Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT phân tích cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết học hy lạp cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.82 KB, 18 trang )

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC.
Phân tích cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại.
Bài làm:
Triết học hiểu theo cách khái quát đó là 1 trong những hình thái
ý thức xã hội, hệ thống các quan điểm chung nhất của con người về
thế giới và sự nhận thức thế giới ấy. Nó xuất hiện vào thời kì phát
sinh và phát triển của xã hội chiếm hữu nô lệ thời cổ đại, khoảng từ
thế kỉ thứ VIII đến thế kỉ thứ VII trước công nguyên với những
thành tựu rực rỡ trong các nền triết học cổ đại ở Trung Quốc, Ấn Độ
và Hy Lạp.
Khi nghiên cứu triết học nói chung và triết học thời kì cổ đại
nói riêng, chúng ta thấy nổi lên vấn đề xuyên suốt chiều dài lịch sử
triết học là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm nhằm giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Cuộc đấu tranh
này đồng thời là sự phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội đã
phân chia thành giai cấp đối kháng. Thông thường (trừ một vài
trường hợp ngoại lệ), chủ nghĩa duy vật thể hiện thế giới quan của
những lực lượng tiến bộ trong xã hội, là đại diện cho những tư
tưởng tiên tiến của thời đại). Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm (không
phải bao giờ cũng vậy) là biểu hiện cho thế giới quan của những lực
lượng bảo thủ,phản động trong xã hội, đại diện cho những tư tưởng
trì trệ của từng thời đại.

1


Khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa
tồn tại và tư duy, vật chất và ý thức, chủ nghĩa duy vật cho rằng: vật
chất có trước và vật chất quyết định ý thức, ý thức có sau và là sự
phản ánh những mặt, những yếu tố của vật chất đồng thời khẳng


định con người có khả năng sáng tạo ra thế giới. Những người theo
chủ nghĩa duy tâm lại quả quyết rằng ý thức có trước, ý thức quyết
định vật chất. Suy đến cùng, họ thừa nhận sự sáng tạo ra thế giới
theo cách này hay cách khác. Theo đó, những người theo chủ nghĩa
duy tâm phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của con người và cho
rằng sự nhận thức chỉ có thể có được ở thế giới thần linh, thượng đế
và do thượng đế quyết định.Sự mâu thuẫn dẫn đến đấu tranh không
ngừng giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật đã trở thành
động lực cho sự phát triển của triết học.Để hiểu rõ hơn cuộc đấu
tranh đó, trong bài tiểu luận dưới đây, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong
triết học Hy Lạp cổ đại – một trong những cái nôi đầu tiên của nền
triết học nhân loại.
1.Hoàn cảnh lịch sử xã hội Hy Lạp cổ đại :
1.1/Mặc dù xuất hiện muộn hơn so với những nền văn minh cổ
đại mà thế giới ngày nay biết tới, nhưng nền văn minh Hy Lạp – La
Mã lại đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, đặc biệt là trong triết học.
Có thể lí giải phần nào điều đó bằng tính chất điển hình của chế độ
chiếm hữu nô lệ ở đây được biểu hiện trong những mặt sau:
- Sự phân hóa giai cấp hết sức rõ rệt dẫn tới sự hình thành hai
giai cấp chủ yếu là giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ.
2


- Mâu thuẫn giữa hai giai cấp trên ngày càng gay gắt kéo theo
đó là mức độ ác liệt trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp chủ nô và
giai cấp nô lệ cũng ngày càng tăng.
- Giai cấp chủ nô phân hóa thành chủ nô quý tộc và chủ nô dân
chủ. Chủ nô quý tộc gắn liền với sản xuất nông nghiệp, bảo thủ và
chuyên chế. Chủ nô dân chủ gắn liền với công thương nghiệp, tiến

