Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Nghiên cứu năng lực sáng tạo của sinh viên mỹ thuật Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 107 trang )


1
Đại học quốc gia hà nội
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
************

Lương Thị Thanh Hải



Nghiên cứu năng lực sáng tạo
của sinh viên Mỹ thuật trường Đại học
sư phạm nghệ thuật trung ương





Luận văn thạc sỹ khoa học






Hà Nội - 2008


2
Đại học quốc gia hà nội
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn


************

Lương Thị Thanh Hải


Nghiên cứu năng lực sáng tạo
của sinh viên Mỹ thuật trường Đại học
sư phạm nghệ thuật trung ương


Luận văn thạc sỹ khoa học
chuyên ngành tâm lý học
mã số: 5 06 02

Người hướng dẫn khoa học
PGs. Trần trọng thuỷ







Hà nội - 2008


3
Lời cảm ơn

Sau một thời gian làm việc tích cực và nghiêm túc, luận văn “Nghiên

cứu năng lực sáng tạo của sinh viên Mỹ thuật trường Đại học sư phạm
Nghệ thuật Trung ương” đã được hoàn thành . Tôi xin chân thành cảm ơn
các thầy cô giáo trong khoa Tâm lý học – Trường ĐHKHXH & NV và đặc
biệt biết ơn sâu sắc PGS Trần Trọng Thuỷ, người đã tận tình giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập cũng như trong quá trình nghiên cứu hoàn thành luận
văn tốt nghiệp.
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng do hạn chế về thời gian và trình độ
kiến thức nên đề tài không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Tác giả rất mong
nhận được những lời góp ý , chỉ bảo của các thầy cô giáo khoa Tâm lý học –
Trường ĐHKHXH & NV cũng như các nhà nghiên cứu để được rút kinh
nghiệm cho những lần nghiên cứu sau đạt kết quả tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.



Học viên: Lương Thị Thanh Hải






4
Bảng các chữ cái viết tắt

Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung
ương
: ĐHSPNTTW
Đại học Mỹ thuật Hà Nội
: ĐHMT HN

Mỹ thuật
: MT
CQ (Creative Quotient)
: Chỉ số sáng tạo theo test VKT
CQ
(Mean)
: Giá trị trung bình của chỉ số sáng tạo
theo test VKT
R – W ( Rohr-Wert)
: Giá trị điểm thô test TSD – Z
WR 
(Mean)
: Giá trị trung bình điểm test TSD - Z
TSD – Z (Test Shoepferishes Denken -
Zeichnerisch)
:Test tư duy sáng tạo hình vẽ
VKT (Verbaler Kreativer Test)
: Test sáng tạo – ngôn ngữ
GTC
: Giá trị chuẩn
 GTC
I – VI

: Tổng giá trị chuẩn từ I đến VI
Max
: Cực đại, lớn nhất
Min
: Cực tiểu, nhỏ nhất
SL
: Số lượng (người)

%
: Tỷ lệ (%)
MĐNLST
: Mức độ năng lực sáng tạo



5
Mục lục
Phần mở đầu
1.Lí do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Đối tượng nghiên cứu
2
4. Khách thể nghiên cứu
3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
6. Phạm vi nghiên cứu
3
7. Giả thuyết khoa học
3
8.Phương pháp nghiên cứu
4
Chương 1: cơ sở lý luận
1.1.Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
5
1.1.1.Việc nghiên cứu vấn đề sáng tạo trên thế giới

6
1. 1.1.1. Nước Mỹ với vấn đề sáng tạo.
6
1.1.1.2. Nghiên cứu vấn đề sáng tạo ở Liên Xô và các nước Đông
Âu
9
1.1.2.Tình hình nghiên cứu về sáng tạo ở Việt Nam
11
1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến đề tài
15
1.2.1. Khái niệm năng lực:
15
1.2.1.1. Các tác giả khác nhau bàn về năng lực
15
1.2.1.2. Khái niệm năng lực
18
1.2.1.3. Phân loại năng lực
18
1.2.2. Khái niệm sáng tạo
20
1.2.2.1. Những quan điểm khác nhau về sáng tạo
20
1.2.2.1.1.Quan niệm duy tâm và quan điểm của các nhà phân tâm
20

