Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

tiểu luận cao học văn hóa GIA ĐÌNH những giải pháp xây dựng văn hóa gia đình trong thời kỳ đổi mới hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.51 KB, 38 trang )

Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong cuộc sống của người Phương Đông bị ảnh hướng nhiều nhất
bởi tư tưởng của nho giáo. Nho giáo xuất hiệnvào khoảng thế kỉ VI trước
công nguyên dưới thời Xuân Thu. Người khởi xướng là Khổng tử đã có
những đóng góp rất quan trọng cho sự hình thành những tư tưởng của nho
giáo. Nho giáo có một lịch sử phát triển lâu dài, trên hai ngàn năm trăm
năm nếu không muốn nói là lâu hơn. trải qua nhiều sựđổi thay và khác biệt
về văn hoá chính trị, xã hội… và bao thăng trầm trong lịch sử xã hội con
người, nho giáo vẫn giữ đượcthế đứng trong lòng mỗi người nhất là trong
lòng người Phương Đông.Qua các giai đoạn phát riển, nho giáo cũng có
những thời kì hưng thịnh nhưng cũng không tránh khỏi những thăng trầm
nhưng không ai có thể phủ nhận những đóng góp của nho giáo đối với xã
hội loài người. Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng độc tôn và luôn giữđược
vị trí của nó cho đến ngày cuối cùng của xã hội phong kiến. điều đóđã
chứng tỏ rằng; nho giáo phải có gìđặc biệt thì mới cóảnh hưởng sâu rộng
đến như vậy. Có phải đó là tư tưỏng nhân nghĩa, thuyết chính danh, đạo
đức… đã làm nên những ảnh hưởng đến cách sống của con người ngày
nay. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực nho giáo còn bộc lộ những
hạn chế. đó là nho giáo là cơ sở để chếđộ phong kiến dựa vào đóđể cai trị,
cuộc sống của con người bị chàđạp, bất bình đẳng, tam tòng tứđức đè nặng
lên người dân. chính vì thế mà ngày nay có rrát nhiều ý kiến khác nhau về
giá trị tích cựcvà hạn chế của nho giáo ảnh hưởng như thế nào đến xã hội,
lối sống và nhân cách của mỗi con người. Hơn một nghìn năm Bắc thuộc
Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều của nho giáo Trung Quốc.

1




Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển

2. Mục đích chọn đề tài
- Làm rõ khái niệm văn hóa và khái niệm văn hóa gia đình từ đó đưa ra
những đánh giá và so sánh giữ văn hóa gia đình truyền thống và hiện đại để
thấy được những ảnh hưởng Nho giáo đến văn hóa gia đình Việt Nam
- Đưa ra những giải pháp xây dựng văn hóa gia đình trong thời kỳ đổi mới
hiện nay dưới ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo.
3. Phương pháp nghiên cứu
- So sánh, đánh giá, phân tích, tổng hợp
- Sử dụng phương pháp liên ngành như lịch sử văn hóa, địa lý văn hóa, cơ
sở văn hóa.
4. Kết cấu của tiểu luận:
Tiểu luận gồm 2 phần:
- Mở đầu
- Nội dung
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
CHƯƠNG II: VÀI NÉT VỀ NHO GIÁO
CHƯƠNG III: ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐẾN VĂN HÓA GIA
ĐÌNH VIỆT NAM
- Kết luận

* Tài liệu tham khảo
- Hệ thống tư tưởng Khổng - Mạnh

2



Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển

- Hệ thống tư tưởng Hán Nho
- Hệ thống tư tưởng Tống Nho
- Vũ khiêu ( chủ biên) nho giáo xưa và nay, nxb khxh năm 1991
- Viện triết học nho giáo việt nam, NXB KHXH năm 1994
- Tạ Văn Thành, 1997, Văn hóa gia đình và gia đình văn hóa. Trong: Bộ
Văn hóa Thông tin, 1997. Xây dựng gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi
mới. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr 162-167.
- Lê Minh, 1997. Phụ nữ Việt Nam trong gia đình và xã hội. Nxb Lao Động
Hà Nội.
- Lê Như Hoa, 2001, Văn hóa gia đình với việc hình thành và phát triển
nhân cách trẻ em. Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
- Vũ Ngọc Khánh, 1998. Văn hóa gia đình. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
- Vũ Quang Hà, 2001. Các lý thuyết xã hội học. Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.

3


Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG

1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác
nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.
“Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát
triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa
lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự
xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá
trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành
động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của
con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ
chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất
và tinh thần mà do con người tạo ra”.
Có nhiều khái niệm văn hóa khác nhau như định nghĩa văn hóa của Hồ
Chí Minh
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặt
ăn ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ các sáng tạo và phát minh đó
tức là văn hóa” (khái niệm văn hóa của Hồ Chí Minh )
2. Khái niệm văn hóa gia đình
Văn hóa gia đình là một nội dung quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu
gia đình. Nghiên cứu văn hóa gia đình giúp chúng ta có cơ sở khoa học để
hiểu đúng bản chất và truyền thống của gia đình Việt Nam, thấy được
4


Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển


những nét tương đồng và khác biệt giữa gia đình Việt Nam với gia đình các
dân tộc khác trong khu vực và trên thế giới. Trên cơ sở đó chúng ta có thể
tìm kiếm những giải pháp và chiến lược phát huy vai trò to lớn của gia đình
trong việc giữ gìn truyền thống quý báu của dân tộc, góp phần củng cố sự
bền vững của gia đình, giữ vững ổn định xã hội, phát triển kinh tế, nuôi
dưỡng, giáo dục và cung cấp nguồn lực con người đáp ứng đòi hỏi của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghiên cứu văn hóa gia
đình còn giúp chúng ta hiểu được bản chất văn hóa Việt Nam, bởi vì gia
đình Việt Nam là một thiết chế nền tảng của xã hội Việt Nam truyền thống,
có chức năng lưu giữ và chuyển giao các giá trị văn hóa của dân tộc từ thế
hệ này sang thế hệ khác.
Từ sự phân tích đặc trưng, qui luật hình thành và phát triển, cấu trúc
và chức năng của văn hóa gia đình, có thể định nghĩa văn hóa gia đình như
sau:
“Văn hóa gia đình là hệ thống những giá trị, chuẩn mực khu biệt
đặc thù điều tiết mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và mối
quan hệ giữa gia đình với xã hội, phản ánh bản chất của các hình thái gia
đình đặc trưng cho các cộng đồng, các tộc người, các dân tộc và các khu
vực khác nhau được hình thành và phát triển qua lịch sử lâu dài của đời
sống gia đình, gắn liền với những điều kiện phát triển kinh tế, môi trường
tự nhiên và xã hội”.

5


Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển

CHƯƠNG II: VÀI NÉT VỀ NHO GIÁO

2.1. Nội dung của tư tưởng Nho giáo
2.1.1. Khái niệm Nho giáo
Nho giáo, còn được gọi là Khổng giáo, là một hệ thống đạo đức, triết lý
và tôn giáo do Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị.
Nho giáo rất phát triển ở các nước châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc, và Việt Nam. Những người thực hành theo các tín điều của
Nho giáo được gọi là các nhà Nho
2.2.2. Sự ra đời của Nho giáo
Quá trình hình thành và phát triển
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ
thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp
của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công.
Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc,
Khổng Tử (sinh ngày 8/9/479 trước công
nguyên) phát triển tư tưởng của Chu
Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá
các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người
đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho
giáo.
Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng khác trên thế giới như Thích Ca Mầu
Ni, Jesus,... người đời sau không thể nắm bắt các tư tưởng của Khổng
tử một cách trực tiếp mà chỉ được biết các tư tưởng của ông bằng các ghi
chép do các học trò của ông để lại. Khó khăn nữa là thời kỳ "đốt sách, chôn
Nho" của nhà Tần, hai trăm năm sau khi Khổng Tử qua đời đã làm cho việc

6


Môn: Văn Hóa Gia đình


Khoa: Văn hóa & Phát triển

tìm hiểu tư tưởng Khổng Tử càng khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu
đời sau vẫn cố gắng tìm hiểu và hệ thống các tư tưởng và cuộc đời của ông.
1/ Nho giáo nguyên thủy
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh
gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch,
KinhXuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất
lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ
kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các
lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất
của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn
ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là
Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các
tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng
Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho
giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ
đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính
học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang
tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử
trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải
thực hành.
2/ Hán Nho
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế
đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất
nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống
bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo
thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên

7



Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển

thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị. Thiên Tử là con
trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị".
3/ Tống Nho
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với
Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là
sách gối đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là
Tống nho, với các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo,
Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho
học nên được gọi là "Trạng Trình"). Phương Tây gọi Tống nho là "Tân
Khổng giáo". Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc
bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình"
(lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
Các sách kinh điển
Các sách kinh điển của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo
nguyên thủy. Sách kinh điển gồm hai bộ: Ngũ Kinh và Tứ Thư.
1/ Ngũ Kinh
a. Kinh Thi:
Sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình yêu
nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người tình
cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng. Một
lần, Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con trả lời "chưa".
Khổng Tử nói "Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao" (sách
Luận ngữ).


8


Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển

b. Kinh Thư:
Ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử.
Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh
quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
c. Kinh Lễ:
Ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng làm
phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không học Kinh
Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận ngữ).
d. Kinh Dịch:
Nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái
niệm âm dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích
các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết
nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là
Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Hoán từ và Hào từ cho dễ hiểu
hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.
e. Kinh Xuân Thu:
Ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử. Khổng Tử không
chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn
lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục
các bậc vua chúa. Ông nói, "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu, thiên
hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm
đắc nhất. (Xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc
xảy ra.)


9


Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển

f. Kinh Nhạc:
Do Khổng tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại một ít làm
thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy lục kinh chỉ còn lại
ngũ

kinh.

2/ Tứ Thư
a. Luận ngữ:
Ghi lại lời dạy của Khổng Tử do học trò của ông ghi chép lại sau khi ông
mất (Luận ngữ = các lời bình luận).
b. Đại học:
Dạy phép làm người để trở thành bậc quân tử. Sách này do Tăng Sâm, còn
gọi là Tăng Tử, học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử, dựa trên lời dạy của
ông soạn ra (Đại học = sự học lớn).
c. Trung Dung:
Dạy người ta cách sống dung hòa, không thiên lệch. Sách này do người
cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, học trò của Tăng Tử, còn gọi là Tử
Tư soạn ra (Trung dung = ở giữa, dung hòa).
d. Mạnh Tử:
Ghi lại lời dạy của Mạnh Tử. Mạnh Tử tên thật là Mạnh Kha, là người tiêu
biểu nhất sau Khổng Tử, thuộc dòng Tử Tư, phát triển tư tưởng của Khổng

Tử ở thời Chiến Quốc (390-305 trước công nguyên).