bộ hơn, thường đề xuất những chủ trương dân chủ chống lại chủ nô
quý tộc. Theo đó, cuộc đấu tranh giữa hai trường phái triết học duy
vật và duy tâm ở Hy Lạp – La Mã thời kì này thực chất là biểu hiện
của cuộc đấu tranh giữa chủ nô quý tộc và chủ nô dân chủ.
1.2/Hy Lạp có vị trí địa lí nằm ven bờ Địa Trung Hải,rất thuận
lợi cho việc giao lưu phát triển kinh tế cũng như phát triển nông
nghiệp. Đặc biệt, cuộc chiến tranh giữa Hy Lạp và Ba Tư vào thế kỉ
thứ V trước công nguyên với sự chiến thắng thuộc về Hy Lạp đã mở
ra một thời kì hưng thịnh về kinh tế, chính trị, đồng thời cũng tạo
điều kiện để nền văn hóa Hy Lạp kế thừa được những thành tựu văn
hóa từ phương Đông.
Mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ của chế độ chiếm hữu nô lệ
Hy Lạp thời kì này đã mở rộng phân công lao động xã hội, tách lao
động trí óc ra khỏi lao động chân tay, tạo điều kiện cho tầng lớp trí
thức chủ nô nghiên cứu triết học, khoa học và sáng tạo văn học,
nghệ thuật.
1.3/Với đặc thù lãnh thổ là một quốc gia bao gồm 300 quốc gia
nhỏ tập hợp thành thành bang Hy Lạp, lịch sử Hy Lạp thời kì này
còn là những cuộc nội chiến liên miên làm cho nền kinh tế suy yếu
3


nặng nề. Điều đó đã khiến cho quốc gia này rơi vào cảnh mất nước
vào thế kỉ thứ IV trước công nguyên khi hoàng đế Macedonia thống
nhất tất cả thành bang dưới quyền lực của mình.Tới cuối thế kỉ thứ
III trước công nguyên, Hy Lạp lại trở thành một bộ phận của La Mã.
Mặc dù, bị xâm chiếm như vậy nhưng nền văn hóa Hy Lạp vẫn
phát triển mạnh mẽ. Những tinh hoa văn hóa Hy Lạp bằng sức sống
của mình đã chinh phục lại những người đi xâm chiếm.Tất cả hoàn
cảnh lịch sử trên đều phản ánh vào trong triết học.

2. Sự ra đời và phát triển của triết học :
Từ những nét đặc thù về kinh tế, xã hội nêu trên, triết học Hy
Lạp thời kì này có những đặc điểm như sau:
• Thứ

nhất : Nét nổi bật trong quá trình hình thành và phát triển

của triết học thời kì này là sự phân chia và đối lập giữa hai trường
phái triết học duy tâm và duy vật biện chứng, siêu hình vô thần và
hữu thần. Trong đó, điển hình là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối
triết học : Đường lối Duy Vật của Đêmôcrit và đường lối Duy Tâm
của Platon
• Thứ

hai: Các trường phái triết học nói chung đều có xu hướng

đi sâu vào giải quyết các vấn đề về bản thể và nhận thức luận là
những vấn đề về quan hệ giữa vật chất và ý thức, tồn tại và tư duy,
và con người có khả năng nhận thức thế giới hay không.
• Thứ

ba : Triết học Hy Lạp cổ đại nói chung đều chỉ dừng lại ở

trình độ trực quan, chất phác. Đặc biệt là đối với các hệ thống triết
học duy vật. Tuy vậy, nó đã đặt ra cho nhân loại hầu hết các vấn đề
triết học căn bản chứa đựng mầm mống thế giới quan duy vật
4