6
học về sáng tạo
1.2.2.1.2.Quan điểm của một số nhà tâm lý học phương Tây về
sáng tạo:
21

1.2.2.1.3.Quan điểm của các nhà tâm lý học mácxít về sáng tạo
23
1.2.2.1.4.Quan điểm của các nhà tâm lý học Việt Nam về sáng
tạo
24
1.2.2.2. Khái niệm năng lực sáng tạo và năng lực sáng tạo của sinh
viên MT
25
1.2.2.3. Cơ chế tâm lý của sáng tạo
26
1.2.2.3.1. Cơ chế lôgíc của sáng tạo
26
1.2.2.3.2. Cơ chế trực giác của sáng tạo
28
1.2.2.4. Cơ sở não bộ của sự sáng tạo
29
1.2.2.5. Những đặc điểm của sự sáng tạo
31
1.2.2.6. Các cấp độ của sáng tạo
33
1.2.2.7. Hoạt động tạo hình nghiên cứu từ góc độ tâm lý học
34
Tiểu kết chương 1
38
Chương 2: tổ chức và phương pháp nghiên cứu
2.1. Vài nét về nhà trường và khách thể nghiên cứu
39
2.2. Tổ chức nghiên cứu
43
2.3. Phương pháp nghiên cứu

44
Tiểu kết chương 2
60
Chương 3: kết quả nghiên cứu
3.1. Thực trạng mức độ năng lực sáng tạo của sinh viên MT trường
ĐHSPNTTW qua điểm chuẩn test TSD – Z của Urban
61

7
3.1.1. Tần suất và phân bố điểm chuẩn test TSD- Z của Urban của
sinh viên MT trường ĐHSPNTTW:
61
3.1.2. Phân loại mức độ năng lực sáng tạo của sinh viên MT trường
ĐHSPNTTW theo test TSD- Z của Urban
63
3.1.2.1. Phân loại mức độ mức độ năng lực sáng tạo của sinh viên
MT trường ĐHSPNTTW theo test TSD- Z của Urban và VKT của
Shoppe.
63
3.1.2.2. Mức độ năng lực sáng tạo của sinh viên MT trường
ĐHSPNTTW so với chuẩn TSD – Z của Urban
65
3.1.3. Năng lực sáng tạo của sinh viên MT trường ĐHSPNTTW xét
theo khối lớp
67
3.1.3.1. Điểm trung bình test TSD – Z của Urban của sinh viên
MT trường ĐHSPNTTW xét theo khối lớp
67
3.1.3.2. Phân loại năng lực sáng tạo của sinh viên MT trường
ĐHSPNTTW xét theo khối lớp.

68
3.1.4. Năng lực sáng tạo của sinh viên MT trường ĐHSPNTTW xét theo giới.
71
3.1.4.1. Điểm trung bình test TSD – Z của Urban của sinh viên
MT trường ĐHSPNTTW xét theo giới
71
3.1.4.2. Phân loại năng lực sáng tạo của sinh viên MT trường ĐHSPNTTW
xét theo giới
72
3.2. Tương quan giữa mức độ năng lực sáng tạo với kết quả học tập môn
Trang trí của sinh viên MT trường ĐHSPNTTW:
74
3.2.1. Tương quan giữa mức độ năng lực sáng tạo với kết quả học tập
môn Trang trí của sinh viên MT trường ĐHSPNTTW nói chung:
74
3.2.2. Tương quan giữa mức độ năng lực sáng tạo với kết quả học tập
môn Trang trí của sinh viên MT trường ĐHSPNTTW xét theo khối lớp:
78
3.2.3. Tương quan giữa mức độ năng lực sáng tạo với kết quả học tập
84