10


Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển

Nội dung cơ bản của Nho giáo
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ
chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải
đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử
(quân = cai trị, quân tử = người cai trị). Để trở thành người quân tử, con
người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong,
người quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo" (hành động theo đạo lý).
1/ Tu than
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:
* Đạt Đạo.
Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người quân tử
phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo
vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung
Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu".
Đó chính là "ngũ luân" (luân = thứ bậc, đạo cư xử). Trong xã hội cách cư
xử tốt nhất là "trung dung". Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập
chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là "tam
thường": "quân thần, phụ tử, phu phụ". Và cách ứng xử không còn trung
dung nữa mà là mối quan hệ một chiều, đó là: "trung, hiếu, tiết nghĩa". Tôi
phải tuyệt đối phục tùng vua, con phải tuyệt đối phục tùng cha, vợ phải
tuyệt đối phục tùng chồng. Mối quan hệ đó được thể hiện: "Vua bảo tôi

chết, tôi không chết là tôi bất trung; cha bảo con chết, con không chết là
con bất hiếu" (quân sử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ sử tử vong, tử bất
vong bất hiếu). Còn trách nhiệm của vợ đối với chồng thì được diễn đạt
bằng ba công thức được gọi là "tam tòng": "ở nhà theo cha, lấy chống theo
11


Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển

chồng, chồng chết theo con trai" (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử
tòng tử).
* Đạt Đức.
Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử nói: "Đức của
người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn,
người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về
sau, Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức:
"nhân, nghĩa, lễ, trí". Hán nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức
là: "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đức này còn gọi là "ngũ thường".
* Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc.
Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức", người quân tử còn phải biết "Thi,
Thư, Lễ, Nhạc". Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn
diện.
2/ Hành đạo
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm
chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho
đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất
thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc

cai trị là hai phương châm:
* Nhân trị.
Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi
người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng
Tử nói: "Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác" (sách

12


Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển

Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử
nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc
mà làm gì?" (sách Luận ngữ).
* Chính danh.
Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải
làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời
không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua
Tề Cảnh Công: "Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách Luận
ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo,
chúng được tóm gọi lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ. Và đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà
thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư,
lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức
mà không cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không
có đạo đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường).

Đặc điểm của Nho giáo
Nho giáo có rất nhiều điểm mâu thuẫn, nếu chưa tính đến Nho giáo các đời
sau, Nho giáo nguyên thủy chứa đựng rất nhiều mâu thuẫn về nguyên tắc;
ví dụ, Khổng Tử nói "dân làm gốc" nhưng lại gọi dân là "tiểu nhân",... Việc
tìm ra các đặc điểm của Nho giáo để giải thích các mâu thuẫn đó yêu cầu
nghiên cứu về quá trình hình thành Nho giáo, tức là tìm về nguồn gốc của
Nho giáo. Nho giáo là sản phẩm của hai nền văn hóa: văn hóa du mục

13


Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển

phương Bắc và văn hóa nông nghiệp phương Nam. Chính vì thế nó mang
đặc điểm của hai loại hình văn hóa này.
1/ Tính du mục phương Bắc
* Tính "quốc tế" là một trong những đặc tính khác biệt của văn hóa du mục
so với văn hóa nông nghiệp. Tính quốc tế trong Nho giáo thể hiện ở mục
tiêu cao nhất của người quân tử là "bình thiên hạ". Bản thân Khổng Tử đã
nhiều lần rời bỏ nước Lỗ, quê hương ông để đi tìm minh chủ. Đối với
người quân tử, việc tìm được một minh quân quan trọng hơn việc làm gì
cho đất nước của mình. Trong các truyền thuyết và văn học Trung Hoa,
việc các nhân tài thay đổi minh chủ là điều rất thường thấy. Đó cũng là một
trong những ảnh hưởng của Nho giáo.
* Tính "phi dân chủ" và hệ quả của nó là tư tưởng "bá quyền", coi khinh
các dân tộc khác, coi mình là trung tâm còn "tứ di" xung quanh đều là "bỉ
lậu" cả. Khổng Tử nói: "Các nước Di, Địch, dù có vua nhưng cũng không
bằng Hoa Hạ (Trung Hoa) không có vua" (sách Luận ngữ). Tính phi dân

chủ còn được thể hiện ở chỗ coi thường người dân, đặc biệt là phụ nữ.
Khổng Tử gọi dân thường là "tiểu nhân", đối lập với người "quân tử". Còn
đối với phụ nữ, ông nói: "Chỉ hạng đàn bà và tiểu nhân là khó dạy. Gần thì
họ nhờn, xa thì họ oán" (sách Luận ngữ).
* Tính "trọng sức mạnh" được thể hiện ở chữ "Dũng", một trong ba đức mà
người quân tử phải có (Nhân - Trí - Dũng). Tuy nhiên ông cũng nhận ra
điều nguy hiểm: "Kẻ nào có dũng mà ghét cảnh bần hàn tất làm loạn".
* Tính "nguyên tắc" được thể hiện ở học thuyết "chính danh". Tất cả phải
có tôn ti, tất cả phải làm việc theo đúng bổn phận của mình.
2/ Tính nông nghiệp phương Nam