Mặc dù còn tồn tại khá nhiều thiếu sót song, triết học Hy Lạp

cổ đại có vai trò rất quan trọng đối với lịch sử triết học thế giới. Nó
không đơn thuần chỉ là sự phân biệt giữa hai nền triết học cổ đại ở
phương Đông và phương Tây mà còn là nền tảng cho sự phát triển
của triết học Tây Âu vào 2000 năm sau.
Có thể nói rằng, triết học Hy Lạp cổ đại từ khi mới ra đời đã
xảy ra những cuộc đấu tranh mạnh mẽ giữa hai trường phái triết học
Duy Vật và Duy Tâm. Điển hình cho cuộc đấu tranh đó trong thời kì
này là cuộc đấu tranh giữa đường lối Duy Vật của Đêmôcrit và
đường lối Duy Tâm của Platon.
3.Cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Duy Tâm
biểu hiện qua 2 hệ thống triết học của Đêmôcrit và Platon.
3.1.Cuộc đời và tác phẩm Đêmôcrit (460 – 370 TCN)
Theo lịch sử truyền lại, Đêmôcrit sinh ra ở thành Áp-Đe,1
thành phố thương mại lớn ở vùng Tơ-ra-xơ. Bố ông là 1 thương gia
giàu có, cho phép ông có nhiều điều kiện thuận lợi để đi chu du, học
hỏi ở nhiều nước trên thế giới. Khi cha ông qua đời đã để lại cho 3
em trai của Đêmôcrit phần lớn tài sản, còn ông chỉ lấy 1 phần nhỏ
bằng tiền mặt trong số đó để đi du lịch.
Trong nhiều tài liệu cho thấy, Đêmôcrit đã tới phương Đông.
Trong chuyến hành trình của mình, ông đặt chân đầu tiên tới Ai Cập
để học hình học, tiếp sau đó, ông rời sang Babilon. Cũng có người
cho rằng, ông đã làm quen với phái Loga ở Ấn Độ, và hình như ông
đã đi qua cả Êtiôpia.

5


Đêmôcrit tự hào tuyên bố rằng ông đã đi qua rất nhiều vùng đất
rộng để chiêm ngưỡng,để trải nghiệm và đã nhìn thấy nhiều hơn so
với bất kì ai cùng thời với ông. Ông cũng đã bàn luận với số đông

các nhà bác học. Tương truyền lại, Đêmôcrit đã luận bàn với Xôcrát
ở Ai len, đã gặp Anaxagô...
Về tác phẩm của Đêmôcrit, theo tương truyền lại, ông có
khoảng 70 tác phẩm trên tất cả các mảng đạo đức, khoa học tự
nhiên, toán, âm nhạc, mĩ thuật... Nhưng, theo thời gian, phần lớn
chúng không còn lưu lại đến ngày nay. Vì rằng, theo nhà triết học
Aristot-xen truyền lại: "Platon đã nhớ rõ hầu hết các trường hợp, khi
ông ta phải phản đối lại ông ấy (Đêmôcrit). Rõ ràng, Platon biết
rằng ông ta buộc phải tranh luận với 1 nhà triết học tốt nhất trong số
các nhà triết học". Và, cũng chính Platon sau những cuộc tranh luận
gay gắt đã muốn đốt hết sách vở của Đêmôcrit. Điều đáng tiếc là
đến thời kì trung cổ, các tác phẩm của Đêmôcrit đã bị đốt hay thất
lạc hầu hết. Cho đến nay, người ta chỉ còn sưu tầm được 300 trích
đoạn còn sót lại.
Như vậy, có thể nói, Đêmôcrit là “một trong những nhà Duy
Vật lớn của thời kì cổ đại, chiếm vị trí nổi bật trong triết học duy vật
Hy Lạp cổ đại”. Bằng nỗ lực tích lũy tri thức của bản thân và qua
hành trình đi qua các nước ở phương đông, Babilon để mở rộng tầm
nhìn, Đêmôcrit đã trở thành nhà bác học toàn năng,nhà triết học duy
vật lớn, được đời sau ca tụng là “trí tuệ vạn năng đầu tiên trong
những người Hy Lạp” (C.Mác).

6


3.2/ Cuộc đời và tác phẩm của Platon (427 - 347 TCN).
Platon chào đời tại Athen (Hy Lạp) vào năm 472 TCN. Ông
thuộc dòng dõi gia đình quý phái về phía cả cha lẫn mẹ. Cha của
Platon tên là Ariston thuộc họ quốc vương Codre, vị vua cuối cùng
của thành Athens, và được coi là con cháu của thần Poseidon. Mẹ