8
môn Trang trí của sinh viên MT trường ĐHSPNTTW xét theo giới
3.3. Đề xuất một số kiến nghị nhằm phát huy năng lực sáng tạo và nâng
cao kết quả học tập của sinh viên MT trường ĐHSPNTTW.
87
Tiểu kết chương 3
89
Kết luận
90

Tài liệu tham khảo

Phụ lục



















9
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân loại đang bước vào thời đại văn minh trí tuệ, trình độ văn minh
mà nhân loại đạt được là nhờ sức sáng tạo của con người trong mọi lĩnh vực
xã hội. Tri thức và kỹ năng của con người là yếu tố quyết định, thúc đẩy cộng
đồng sáng tạo ra các giá trị vật chất, giá trị tinh thần phong phú và đa dạng.
Nhiều nước trên thế giới đã có chiến lược đầu tư cho phát triển con người

theo hướng nâng cao tính sáng tạo của thế hệ trẻ. Đối với đất nước chậm và
đang phát triển như đất nước ta, để có thể hòa nhập với nền văn minh thế giới
đòi hỏi phải có những con người phát triển toàn diện, những con người được
trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng, năng động, sáng tạo và có khả năng đáp
ứng những đòi hỏi của thế giới hiện đại đang từng ngày biến đổi. Do vậy, một
trong những nhiệm vụ cơ bản mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra cho ngành giáo
dục là phải phát huy tối đa tính sáng tạo ở người học. Đối với sinh viên, đặc
biệt là sinh viên thuộc khối các trường nghệ thuật, năng lực sáng tạo của các
em là một vấn đề rất quan trọng bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc lĩnh hội
các tri thức khoa học nói chung và tri thức chuyên môn nói riêng. Hơn thế
nữa, nó còn có ý nghĩa đặc biệt đối với cuộc sống lao động sau này của mỗi
cá nhân.
Mục tiêu đào tạo của trường ĐHSPNT TW là đào tạo đội ngũ giáo
viên giảng dạy âm nhạc và mỹ thuật có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững
vàng, đủ sức định hướng thị hiếu thẩm mỹ cho thế hệ trẻ. Như vậy, để trở
thành giáo viên giảng dạy mỹ thuật trong các trường phổ thông, sinh viên phải
có năng khiếu về hội họa, và một trong những điều kiện tâm lý cơ bản là phải
có năng lực sáng tạo, nói cách khác là phải giàu óc sáng tạo.
Từ nhiều năm qua, trường ĐHSPNT TW đã tuyển chọn sinh viên cho
Khoa Mỹ thuật bằng cách kiểm tra trình độ văn hóa và thi năng khiếu hình

10
họa, năng khiếu trang trí. Để đánh giá năng khiếu hình họa thí sinh phải làm
bài thi vẽ theo mẫu, thông qua đó xem xét năng lực diễn tả sự vật khách quan
trong không gian ba chiều bằng hình ảnh có thẩm mỹ trên mặt phẳng. Để
đánh giá năng khiếu trang trí thí sinh phải làm bài vẽ màu để xem xét năng
lực nhận biết về màu sắc, hình khối và bố cục. Do yêu cầu trên, thí sinh phải
nắm bắt, chắt lọc những hình thể, màu sắc trong thực tiễn và những hình thể
đó phải mang tính độc đáo, khác lạ, có giá trị thẩm mỹ cao.
Vậy có thể thấy rằng, năng lực sáng tạo của thí sinh khi vào trường vẫn

