Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

ô nhiểm môi trường đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.25 KB, 20 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Môi trường đất là nơi trú ngụ của con người và hầu hết các loài sinh vật cạn,
là nền móng cho các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và văn hóa của
con người.Đất còn là nguồn tài nguyên quí giá được con người sử dụng vào hoạt
động sản xuất để đảm bảo nhu cầu lương thực và các nhu cầu khác của mình.
Gia tăng dân số, phát triển công nghiệp cùng với hoạt động đô thị hóa như
hiện nay làm cho diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, chất lượng đất ngày
càng bị suy giảm.
Tài nguyên đất của thế giới hiện đang bị suy thoái nghiêm trọng do xói mòn,
rửa trôi, bạc mầu, nhiễm mặn, nhiễm phèn và ô nhiễm đất, biến đổi khí hậu. Hiện
nay 10% đất có tiềm năng nông nghiệp bị sa mạc hoá. Đất là tài nguyên không thể
phục hồi, mặc dù con người có nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật để cải tạo
Các nhà môi trường thế giới đã cảnh báo rằng: cùng với ô nhiễm không khí,
nguồn nước thì ô nhiễm đất cũng là vấn đề đáng báo động hiện nay Ô nhiễm đất
làm ảnh hưởng xấu đến các tính chất của đất, làm giảm năng suất cây trồng và làm
ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người. Chính vì vậy, việc phòng chống ô
nhiễm đất có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi
vùng, mỗi quốc gia. Riêng ở Việt Nam, thực tế suy thoái tài nguyên đất là rất đáng
lo ngại và nghiêm trọng. Bởi vậy để hiểu rõ nguyên nhân và thực trạng ô nhiễm đất
ở Việt Nam hiện nay em đã lựa chọn đề tài: “ Thực trạng ô nghiễm tài nguyên đất
và các giải pháp khắc phục ở Việt Nam hiện nay ”
2. Mục đích nghiên cứu.
Làm rõ thực trạng ô nhiễm môi trường đất tại Việt Nam.
Phân tích được nguyên nhân dẫn tới ô nhiễm môi trường đất tại Việt Nam.
Đưa ra một số giải pháp khắc phục thực trạng ô nhiễm đất.

1


3. Nhiệm vụ.


Đánh giá hiện trạng phát triển và dự báo diễn biến ô nhiễm môi trường đất
trong thời kỳ hiện nay.
Xác định chức năng, các nhiệm vụ chủ yếu và phương hướng quy hoạch bảo
vệ môi trường đất ở Việt Nam.
Nghiên cứu đề xuất các giải pháp bảo vệ và khôi phục môi trường đất.
4. Đối tượng nghiên cứu.
Thực trạng ô nhiểm môi trường đất ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện tiểu luận tôi sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu,
trong đó phương pháp chủ đạo là phương pháp đánh giá môi trường, phương pháp
thu thập, xử lý, phân tích và phương pháp dự báo… nhằm thực hiện tốt mục tiêu đề
ra.
6. Giới hạn nghiên cứu.
Thực trạng ô nhiểm môi trường đất ở Việt Nam hiện nay. Do thời gian và
kiến thức có hạn nên tôi chỉ trình bày một số điểm chính mong thầy cô chỉ bảo và
đưa ra những góp ý.
7. Cấu trúc đề tài.
Cấu trúc báo cáo gồm 3 phần chính sau:
- Phần mở đầu.
- Phần nội dung:
+ Chương I: những khái niệm tổng quát.
+ Chương II: Thực trạng môi trường đất ở Việt Nam.
+ Chương III: Biện pháp cải tạo và giảm thiểu ô nhiểm môi trường đất.
- Kết luận và kiến nghị.

2


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT

1.1. Một số khái niệm.
1.1.1. Đất là gì?
- Theo Đaucutraep(1879): “ Đất là vật thể tự nhiên được hình thành qua một thời
gian dài do kết quả tác động tổng hợp của 5 yếu tố: đá mẹ, sinh vật, khí hậu, địa
hình và thời gian”.
- Theo Wiliam, “Đất là lớp mặt tơi xốp của lục địa có khả năng tạo ra sản phẩm
cho cây trồng .
- Theo Các Mác, “Đất là một tư liệu sản xuất đặc biệt, vừa là đối tượng lao động,
vừa là sản phẩm lao động sản xuất của con người”
Khái quát: Đất là phần vỏ ngoài của quả địa cầu, thành lập do sự biến đổi của đá
mẹ dưới ảnh hưởng của các tác nhân lý, hóa, sinh vật… Do vậy đất đóng vai trò
quan trọng: là môi trường nuôi dưỡng các loại cây, là nơi để sinh vật sinh sống, là
không gian thích hợp để con người xây dựng nhà ở và các công trình khác. Đất là
tài nguyên không thể phục hồi, mặc dù con người có nhiều tiến bộ về khoa học kỹ
thuật để cải tạo.
1.1.2. Môi trường đất là gì?
Môi trường đất là môi trường sinh thái hoàn chỉnh, bao gồm vật chất vô sinh
sắp xếp thành cấu trúc nhất định. Các thực vật, động vật và vi sinh vật sống trong
lòng trái đất. Các thành phần này có liên quan mật thiết và chặt chẽ với nhau. Môi
trường đất được xem như là môi trường thành phần của hệ môi trường bao quanh
nó gồm nước, không khí, khí hậu.
1.1.3. Ô nhiễm môi trường đất là gì?
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì “Ô nhiễm môi trường
là sự đưa vào môi trường các chất thải nguy hại hoặc năng lượng đến mức ảnh
hưởng tiêu cực đến đời sống sinh vật, sức khỏe con người hoặc làm suy thoái chất
lượng môi trường”. Đất được xem là ô nhiễm khi nồng độ các chất độc tăng lên
quá mức an toàn, vượt lên khả năng tự làm sạch của môi trường đất.

