Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Nghiên cứu sự phát triển cơ thể sinh viên khóa 43 trường đạihọc sư phạm TDTT hà nội từ năm 2010 đến 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.46 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trên con đường đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước để theo kịp và hội nhập kinh tế với các nước trên thế
giới. Điều này đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực dồi dào đủ năng lực trí tuệ,
xã hội phải có những con người có trình độ học vấn, hiểu biết mọi lĩnh vực.
Đào tạo ra những con người có sức khỏe, có trình độ cao về khoa học kĩ thuật
và công nghệ đáp ứng được yêu cầu của xã hội là nhiệm vụ của ngành giáo
dục. Vì thế nghị quyết TW2 khóa VIII năm 1996 và các nghị quyết, văn kiện
của Đảng trong các kì đại hội đã khẳng định “Giáo dục và đào tạo là nhân tố
quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục và đào
tạo là đầu tư cho phát triển” do đó mục tiêu của giáo dục và đào tạo ở nước ta
đã xác định là “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức,
tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất
và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [Điều 2luật giáo dục 2012]. Vì vậy việc nâng cao sức khỏe thể chất cho thanh niên sẽ
góp phần làm tăng chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của xã hội.
“Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất, tinh thần
và xã hội chứ không phải chỉ là tình trạng không có bệnh hoặc tật nguyền”
(WHO). Như vậy, một cơ thể khỏe mạnh trước hết phải có thể chất tốt, sức
khỏe về mặt thể chất phản ánh một phần thực trạng sức khỏe nói chung và đặc
biệt liên quan chặt chẽ đến khả năng lao động và thẩm mỹ của con người. Do
đó vấn đề phát triển thể chất ở lứa tuổi học sinh, sinh viên là một trong những
vấn đề được quan tâm trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực con người
của mỗi quốc gia.


“Giáo dục thể chất là môn học chính khoá thuộc chương trình giáo dục
nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản cho người học thông qua
các bài tập và trò chơi vận động, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn
diện cho học sinh, sinh viên” [Điều 20, Mục 2 - Luật Thể dục, thể thao 2006].
Để đạt được những mục tiêu này, vai trò cũng như chất lượng của giáo viên


giáo dục thể chất trong nhà trường là một yếu tố hết sức quan trọng, nhiệm vụ
của giáo viên giảng dạy môn Giáo dục thể chất là hướng dẫn học sinh tham
gia các bài tập thể dục nhằm nâng cao sức khỏe đồng thời phát hiện, đào tạo
các vận động viên năng khiếu.
Từ sau năm 1975 đến nay đã có một số tác giả tiến hành nghiên cứu trên
đối tượng sinh viên chuyên ngành Thể dục thể thao. Tuy nhiên những nghiên cứu
dọc về hình thái - thể lực của sinh viên sư phạm Thể dục thể thao giai đoạn từ 18
đến 21 tuổi chưa nhiều.
Xuất phát từ thực tế trên chúng tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài
“Nghiên cứu sự phát triển cơ thể sinh viên khóa 43 trường Đại học sư
phạm TDTT Hà Nội từ năm 2010-2013” nhằm đạt các mục tiêu sau:
- Xác định thực trạng một số chỉ số hình thái - thể lực và chức năng
sinh lý của sinh viên K43 Trường Đại học sư phạm Thể dục thể thao Hà Nội
từ năm 2010-2013.
- Đánh giá mức độ phát triển thể chất của sinh viên K43 trường Đại học
sư phạm Thể dục thể thao Hà Nội sau bốn năm học tập.


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU HÌNH THÁI - THỂ LỰC, CHỨC NĂNG SINH
LÍ CƠ THỂ NGƯỜI

1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới
Hình thái và thể lực là những đặc điểm sinh học quan trọng, phản ánh
một phần thực trạng sức khỏe và đặc biệt liên quan chặt chẽ đến khả năng lao
động của con người. Vì vậy, đã từ lâu hình thái - thể lực được các nhà y học,
hình thái học quan tâm nghiên cứu.
Quyển sách đầu tiên viết về sự tăng trưởng chiều cao ở người
(Wachstum der Menschen in die Lange) của A.Stoeller được xuất bản ở