là yếu tố quan trọng hàng đầu, đồng thời đó cũng là một trong những yếu tố
quyết định chất lượng đào tạo của nhà trường. Năng lực sáng tạo nếu được đo
đạc chính xác, khách quan sẽ là căn cứ cho việc xây dựng nội dung, chương
trình và phương pháp đào tạo của nhà trường.
Qua thực tiễn giảng dạy tại Khoa Mỹ thuật trường ĐHSPNTTW trong
nhiều năm qua chúng tôi nhận thấy: năng lực sáng tạo của sinh viên còn hạn
chế và có sự chênh lệch về kết quả học tập giữa sinh viên các khóa. Vậy năng
lực sáng tạo của sinh viên MT trường ĐHSPNTTW là như thế nào? Năng lực
này có quan hệ với kết quả học tập không? Làm thế nào để phát huy được
năng lực sáng tạo và nâng cao chất lượng học tập của sinh viên? Xuất phát từ
lý do trên chúng tôi chọn đề tài “Nghiên cứu năng lực sáng tạo của sinh viên
Mỹ thuật trường Đại học sư phạm Nghệ thuật trung ương” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu :
Làm rõ thực trạng năng lực sáng tạo của sinh viên MT trường
ĐHSPNTTW và sự tương quan giữa năng lực sáng tạo với kết quả học tập
môn Trang trí của họ. Trên cơ sở đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm phát huy
năng lực sáng tạo và nâng cao kết quả học tập của các em.
3. Đối tượng nghiên cứu:

11
Năng lực sáng tạo của sinh viên MT trường ĐHSPNTTW
4. Khách thể nghiên cứu:
278 sinh viên MT trường ĐHSPNTTW:
+ 88 sinh viên năm thứ nhất.
+ 107 sinh viên năm thứ hai.
+ 83 sinh viên năm thứ ba.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về năng lực sáng tạo và những vấn đề
về đo lường năng lực sáng tạo.
- Đo đạc và phân tích kết quả đo đạc năng lực sáng tạo trên khách thể

nghiên cứu
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm phát huy năng lực sáng tạo và nâng
cao kết quả học tập của sinh viên.
6. Phạm vi nghiên cứu:
Năng lực sáng tạo được biểu hiện ở nhiều lĩnh vực, nhưng do điều kiện
và thời gian có hạn, đề tài chỉ nghiên cứu thực trạng năng lực sáng tạo của
sinh viên hệ cao đẳng và tìm tương quan giữa năng lực sáng tạo với kết quả
học tập môn Trang trí của sinh viên MT trường ĐHSPNTTW.
7. Giả thuyết nghiên cứu:
7.1. Năng lực sáng tạo của sinh viên MT trường ĐHSPNTTW đều ở
mức trung bình theo Test TSD-Z của Klaus K.Urban và Test VKT của
J.K.Shoppe. Năng lực sáng tạo của sinh viên MT trường ĐHSPNTTW phụ
thuộc vào giới tính và quá trình học tập của các em trong nhà trường.
7.2. Có sự tương quan thuận giữa năng lực sáng tạo với kết quả học tập
môn Trang trí của sinh viên MT trường ĐHSPNTTW.

12
8. Phương pháp nghiên cứu:
8.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Phương pháp này nhằm tổng hợp, hệ thống hóa các vấn đề lý luận về
năng lực sáng tạo và đo lường năng lực sáng tạo, làm cơ sở cho việc tiến hành
trắc nghiệm.
8.2. Phương pháp trắc nghiệm:
Luận văn sử dụng Test TSD-Z của Klaus K.Urban và Test VKT của
J.K.Schoppe
8.3. Phương pháp đánh giá kết quả học tập:
Thống kê kết quả thi học phần môn Trang trí của sinh viên thuộc nhóm
khách thể nghiên cứu. Đối chiếu so sánh năng lực sáng tạo đo bằng các trắc
nghiệm với kết quả thi môn Trang trí của sinh viên MT trường ĐHSPNTTW.
8.4. Phương pháp quan sát:

Quan sát sinh viên làm trắc nghiệm, theo dõi thời gian làm bài trắc
nghiệm của các em.
8.5. Phương pháp thống kê toán học:
Nhằm xử lý kết quả nghiên cứu và tính hệ số tương quan giữa năng lực
sáng tạo với kết quả học tập của sinh viên.