3



Ô nhiễm môi trường đất được xem là tất cả các hiện tượng làm nhiễm bẩn
môi trường đất bởi các chất gây ô nhiễm. Ô nhiễm môi trường đất là hậu quả các
hoạt động của con người làm thay đổi các nhân tố sinh thái vượt qua những giới
hạn sinh thái của quần thể sống trong đất.
1.2. Phân loại ô nhiểm môi trường đất.
Người ta có thể phân loại đất bị ô nhiễm theo nguồn gốc phát sinh, hoặc
theo các tác nhân gây ô nhiễm.
Nếu theo nguổn gốc phát sinh có:
- Nguồn gốc tự nhiên:
+ Nhiểm phèn: Chủ yếu là nhiểm Fe2+, Al3+, SO42+ Nhiểm mặn: Do nước muối trong biển, nước triều hay từ các mỏ muối…gây hạn
sinh lí cho cây trồng.
+ Do hoạt động của núi lửa.
- Nguồn gốc nhân tạo:
+ Rác và phân xả vào môi trường đất: Bao gồm cành lá cây, polime, túi nilon…
+ Rác sinh hoạt: Bao gồm các chất vô cơ và hữu cơ…
+ Nước thải sinh hoạt theo kênh rạch các chất độc hại chảy ra đồng ruộng gây ô
nhiểm đất.
+ Hoạt động công nghiệp.
+ Hoạt động nông nghiệp.
Nếu theo các tác nhân gây ô nhiễm có:
-

Ô nhiễm do tác nhân hóa học: thuốc trừ sâu, phân bón hóa học,..

-

Ô nhiễm do tác nhân sinh học: Vi khuẩn, giun sán, kí sinh trùng…

-


Ô nhiễm do tác nhân vật lý: Chất phóng xạ…

4


Ngày nay, do hoạt động của con người mở rộng ra nhiều lĩnh vực đa dạng
thì chất thải và ô nhiễm ngày càng phức tạp và càng nhiều. Môi trường đất có thể
bị ô nhiễm do sự lan truyền từ môi trường không khí, chất ô nhiễm không khí khi
lắng tụ sẽ rơi vào môi trường đất.
Môi trường đất và môi trường nước có liên quan chặt chẽ với nhau. Nước
trên mặt đất, nước trong lòng đất. Khi môi trường nước bị ô nhiễm thì tất yếu làm
ô nhiễm môi trường đất.Ngoài ra môi trường đất còn bị ô nhiễm từ xác bã động
thực vật tồn tại trong môi trường đất.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG ĐẤT Ở VIỆT NAM
2.1. Tài nguyên đất ở Việt Nam.
Bảng 1. Diện tích các loại đất ở Việt Nam(Viện thiết kế quy
hoạch nông nghiệp, 1980)
Loại đất

Diện tích
(ha)

Loại đất

Diện tích
(ha)

Cồn cát và cát biển


502.045

Đất xám bạc màu

2.481.987

Đất mặn

991.202

Đất đỏ và xám nâu
vùng bán khô hạn

34.234

Đất phèn

2.140.305

Đất đen

237.602

Đất phù sa

2.936.413

Đất đỏ vàng


15.815.790

Đất lầy và than bùn

71.796

Đất mùn vàng đỏ
trên núi

2.976.313

Ðất tự nhiên ở Việt Nam có diện tích 33 triệu ha trong đó đất có khả năng nông
nghiệp chỉ có 6,9 triệu ha (chiếm 21 % diện tích đất tự nhiên) và phân bố không
đồng đều ở các vùng sinh thái khác nhau. Tiềm năng đất có khả năng canh tác
nông nghiệp của cả nước khỏang từ 10-11 triệu ha trong đó mới chỉ sử dụng được
6, 9 triệu ha đất nông nghiệp gồm 5,6 triệu ha là đất trồng cây hàng năm
5


(lúa: 4,144 triệu ha; màu, cây công nghiệp ngắn ngày: 1,245 triệu ha) và 1,3
triệu ha là đất trồng cây ăn quả và cây lâu năm khác (cà phê, cao su, dâu tằm, hồ
tiêu, cam, chanh, quýt...).
Bảng 2: so sánh chỉ tiêu về đất trên thế giới và Việt Nam (đơn vị tính
ha/người)
Chỉ tiêu so sánh
Diện tích đất tự nhiên
Diện tích đất nông nghiệp
Diện tích đất lâm nghiệp