Magdeburg (Đức) vào năm 1729. Tuy nhiên, trong cuốn sách này chưa có các
số liệu đo đạc cụ thể. Nghiên cứu về sự tăng trưởng ở người thực sự được
trình bày trong luận án tiến sĩ của Christian Friedrich Jumpert ở Halle (Đức)
năm 1754, trong đó trình bày các số liệu đo đạc về cân nặng, chiều cao đứng
và các chỉ tiêu sinh học khác của một loạt bé trai, bé gái và thanh niên từ 1-25
tuổi tại các trại mồ côi Hoàng gia ở Berlin và một số nơi khác trên nước Đức.
Công trình này được xem là nghiên cứu cắt ngang đầu tiên về tăng trưởng ở trẻ
em [dẫn theo 30].
Nghiên cứu dọc đầu tiên về chiều cao đứng được thực hiện bởi
Philibert Guénneau de Monbeilard trên con trai của mình từ năm 1759 đến
năm 1777. Trong 18 năm liên tục, cậu bé được đo 2 lần mỗi năm, cách nhau 6
tháng. Đây là một trong số những nghiên cứu tốt nhất đã được tiến hành cho
đến nay và được trích dẫn trong các nghiên cứu về tăng trưởng trong suốt thế
kỷ XIX [dẫn theo 17].


Người đặt nền móng cho nhân trắc học hiện đại là nhà nhân trắc học
người Đức Rudolf Martin. Vào năm 1919, Rudolf Martin đã đề xuất các
phương pháp và dụng cụ đo đạc kích thước cơ thể người một cách hệ thống
qua hai tác phẩm “Giáo trình về nhân học” và “Kim chỉ nam đo đạc cơ thể và
xử lí thống kê” [dẫn theo 22]. Từ đó đến nay Nhân trắc học đã trở thành một
môn khoa học độc lập và ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh
vực khác nhau như:tìm hiều các đặc trưng hình thái, chủng tộc của các cộng
đồng người (trong nhân chủng học), xác định những biến đổi hình thái cơ thể,
bệnh lý (trong y học), thiết kế công nghiệp (trong ecgonomi).
Năm 1925, R. Martin đưa ra phương pháp đánh giá mới về thể lực. Ông
lập bảng chuẩn nhiều đặc điểm hình thái cơ thể, đối với mỗi đặc điểm lại chia
làm nhiều loại. Phương pháp này sau đó được Stephenco bổ sung, ông coi
chiều cao đứng, cân nặng và vòng ngực là ba đặc điểm biến đổi độc lập trong
khi thực tế chỉ có chiều cao đứng là biến đổi độc lập còn cân nặng và vòng

ngực thì biến đổi phụ thuộc vào chiều cao đứng [dẫn theo 12].
Trong những năm 60 của thế kỉ XX,trong chương trình nghiên cứu sinh
học thế giới do UNESSCO chủ trì, nhân trắc học được đặc biệt chú ý và các
dụng cụ đo đạc nhân trắc học đã được chuẩn hóa và sản xuất ở nhiều nước.
Năm 1961, Nold và Volsuski nghiên cứu ảnh hưởng của hoàn cảnh địa lý đến
sự tăng trưởng chiều cao ở trẻ em. Cũng trong thời gian này, Graef và Cone
đã thống kê nhiều số liệu chứng minh rằng tình trạng dinh dưỡng và bệnh tật
ảnh hưởng rõ rệt đến sự gia tăng các kích thước và chỉ số cơ thể, đặc biệt là
chiều cao và cân nặng. Năm 1962, Baskirov đã xuất bản cuốn “Học thuyết về
sự phát triển thể lực con người” trong đó tác giả nêu một số quy luật phát
triển cơ thể dưới ảnh hưởng của những điều kiện sống khác nhau [dẫn theo
44].


Năm 1964, F.Vandervael một thầy thuốc người Bỉ đã viết cuốn sách
giáo khoa“Nhân trắc học”và đưa ra những nhận xét toàn diện về các quy luật
phát triển thể lực theo giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp và xây dựng các thang
phân loại thể lực theo các chỉ số đánh giá thể lực với các đặc trưng thống kê
trung bình cộng ( X ) và độ lệch chuẩn (SD) [dẫn theo 29].
Cũng giống như chiều cao, cân nặng, vòng ngực là chỉ tiêu thường
được sử dụng trong các nghiên cứu cơ bản về hình thái người. Vòng ngực
được nghiên cứu từ những năm 20 của thế kỷ XIX, đến cuối thế kỉ XIXvòng
ngực trở thành một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá thể lực sau chiều cao, cân
nặng.
Việc đánh giá thể lực chỉ dựa trên một trong các chỉ tiêu như cân nặng,
chiều cao đứng hay vòng ngực đều không cho kết quả mong muốn. Vì vậy,
người ta đã hợp nhất nhiều số đo vào một chỉ số chung để đánh giá thể lực.
Ban đầu là những chỉ số dùng 2 kích thước (cân nặng và chiều cao) như chỉ số
Broca, chỉ số Quetelet, chỉ số Kaup, Rohrer và Livi, v.v. sau đó là những chỉ
số được hợp nhất từ 3 kích thước trở lên như chỉ số Pignet, chỉ số Vervaek,