13
Chương 1: Cơ sở lý luận
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề :
Nhu cầu phát triển không ngừng của xã hội loài người trong mọi lĩnh
vực khiến cho vấn đề sáng tạo ngày nay đã trở thành mối quan tâm chung của
nhân loại.
Sáng tạo từ trước đến nay luôn bị bao phủ bởi tấm màn huyền bí xa vời
với người bình thường, dường như nó được gắn với những “thiên tài”, những
tài năng trong các lĩnh vực khoa học, nghệ thuật. Nói đến sáng tạo là người ta
nghĩ ngay đến các sản phẩm, các tác phẩm kiệt xuất của các danh nhân, các
học giả, các nhạc sĩ, họa sĩ, thi sĩ như: Issac Newton, Albert Einstein, Leona
de Vinci, Betthoven Nguồn tư liệu duy nhất để nghiên cứu vấn đề sáng tạo
là các hồi ký, tiểu sử, các tác phẩm văn học mang tính tự thuật của các danh
nhân, do đó đã làm cho phạm vi nghiên cứu của vấn đề bị thu hẹp, số liệu
nghiên cứu cũng bị hạn chế. Chính vì vậy mà vấn đề bản chất và quy luật hoạt
động của sáng tạo mới chỉ được họ mô tả, giải thích sơ bộ mà chưa tập trung
đi sâu nghiên cứu. Trong khi đó chúng ta đều biết rằng, khả năng sáng tạo hay
hoạt động sáng tạo không chỉ có ở những “thiên tài”, mà trong mỗi cá nhân

đều có những khả năng sáng tạo nhất định.
Vào giữa thế kỷ XIX các nhà xã hội học đã có những đóng góp đáng kể
đầu tiên trong việc giải quyết vấn đề sáng tạo. Họ cho rằng, bản chất của tính
tích cực sáng tạo là ở hoạt động tưởng tượng, nhờ hoạt động tưởng tượng mà
kích thích khả năng sáng tạo. Quan điểm này về sau đã được các nhà tâm lý
học Mácxit ủng hộ và phát triển.
Thế kỷ XIX là một thời điểm có tính chất bước ngoặt trong lịch sự phát
triển nhân loại, cùng với những tiến bộ vượt bậc trong các lĩnh vực khoa học
nhiều ngành khoa học ra đời, nhiều thành tựu khoa học được công bố, lĩnh

14
vực sáng tạo cũng bắt đầu được quan tâm nghiên cứu như là một hiện tượng
phổ biến trong xã hội. Dưới đây là một vài nét sơ lược tình hình nghiên cứu
vấn đề sáng tạo ở một số nước trên thế giới.

1.1.1.Việc nghiên cứu vấn đề sáng tạo trên thế giới
1.1.1.1. Nước Mỹ với vấn đề sáng tạo
Có thể nói, cũng như nhiều lĩnh vực khoa học khác, việc nghiên cứu
sáng tạo có cường độ mạnh nhất ở Mỹ. Sở dĩ như vậy là vì Mỹ vốn là nước có
nền khoa học - kỹ thuật phát triển mạnh nhất thế giới, các nhà nghiên cứu ở
đây có những điều kiện thuận lợi về mặt cơ sở vật chất và xã hội để tiến hành
các công trình nghiên cứu. Mặt khác, các nhà tâm lý học Mỹ đã tuyên bố
rằng, đối với nước Mỹ, việc vạch ra và bồi dưỡng những nhân cách sáng tạo
là một vấn đề có ý nghĩa quốc gia chung, bởi vì “hoạt động sáng tạo có ảnh
hưởng to lớn không chỉ đến sự tiến bộ khoa học mà còn đến toàn xã hội nói
chung, và dân tộc nào biết nhận ra được những nhân cách sáng tạo một cách
tốt nhất và biết tạo ra được một cách tốt nhất cho họ những điều kiện thuận
lợi nhất thì dân tộc đó sẽ có được những ưu thế lớn lao” (Taylor C.W 1964)
(dẫn theo [50, 16])
Vào đầu những năm 1920, Lewis Terman tiến hành một công trình