14


Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển

* Tính "hài hòa" là một đặc tính của văn hóa nông nghiệp, trái ngược với
tính trọng sức mạnh của văn hóa du mục. Biểu hiện cho tính hài hòa là việc
đề cao chữ "Nhân" và nguyên lý "Nhân trị". Khổng Tử từng nói: "Về cái
mạnh của phương Nam ư? Hay cái mạnh của phương Bắc ư? ... Khoan hòa
mềm mại để dạy người, không báo thù kẻ vô đạo - ấy là cái mạnh của
phương Nam, người quân tử ở vào phía ấy. Xông pha gươm giáo, dầu chết
không nản, ấy là cái mạnh của phương Bắc - kẻ mạnh ở vào phía ấy" (sách
Trung Dung).
* Tính "dân chủ" là đặc tính khác biệt với văn hóa du mục. Khổng Tử nói:
"Dân là chủ của thần, vì thế thánh nhân xưa lo cho việc dân rồi mới lo việc
thần" (Kinh Xuân Thu). Ông còn nói: "Phải làm trước những công việc của
dân, phải khó nhọc vì dân" (sách Luận ngữ). Tính dân chủ còn được thể

hiện ở cách cư xử "trung dung" trong "ngũ luân". Trong các quan hệ đó,
đều thể hiện tính hai chiều, bình đẳng: Vua sáng, tôi trung; cha hiền, con
hiếu; anh tốt, em nhường; bạn bè tin cậy.
* Tính coi trọng văn hóa tinh thần (thi, thư, lễ, nhạc) thể hiện nhiều trong
Kinh Thi. Tính "trọng văn" cũng ngược lại với tính "trọng võ" của văn hóa
du mục.
3/ Thay đổi của các đặc điểm theo thời gian
Việc đồng thời dựa vào hai nền văn hóa đối lập nhau, đó là văn hóa du mục
và văn hóa nông nghiệp trong một hoàn cảnh xã hội đầy biến động như thời
Xuân Thu khiến cho tư tưởng của Khổng Tử không tránh khỏi các giằng co
dẫn đến sự đụng đầu của hai nền văn hóa trong nho giáo, khiến cho Nho
giáo nguyên thủy chứa đầy mâu thuẫn.
* Mâu thuẫn đầu tiên là mâu thuẫn về thái độ đối với người dân. Văn hóa
du mục trọng sức mạnh, trọng người quân tử, lấy người quân tử để đối lập
15


Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển

với kẻ tiểu nhân - người dân thường, "Người quân tử giúp người làm điều
thiện, chứ không làm điều ác; kẻ tiểu nhân thì ngược lại" (sách Luận ngữ).
Trong khi văn hóa nông nghiệp lại coi trọng dân, lấy dân làm chủ, "dân là
chủ của thần".
* Mâu thuẫn tiếp theo là mâu thuẫn giữa "lễ trị" (pháp trị) của văn hóa du
mục với "nhân trị" của văn hóa nông nghiệp. Khổng Tử nói nhiều đến "lễ
trị", ông vận động các nước chư hầu duy trì cái "lễ" của nhà Tây Chu: "Ta
học lễ nhà Chu, hiện đang ứng dụng; ta theo nhà Chu" (sách Trung Dung).
Học trò thường được ông kể rằng: "Nằm mộng thấy Chu Công". Nhưng

dần dần, Khổng Tử chuyển từ "lễ" sang "nhân", nhập "nhân" vào với "lễ"
và còn đi xa hơn, coi "nhân" làm gốc của "lễ nhạc": "Không có nhân thì lễ
để làm gì? Không có nhân thì nhạc để làm gì?" (sách Luận Ngữ).
Chính sự mâu thuẫn nội tại trong Nho giáo nguyên thủy là nguyên nhân
gây ra "tấn bi kịch" lớn nhất của Nho giáo: cái Nho giáo mà Khổng Tử tốn
bao công xây dựng vừa có thể nói là thất bại, lại vừa có thể nói là thành
công.
Thất bại bởi lẽ, trong khi các bậc đế vương phương Bắc với truyền thống
"trọng võ", quen "pháp trị" và chuyên chế bằng vũ lực thì Khổng Tử lại nên
cao "trọng văn", dùng "nhân trị", thu phục bằng nhân tâm. Nên khi sinh
thời, Khổng Tử muốn làm quan nhưng hầu như không được ai dùng. Về
già, một lần ông tiên đoán về sự suy tàn của đạo mình: "Chim phượng
chẳng đến, bức đồ chẳng hiện trên sông Hoàng Hà, ta hết hi vọng rồi" (sách
Luận ngữ). Sau khi Khổng Tử chết, năm 246 trước công nguyên, vua Tần
là Doanh Chính dùng vũ lực thống trị thiên hạ xưng là Tần Thủy Hoàng đế,
áp dụng chính sách cai trị bằng pháp luật, độc đoán hoàn toàn trái ngược
với các chủ trương của Nho giáo và dẫn đến hành động "đốt sách, chôn
Nho" nổi tiếng.