Thế giới

3.36
1.2
1.0

Việt Nam
0.6
0.1
0.18

Theo Lê Văn Khoa, đất bằng ở Việt Nam có khoảng trên 7 triệu ha, đất dốc
trên 25 triệu ha. Trên 50% diện tích đất đồng bằng và gần 70% diện tích đất đồi núi
là đất có vấn đề, đất xấu và có độ phì nhiêu thấp, trong đó đất bạc màu gần 3 triệu
ha, đất trơ sỏi đá 5,76 triệu ha, đất mặn 0,91 triệu ha, đất dốc trên 25° gần 12,4
triệu ha.
Bình quân đất tự nhiên theo đầu người là 0,4 ha. Theo mục đích sử dụng
năm 2000, đất nông nghiệp 9,35 triệu ha, lâm nghiệp 11,58 triệu ha, đất chưa sử
dụng 10 triệu ha (30,45%), chuyên dùng 1,5 triệu ha. Đất tiềm năng nông nghiệp
hiện còn khoảng 4 triệu ha.
Bình quân đất tự nhiên ở Việt Nam là 0,6 ha/người. Bình quân đất nông
nghiệp theo đầu người thấp và giảm rất nhanh theo thời gian, năm 1940 có 0,2 ha,
năm 1995 là 0,095 ha. Đây là một hạn chế rất lớn cho phát triển. Đầu tư và hiệu
quả khai thác tài nguyên đất ở Việt Nam chưa cao, thể hiện ở tỷ lệ đất thuỷ lợi hoá
thấp, hiệu quả dùng đất thấp, chỉ đạt 1,6vụ/năm, năng suất cây trồng thấp, riêng
năng suất lúa, cà phê và ngô đạt mức trung bình thế giới. .
Với thực trạng sử dụng đất như hiện nay, cho dù đến năm 2020 tiềm năng
đất nông nghiệp được khai thác hết (9.53 triệu ha) thì với dân số đông, đất nông
nghiệp chỉ còn dưới 1.000 m2/người. Như vậy, nước ta là một trong những nước
hiếm đất nhất trên thế giới nên việc phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội của đất nước
phải luôn gắn liền với chiến lược sử dụng một cách tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài
nguyên có hạn này. Đất vùng đồng bằng thích hợp cho cây hoa màu, lương thực

ngắn ngày, chủ yếu phục vụ cho an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia, trên thực
tế đã được khai thác tới hạn. Ở các vùng châu thổ đông dân, nơi có bình quân đất
canh tác chỉ còn 300m2/người, tức là nếu sản xuất thuần nông thì mỗi ngày 1 người
phải sống dựa vào sản phẩm của 1 m2 đất mang lại.

6


2.2. Nguyên nhân và thực trạng ô nhiểm môi trường đất ở Việt Nam.
Nước ta thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá và đương nhiên là kéo
theo đô thị hoá. Theo kinh nghiêm của nhiều nước, tình hình ô nhiễm môi trường
cũng gia tăng nhanh chóng. Nếu tốc độ tăng trưởng GDP trong vòng 10 năm tới
tăng bình quân khoảng 7%/năm, trong đó GDP công nghiệp khoảng 8 - 9%/năm,
mức đô thị hoá từ 23% năm lên 33% năm 2000, năm 2020 lượng ô nhiễm do công
nghiệp tăng lên gấp 2,4 lần so với bây giờ, lượng ô nhiễm do nông nghiệp và sinh
hoạt cũng có thể gấp đôi mức hiện nay.
Trong quá trình phát triển, nhất là trong thập kỷ vừa qua, các đô thị lớn như
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, đã gặp phải nhiều vấn đề môi trường ngày càng
nghiêm trọng, do các hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận
tải và sinh hoạt gây ra.
Tại thành phố Hồ Chí Minh có 25 khu công nghiệp tập trung hoạt động với
tổng số 611 nhà máy trên diện tích 2298 ha đất. Theo kết quả tính toán, hoạt động
của các khu công nghiệp này cùng với 195 cơ sở trọng điểm bên ngoài khu công
nghiệp, thì mỗi ngày thải vào hệ thống sông Sài Gòn - Đồng Nai tổng cộng
1.740.000 m3nước thải công nghiệp, trong đó có khoảng 671 tấn cặn lơ lửng, 1.130
tấn BOD5 (làm giảm nhu cầu ôxy sinh hoá), 1789 tấn COD (làm giảm nhu cầu ôxy
hoá học), 104 tấn Nitơ, 15 tấn photpho và kim loại nặng. Lượng chất thải này gây ô
nhiễm cho môi trường nước của các con sông vốn là nguồn cung cấp nước sinh
hoạt cho một nội địa bàn dân cư rộng lớn, làm ảnh hưởng đến các vi sinh vật và hệ
sinh thái vốn là tác nhân thực hiện quá trình phân huỷ và làm sạch các dòng sông,

nước bị ô nhiễm lau ngày sẽ dẫn đến gây ô nhiễm môi trường đất.
Về ô nhiễm môi trường đất, ngoài tác động của sản xuất công nghiệp, hoạt
động giao thông vận tải cũng là nguồn thải rất quan trọng. Chỉ tính riêng ở thành
phố Hồ Chí Minh, hàng năm các phương tiện vận tải trên địa bàn thành phố tiêu
thụ khoảng 210.000 tấn xăng và 190.000 tấn dầu Dizel. Như vậy đã thải vào không
khí khoảng 1100 tấn bụi, 25 tấn chì, 4200 tấn CO2, 4500 tấn NO2, 116000 tấn CO,
1,2 triệu tấn CO2, 13200 tấn Hydrocacbon và 156 tấn Aldehyt. Chính vì thế, tại
nhiều khu vực trong các đô thị có nồng độ các chất ô nhiễm lên khá cao.
Tại Hà Nội, vào những năm 1996-1997 ô nhiễm trầm trọng đã xảy ra ở xung
quanh các nhà máy thuộc khu công nghiệp Thượng Đình với đường kính khu vực ô
7