Platon tên là Périctiana, có họ hàng với Salon, nhà luật học lừng
danh của Hy Lạp. Platon có 1 người chú tên là Critias, là 1 trong 30
nhân vật thuộc Hội Đồng Hoạt Đầu.
Platon tên thật là Aristocles, là người thân hình cao lớn và vạm
vỡ như 1 lực sĩ, nên được mọi người gọi là Platon. Năm 18 tuổi,
Platon học hỏi các triết gia và các nhà ngụy biện. Từ năm 20 tuổi,
Platon theo học Socrates trong 8 năm liền và nhanh chóng trở thành
học trò xuất sắc nhất của Socrates. Sau cái chết của người thầy yêu
quí, Platon 1 phần vì lo lắng cho sự an toàn của mình, 1 phần vì
lòng căm phẫn nên đã cùng với 1 vài môn đệ của Socrates tới ẩn
náu tạm thời tại Megara. Tại nơi đây, Platon theo học Euclid, nhà
toán học danh tiếng.
Năm 396 TCN, Platon trở lại Athens và phục vụ trong hàng ngũ
kị binh tham chiến trong trận Corinth và trận này kết thúc bằng sự
thất bại của xứ Athens trước xứ Spacta. Vì ghê tởm cuộc chiến tranh
vừa qua, Platon đã tìm đường sang Ai Cập. Đầu tiên, ông dừng lại ở
Crete rồi Cyrene. Ở nơi này, ông nghiên cứu toán học với
Theodorus. Đến năm 390, ông mới tới Ai Cập. Tại Heliopolis,
Platon đã học hỏi về thiên văn, tôn giáo, hiến pháp. Nhờ thời gian
sống tại Ai Cập, ông đã quan sát kĩ lưỡng các phong tục và suy
7


tưởng. Sau này, Platon đã bàn luận về điều đó trong các tác phẩm
của ông. Sau khi rời Ai Cập, Platon sang Đại Hy Lạp, tới Tarentrun
và quen với Archytas.
Các cuộc đi xa đã giúp cho Platon nhiều cơ hội làm quen với
một số nhà sáng lập ra vài trường phái học thuật như Pythagoras,
Heraclite, cũng như các nhà triết học Eleatic. Từ những nhận xét về
thực tế và các điều học hỏi từ Socrates, cộng với các sở thích liên

quan đến vấn đề chính trị, Platon đã đi đến kết luận rằng chỉ những
người có kiến thức và các phẩm chất đạo đức mới đáng giao phó
quyền lực để điều khiển người khác. Lý tưởng triết học của Platon
đang cần có các cơ hội để áp dụng.
Sau này, Platon đến Syracuse và được triều đình của nơi này
coi như thượng khách. Đây đồng thời là một cơ hội để Platon áp
dụng lý thuyết chính quyền vào hoàn cảnh thực tế. Về sau, Platon bị
Dionysiuss bạo chúa của thành Syracuse này ghét bỏ, ông bị tống
giam và bị giao cho viên thuyền trưởng Pollis, người xứ Sparta.
Pollis đã bán Platon tại Egina như một tên nô lệ. Nhưng thật may
cho Platon, một người theo triết học của ông ở Cyrene cứu và thành
lập ra viện Hàn Lâm Athene, được xem là trường đại học tổng hợp
đầu tiên ở Châu Âu, là trung tâm của triết học duy tâm chống lại
triết học duy vật. Viên Hàn Lâm Athene đã thu hút được rất nhiều
người theo học ở cả trong và ngoài nước. Platon giảng dạy rấy nhiều
môn học, ông làm việc ở đây khoảng 20 năm.
Trong các năm cuối đời, Platon sống tại thành Athens và đã
soạn ra các tác phẩm như: Timaeus, Crite và cuốn sách dang dở The
8


laws Platon qua đời vào năm 348 hay 347 TCN,giữa thời kì nước
Hy Lạp bị Philip II,vua miền Makedonia xâm chiếm các tác phẩm
của Platon,các tác phẩm còn lưu tới ngày nay của Platon gồm 35 tập
đối thoại và 13 bức thư song, một số tập này và bức thư bị nghi ngờ
về tính đích thực.
3.3/ Cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống triết học của
Đêmôcrit và Platon
*) Về vấn đề khởi nguyên của thế giới :
- Đêmôcrit coi khoảng trống và nguyên tử là cơ sở đầu tiên của