nghiên cứu về sáng tạo trên những học sinh giỏi có chỉ số IQ từ 140 trở lên.
Công trình này đã được đánh giá rất cao, sau đó ông còn nghiên cứu nhiều
công trình khác cũng về lĩnh vực sáng tạo và đã rút ra nhiều điều về các vấn
đề chung của sáng tạo như: nhân cách sáng tạo, sản phẩm sáng tạo
Năm 1934, A.Osborn đã cho xuất bản cuốn sách đầu tiên về sáng tạo.
Ông vốn không phải là nhà tâm lý học mà là một nhà kinh doanh, nhưng ông
lại rất quan tâm tới lĩnh vực sáng tạo, đặc biệt là tư duy sáng tạo. Tiếp sau đó

15
ông đã cho ra đời bốn cuốn sách về lĩnh vực này và đã được tái bản nhiều lần.
Một trong những cuốn sách đó là cuốn sách giáo khoa “ứng dụng của ý tưởng
khoáng đạt” đã được sử dụng tại 300 trường đại học và cao đẳng.
A.Osborn đã dành nhiều tâm huyết để hỗ trợ xu hướng sáng tạo trong
giáo dục, theo ông, thành công của ông trong lĩnh vực kinh doanh là nhờ việc
ông phát minh ra phương pháp tạo cho mình nghĩ ra nhiều ý tưởng. Phương
pháp đó có tên là phương pháp Tập kích não - Brainstorming (phương pháp
này dựa trên cơ sở của hoạt động sáng tạo). Phương pháp này cho kết quả tốt
nhất khi xem xét các vấn đề tổ chức như: tìm ứng dụng mới cho sản phẩm,
tìm dạng quảng cáo mới và khi giải quyết các vấn đề sáng chế không phức
tạp lắm. ở Mỹ, sự hâm mộ phương pháp Tập kích não sau 10 năm đã được
thay thế bằng Xinetic là dạng phát triển của nó.
Việc nghiên cứu về Xinetic bắt đầu từ năm 1944 do William Gardon -
nhà nghiên cứu sáng tạo người Mỹ - khởi xướng. Khi nghiên cứu một nhóm
sáng chế ông đã nhận thấy rằng năng suất của họ rất cao, phân tích băng ghi
âm thảo luận của nhóm này ông rút ra kết luận là thành công của nhóm phụ
thuộc vào phong cách làm việc. Trên cơ sở nghiên cứu về tư duy sáng tạo, về
tâm lý học và thực tiễn sáng chế, ông đã đưa ra những luận điểm chung về
việc kích thích tư duy sáng tạo. Từ năm 1953-1959 ông đã đề xuất phương
pháp sáng tạo với cái tên Xinetic (tiếng Hy Lạp nghĩa là kết hợp các yếu tố
khác chủng loại). Các nhóm Xinetic là các nhóm bao gồm những người thuộc

những ngành nghề khác nhau, gặp nhau với mục đích giải quyết những vấn đề
sáng tạo bằng con đường luyện trí tưởng tượng và kết hợp với những yếu tố
không thể dung hòa.
Xinetic được xem là phương pháp mạnh nhất trong lĩnh vực sáng chế.
Tuy nhiên, khả năng của nó bị hạn chế do nó tách rời khỏi sự nghiên cứu các
quy luật phát triển khách quan. Quá trình giải quyết vấn đề có thể điều khiển