nhiễm khoảng 1700 mét và nồng độ bụi lớn hơn tiêu chuẩn cho phép khoảng 2-4
lần; xung quanh các nhà máy thuộc khu công nghiệp Minh Khai – Mai Động, khu
vực ô nhiễm có đường kính khoảng 2500 mét và nồng độ bụi cũng cao hơn tiêu
chuẩn cho phép 2-3 lần. Cũng tại khu công nghiệp Thượng Đình, kết quả đo đạc
các năm 1997-1998 cho thấy nồng độ SO2 trong không khí vượt tiêu chuẩn cho
phép 2-4 lần.
Nhìn chung thực trạng ô nhiễm môi trường đất đang ở mức báo động. Nếu
không có những biện pháp giảm thiểu hiệu quả thì nguồn tài nguyên đất đến một
lúc nào đó sẽ cạn kiệt
2.2.1. Ô nhiễm đất do sử dụng phân hóa học.

Lượng phân bón vô cơ đã sử dụng ở Việt Nam theo Cổng thông tin điện tử
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn từ năm 2000 đến 2007 của phân đạm
(N), phân lân (P2O5), phân Kali (K2O) và phân hỗn hợp NPK như sau:
Năm

N


P2O5

K2O

NPK

N+P+P2O
5

2000

1332,0

501,0

450,0

180,0

2283,0

2005

1155,1

554,1

354,4


115,9

2063,6

2007

1357,5
551,2
516,5
179,7
Lượng phân bón sử dụng qua các năm ( nghìn tấn )

8

2425,2


Các tạp chất

Hàm lượng

Các tạp chất

Hàm lượng

Arsenic

2,2 - 12 ppm

Chì


7 - 92

Cadmium

50 - 170

Nicken

7 - 32

Chlomium

66 - 243

Selenium

0 - 4,5

Cobalt

0-9

Vanadium

20 - 180

Ðồng

4 - 79


Kẽm

50 - 1490

Các tạp chất trong phân superphosphate (Theo Barrows, 1996)
Tuy nhiên, không phải tất cả lượng phân bón trên cho vào đất, được phun
trên lá cây sẽ hấp thụ hết để nuôi cây lớn lên từng ngày. Vì vậy, lượng phân bón
còn dư lại trong đất sẽ làm cho đất bị chua hóa, tầng nước ngầm bị ô nhiễm.
việc bón thừa phân đạm còn làm tăng mức độ dư thừa trong nông sản ảnh
hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người.
2.2.2. Ô nhiễm đất do sử dụng thuốc Bảo Vệ Thực Vật.

Do khí hậu biến đổi thất thường nên tình hình sâu bệnh diễn biến phức tạp
hơn nên lượng và chủng loại Thuốc bảo vệ thực vật sử dụng cũng tăng lên.
Trước năm 1985, khối lượng Thuốc bảo vệ thực vật dùng hàng năm khoảng
6.500 - 9.000 tấn thì từ năm 1991 đến nay lượng thuốc sử dụng biến động từ
25-38 ngàn tấn. Thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng ở nước ta trong những
9


năm qua thuộc 4 nhóm chính: clo hữu cơ, lân hữu cơ, cacbamat và pyrethroid,
trong đó thuốc nhóm lân hữu cơ trong những năm gần đây chiếm 60%. Thuốc
bảo vệ thực vật có đặc điểm rất độc đối với mọi sinh vật, tồn dư lâu dài trong
môi trường đất- nước, tác dụng gây độc không phân biệt, nghĩa là gây chết tất
cả những sinh vật có hại và có lợi trong môi trường đất. Theo các kết quả
nghiên cứu, hiện nay, mặc dù khối lượng thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng ở
Việt nam còn ít, trung bình từ 0,5-1,0 kg ai/ha/năm, tuy nhiên, ở nhiều nơi đã
phát hiện dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong đất. (Theo Báo cáo Hiện trạng
môi trường quốc gia 2010 ) Vì số lượng lớn thuốc BVTV tích luỹ trong đất,

theo các nhà khoa học, lượng tồn dư thuốc BVTV trong đất chủ yếu thuộc hai
nhóm: nhóm Carbamat và nhóm lân hữu cơ BSM (nguồn gốc phot-phat hữu
cơ), đặc biệt là các thuốc có chứa các nguyên tố như chì, asen, thuỷ ngân... có
độc tính lớn, thời gian lưu lại trong đất dài, có loại nông dược thời gian lưu
trong đất tới 10 đến 30 năm, những loại thuốc này có thể được cây trồng hấp
thu, tích trong quả và lá và đi vào cơ thể người và động vật qua thực phẩm, ảnh
hưởng đến sức khoẻ
=> Chính vì gia tăng số lượng thuốc bảo vệ thực vật đã đe dọa nghiêm trọng tới
sức khỏe cộng đồng và gây ô nhiễm môi trường đất.
2.2.3. Ô nhiễm do ảnh hưởng của sản xuất công nghiệp.