chỉ số Pimo, v.v. Nhìn chung, một chỉ số được xác định từ nhiều thông số
khác nhau thì chỉ số đó càng chính xác nhưng việc đo đạc và tính toán càng
cồng kềnh và phức tạp.
Trong thế kỉ XIX, các công trình nghiên cứu về nhân trắc học còn hạn
chế về số lượng, kích thước chưa thống nhất, phương pháp đo lường và các
tính toán thống kê còn đơn giản.
Trong vòng 50 năm trở lại đây, một số nước trên thế giới đã có nhiều
côngtrình nghiên cứu về nhân trắc học như: Đức, Pháp, Mĩ, Liên Xô, Nhật,
Rumani... Các công trình này đề cập nhiều tới sự tăng trưởng các kích thước
cơ thể và sự phát triển cơ thể của học sinh ở các lứa tuổi. Các nhà khoa học
nhận thấy trong thời gian gần đây, có sự gia tăng về các số đo cơ thể của


thanh thiếu niên. Đặc biệt tại các nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật
các nhà khoa học đã xác định được một cách đầy đủ, hoàn thiện các chỉ số thể
lực để đánh giá thực trạng và mức tăng trưởng thể lực của dân tộc qua những
giai đoạn khác nhau [53, 56].
Một chỉ tiêu khác được nhiều nhà khoa học quan tâm là huyết áp động
mạch. Huyết áp động mạch được nghiên cứu từ thế kỉ XIX do nhiều tác giả
tiến hành. Huyết áp được Korotkov xác định bằng phương pháp đo gián tiếp,
phương pháp này hiện nay vẫn được dùng rất phổ biến. Kết quả nghiên cứu
của nhiều tác giả cho thấy, huyết áp của nam và nữ từ 5 tuổi trở nên đã có sự
khác biệt rõ, trong đó huyết áp của nam thường cao hơn của nữ và còn chịu
ảnh hưởng nhiều của môi trường sống [54, 55].
1.1.2. Những nghiên cứu tại Việt Nam
Hình thái - thể lực con người Việt Nam được nghiên cứu lần đầu năm
1875 do Mondiere thực hiện trên trẻ em. Vào những năm 30 của thế kỉ XX tại
Viện Viễn Đông Bác Cổ, sau đó là trường Đại học Y khoa Đông Dương (19361944) đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu về vấn đề này [dẫn theo 41].
Ở Việt Nam, từ lâu một số tác giả như Đỗ Xuân Hợp (1943), Trần Nhật
Úc (1959), Ngô Thế Phương (1960), Nguyễn Quang Quyền (1960-1975) đã

có những nghiên cứu có giá trị về thể lực người Việt Nam trưởng thành. Đặc
biệt, từ sau năm 1975 đã có nhiều công trình nghiên cứu về tầm vóc - thể lực
người Việt Nam trên các nhóm đối tượng như sinh viên, nông dân, công
nhân…với những phương pháp chuẩn xác đã đưa ra các kết quả đáng tin cậy
và có sức thuyết phục phần nào cho thấy sự thay đổi về hình thái, thể lực của
người Việt Nam theo thời gian [dẫn theo 22].
Sau hai Hội nghị về hằng số sinh học năm 1967 và 1972, một tập thể
các tác giả do giáo sư Nguyễn Tấn Gi Trọng chủ biên đã biên soạn cuốn
“Hằng số sinh học người Việt Nam” (1975). Trong công trình này, các tác giả


