểu độ dài quy trình.
Kanban được áp dụng với 2 hình thức:
22. - Thẻ rút (withdrawal kanban): chi tiết về chủng loại và số lượng sản phẩm mà
quy trình sau sẽ rút từ quy trình trước.
- Thẻ đặt (production-ordering): chi tiết về chủng loại và số lượng sản phẩm
mà quy trình sau phải sản xuất.
Sau Nhật, JIT được 2 chuyên gia TQM (Total Quality Manufacturing) la Deming
và Juran phát triển ở Bắc Mỹ. Từ đó mô hình JIT lan rộng trên khắp thế giới. JIT
là một triết lý sản xuất với mục tiêu triệt tiêu tất cả các nguồn gây hao phí, bao
gồm cả tồn kho không cần thiết và phế liệu sản xuất. Tóm lại, JIT tạo ra các lợi
điểm sau:
23. - Giảm các cấp độ tồn kho bán thành phẩm, thành phẩm và hàng hoá.
- Giảm không gian sử dụng.
- Tăng chất lượng sản phẩm, giảm phế liệu và sản phẩm lỗi.
- Giảm tổng thời gian sản xuất.

- Linh hoạt hơn trong việc thay đổi phức hệ sản xuất.
- Tận dụng sự tham gia của nhân công trong giải quyết vấn đề.
- Áp lực về quan hệ với khách hàng.
- Tăng năng suất và sử dụng thiết bị.
- Giảm nhu cầu về lao động gián tiếp.
24. Cùng với sự phát triển như vũ bão của công nghệ truyền thông thông tin, JIT đã
trở thành khả năng cạnh tranh phải có đối với bất cứ doanh nghiệp nào.
25.
Reading 50/50

FINANCIAL ANALYSIS

Phân tích tài chính

There are four critical areas of a company’s
business which can be analyzed by applying
ratio. These are liquidity, capital structure,
activity and efficiency, and profitability.

Có 4 yếu tố chính của một công ty có thể được phân
tích thông qua việc áp dụng các tỷ số. Đó là tính
thanh khoản, cơ cấu vốn, hiệu quả hoạt động kinh
doanh, và khả năng sinh lời.

Measurements of liquidity should answer the

Việc đo lường khả năng thanh khoản giúp giải quyết


question: Can a company pay its short-term

debts? There are two ratios commonly used to
answer this question. Firstly, the current ratio,
which measures the current assets against the
current abilities. In most cases, a healthy
company would show a ratio above “1”, in other
words more current assets than current
liabilities. Another method of measuring liquidity
is so-called quick ratio – this is particularly
appropriate in manufacturing industries where
stock levels can disguise the company’s true
liquidity. The ratio is calculated in the same way
as above but the stocks are deducted from the
current assets.

câu hỏi: Liệu 1 công ty có thể thanh toán đủ cho
các khoản nợ ngắn hạn? Có 2 tỷ số thường dùng để
trả lời cho câu hỏi này. Đầu tiên là, tỷ số thanh toán
ngắn hạn, nó được tính bằng Tài sản ngắn hạn chia
cho Nợ ngắn hạn. Trong nhiều trường hợp, một công
ty có tình hình tài chính tốt sẽ có tỷ số này lớn hơn
“1”, hay nó cũng có nghĩa công ty có nhiều tài sản
ngắn hạn hơn Nợ ngắn hạn. Một cách khác để đo
lường khả năng thanh khoản là dùng Tỷ số thanh
toán nhanh – đây là tỷ số quan trọng sử dụng
trong các ngành công nghiệp sản xuất nơi mức độ
hàng tồn kho có thể không phản ánh dúng khả năng
thanh khoản của công ty. Tỷ số này được tính theo
cách tương tự (với tỷ số thanh toán ngắn hạn) nhưng
hàng tồn kho bị trừ ra khỏi Tài sản ngắn hạn (trên tử
số)


The balance sheet will also reveal the gearing
of the company – this is an indicator of the
company’s capital structure and its ability to
meet its long-term debts. The ratio expresses
the relationship between shareholder’s funds
and loan capital. Income gearing is also
important and show the ratio between profit and
interest paid on borrowings. Highly geared
companies generally represent a greater risk
for investors.

Bảng cân đối kế toán cũng cho ta thấy tỷ lệ vay của
một công ty - đây là một nhân tố trong cơ cấu vốn của
công ty và nó thể hiện khả năng công ty thanh toán
đầy đủ các khoản nợ dài hạn. Tỷ lệ này biểu thị qua
mối quan hệ giữa Vốn góp cổ đông và Vốn vay. Tỷ
lệ vay theo Thu nhập cũng là một tỷ số rất quan
trọng và nó cho thấy tỷ lệ giữa mức lợi nhuận và phần
chi phí trả lãi thông qua hoạt động đi vay của công
ty. Các công ty có tỷ lệ vay vốn (= hệ số nợ = hệ số
đòn bẩy) càng cao thì có độ rủi ro càng lớn đối với
các nhà đầu tư

The balance sheet and the profit and loss
account can be used to assess how efficiently
a company manages its assets. Basically, sales
are compared with investment in various
assets. For examples, in the retail sector, an
important ratio which indicates efficiency

measurements is to calculate the average
collection period on debts. This is found by
dividing debtors’ by the sales per day. This can
vary tremendously from industry to industry. In
the retail sector it may well be as low as one or
two days, whereas in the heavy
manufacturing and service sectors it can
range from thirty to ninety days.

Bảng cân đối kế toán và các khoản lãi lỗ (các khoản
doanh thu & chi phí) có thể được dùng để đánh giá
hiệu quả quản lý tài sản của công ty đó. Về cơ bản,
doanh thu bán hàng thường kết hợp với hoạt động
đầu tư trên nhiều loại tài sản khác nhau của công ty.
Điển hình, trong khu vực bán lẻ, một tỷ số quan trọng
có tác dụng như một thước đo hiệu quả là kỳ thu nợ
bình quân. Nó đuợc tính bằng cách lấy Tổng các
khoản nợ chia cho doanh số bán hàng trong 1 ngày.
Nó hết sức khác nhau giữa các ngành công nghiệp.
Trong lĩnh vực bán lẻ nó có thể tốt nếu thấp trên dưới
1 hoặc 2 ngày, trong khi trong lĩnh vực công nghiệp
nặng và dịch vụ nó có thể tính rộng ra từ 30 đến 90
ngày.

Finally, profitability ratios show the manager’s
use of the company’s resources. The profit
margin figure (profit before tax divided by
sales and expressed as a percentage)
indicates the operational day-to-day profitability
of the business. Return on capital employed

can be calculated in a number of ways. One
common method is to take profit before taxes
and divide by the total assets – this is a good
indicator of the use of all the assets of the

Tỷ số cuối cùng, tỷ số về khả năng sinh lời cho nhà
quản lý sử dụng được các nguồn lực của công ty. Tỷ
suất lợi nhuận hoạt động (Tỷ suất lợi nhuận biên)
(bằng lợi nhuận trước thuế chia cho tổng doanh
thu và tính theo tỷ lệ phần trăm) cho thấy hiệu hoạt
động kinh doanh hằng ngày của doanh nghiệp.
Doanh thu trên vốn đầu tư cũng có thể tính bằng
nhiều cách. Một cách thông thường để tính là lấy Lợi
nhuận trước thuế chia cho Tổng tài sản – đây là một
chỉ tiêu tốt phản ánh việc sử dụng tổng tài sản trong


×