Các nơi bị ô nhiễm nhiều nhất là các khu dân cư gần nhà máy, khu công
nghiệp…. Theo thống kê, Việt Nam có trên 800.000 cơ sở sản xuất công nghiệp

10


với gần 70 KCX-KCN tập trung, trong đó, khoảng 90% cơ sở sản xuất công nghiệp
và phần lớn các KCN chưa có trạm xử lý nước thải.
Ví dụ, tính từ năm 2000 đến năm 2003, tỉ lệ chất thải rắn ở Thành phố Hà Nội
tăng 9%.
Tổng lượng rác thải bình quân một ngày đêm của cả nước đã tăng từ 25 nghìn
tấn năm 1999 lên khoảng 30 nghìn tấn năm 2005. Đã đang và sẽ tiếp tục tăng =>
đây sẽ trở thành mối đe doạ nghiêm trọng đối với môi trường.
Kết quả của một số khảo sát cho thấy hàm lượng kim loại nặng trong đất gần
các khu công nghiệp đã tăng lên trong những năm gần đây. Như tại cụm công
nghiệp Phước Long hàm lượng Cr cao gấp 15 lần so với tiêu chuẩn, Cd cao từ 1,5
đến 5 lần, As cao hơn tiêu chuẩn 1,3 lần. (Theo Báo cáo Hiện trạng môi trường
quốc gia 2005 ).
Các chất thải của các nhà máy và hầm mỏ thường chứa một số kim loại nặng hoặc

một số chất độc dạng hữu cơ và dạng axit, dạng bazo hoặc các muối khác làm cho
đất bị ô nhiễm ở các kiểu khác nhau. Vấn đề này rất phổ biến ở các thành phố và
khu công nghiệp lớn.
Hàm lượng trung bình một số kim loại nặng trong đất ở Việt Nam
Kim

Khoảng dao động Trung bình

loại
Cd

0,1 – 1

0,62

Hg

0,01 - 0,06

0,098

As

5 – 10

-

Pb

1 - 88,8


29,2

Se

0,01 - 2,5

0,4

Sb

-

0,9

Nguồn: Đất và Môi trường, NXB Giáo dục, 2000

11


2.2.4. Ô nhiễm môi trường đất do chất thải rắn tạo ra.

Cùng với sự phát triển của công nghiệp, đời sống của nhân dân ngày càng
tăng lên và đô thị hóa nhanh chóng, lượng chất thải rắn cũng ngày càng tăng.Theo
thống kê của Cục Hạ tầng Kỹ thuật (Bộ Xây dựng), tổng lượng chấtthải rắn sinh
hoạt phát sinh trên cả nước hiện (năm 2013) vào khoảng 61.500tấn/ngày. Đáng lưu
tâm nhất là hiện cả nước chỉ có khoảng 26,8% số bãi chôn lấp chất thải rắn là đảm
bảo vệ sinh, trong tổng gần 460 bãi chôn lấpđược giám sát. Các thành phần của
chất thải rắn bao gồm: giấy carton, vải…
2.3. Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đất tới môi trường xung quanh và đời

sống con người.
Đất đóng vai trò quan trọng trong các con đường truyền dịch bệnh người –
đất – người – côn trùng – ký sinh trùng – người, vật nuôi, đất, người hoặc đất
người.Con đường từ người qua đất rồi trở lại về với người thông qua dòng nước
hoặc côn trùng là phổ biến đối với các bệnh đường ruột hoặc thương hàn.Các vi
12


trùng, trứng hoặc ấu trùng, ký sinh trùng (các loại giun sán) từ đất thâm nhập qua
cơ thể người. con đường từ vật nuôi như trâu bò, lợn gà qua đất và nước trong đất
từ đó vào người là phổ biến đối với các bệnh như bệnh xoắn trùng, da vàng trực
trùng.Tại các vùng rừng núi bệnh từ động vật hoang dã cũng theo con đường này
truyền vào người như bệnh sốt phát ban thường , sốt phát ban nhiệt đới.Bệnh viêm
da do giun móc di chuyển từ dưới đất lên xâm nhập cơ thể người do da tiếp xúc với
đất, hoặc phần thãi của động vật nuôi.
Con đường truyền bệnh trực tiếp vào đất vào người là phổ biến đối với các
bệnh nấm ở da, ăn sâu vào thịt hay lan toàn thân do xa khuẩn actinomycetes. Có
các loại nấm từ đất xâm nhập vào các vết thương trên cơ thể người như
blastomyces. Đất trồng trọt là nguồn chứa nấm độc fusarium penicilium.Các trực
trùng uốc ván clostridium lestri, trực trùng gây bệnh như độc tố clostridium
botudium tồn tại trong đất gây bệnh hiểm nghèo qua tiếp xúc của vết thương trên
cơ thể người với đất, hoặc từ đất vào người qua đường tiêu hóa.Đất cũng là nơi hấp
thụ các siêu vi khuẩn gây bệnh dường ruột và các loại siêu vi khuẩn mà chúng dễ
dàng xâm nhập vào cơ thể người.
Sự tích tụ cao các chất độc hại, các kim loại nặng trong đất sẽ làm tăng khả
năng hấp thụ các nguyên tố có hại trong cây trồng, vật nuôi và gián tiếp gây ảnh
hưởng xấu tới sức khỏe con người. Mức độ thâm nhập các kim loại nặng vào thực
vật thưởng tỷ lệ thuận với hàm lượng của chúng trong đất (thưởng là môi quan hệ
tuyến tính) thời gian sinh trưởng. Thông thường hàm lượng độc tố trong đất cao thì
mức độ tích lũy độc tố trong thực vật càng lớn (chẳng hạn khi hàm lượng các chất