đã tập hợp đầy đủ nhất về các chỉ tiêu nhân trắc ở trẻ em và người trưởng
thành. Đây là công trình nghiên cứu thể hiện những chỉ số hình thái, thể lực
điển hình của người Việt Nam ở mọi lứa tuổi [43].
Năm 1986, cuốn “Atlat Nhân trắc học người Việt Nam trong lứa tuổi
lao động” là công trình nghiên cứu trên người trưởng thành do Giáo sư Võ
Hưng làm chủ biên được xuất bản. Đây là công trình nghiên cứu được tiến hành
từ năm 1981 đến 1984 trên 13.233 người (6.493 nữ và 6.730 nam) ở 15 tỉnh trên
cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Năm nhóm tuổi được nghiên cứu là 17-19, 20-29,
30-39, 40-49 và 50-55 tuổi. Kết quả của công trình này được xem như là mẫu
chuẩn thứ hai sau “Hằng số sinh học, 1975”, tuy nhiên đây là công trình ứng
dụng vào ergonomie (thiết kế dụng cụ và nơi làm việc) nên đối tượng nghiên cứu
đa số là công nhân, tập trung chủ yếu là ở nhóm tuổi 30-39 do đó đối tượng ít
nhiều có sự chọn lọc, chưa mang tính đại diện [47].
Năm 1987, trong luận án phó tiến sĩ sinh học “Góp phần nghiên cứu
các đặc điểm hình thái thể lực người Việt lứa tuổi trưởng thành”, Trịnh Hữu
Vách đã nêu lên một số kết luận đáng chú ý trong quá trình nghiên cứu trên
4.510 người Việt và so sánh với 428 người Chill (Lâm Đồng) và người
Mường (Thanh Hóa), trong đó tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến tình trạng thiếu
dinh dưỡng về cả chất lượng lẫn số lượng trong thời gian dài đã ảnh hưởng tới

tầm vóc, thể lực của người Việt Nam và hạn chế quy luật gia tăng theo thời
gian [45].
Năm 1979, Nguyễn Thị Đoàn Hương, Lê Tuyết Lan và Cs đã tiến hành
nghiên cứu thể lực của 767 sinh viên (476 nam và 300 nữ) có độ tuổi từ 18-26
của hai trường Đại học ở thành phố Hồ Chí Minh là Trường Đại học Y Dược
và Đại học Sư phạm kỹ thuật Thủ Đức. Kết quả cho thấy, có sự khác biệt về
một số chỉ số thể lực giữa sinh viên miền Nam so với “Hằng số sinh học,
1975”. Các số liệu cũng cho thấy có sự tăng trưởng vượt trội vào giai đoạn 18


lên 19 tuổi (từ năm thứ nhất lên năm thứ hai đại học) của một số chỉ số thể lực
[23].
Năm 1980-1990, Thẩm Thị Hoàng Điệp tiến hành nghiên cứu dọc trên
101 học sinh phổ thông ở Hà Nội từ 6-17 tuổi với 31 chỉ tiêu sinh học và đưa
ra nhận xét: chiều cao phát triển mạnh nhất lúc 11-12 tuổi ở nữ và 13-15 tuổi
ở nam, cân nặng phát triển mạnh nhất ở nữ lúc 13 tuổi và ở nam lúc 14 tuổi,
có sự gia tăng về chiều cao và cân nặng ở lứa tuổi học sinh. Quy luật phát
triển các đoạn chi phù hợp quy luật phát triển chiều cao, học sinh thành phố
có chiều cao lớn hơn so với học sinh vùng nông thôn [12].
Năm 1991, Đào Huy Khuê nghiên cứu cắt ngang gần 50 chỉ tiêu nhân
trắc và mô tả của 1.478 học sinh phổ thông 6 – 17 tuổi ở thị xã Hà Đông, bao
gồm các đặc điểm hình thái, bề dày lớp mỡ dưới da và đặc điểm phát dục. Tác
giả nhận thấy: hầu hết các chỉ tiêu hình thái tăng dần theo tuổi nhưng nhịp độ
tăng trưởng không đồng đều. Từ 6-9 tuổi các kích thước cơ thể của nam và
của nữ không có sự khác biệt rõ rệt. Từ 10-15 tuổi kích thước của nữ thường
vượt nam và đến 16-17 tuổi các kích thước của nam lại vượt lên trước nữ.
Ông cũng rút ra nhận xét, có sự gia tăng về chiều cao của người Việt Nam so
với các thập kỉ trước [24].
Năm 1995, Nguyễn Yên và cộng sự đã nghiên cứu trên 2.033 người
thuộc các lứa tuổi 1-5 và 18-55 tuổi của 3 nhóm dân tộc Việt, Mường, Dao ở

tỉnh Hà Tây. Tác giả kết luận tầm vóc, thể lực của người Việt tốt nhất, sau đến
người Mường và cuối cùng là người Dao [dẫn theo 30].
Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Thế Hùng (1996) khi nghiên cứu, so sánh
thể lực của 495 sinh viên Đại học Y Hải Phòng (264 nam và 231 nữ) trong ba
năm, từ 1992-1994 đã kết luận: Thể lực của sinh viên Đại học Y Hải Phòng
trong các năm 1992-1994 có cải thiện so với thể lực người Việt Nam trưởng