16
được nhưng kết quả phải phụ thuộc nhiều vào sự thông thái, kinh nghiệm và
tài năng của người chỉ đạo, vì vậy, sai lầm của người chỉ đạo có thể đưa nhóm
vào tình thế vô định.
Từ những năm 50 của thế kỷ này, các nhà tâm lý học Mỹ bắt đầu
nghiên cứu vấn đề sáng tạo một cách có hệ thống. Người có công lớn là
J.P.Guilford - nguyên là giáo sư Trường Đại học tổng hợp ở miền Nam
California, ông được đề cử là Chủ tịch Hội Tâm lý học Mỹ năm 1950. Trong
bài phát biểu tại buổi lễ nhậm chức ông đã giành nhiều thời gian để nói về vấn
đề sáng tạo. Sau khi chỉ ra sự thờ ơ của các nhà tâm lý học trong việc nghiên
cứu vấn đề sáng tạo lúc bấy giờ ông nhấn mạnh ý nghĩa của hoạt động sáng
tạo và khuyến khích các nhà tâm lý học nghiên cứu trên cơ sở vấn đề ông đặt
ra là: Có thể nhận biết khả năng sáng tạo của con người không? Nếu có thì
bằng con đường nào? Có thể phát triển tiềm năng sáng tạo của con người
không?
Năm 1967, Guilford đã đưa ra mô hình lý thuyết về cấu trúc trí tuệ 120
thành tố, trong đó trí tuệ con người được phân định thành hai phần cơ bản là:
trí thông minh (intellegence) hiểu theo nghĩa truyền thống và tính sáng tạo
(creativity). Quan điểm này đã mở đường cho các nghiên cứu phát huy tính
sáng tạo của con người trong tâm lý học, giáo dục học của Mỹ. Tâm lý học,
giáo dục học đã không dừng ở việc nghiên cứu, chẩn đoán và bồi dưỡng trí
tuệ nói chung, mà đã chẩn đoán và phát triển các thành tố tạo nên trí tuệ là trí
thông minh và tính sáng tạo. Từ đây, tính sáng tạo đã được các nhà tâm lý học

Mỹ thừa nhận là có vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của xã hội
loài người. “Sự sáng tạo đặc biệt quan trọng trong điều kiện đời sống xã hội
có những thay đổi mạnh mẽ, vì nó cho phép khắc phục được những khó khăn
đủ mọi loại, đề ra được những mục tiêu bất ngờ, đảm bảo được sự tự do lựa

17
chọn cao, và do đó sự tự do hành động cao” (Henle M, 1963). (dẫn theo [50,
16])

Từ đó việc nghiên cứu vấn đề sáng tạo phát triển rất nhanh, có nhiều
nhà tâm lý học tiến hành nghiên cứu vấn đề này: Holland năm 1959, May
1961, Mac Kinnon năm 1962, Yamamoto năm 1963, Torance năm 1965
Cùng thời gian đó cũng đã xuất hiện nhiều nhóm nghiên cứu với số lượng
thành viên ngày càng tăng nhanh, chỉ tính riêng trong lĩnh vực tâm lý - giáo
dục đã có tới 14 nhóm nghiên cứu: nhóm Ripple và May năm 1962; nhóm của
Klausmeier và Wiersma năm 1965; nhóm của Getzel và Jackson năm 1962;
nhóm của Klausmeier, Harris và Ethnathos năm 1962 Nội dung của các
công trình nghiên cứu đề cập đến các vấn đề cơ bản của hoạt động sáng tạo
như: những tiêu chuẩn cơ bản của hoạt động sáng tạo; sự khác biệt giữa sáng
tạo và không sáng tạo; bản chất, quy luật của hoạt động sáng tạo, thuộc tính
của nhân cách sáng tạo; vấn đề phát triển năng lực sáng tạo; vấn đề kích thích
hoạt động sáng tạo.