độc trong đất tăng lên 100 lần thì hàm lượng của các chất này trong cây ngô cũng
tăng lên 36 lần. Mặt khác, hàm lượng của các kim loại trong lá, thân cây thường
lớn hơn trong hạt và củ nhưng mức độ tập trung của chúng trong cây lá và hạt xấp
xĩ như nhau và cũng tăng theo hàm lượng của các độc tố trong đất. Các chất độc từ
đất thâm nhập vào người, động vật gây nhiều biến đổi sinh hóa, sinh lý dẫn đến
bệnh tật tử vong.
Các chất độc từ đất có thể thâm nhập vào cơ thể người thông qua chuỗi thức
ăn (thực vật đến động vật và cuối cùng vào cơ thể người). Chất độc hại có thể lan
tỏa vào nước mặt và nước ngầm rồi theo nước vào cơ thể người và động vật. Cà
hai phương thức thâm nhập nói trên đặc trưng cho các độc tố tồn tại ở dạng linh

13


động là chủ yếu (dạng ion, dạng hấp thụ, dạng phức anion, các hợp chất hữu cơ,
phức cơ kim có thể tan trong dung dịch đất).
Ngoài ra, con người có thể hít thở không khí bị ô nhiễm bụi chứa chất độc
hại bay lên từ đất. Bằng con đường này các độc tố ở các dạng tồn tại khác nhau có
thể thâm nhập vào người và động vật. Cần nhấn mạnh mức độ thâm nhập độc tố
vào cơ thể người phụ thuộc nhiều hơn vào đặc tính sinh địa hóa, dạng tồn tại của
độc tố so với hàm lượng của chúng trong đất. Con người có thể nhiễm xạ nếu tiếp
xúc với đất chứa các chất phóng xạ trong thời gian đủ dài. Chẵng hạn đất ở khu
vực mỏ Urani Tiên An (Quảng Nam) bị nhiễm xạ với cường độ lớn hơn giới hạn
tối đa cho phép hàng trăm, có nơi đến hàng nghìn lần. Trong vùng này có nhiều
người bị quái thai, dị dạng tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh cao.
Do sử dụng nhiều hóa chất trong nông nghiệp, hiện nay tình hình ngộ độc
thực phẩm do các hóa chất độc, trong đó có thuốc bảo vệ thực vật vẫn diễn ra phức
tạp và có chiều hướng gia tăng. Theo thống kê của Cục an toàn vệ sinh thực phẩm
năm 2004 có 145 vụ ngộ độc ( trong đó thực phẩm độc chiếm 23%, hóa chất 13%)
với 3580 người mắc, có 41 người tử vong.( Theo Báo cáo Hiện trạng môi trường

quốc gia 2005).
Việc sử dụng phân bón hóa hoạc không cân đối, không đúng lúc cây cần
hàng năm một lượng lớn phân bón bị rửa trôi hoặc bay hơi đã làm xấu đi môt
tường sản xuất nông nghiệp và môi trường sống. Bên cạnh đó việc lạm dụng thuốc
bảo vệ thực vât trong phòng trừ dịch hại không tuân thủ các quy trình kỹ thuật,
không đảm bảo thời gian cách ly của từng loại thuốc dẫn đến hậu quả nhiều trường
hợp bị ngộ độc thực phẩm, đồng ruộng bị ô nhiễm và một số dư lượng thuốc vẫn
còn trong đất đã có thể vượt quá ngưỡng gía trị cho phép.
Ô nhiễm đất tác động trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp. Đất chua, mặn, đất
bị ô nhiễm bụi than và xỉ than không thích hợp cho việc canh tác nông ngiệp vì độ
mùn thấp nghèo chất dinh dưỡng mà lại nhiều độc tố đối với cây trồng.Hệ quả tiếp
theo là thảm thực vật kém hoặc không phát triển, chất lượng cảnh quan, chất lượng
và giá trị của đất bị suy giảm.
Hơn nữa đất ô nhiễm cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nước trầm
tích. Chất ô nhiễm trong đất đều được chuyển xuống và gây ô nhiễm vỏ phong hóa

14


hoặc trầm tích phía dưới.Bằng con đường rửa trôi, chất ô nhiễm trong đất đi vào
nước ngầm.
Mặc khác, đất là nơi hứng chịu và tích động các chất ô nhiễm từ không khí
và nước. Chẳng hạn, trong đất ở vùng Khe Sanh (Quảng Trị), Đắc Tô (Komtum),
Năm Căn (Cà Mau) bị ô nhiễm bỏi chất độc màu da cam (đioxine) tích đọng lại từ
cuộc rải hóa chất độc bằng máy bay trong thời kỳ chiến tranh.