thành trong “Hằng số sinh học, 1975”, thể lực của nam sinh viên phát triển
mạnh hơn nữ sinh viên cùng lứa tuổi [19].
Cũng theo Nguyễn Hữu Chỉnh,sinh viên lớp tuổi 18-25 ở khu vực Kiến
An, thành phố Hải Phòng vẫn có sự tăng trưởng. Song khác biệt về các chỉ số
sinh học giữa các lớp tuổi không có ý nghĩa thống kê [8].
Trong hai năm 1998 và 1999, Vũ Thị Thanh Bình và Cs đã nghiên cứu
các chỉ tiêu hình thái, thể lực và chức năng sinh lý của sinh viên K30 trường
Cao đẳng sư phạm thể dục TW1 và kết luận: sinh viên trường Cao đẳng sư
phạm thể dục TW1 có thể lực tốt hơn sinh viên các trường đại học khác và
thuộc loại tốt so với thanh niên Việt Nam nói chung. Những khác biệt này là
do đặc trưng về thể lực của sinh viên năng khiếu Thể dục thể thao và tác động
của việc rèn luyện thể chất ở cường độ cao [2, 3].
Năm 2003, Mai Văn Hưng nghiên cứu trên sinh viên một số trường đại
học phía Bắc Việt Nam cho thấy, vẫn có sự tăng trưởng về hình thái và một số
chỉtiêu sinh lý ở độ tuổi 18-25. Chiều cao đứng của nam đạt giá trị cao nhất là
năm 23 tuổi và nữ là năm 21 tuổi, sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội II có
chiều cao và trọng lượng trung bình lớn nhất, tiếp đó là sinh viên Đại học Sư
phạm Hà Nội I và thấp nhất là sinh viên Đại học Hồng Đức.Tác giả giải thích
sự khác biệt này là do điều kiện kinh tế - xã hội. Điểm đáng chú ý là các chỉ
tiêu về chức năng của hệ tuần hoàn và hệ hô hấp của sinh viên ở 3 trường
không có sự khác biệt [22].
Năm 2001, dự án điều tra, đánh giá thực trạng thể chất và xây dựng hệ

thống tiêu chuẩn thể lực chung của người Việt Nam do Ủy ban khoa học Thể
dục thể thao chủ trì đã tiến hành điều tra giai đoạn I với 13 kích thước hình
thái và chỉ số thể lực được nghiên cứu trên 47.846 người Việt Nam từ 6-20
tuổi ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam trong đó có 8.400 sinh viên có độ tuổi từ
18-20 thuộc 17 trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp. Kết quả


điều tra cho thấy, chiều cao trung bình của nam, nữ 20 tuổi tại thời điểm năm
2001 đã tăng lần lượt là 6,14 cm và 4,88 cm so với số liệu về chiều cao trong
“Hằng số sinh học, 1975”. Cân nặng trung bình cũng tăng lần lượt là 8,19 kg
và 3,02 kg. Trên cơ sở kết quả điều tra, Ủy ban Thể dục thể thao đã đề ra hệ
thống tiêu chuẩn đánh giá mức độ phát triển thể chất cho mọi đối tượng nhân
dân theo tuổi và giới tính. Hệ thống tiêu chuẩn này có giá trị sử dụng trong
vòng 10 năm [48].
Sau khi hoàn thành giai đoạn I, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban TDTT
đã có quyết định số 1532/2002/QĐ-UBTDTT, ngày 27 tháng 9 năm 2002
giao cho Viện Khoa học TDTT tiếp tục triển khai giai đoạn II “Điều tra, đánh
giá thực trạng thể chất và xây dựng hệ thống tiêu chuẩn thể lực chung của
người Việt Nam từ 21-60 tuổi”. Điều tra giai đoạn II thực hiện trên 31.125
người từ 21-60 tuổi trong đó tập trung vào giai đoạn 21-40 tuổi. Dựa trên kết
quả điều tra, dự án đã xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đánh giá thể chất cho
người Việt Nam từ 21 đến 60 tuổi đồng thời lựa chọn được những chỉ tiêu cơ
bản để xây dựng tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho tất cả các nhóm đối tượng
[49].
Năm 2003, trong khuôn khổ đề tài “Phân tích thực trạng hình thái, thể
lực của nam thanh niên Việt Nam qua số liệu khám tuyển quân, tuyển sinh từ
1987-2003”, Trần Thị Trung Chiến, Lê Quang Bách và Cs đã tiến hành
nghiên cứu tầm vóc, thể lực của 334.728 thanh niên từ 17-27 tuổi trong đó
nghiên cứu hồi cứu là 314.289 người và nghiên cứu cắt ngang là 20.439
người. Kết quả nghiên cứu cho thấy tầm vóc, thể lực của thanh niên trong

nghiên cứu đã tăng lên một cách rõ rệt qua từng thời kì, tuy nhiên chỉ số BMI
không có sự khác biệt giữa các lứa tuổi và giữa các giai đoạn [44].
Năm 2003, Bộ Y tế đã công bố cuốn sách “Các giá trị sinh học người
Việt Nam bình thường thập kỷ 90 - thế kỷ XX” [1]. Các vấn đề về tầm vóc,


TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Nguyễn Trường An (2009),“Giá trị của vòng cánh tay và vòng đùi trong
đánh giá suy dinh dưỡng của thanh niên 18-25 tuổi”, Tạp chí khoa học,
Đại học Huế, (55), Tr. 15-26.
2. Vũ Thị Thanh Bình, Đào Ngọc Dũng (1998), “Nghiên cứu các chỉ tiêu
hình thái thể lực và chức năng sinh lý của sinh viên K30 Trường Cao đẳng
sư phạm thể dục TWI”, Tuyển tập nghiên cứu khoa học Giáo dục thể chất,
sức khỏe trong trường học các cấp, Nxb Thể dục thể thao, Hà Nội, Tr.115117.
3. Vũ Thị Thanh Bình, Đào Ngọc Dũng, Phạm Khắc Học (1999), “Tiếp tục
nghiên cứu các chỉ tiêu hình thái và sinh lý của sinh viên Trường Cao đẳng
Sư phạm thể dục TWI”, Thông báo khoa học Trường Cao đẳng sư phạm
thể dục TWI (99), Hà Tây, Tr.55-63.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Quyết định số 53/2008/QĐ BGDĐT ngày
18/9/2008, Quy định về đánh giá và phân loại thể lực học sinh, sinh viên
5. Bộ Y tế (2003), Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập
niên 90 thế kỷ XX, Nxb Y học, Hà Nội.
6. Bộ Y tế (2010), Tổng điều tra dinh dưỡng 2009-2010, Nxb Y học, Hà Nội.
7. Nguyễn Hữu Chỉnh (1998), “Một số chỉ số nhân trắc cư dân huyện An
Hải, thành phố Hải Phòng”, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học, T1,
Nxb Y học, Hà Nội, Tr.24-31.
8. Nguyễn Hữu Chỉnh (1998), “Một số nhận xét về các chỉ số thể lực và hình
thái của sinh viên khu vưc Kiến An, Hải Phòng”, Tuyển tập nghiên cứu
khoa học Giáo dục Thể chất, sức khỏe trong trường học các cấp, Nxb

TDTT Hà Nội, Tr.192-199.


9. Nguyễn Đình Chung (2007) “Nghiên cứu một số chỉ tiêu hình thái của
sinh viên trường Đại học Thể dục thể thao I”, Tạp chí khoa học thể thao,
(2), Tr. 19-28.
10. Trần Thị Hạnh Dung, Quách Văn Tỉnh (2010), Giải phẫu học Thể dục thể
thao, Nxb TDTT, Hà Nội.
11. Đại học Y Hà Nội (2000), Báo cáo toàn văn dự án Điều tra cơ bản một số
chỉ tiêu sinh học người Việt Nam bình thường ở thập kỉ 90, Nxb Y học, Hà
Nội.
12. Thẩm Thị Hoàng Điệp (1992), Đặc điểm hình thái và thể lực học sinh một
số trường phổ thông cơ sở Hà Nội. Luận án PTS khoa học y dược, Trường
Đại học Y khoa Hà Nội, 1992.
13. Thẩm Thị Hoàng Điệp, Nguyễn Quang Quyền, Vũ Huy Khôi và cs
(1996), “Một số nhận xét về phát triển chiều cao, vòng đầu, vòng ngực của
người Việt Nam từ 1-55 tuổi”, Kết quả bước đầu nghiên cứu một số chỉ
tiêu sinh học người Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội, Tr.68-71.
14. Phạm Thị Minh Đức (1998), “Huyết áp động mạch”, Chuyên đề sinh lý
học T1, Nxb Y học, Hà Nội, Tr.51-60.
15. Lưu Quang Hiệp, Vũ Chung Thủy, Nguyễn Hùng Cường, Ngô Sách Thọ
(2006), “Đặc điểm các chỉ số chức năng tâm - sinh lý của sinh viên năm
thứ 3 Trường Đại học TDTT I”, Tuyển tập nghiên cứu khoa học TDTT
năm 2006, Nxb TDTT I, Hà Nội, Tr.415-421.
16. Lưu Quang Hiệp, Vũ Chung Thủy, Nguyễn Hùng Cường (2007), “Đặc
điểm các chỉ số chức năng tâm - sinh lý của sinh viên năm thứ 4 Trường
Đại học TDTT I”, Tuyển tập nghiên cứu khoa học TDTT năm 2006, Nxb
TDTT I, Hà Nội, Tr.357-365.
17. Nguyễn Đức Hinh (2010), “Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học người
sống ở Hà Nội năm 2010”, Nxb Đại học Y Hà Nội.