thế giới. Theo đó, ông đã xây dựng được cho mình 1 học thuyết hết
sức duy vật mà người đời sau vẫn gọi là thuyết nguyên tử.
Đêmôcrit cho rằng đối lập với cái tồn tại là cái không tồn tại
hay là cái trống rỗng. Cái trống rỗng là cái không xác định cái vô
hình bất động vô hạn. Nó không ảnh hưởng gì đến vật thể nằm trong
nó, nhờ nó mà các vật thể hoạt động được. Phần vật chất thuộc cái
tồn tại mà không chứa đựng trong nó sự trống rỗng nào cả để có thể
phân chia nhỏ hơn nữa gọi là nguyên tử.
Vì vậy mà nguyên tử không thể phân chia được nữa, hoàn toàn
nhỏ bé mà không thể cảm, không có gì xảy ra nữa. Nguyên tử có vô
vàn hình dạng. Theo quan niệm của Đêmôcrit, các sự vật là do các
nguyên tử liên kết với nhau tạo nên. Tính đa dạng của nó làm nên
tính đa dạng của thế giới các sự vật. Nguyên tử tự thân, không vận
động, nhưng khi kết hợp với nhau thành vật thể và thế giới vận động
không ngừng.

9


Thuyết nguyên tử đã được Lơ-xíp (Leucippe) nêu lên từ trước
nhưng phải tới Đêmôcrit, học thuyết đó mới trở nên chặt chẽ.
Đêmôcrit khẳng định, vũ trụ được cấu thành từ 2 thực thể đầu tiên là
nguyên tử và chân không.
Đêmôrit cho rằng nguyên tử là hạt vật chất cực nhỏ, không thể
nhìn thấy được, không thể phân chia nhỏ hơn nữa. Nguyên tử không
biến đổi, tồn tại vĩnh viễn và vận động không ngừng. Nguyên tử
không khác nhau về chất, chúng có mùi vị, âm thanh, màu sắc.
Nguyên tử chỉ khác nhau về hình thức, kích thước, vị trí và trình tự kết
hợp của chúng. Có những nguyên tử hình cầu, cũng có những nguyên
tử hình tam giác, hình móc câu... .Nhờ đó, chúng mới có thể bám dính

được với nhau. Mọi vật thể đều do sự kết hợp giữa các nguyên tử nên
nếu tách rời chúng ra thì vật thể sẽ bị tiêu diệt. Thậm chí, Đêmôrit còn
cho rằng, linh hồn của con người cũng do những nguyên tử hình cầu,
nhẹ và nóng tạo nên. Khi người ta chết, linh hồn sẽ không còn, chúng
rời thể xác và tồn tại như những nguyên tử khác.
Chân không lại là khoảng thời gian trống rỗng. Với Đêmôcrit,
chân không cũng cần thiết như nguyên tử. Nhờ nó, nguyên tử mới
vận động được. Nếu tất cả là đặc sệt các nguyên tử thì sẽ không có
điều kiện cho sự vận động. Khác với nguyên tử có kích thước, hình
dáng, chân không thì vô hạn và không có hình dáng. Trong vũ trụ có
hàng sa số các nguyên tử vận động theo nhiều hướng, khi thì tản ra,
khi thì tụ lại. Khi tụ vào 1 điểm nào đó, chúng va chạm vào nhau tạo
thành 1 cơn xoáy tròn (cơn lốc nguyên tử). Cơn lốc này đẩy những
nguyên tử nhỏ, nhẹ ra ngoài chu vi. Còn, những nguyên tử to, nặng
10


sẽ quy vào tâm. Nhờ đó, các hành tinh, kể cả trái đất được hình
thành, Những hành tinh xuất hiện và mất đi 1 cách tự nhiên, không
do thần thánh hay 1 ai tạo ra.
Như vậy, Đêmôcrit cho rằng nguyên tử là tồn tại. Vì, từ các
nguyên tử mới sinh ra các sự vật. Chân không thì không sinh ra cái
gì cả. Chân không chỉ là không gian để các nguyên tử vận động, kết
hợp và tan rã. Do đó, chân không theo ông là không tồn tại.
Những phán đoán trên về nguyên tử của Đêmôcrit tuy còn
nhiều điểm hạn chế (như cho rằng hạt vật chất là nhỏ nhất và không
thể phân chia được) nhưng, nó đã khẳng định được bản chất của thế
giới là vật chất, vũ trụ là vô cùng, vô tận. Hơn nữa, mặc dù
Đêmôcrit chưa giải thích được nguyên nhân của sự vận động nhưng,
ông đã gắn liền vận động với nguyên tử.Và cho rằng, nó cũng vô