16


Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển

Thành công là bởi lẽ, sau khi Tần Thủy Hoàng chết, nhà Tần sụp đổ, Hán
Cao Tổ là Lưu Bang đã rút ra được một số kinh nghiệm của nhà Tần mà
bớt đi phần hà khắc mà trưng dụng trí thức. Nhưng phải đến Hán Vũ Đế,
theo lời khuyên của Đổng Trọng Thư thì Nho giáo mới được đưa lên địa vị

quốc giáo. Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong
kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Không những thế, nó còn được
truyền bá khắp miền Đông Á. Khổng Tử được tôn lên bậc thánh, trên thế
giới tên tuổi của ông không ai không biết.
Tuy nhiên sự thành công đó không phải là điều mà Khổng Tử trông
đợi bởi vì cái Nho giáo mà Khổng Tử tạo ra hoàn toàn thất bại mà thay vào
đó, cũng cái tên Nho giáo đó nhưng với nội dung khác hẳn đã được đề cao.
Nói chính xác hơn, hầu hết các đặc điểm nông nghiệp trong Nho giáo
nguyên thủy bị loại bỏ và bị thay thể bằng các đặc điểm du mục. Đến Hán
nho, nhà Hán chủ trương "dương đức", "âm pháp", hay còn gọi là "ngoại
Nho, nội pháp", tức là chủ trương nhân trị chỉ còn là hình thức mà thực
chất là pháp trị. Hán Vũ đế giao cho nhóm người do Lưu Hâm cầm đầu, cải
tạo và biến đổi Nho giáo để phục vụ vương triều. Nhóm của Lưu Hâm làm
ba việc:
* Hạ thấp nhân trị, đề cao lễ trị. Vì nhân trị là cốt lõi của Khổng Tử nên họ
không thể loại bỏ hoàn toàn mà dùng nhân trị như một cái vỏ bao bọc lễ trị.
* Loại bỏ tính dân chủ của Nho giáo nguyên thủy. Dân là chủ bị lờ đi mà
thay vào đó họ đề cao "trời", tạo ra thuyết "thiên mệnh". Vua là "thiên tử"
(con trời), không nghe theo vua là phản lại trời. "Ngũ luân" trong Nho giáo
nguyên thủy được rút gọn thành "tam cương": vua-tôi, cha-con, vợ-chồng.
Quan hệ "trung dung" trong ngũ luân được chuyển thành quan hệ một chiều
duy nhất được tóm gọn trong bốn chữ "trung - hiếu - tiết nghĩa". Bề tôi phải
tuyệt đối phục tùng vua, con phải tuyệt đối nghe lời cha, vợ phải tuyệt đối
phục tùng chồng, đó là những mối quan hệ hết sức phi nhân bản: "Vua bảo
17


Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển


tôi chết, tôi không chết là tôi bất trung; cha bảo con chết, con không chết là
con bất hiếu". Còn trách nhiệm của vợ đối với chồng thì được diễn đạt bằng
ba công thức được gọi là tam tòng: "Ở nhà theo cha, lấy chống theo chồng,
chồng chết theo con trai".
* Hạn chế vai trò của văn hóa sao cho có lợi cho chế độ phong kiến. Quan
hệ nam nữ bị giới hạn một cách quá đáng: "nam nữ thụ thụ bất thân". Đề
cao nam, hạ thấp nữ: "nam tôn, nữ ti", "dương thiện, âm ác".
Đến Tống Nho, Nho giáo lại tự hoàn thiện thêm một lần nữa bằng cách bổ
sung thêm các yếu tố tâm linh từ Phật giáo và các yếu tố siêu hình từ Đạo
giáo với các tên tuổi như Chu Hy, Trình Hạo, Trình Di.
Như vậy, Khổng giáo hoàn toàn thất bại. Trước khi chết, Khổng Tử
rất u buồn bởi lẽ ông hiểu rằng, hút nhụy một phần từ văn minh nông
nghiệp, Nho giáo mang tính nhân bản của ông chỉ thích hợp trong phạm vi
làng xã. Còn để phục vụ trong phạm vi quốc gia thì cần phải có một triết lý
có tính pháp luật cao hơn, và Hán nho đã hoàn thành xuất sắc điều này.

18


Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển

CHƯƠNG III: ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐẾN
VĂN HÓA GIA ĐÌNH VIỆT NAM
3.1. Quá trình du nhập Nho giáo vào Việt Nam
Sự du nhập và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam
Nguồn gốc ra đời và tư tưởng chủ đạo của nho giáo. Vì những điều
đó là cốt yếu của tôn giáo nên Khổng Tử được tôn làm ông tổ của nho giáo,

do đó có khi người ta gọi là Khổng giáo. người ta gọi ông là Khổng Tử hay
Khổng Phụ Tử, ông là người làng Xương Bình, huyện khúcPhụ, phủ Diễn
Châu , tỉnh Sơn Đông Trung Quốc. Khổng Tử là người có đóng góp rất lớn
cho nho giáo, ông là người đặt nền móng cho nho giáo phát triển. Khổng
Tử sinh năm 551 và mất năm 479 trước công nguyên, ông là người rất ham
học, sớm nổi tiếng uyên bác, thông hiểu văn hiến lễ nhạc nhà Hạ, nhà
Thương, nhà Chu, tức là các vương triều cổđại Trung Hoa. Ngoài năm
mươi tuổi ông bỏ quan đi chu du các nước và để đến hơn hai chục năm trời
chuyên tâm vào việc sưu tập văn hoá và dạy học trò. Khổng Tử có công
sưu tầm và viết lại năm bộ sách: Thi, Thư, Dịch, Lễ,Xuân Thu gọi chung là
Ngữ kinh do Khổng Tửđể lại là kinh điển của nho giáo. Khổng Tử sống
trong thời kì biến động lớn của xã hội. từ lâu, chính trị rối loạn, mỗi người
đều chọn cho mình một thái độ sống khác nhau là một triết nhân thái độ
sống của Khổng Tử hết sức phức tạp, ông vừa hoài cổ, vừa sượng sùng đổi
mới. Trong tâm trạng phân vân, dần dần ông hình thành tư tưởng lấy nhân
nghĩa để giữ vững sự tồn tại chung và khai sáng hệ tư tưởng gọi là phái nho
giáo đã tạo ra ảnh hưởng sâu sắc tới xã hội Trung Quốc nói riêng và xã hội
Phương Đông nói chung. Những tư tưởng chính của nho giáo đựơc các học
trò của Khổng Tử phát triển và lưu truyền tới các thế hệ sau, nó được thể
hiện qua các phương diện sau:

19


Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển

* Về vũ trụ và giới tự nhiên: Khổng Tử tin có trời. Nhưng đối với ông, trời
cóý chí, ý trời là thiên mệnh không thể thay đổi được, không thể cải được

mệnh trời. Ông gộp trời đất vào một thể. Quan điểm này được thể hiện đầy
đủ rõ ràng và bao quát bằng từ dich. Đối với quỷ thần ông có tư tưởng thiếu
nhất quán. Đến các thế hệ học trò của ông trừ Tuân Tử tư tưởng thiên mệnh
được củng cố và khẳng định và là tư tưởng cơ bản của nho giáo chi phối
các tư tưởng khác.
*Về đạo đức: đạo theo nho gia là quy luật biến chuyển, tiến hoá của trời
đất, muôn vật. đạo của người chính là nhân nghĩa. Nhân là lòng thương
người, nghĩa là dạ thuỷ chung. Nho giáo đặc biệt quan tâm đến vấn đềđao
đức của con người.Đức gắn chặt với đạo, từ đức trong quan đỉêm của nho
giáo thường được dùng để chỉ một cái gì thể hiện phẩm chất tốt đẹp của
con người trong tâm hồn ý thức. Nội dung cơ bản của đạo đức cua nho giáo
chính là luân thường.
Có năm luân cơ bản là: cha - con, vua - tôi, anh - em, vợ - chồng, bè - ban.
Trong đó ba điều chính là vua tôi, cha con , vợ chồng gọi là tam cương.
Đặc biệt quan trọng là quan hệ vua tôi bíểu hiện bằng chữ trung, quan hệ
cha con được biểu hiện bằng chữ hiếu. Thường có năm điều chính gọi là
ngũ thường đều là những đức tính trời phú cho con người: nhân ,nghĩa, lễ,
trí , tín. Đứng đầu ngũ thường là nhân nghĩa. Đạo của Khổng Tử trước hết
là đạo nhân nghĩa thì nhân là chủ đạo. Về chính trị xã hội, một xã hội
không loạn lạc cũng là xã hội có trật tự, không lộn xộn. chính vì thế nên
ông tổ Nho giáo đã mong ước lập một tổ chức xã hội màởđó có trên có
dưới phân minh phổ biến thìđó là trật tự danh vị của thuyết chính danh.
chính danh là danh và thực phải phù hợp với nhau. Danh và phận của mỗi
người, trước hết do các mối quan hệ quy định. Theo ông mỗi cái danh đều
bao hàm một số trách nhiệmvà bổn phận mà mỗi cá nhân mang cái danh đó

20


Môn: Văn Hóa Gia đình


Khoa: Văn hóa & Phát triển

phải có trách nhiệm và bổn phận phù hợp với cái danh đó. Ngoài ra Khổng
Tử còn chủ trương dùng thuyết lễ trịđểđưa ra cách trị nước an dân.
*Về nhân thức luận: Khổng Tử quan tâm tới giáo dục vì theo ông giáo dục
để cải tạo nhân tính của con người.
Sự du nhập và phát triển của nho giáo vào Việt Nam. Nho giáo du nhập vào
Việt Namở thời kì Bắc thuộcqua ba thời kì như nhau:
- 111 trước công nguyên
-39: các đời Tây Hán vàĐông Hán.
-43-544: các đời Đông Hán, Tam Quốc, Tấn, Nam Bắc Triều.
-603-939: các đời Tuỳ Đường, Ngũ Quý.
Mười thế kỉ đầu công nguyên nho giáo du nhậpvào Việt Nam nhưng chưa
thịnh, chưa hình thành tầng lớp nho sĩ nắm vai trò quan trọng trong xã hội
Thành phần trí thức lúc bấy giờ là những nhà tu, đặc biêt là các cao tăng.
Thông qua việc học chữ nho để đọc kinh phật, cac sư tiếp thu luôn nho học.
Thế nên khi đất nước vừa độc lập, kể từ(839-965), Đinh (968-979) Lê(9801009) trí thức tài ra giúp triều đình là các đạo sĩ và thiền sư. Một số thiền
sư có công dạy các tục gia đệ tử trở thành nhân tài đất nước như sư Khánh
Vân và sư Vạn Hạnh lần lượt là thầy dạy Lý Công Uốn… Nho học Việt
Nam phát triển từ thế kỷ XI, sang đời Nguyễn thì suy. Nho học mở đường
xuất thân cho kẻ sĩ thông qua khoa cử nhờđó thúc đẩy văn học phát triển,
văn hoá được nâng cao. Không ít tiền nho Việt Nam là tác gia, đi sâu vào
triết Nho. Nhưng chiến tranh liên miên, sách vở bị cướp , đốt mất quá
nhiều, tư tưởng học thuật của nho gia Việt Nam hầu như khôngcòn lưu lại
gì cho đời sau nghiên cứu. Nói đến nho giáo Việt Nam cái nổi bật không
phải là tư tưởng triết học, mà lại là văn chương, khoa cử, và vai trò chính
21



Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển

trị của sĩ tử trong lịch sử. Nho học Việt Nam qua các triều đại. Đời
Lý(1010-1225). Nho học mới hưng phát. Vua Lý Thánh Tông cho lập văn
miếu, làm tượng thờ Chu công, Khổng Tử, bảy mươi hai tiên hiền. Vua Lý
Nhân Tông mở khoa thi đầu tiên tên là Tam Trường, Lê Văn Thịnh đậu thủ
khoa, mở quốc tử giám, lập hàn lâm viện, tuyển Mạc Hiến Tích làm hàn
lâm học sĩ. Đời Trần. Vua Trần Thái Tông mở khoa thi Thái học sinh, khoa
tam giáo và mở khoa tam khôi tuýển trạng nguyên, bảng nhãn, thàm hoa.
Khoa ấy Lê Văn Hưu đổ bảng nhãn, là sử gia Việt Nam đầu tiên, tác giảĐại
Việt sử kí. Vua còn mở quốc học viện giảng Tứ thư, Ngũ kinh. Văn học đời
Trần rất thịnh, nhờ khoa cử thúc đẩy. Có rất nhiều tác phẩm văn học thời kỉ
này có giá trị lịch sửđể lại cho thế hệ sau. Danh nho có Mạc Đĩnh Chi,
Nguyễn Trung Ngạn(viết giới hiên toàn tập). Chu Văn An… Đời Hồ(14001407), hậu Trần(1407-1413), Minh thuộc(1414-1427). Lê Quý Ly thay nhà
Trần, lập nên nhà Hồ. Nước loạn, quân Minh xâm lăng, cướp nước, những
gì không đem được thì đốt , thiệt hại không kể xiết. Nhà Minh đưa Tống
Nho vào Việt Nam. Đời Hậu Lê (1428- 1788). Nho học rất được chú trọng,
được tôn là quốc học. Khoa cử thúc đẩy, hình thành tầng lớp nho sĩ trí thức
đông đảo. Kinh đô có quốc tử giám, thái học viện. Vua Lê Thánh Tông
chia nước làm mười ba đạo, hầu hết các đạo ởđồng bằng đều lập trường
công, ấn định quy chế thi cử. Năm1463 có chừng 1400 người thi Hội ở
Thăng Long, năm 1475 tăng lên khoảng 3000 thí sinh. Từ triều Lê, người
thi đậu rất vẻ vang : có lễ xướng danh, lễ vinh quy, lễ khắc tên tiến sĩ vào
bia đá ở Văn miếu. Ở nước ta, nho giáo có lịch sử rất lâu đời. Từ khi bị
xãm lược và sát nhập vào Trung Quốc, từđời Hán, nho giáo đã du nhập vào
Việt Nam. Sĩ Nhiếp( thế kỉ thứ hai sau công nguyên) được coi là An nam
học tổ. Người mởđầu cho nho học ở nước ta. Ngay từ sau chiến thắng Bạch
Đằng ở thế kỉ thứ X việc xây dựng một nhà nước phong kiến trung ương

tập trung đã tỏ ra cần thiết đối với công cuộc dựng nước và giữ nướccua
dân tộc ta. Tuy nhiên đưới thời các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê vịêc xây
22


Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển

dựng một nhà nước chủ thể mới chỉ làm được những bước đầu tiênvà chưa
thực sựđược đẩy mạnh, phải đợi đến thế kỉ XI với sự xác lập của vương
triều Lý thì nhà nước phong kiến tập quỳên mới được xây dựng một cách
quy mô bề thế, với các tổ chức chặt chẽ và quy mô của nó. đến thế kỉ XV,
sau khi Lê Lợi chiến thắng quân Minh(1428)nhà nước Lêđã dành cho nho
giáo vị trí độc tôn và nó trở thành học thuyết chính thống của nhà nước vào
thời Lê Thánh Tông, nóđạt đến mức toàn thịnh. Từ thế kỉ XV đến thế kỉ
XX nho giáo vẫn giữ vai trò chủ dạo, chi phối ảnh hưởng của nho giáo, do
thực tế lịch sử rất lớn. Nhưng nói chung nho giáo cóảnh hưởng đến nước ta
về rất nhiều mặt có cả tích cực và hạn chế. Những ảnh hưởng của nho giáo
cả về chiều hướng tích cực lẫn hạn chế tác động như thế nào đến xã hội việt
Nam hiện nay? Để tìm hiêu vấn đềđó ta đi tìm hiểu những giá trị tích cực
và hạn chế của nho giáo vàảnh hưởng của nó vào Việt Nam hiện nay.
Những giá trị tích cực và hạn chế của nho giáo.
3.2. Tích cực
Qua các giai đoạn phát triển, Nho giáo đã có những thời kỳ hưng
thịnh cũng như không tránh khỏi những trầm luân. cái khó khăn nhất của
nho giáo là làm thế nào để tồn tại và phát triển đến ngày nay. Để tồn tại
được nó phải có những mặt tích cực mà không ai có thể phủ nhận được.Đó
là cải tinh thần cứu đời mà Khổng Tử đã trịnh trọng nêu lên như là cái mục
đích cao cả, làm thành cái đặc tính thiềng liêng của một nho sĩ, và như vậy

nó đã không chỉ còn cái nguyên văn của triết học, đạo học, hay tôn giáo,
xứng đáng với cái nhân văn cao cả của nó. Nho giáo đã đưa ra những tiêu
chuẩn đạo đức nhằm cải tạo con người, hoàn thiện nhân cách cua con
người.
Đạo theo nho gia là quy luật chuyển biến, tiến hoá của trời đất, muôn vật.
Đối với con người đạo là con đường đúng đằn phải noi theo để xây dựng
23


Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển

quan hệ lành mạnh, tốt đẹp. Đạo của người theo quan điểm cua nho gia là
phải phù hợp với tình người do con người lập nên.trong kinh dịch, sau hai
câu “lập đạo của trời , nói âm và dương” , lập đạo của đất, nói nhu và
cương” là câu “lập đạo của người nói nhân và nghĩa”. Khổng Tử chủ
trương cải tạo xã hội bằng đạo đức. Theo ông làm người cần phải cóđức.
Nhân nghĩa theo cách hiểu thông thường thì nhân là lòng thương người,
nghĩa là dạ thuỷ chung, mọi đức khác đều từ nhân mà ra cũng như muôn
vật muôn loài trên trời, dưới đất đều do âm dương nhu cương mà ra. Nhân
cao hơn các đức khác, có phần bao gồm cả các đức mục khác nhưng nhân
cũng có những tiêu chí riêng. khổng Tử nói : “ ai làm được điều này trong
thiên hạ người đó có nhân: cung, khoan, tín, mẫn, huệ”.cung là khiêm tốn,
biết tôn trọng người và tôn trọng công việc không tỏ ra coi thường người
khác thành ra kiêu ngạo, thành ra không chu đáo. khoan là rộng rãi , không
biết rộng, thu nhận của người đến kiệt. tín là nói sao làm vậy. Mẫn là nhanh
nhen không lề mề, ỷ lại. làm được năm điều đó dân sẽ tin tưởng , dễ sai
khiến. đó làđức mục của người cầm quyền trong quan hệ với dân. nhân như
vậy phải đòi hỏi xuất phát từ lòng thương người, từ sụ tôn trọng của con

người mà làm việc có hiệu quả. Ngoài ra nhân còn bao gồm các đức là lễ,
nghĩa, trí, và tín. “lễ” vừa là cách thức thờ cúng vừa là những quy định có
tính luật pháp, vừa là những phong tục tâập quán vừa là một kỉ luật tinh
thần “ tự khắc kỷ phục lễ”. Suy cho cùng lễ chỉ là sự bổ sung cụ thể hoá
chochính danh nhằm thiết lập trật tự xã hội phong kiến. nghĩa là những việc
nên làm nhằm duy trìđạo lí, như ta thường nói “hành hiệp trượng nghĩa”.
Trí là tri thức, phải có tri thức mới thành nhân được. Vậy con người phải tu
nhân để tề gia trị quốc và bình thiên hạ. tín là lời nói và việc làm phải thống
nhất với nhau. Có tín thì mới có tin. Như vậy đứcnhân trong nho giáo
không chỉ là thương người mà thực chất làđạo làm người. Nhân bao gồm

24


Môn: Văn Hóa Gia đình

Khoa: Văn hóa & Phát triển

nhiều tiêu chuẩn đạo đức nên một người có một số tiêu chủân khác
màkhông có nhân thì không gọi là người cóđạo đức được.
Đức gắn chặt với đạo. từđức trong kinh điển nho gia thường được dùng để
chỉ một cái gì thể hiện phẩm chất tốt đẹp của con người trong tâm hồn ý
thức cũng như hình thức ,dáng điệu…theo nho gia mối quan hệ giữa đạo
vàđức trong cuộc sống con người: đường đi lối lại đúng đắn phải xây dựng
quan hệ lành mạnh, tốt đẹp làđạo, noi theo đạo một cách nghiêm chỉnh,
đúng đẳn trong cuộc sống thì cóđược đức trong sáng quý báu ở trong tâm.
Trong kinh điển của nho gia, ta thấy năm quan hệ lớn. Bao quát gọi là “
ngũ luân” đãđược khái quát bằng quan hệ: vua- tôi, cha- con, anh - em, vợ
- chồng, bạn - bè. Từ quan hệấy , kinh lễđã nêu lên mười một đức lớn : vua
nhân, tôi trung, cha từ, con hiếu, anh lành, em đễ, chồng có nghĩa, vợ vâng

lời, trưởng cóân, ấu ngoan ngoãn, với bạn hữu phảo cóđức tín. Những tiêu
chuẩn đạo đức mà nho giáo đưa ra để khuyên răn, dạy bảo mọi người có rất
nhiều tác dụng đói với sự hình thành nhân cách của mỗi người trong xã
hội , chính vì những tư tưởng đó mà nho giáo còn cóảnh hưởng lớn đến xã
hội ngày nay.
Quan điểm về giáo dục. Khổng Tử chủ trương thành lập các trường học
hướng mọi người tới con đường học hành để mở mang dân trí, rèn luyện
đạo đức con người, cải tạo nhân tính. chính tư tưởngvề giáo dục về thái độ
và phương pháp học tập của Khổn Tử chính là bộ phận giàu sức sống nhất
trong tư tưởng nho giáo. theo Khổng Tử giáo dục là cải tạo nhân tính.
Muốn dẫn nhân loại trở về tính gần nhau, tức là chỗ “thịên bản nhiên” thì
phải để công vào giáo dục vì giáo dục có thể hoáác thành thiện. “tu sửa đạo
làm người” và “ làm sáng tỏđức sáng” là mục đích tối cao của giáo dục
trong việc cải tạo nhân tính. ông coi giáo dục không chỉ mở mang nhân
tính,tri thức, giải thích vũ trụ màông chú trọng tới việc hình thành nhân
cách con người, lấy giáo dục để mở mang cả trí, nhân , dũng, cốt dạy con
25


×