18. Nông Thị Hồng (2005), Y học thể dục thể thao, Nxb Đại học Sư phạm Hà
Nội.
19. Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Hữu Chỉnh (1996), So sánh thể lực của sinh
viên Đại học Y Hải Phòng vào và ra trường trong ba năm (1992-1994). Kết
quả bước đầu nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học người Việt Nam, Nxb Y
học, Hà Nội, Tr.86-90.
20. Lê Hữu Hưng (2006), “Nghiên cứu diễn biến chức năng tim mạch của
sinh viên khóa 39 Trường Đại học TDTT I sau 3 năm tập luyện”, Tuyển
tập nghiên cứu khoa học TDTT năm 2006, Nxb TDTT, Hà Nội, Tr.467472.
21. Lê Hữu Hưng (2007), “Nghiên cứu diễn biến chức năng tim mạch của
sinh viên khóa 39 Trường Đại học TDTT I sau 4 năm tập luyện”, Tuyển
tập nghiên cứu khoa học TDTT năm 2007, Nxb TDTT, Hà Nội, Tr.382389.
22. Mai Văn Hưng (2003), Nghiên cứu một số chỉ số sinh học và năng lực trí
tuệ của sinh viên một số Trường đại học phía bắc Việt Nam, Luận án Tiến
sĩ sinh học, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
23. Nguyễn Thị Đoàn Hương, Lê Thị Tuyết Lan, Trần Liên Minh (1979),
“Một số đặc điểm về thể lực của sinh viên học tại thành phố Hồ Chí Minh,
1979”, Kết quả bước đầu nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học người Việt
Nam, Nxb Y học, Hà Nội, 1996, Tr.93-96.
24. Đào Huy Khuê (1991), Đặc điểm về kích thước hình thái, về sự tăng
trưởng và phát triển cơ thể của học sinh phổ thông 6 -17 tuổi thị xã Hà
Đông, tỉnh Hà Sơn Bình, Luận án PTS Sinh học, Trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội.
25. Tạ Thuý Lan, Trần Thị Loan (2010), Giải phẫu sinh lý, Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội.


26. Tạ Thúy Lan, Trần Thị Loan (2011), Sinh lí học trẻ em, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.
27. Trần Thị Loan (2002), “Nghiên cứu một số chỉ số thể lực và trí tuệ của
học sinh từ 6-17 tuổi tại quận Cầu Giấy - Hà Nội”, Luận án Tiến sĩ Sinh
học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
28. Đào Mai Luyến (2001), “Nghiên cứu một số chỉ số sinh học của người
Êđê và người Kinh định cư ở Đăklắk”, Luận án Tiến sĩ Y học, Học viện
Quân y Hà Nội.
29. Nguyễn Thị Mậu (1995), Một số nhận xét về thể lực và tình trạng dinh
dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi ở 2 xã tỉnh Thái Bình, Luận văn tốt nghiệp
Bác sỹ chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y Hà Nội.
30. Trần Thị Minh (2010), “Đặc điểm hình thái, thể lực và dậy thì của học
sinh 9-17 tuổi dân tộc Kinh và Thái ở tỉnh Điện Biên“, Luận văn Thạc sĩ
Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội.
31. Trịnh Văn Minh, Trần Sinh Vương, Ngô Thị Kim và cs (1998), “Các chỉ
tiêu nhân trắc hình thái thể lực người Miền Bắc Việt Nam trưởng thành
trong thập niên 90”, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học T1, Nxb Y
học, Hà Nội, Tr.1-15.
32. Nguyễn Văn Mùi, Nguyễn Quỳnh Thơ, Tô Như Khuê (2002), “Nghiên
cứu đặc điểm mạch, huyết áp và điện tim của vận động viên ở một số môn
thể thao gắng sức”, Tạp chí Sinh lý học, 6 (2), Tr.51-56.
33. Nguyễn Thị Bích Ngọc (2013), “Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học và
nặng lực trí tuệ của học sinh miền núi từ 11 đến 17 tuổi tỉnh Vĩnh Phúc và
Phú Thọ”, Luận án Tiến sĩ Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
34. Vũ Thị Nho (1999), “Những đặc điểm phát triển tâm lý tuổi học sinh đầu
tuổi thanh niên”, Tâm lý học phát triển, Nxb ĐHQG Hà Nội, Tr.116-122.