cùng vô tận như nguyên tử. Đó là 1 đóng góp hết sức quan trọng với
sự phát triển của khoa học tự nhiên và chủ nghĩa duy vật. Chính vì
quan niệm duy vật và vô thần ấy, ông đã bị tầng lớp thống trị coi là
phủ nhận thần linh và trục xuất ra khỏi quê hương.
- Ngược lại với Đêmôcrit, Platon - đại diện tiêu biểu của chủ
nghĩa duy tâm thời kì này lại coi "ý niệm mới là tồn tại chân thực và
vĩnh cửu",ý niệm là nguồn gốc sinh ra thế giới, còn vật chất là
không tồn tại. Trong quan hệ với các sự vật cảm tính, "ý niệm" vừa
là nguyên nhân, vừa là hình mẫu, mục đích của các sự vật cảm tính.
Ý niệm tồn tại ngoài con người, ngoài cảm giác của con người. “Ý
niệm tồn tại vĩnh viễn, bất biến, bất động” . Các sự vật cụ thể có thể

11


cảm nhận được bằng cảm giác chỉ là bản sao của các ý niệm, dựa
vào ý niệm hay đúng hơn là thế giới ý niệm.
Platon thừa nhận có 2 thế giới tồn tại : thế giới ý niệm là thế
giới tồn tại vĩnh viễn, bất biến, bất động, tuyệt đối chân thực, cơ sở
tồn tại của thế giới sự vật cảm tính. Còn thế giới sự vật cảm tính là
thế giới tồn tại không chân thực, luôn luôn biến đổi, là cái bóng của
ý niệm, do ý niệm sản sinh ra, phụ thuộc vào ý niệm, loài người
cũng thuộc về thế giới này.
*) Về vũ trụ :
- Đêmôcrit cho rằng vũ trụ là vô tận, vĩnh cửu, có vô số thế
giới phát sinh, phát triển và tiêu diệt
- Ngược lại với quan điểm của Đêmôcrit, Platon cho rằng vũ trụ
này không tồn tại thực mà, tất cả chỉ là sự phức hợp của ý niệm, do
ý niệm quy định, do thượng đế quyết định và không tồn tại.
*) Về vấn đề linh hồn:

- Đêmôcrit đã bác bỏ quan niệm về sự sản sinh ra sự sống và
con người của thần thánh. Theo ông, sự sống là kết quả biến đổi dần
dần từ thấp đến cao của tự nhiên. Sinh vật đầu tiên xuất hiện ở môi
trường nước và dưới tác động của nhiệt độ. Sinh vật đó sống dưới
nước, sau đó dần dần xuất hiện sinh vật có vú sống trên cạn. Cuối
cùng là, con người sinh ra trên quả đất.
Đêmôcrit mặt khác đã phân biệt được rõ ràng sự vật và sinh vật
chúng khác nhau ở chỗ sự vật không có linh hồn, còn sinh vật có
linh hồn. Linh hồn được cấu tạo bởi các nguyên tử hình cầu, giống
như nguyên tử của lửa vận động với vận tốc rất cao. Nguyên tử linh
12