CHƯƠNG 3: BIỆN PHÁP CẢI TẠO GIẢM THIỂU Ô NHIỂM ĐẤT
Để cải tạo và giảm thiểu tình trạng ô nhiểm môi trường đất cần thực hiện
các biện pháp sau:
3.1. Điều tra và phân tích đất

Triển khai điều tra và phân tích đất bị ô nhiễm. Ðịnh ra tiêu chuẩn đánh giá
ô nhiễm. Ðây là một trong những công tác cơ bản đánh giá đất, phòng ngừa phát
sinh và phát triển ô nhiễm đất. Ðiều tra ô nhiễm đất là tìm hiểu trạng thái ô nhiễm
và đánh giá mức độ ô nhiễm. Hiện nay người ta lấy "trị số cơ bản" làm tiêu chuẩn
đánh giá. Căn cứ vào hàm lượng bình quân của hợp chất hoặc nguyên tố độc hại
trong đất vượt quá "trị số cơ bản" để đánh giá.
Ðánh giá chất lượng đất là khâu quan trọng trong công tác bảo vệ môi
trường. Cần lấy mẫu đất định kỳ hoặc đặt máy đo tự động ở khu vực đại diện, phân
tích các tính chất lý, hoá và sinh học đất để theo dõi động thái biến đổi, quy luật ô
nhiễm, từ đó tính toán số lượng tồn lưu chất ô nhiễm trong đất, dự kiến được trạng
thái ô nhiễm và xu thế chuyển hoá của chúng và nêu ra biện pháp phòng tránh.
3.2. Loại bỏ nguồn gây ô nhiễm
Trong các xí nghiệp, nhà máy, hầm mỏ cần nghiên cứu công nghệ khép kín,
không sản xuất hoặc ít sản xuất chất độc. Những chất thải loại cần có cách xử lý
thu hồi. Hiện nay, ô nhiễm đất chủ yếu bắt nguồn từ các nhà máy và nước cống
thành phố, bởi vậy lúc tưới nước cho cây trồng cần phải cẩn thận. Trước lúc dùng,
cần phân tích thành phần độc hại và nồng độ của chúng, nếu không đạt được tiêu
chuẩn nước tưới thì phải tìm cách cải tạo hoặc tìm nguồn nước khác.

15


Cần chọn dùng loại nông dược có hiệu lực cao nhưng ít độc, ít tồn lưu trong
đất. Hiện nay còn phải tạm dùng một số nông dược tồn lưu nhiều như chế phẩm
kim loại nặng, cần được hạn chế phạm vi sử dụng, lượng dùng và số lần dùng. Một
hướng mới hạn chế dùng thuốc gây ô nhiễm là cần mở rộng phương pháp sinh vật
phòng trừ kết hợp với phương pháp khác (phòng trừ tổng hợp).
3.3. Làm sạch hóa ruộng đồng
Dùng vôi và muối phosphat kiềm để khử chua, chuyển phần lớn nguyên tố
kim loại nặng sang hợp chất khó tan từ đó làm giảm nồng độ của chúng trong dung

dịch.
Tiêu nước vùng trũng, điều tiết Eh đất làm cho một số nguyên tố kim loại
nặng chuyển sang dạng khó tan.
Luân canh lúa màu có thể xúc tiến phân huỷ DDT_ thuốc trừ sâu. Cải thiện
thành phần cơ giới đất, tăng cường bón phân hữu cơ.
Ðối với đất cát cần nâng cao tính đệm và khả năng hấp phụ để hút các cation
kim loại và nông dươc, áp dụng biện pháp tổng hợp nâng cao độ màu mỡ của đất,
tạo điều kiện cho vi sinh vật hoạt động phân huỷ các nông dược tồn lưu trong đất.
3.4. Ðổi đất, lật đất
Khi đất bị ô nhiễm nặng (như Cd) có thể áp dụng biện pháp đổi đất, lật đất.
Ưu điểm của cách này là cải tạo triệt để nhưng khó thực hiện trên diện tích rộng.
3.5. Thay cây trồng và lợi dụng hấp thu sinh vật
Nếu đất bị ô nhiễm nặng nên thay cây lương thực, cây ăn quả bằng cây hoa,
cây cảnh hoặc cây lấy gỗ. Nếu đất trồng cỏ chăn nuôi thì nên thu hoạch vào thời
gian hàm lượng chất độc thấp nhất.
Ngoài ra có thể trồng những cây không dùng để ăn mà có khả năng hút
mạnh các chất có chứa nguyên tố kim loại nặng. Ví dụ, nếu trồng lúa nước trên đất
ô nhiễm 10% Cd phải mất 350 năm mới hút hết Cd, nếu trồng lúa nương (cạn) mất
30 năm, nhưng có loại cây chỉ mất 7 năm là hút hết. Các nhà khoa học Trung Quốc
cho rằng Cúc vạn thọ (Marigold) có khả năng chịu được ô nhiễm Cd, Pb.

16


Gần đây người ta thấy có thể lợi dụng vi sinh vật để chống ô nhiễm. Ví dụ, các nhà
khoa học đã phát hiện được một loài vi khuẩn chuyên ăn dầu mỏ, hễ gặp dầu là ăn
ngay và phát triển nhanh chóng.