35. Vũ Thị Nho (1999), “Những đặc điểm phát triển tâm lý cơ bản của thanh
niên sinh viên (từ 19 đến 25 tuổi)”, Tâm lý học phát triển, Nxb ĐHQG Hà
Nội, Tr.137-149.

36. Đào Ngọc Phong (2002), “Thống kê ứng dụng trong nghiên cứu y học”,
Nxb Y học, Hà Nội.
37. Phạm Tuấn Phượng (1994), Đo đạc thể hình, Nxb TDTT, Hà Nội.
38. Nguyễn Quang Quyền, Nhân trắc học và sự ứng dụng nghiên cứu trên
người Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội, 1974.
39. Nguyễn Xuân Sinh (1999), Giáo trình phương pháp nghiên cứu khoa học
thể dục thể thao, Nxb TDTT, Hà Nội.
40. Phạm Thị Thiệu (2005), Sinh lý học Thể dục thể thao, Nxb TDTT, Hà
Nội.
41. Nguyễn Thị Thoa (2011), “Nghiên cứu một số chỉ số thể lực và trí tuệ của
sinh viên một số chuyên ngành Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội”,
Luận văn Thạc sĩ Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
42. Thủ tướng chính phủ (2011), Quyết định số 641/TTg ngày 28/04/2011,
Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011
– 2030.
43. Nguyễn Tấn Gi Trọng, Vũ Triệu An, Trần Thị Ân (1975), Hằng số sinh
học người Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội.
44. UBDSGĐ&TE (2003), “Phân tích thực trạng hình thái, thể lực của nam
thanh niên Việt Nam qua số liệu khám tuyển quân, tuyển sinh từ 19872003”. Nxb Học Viện Quân Y.
45. Trịnh Hữu Vách (1987), Góp phần nghiên cứu các đặc điểm hình thái
thể lực người Việt lứa tuổi trưởng thành, Luận án PTS Sinh học, Đại học
Tổng hợp Hà Nội.


46. Giang Thị Khánh Vân (2006), “Đánh giá sự phát triển thể lực của sinh
viên Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân - Hà Nội”, Tuyển tập nghiên cứu
khoa học TDTT năm 2006, Nxb TDTT, Hà Nội, Tr.300-308.
47. Viện nghiên cứu Bảo hộ lao động (1986), Atlat nhân trắc học người Việt
Nam trong lứa tuổi lao động, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
48. Viện Khoa học TDTT (2003), Thực trạng thể chất người Việt Nam từ 6

đến 20 tuổi (thời điểm 2001), Nxb TDTT, Hà Nội.
49. Viện Khoa học TDTT (2005), Điều tra đánh giá thực trạng thể chất và
xây dựng hệ thống tiêu chuẩn thể lực chung của người Việt Nam, giai
đoạn II, từ 21 đến 60 tuổi, Nxb TDTT, Hà Nội.
50. Trần Sinh Vương (2005), “Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái, thể lực,
dinh dưỡng người Việt trưởng thành ở một số tỉnh đồng bẳng Bắc Bộ”,
Luận án Tiến Sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
51. Nguyễn Kim Xuân,“Bước đầu nghiên cứu một số chỉ tiêu về hình thái, thể
lực của sinh viên trường Đại học TDTT I”, Tuyển tập nghiên cứu khoa
học TDTT năm 2004, Nxb TDTT, Hà Nội, Tr. 103-109.
52. Nguyễn Văn Yên (2000), Sinh học người, Nxb ĐHQG Hà Nội.
TIẾNG ANH
53. Bickman. E, Henriksson G.K (1988), Skeletal muscle characteristic on
children 9-15 yearls old: force, relaxation rate contraction time, Clinical
physiology, England, pp. 521-527.
54. Mc Donald, D.A (1974), Blood flow in arteries. 2nd Edition, Vol 2.
Williams & Wilkins, Bantimore.
55. Rodkiewicz, C.M (1983), Arteries and arterial blood flow. Springer Verlag, New York.
56. Wilmorre T.H, Behnke A.R (1969), Anthropometric estimation of body
density and lean body weight in young men, J.appl physiol, pp. 25-27.



×