hồn sinh ra nhiệt, nhiệt làm cho cơ thể hưng phấn và vận động. Ông
coi cái chết là sự phân tán của các nguyên tử cấu tạo nên thể xác và
các nguyên tử cấu tạo nên linh hồn chứ không phải là linh hồn lìa
khỏi thể xác.
Tuy quan niệm của Đêmôcrit về linh hồn còn mang tính mộc
mạc, song nó giữ vai trò rất quan trọng trong việc chống lại quan
điểm duy tâm, tôn giáo về tính bất tử của linh hồn.
Còn Platon cho rằng con người bao gồm linh hồn và thể xác tồn
tại độc lập với nhau. “Linh hồn của con người là một bộ phận của
linh hồn vũ trụ do thượng đế sáng tạo ra do đó nó bất tử và tồn tại
vĩnh hằng”. Khi con người chết linh hồn sẽ thoát ra khỏi con người
và bay lên trú ngụ ở 1 vì sao. Khi thể xác mới ra đời, linh hồn bay
xuống nhập vào thể xác đó và tạo ra con người hoàn chỉnh bao gồm
cả linh hồn và thể xác. Trong khi bay xuống nhập vào thể xác con
người, linh hồn đã lãng quên những điều quan sát được ở thế giới
những ý niệm. Vì thế, nhận thức của con người thực chất là sự hồi
tưởng, sự nhớ lại của linh hồn về những điều mà nó đã lãng quên.

*) Về vấn đề nhận thức :
- Đêmôcrit là người có công lao to lớn trong lịch sử triết học về
vấn đề xây dựng lí luận nhận thức, vai trò của cảm giác với tính
cách là điểm khởi đầu của nhận thức và, vai trò của tư duy trong
việc nhận thức thế giới xung quanh”.
Theo Đêmôcrit, sở dĩ con người có những cảm giác khác nhau về
màu sắc, mùi vị, âm thanh nóng lạnh là do những nguyên tử khối hợp
tạo nên chủ thể nhận thức. Điều đó có nghĩa là đối tượng của nhận
13


thức là vật chất, thế giới xung quanh con ngượi và nhờ sự tác động
của đối tượng nhận thức vào con người nên con người mới nhận thức
được. Ông chia ra nhận thức thành nhận thức mờ tối và nhận thức
chân lí. Nhận thức mờ tối là nhận thức do các giác quan đem lại. Nhận
thức chân lí là nhận thức do sự phân tích sâu sắc sự vật để nắm chắc
bản chất bên trong của nó. Ông quan niệm rằng hai dạng nhận thức đó
có liên quan với nhau chặt chẽ. Trong đó, cảm giác là bước đầu của
nhận thức. Ông xây dựng nên thuyết “hình ảnh” (I-dô-lơ) mộc mạc.
Ông quan niệm bề ngoài của sự vật toát ra những hơi thở tinh tế tạo
thành hình ảnh của chúng. Những hơi thở tinh tế đó tác động vào cơ
quan cảm giác của con người, làm cho mọi người cảm nhận được sự
vật. Song, cảm giác là nhận thức “mờ tối” vì nó chưa làm cho con
người hiểu được bản chất tinh tế nằm sâu trong sự vật. Do đó, con
người phải dựa vào nhận thức sâu sắc hơn.
Qua đây chúng ta có thể thấy theo Đêmôcrit “lý tính phải dựa
vào “những dẫn chứng” do cảm tính đem lại và sau đó cần phải đi
sâu vào phân tích tính chân lý còn đang nằm sâu dưới đáy bể. Điều
này có thể cho thấy rằng, ông không hề phủ nhận khả năng nhận
thức chân lí khách quan của con người. Còn Platon cho rằng chỉ có

nhận thức lí tính đưa khái niệm mới có thể đạt tới tri thức chân thực,
nhận thức cảm tính không bao giờ đạt tới tri thức chân thực mà chỉ
đưa lại dư luận. Thực chất của vấn đề này là Platon đã đề cao vai trò
của nhận thức lý tính và hạ thấp vai trò của nhận thức cảm tính. Ông
cho rằng nhận thức chẳng qua chỉ là sự hồi tưởng lại những ý niệm.
*) Về quan điểm chính trị - xã hôi :
14