3.6. Thực hiện luật môi trường
Nhà nước đã công bố Luật môi trường, phải giáo dục bồi dưỡng cho toàn

dân, đặc biệt là các nhà máy sản xuất kinh doanh có kiến thức về môi trường và
sinh thái học. Ðối với các cơ sở sản xuất hiện có cần áp dụng các biện pháp tái sử
dụng (thu hồi) để giảm ô nhiễm và hạ giá thành, xử lý chất thải, thay đổi quy trình
công nghệ. Cần xử lý nghiêm khắc những trường hợp vi phạm.
Các biện pháp hạn chế ô nhiễm đất Phát triển nền nông nghiệp bền vững
cũng là một chiến lược bảo vệ môi trường đất, đặc biệt ở miền núi. Đặc trưng cơ
bản của hệ thống nông nghiệp bền vững là hướng tới các mục tiêu cơ bản sau:
Nâng cao lợi ích của sản xuất nông nghiệp như đảm bảo một số lượng nông
nghiệp tương xứng, đáp ứng được nhu cầu sống của lượng dân số mà hệ thống đó
hướng tới
Tăng năng suất nông nghiệp thông qua việc tăng cường sử dụng các kiểu
gen có năng suất cao, chống chịu sâu bệnh và thích ứng các điều kiện khó khăn,
duy trì độ phì của đất, tính đa dạng của cây trồng, áp dụng luân canh cây trồng, sử
dụng hệ thống cây hàng năm, cây lâu năm, nghề cá, chăn nuôi tổng hợp
Bảo vệ và cải thiện môi trường sống cho con người và các sinh vật khác như
chống ô nhiễm nguồn nước, giảm và loại bỏ sử dụng chất độc để trừ sâu bệnh,
giảm sử dụng phân khoáng
Tăng cường các hoạt động phi nông nghiệp khác, tạo thêm công ăn việc làm,
phát triển cơ sở hạ tầng … nhằm nâng cao dần đời sống người dân
Đối với Việt Nam phát triển các hệ thống nông nghiệp bền vững cần chú ý:
Áp dụng các biện pháp canh tác chống xói mòn
17


Đa dạng hóa cây trồng dưới hình thức : trồng xan, gối vụ, luân canh
Áp dụng hệ thống nông lâm kết hợp, lâm ngư kết hợp với các mô hình đa
dạng, phong phú
Kết hợp trồng trọt và chăn nuôi, tăng cường phát triển và mở rộng các mô
hình kinh tế vườn rừng, trại rừng
Từng bước xây dựng một nền nông nghiệp “sạch” đảm bảo đa dạng hóa cây

trồng, tạo năng suất bền vững, ổn định, giảm sử dụng phân khoáng và hóa chất độc
hại bảo vệ thực vật. Không nên đặt mục tiêu duy nhất bằng mọi giá đạt năng suất
cây trồng, vật nuôi cao nhất.
Cuối cùng cần nhấn mạnh thêm rằng vấn đề nghiên cứu biến đổi môi trường
đất cần được đặt ra một cách có hệ thống trong phạm vi toàn quốc, việc phối hợp
hành động với các nước trong khu vực và toàn cầu là một đòi hỏi cấp bách nhằm
góp phần thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường nói chung và môi trường đất nói
riêng.
KẾT LUẬN
Ô nhiễm đất hiện nay là một vấn đề đang cần được quan tâm sâu sắc bởi những tác
hại to lớn gây ra cho con người và những sinh vật khác .Ô nhiễm đất cùng với
những ô nhiễm khác như ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước… đang hủy hoại môi
trường sống của chúng ta. Các loại ô nhiễm này có quan hệ mật thiết với nhau, ô
nhiễm không khí tạo mưa axit rơi xuống làm ô nhiễm đất , ô nhiễm nước thải vào
đất gây ô nhiễm và ngược lại ô nhiễm đất làm ô nhiễm mặt nước ngầm và ảnh
hưởng đến môi trường không khí xung quanh…
Nguyên nhân chủ yếu của ô nhiễm đất đến từ các chất thải công nghiệp do các
hoạt động sản xuất, khai thác khoáng sản, các chất khí độc hại được thải ra ngoài
môi trường, các chất thải hữu cơ. Thứ hai là các loại chất thải sinh hoạt của con
người hàng ngày mà trong đó đặc biệt nguy hại là chất thải y tế và các loại chất
thải có tính độc hại khác mà hiện nay vẫn chưa được xử lí triệt để trước khi thải ra
ngoài. Thứ ba ô nhiễm do chất thải nông nghiệp, chúng tích lũy dần trong đất và
các loại cây trộng và chất độc tăng lên rất lớn khi đi vào cơ thể con người ảnh
hưởng rất lớn đến sức khỏe con người.

18


Đất một khi đã bị ô nhiễm thì việc xử lí là vô cùng khó khăn và mất nhiều công
sức, tiền của. Do đó cần phải có biện pháp ngăn chặn ô nhiễm đất trong đó giải

pháp quan trọng nhất là nâng cao ý thức của con người trong việc thải bỏ chất
thải,ý thức xử dụng thốc trừ sâu, phân bón hóa học của những người nông dân.
Đồng thới cần khuyến khích sử dụng phân bón sinh học, sử dụng các giống cây
trồng không có sâu bệnh để hạn chế việc sử dụng thuốc trừ sâu và phân bón hóa
học, tuyên truyền cho người dân thực hiện luật môi trường để bảo vệ môi trường
đất, bảo vệ các sinh vật sinh sống trên Trái Đất để cuộc sống của chúng ta ngày
càng tốt đẹp hơn.
Tài liệu tham khảo:
1.Giáo trình “Cơ sở khoa học môi trường ” NXB-ĐH Quốc gia Hà Nội

2. Giáo trình “hổ nhưỡng học” PGS.TS Trần Văn Chính – nhà xuất bản Nông
Nghiệp 2006.
3. Báo cáo hiện trạng môi trường 2005, 2010.
4.
5.
6.

19


20



×