- Đêmôcrit đứng trong lập trường của phái chủ nô dân chủ, kịch
liệt chống lại phái chủ nô quý tộc. Ông ra sức bảo vệ và tuyên
truyền cho chế độ dân chủ của chủ nô, trong đó thể hiện quyền lợi
của mình gắn liền với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của thương
mại và công nghiệp.Ông đề cao, ca ngợi, cổ vũ cho tình thân ái, tính
ôn hòa, lợi ích chung và quyền lợi chung của công dân tự do. Theo
ông, “cần phải ưa thích cái nghèo trong 1 nhà nước dân chủ hơn so
với cái gọi là cuộc sống hạnh phúc trong chế độ chuyên chế tựa như
là tự do tốt hơn nô lệ”. Đương nhiên là do xuất thân từ tầng lớp chủ
nô dân chủ, Đêmôcrit chỉ đề cập đến dân chủ của chủ nô, còn bản
thân nô lệ thì cũng như những nhà tư tưởng khác, ông cho rằng phải
biết tuân theo người chủ nô.
Ông đề cao Nhà nước, chính Nhà nước đóng vai trò duy trì trật
tự và điều hành xã hội. Theo Đêmôcrit cần phải trừng trị nghiêm
khắc những kẻ vi phạm pháp luật hay chuẩn mực đạo đức nào đó.
Phương châm tư tưởng của Đêmôcrit là thà sống nghèo khổ còn hơn
là giàu có nhưng mất tự do dân chủ. Mục tiêu của con người là sống
hạnh phúc nhưng hạnh phúc không đơn thuần chỉ là sự giàu có. Ông
khẳng định, hạnh phúc là sự thanh thản trong tâm hồn và được tự
do. Chỉ có người biết bằng lòng với sự hưởng lạc vừa phải thì mới
được hạnh phúc.

- Còn Platon thì lại đề cao vai trò của chế độ quý tộc đứng trên
lập trường cùa phái chủ nô quý tộc chống lại chế độ dân chủ tiến bộ
của xã hội. Ông cho rằng, linh hồn gồm các bộ phận lý tính, ý chí và
cảm tính. Trong xã hội có các hạng người tương ứng với các bộ
15


phận của linh hồn. Lý tính là cơ sở của các đức tính cao cả chỉ có
được ở những nhà triết học, các nhà thông thái. Ý chí là cơ sở của
đức tính can đảm. Nó thể hiện ở trong những người lính, những
chiến binh. Cảm tính là cơ sở của các đức tính thận trọng. Đức tính
này thường có ở những người dân tự do, những người thợ thủ công.
Platon đặc biệt miệt thị nô lệ. Theo ông, nô lệ không phải là người
mà chỉ là động vật biết nói, không có đạo đức.
Platon chủ trương duy trì các hạng người trong xã hội, cũng có
nghĩa là duy trì sự bất bình đẳng giữa mọi người. Nhà nước ra đời là
để đáp ứng những nhu cầu đó. Theo Platon, hình thức cộng hòa là
“Nhà nước tư tưởng”. Trong đó, quyền thống trị tuyệt đối về tầng
lớp chủ nô quý tộc. Nhà nước, đó là hiện thân của cả ba đức tính là
sự thông thái, lòng can đảm và sự thận trọng. Trong “Nhà nước tư
tưởng”, ông chia xã hội ra thành 3 đẳng cấp dựa vào đặc trưng đạo
đức. Đẳng cấp thứ nhất là các nhà triết học, các nhà thông thái giữ
vai trò lãnh đạo xã hội. Đẳng cấp thứ hai là quân nhân có trách
nhiệm bảo vệ “Nhà nước tư tưởng”. Đẳng cấp thứ ba là dân lao
động tự do, thợ thủ công và những người tự do khác làm ra sản
phẩm nuôi sống Nhà nước.
Như vậy, chúng ta thấy, ngay từ khi mới ra đời, triêt học Hy
Lạp cổ đại đã xảy ra cuộc đấu tranh mạnh mẽ giữa Chủ Nghĩa Duy
Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm mà đại biểu tiêu biểu nhất là Đêmôcrit
của phái duy vật và Platon của phái duy tâm. Bên cạnh đó, còn

nhiều nhà triết học khác của phái duy vật như Anatago, Ampêđốclơ
hay Ê pi crát…

16


Có thể thấy ngay từ thời cổ đại, nhận thức của con người tuy
còn nhiều hạn chế song giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy
Tâm đã hình thành nên cuộc đấu tranh gay gắt không thể điều hòa
được về mọi mặt trong xã hội.Mặt khác, cuộc đấu tranh giữa Chủ
Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm cũng chính là động lực cho
sự phát triển của nền triết học nhân loại

17


MỤC LỤC

18



×