1.1.1.2. Nghiên cứu vấn đề sáng tạo ở Liên Xô và các nước Đông Âu
Năm 1946 ở Liên Xô , G.Altsuler đã xây dựng một phương pháp giải
các bài toán sáng chế theo nguyên tắc mới thay thế phương pháp thử và sai.
Phương pháp này có tên là Lý thuyết giải các bài toán sáng chế. ý tưởng căn
bản của nó là: Các hệ kỹ thuật hình thành và phát triển không ngẫu nhiên mà
theo những định luật nhất định. Ta có thể nhận biết những định luật này và sử
dụng chúng một cách có ý thức - tránh được số lượng lớn các phép thử vô ích

để giải các bài toán sáng chế.

18
Lý thuyết giải các bài toán sáng chế được các nhà triết học nhìn nhận
như một bộ môn khoa học xuất hiện theo quy luật và gắn liền khoa học kỹ
thuật. Bộ môn khoa học này được giảng dạy trong các trường đại học tổng
hợp sáng tạo khoa học - kỹ thuật quần chúng, các trường đại học nhân dân,
các trường học sáng chế và đã đem lại hiệu quả rất cao. Hầu như tất cả các
cuốn sách và bài báo về lý thuyết giải các bài toán sáng chế đều được dịch ra
tiếng Anh, tiếng Pháp, Nhật, Phần Lan, Bungari, Ba Lan, Đức
Các nhà tâm lý học Liên Xô cũng đã đạt được nhiều thành tựu trong
nghiên cứu hoạt động sáng tạo:
X.L.Rubinstein và L.X.Vugotxki đã nhấn mạnh ảnh hưởng qua lại giữa
tư duy, tưởng tượng trong hoạt động sáng tạo, đánh giá sự có mặt tất yếu của
tưởng tượng trong hoạt động tư duy sáng tạo.
A.N.Luk nghiên cứu những vấn đề về lý luận chung của hoạt động sáng
tạo.
V.V.Puskin nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của tư duy
sáng tạo, mối quan hệ giữa tư duy sáng tạo với vô thức.
B.M.Kedrop, M.G.Iarosepxki nghiên cứu những vấn đề tâm lý học của
hoạt động tư duy khoa học, những đặc điểm chung và đặc thù của hoạt động
phát minh của các nhà khoa học.
G.S.Kostul, N.A.Mensinxkaia phân tích tầm quan trọng của hoạt động
sáng tạo và mối quan hệ giữa sáng tạo với quá trình tiếp thu tri thức.
O.K.Chikhomirov, Ia.A.Poromariov so sánh cách giải quyết nhiệm vụ
của người và robot.
P.A.Rudich - Giáo sư, Tiến sĩ Tâm lý học người Nga - nghiên cứu các
đặc điểm cơ bản của quá trình tưởng tượng sáng tạo, đưa ra quan niệm rằng

19

không phải bất kỳ loại tưởng tượng nào cũng có thể tham gia vào quá trình
sáng tạo được mà chỉ có loại tưởng tượng sáng tạo với các nét tiêu biểu như:
- Nền tảng kiến thức chung lớn, kinh nghiệm thực tiễn nhiều.
- Nảy sinh ý niệm dưới hình thức khái quát chung nhất mang tính chất
nguyên tắc; thử giải quyết nhiệm vụ trong thực nghiệm cụ thể hoặc trong thử
nghiệm có tính chất cấu trúc.
- Biến ý niệm chung ban đầu thành giải pháp cụ thể.
- Thể hiện lý thuyết trong các thí nghiệm, chứng minh lý thuyết đó, thể
hiện ý niệm sáng chế thành sản phẩm cụ thể.
N.G.Alecxayev, I.Ia.Derner, E.M.Miarski và một số nhà tâm lý học
khác còn nghiên cứu về tư duy sáng tạo trong nhà trường. Nhà toán học kiêm
nhà tâm lý học G.Polya có công trình nghiên cứu về bản chất của quá trình
giải toán - quá trình sáng tạo toán học, đưa ra các phương pháp dạy học nhằm
phát triển các khả năng tương ứng của người học và kết luận: dạy học sáng
tạo là dạy học sinh các phương pháp mới để giải bài tập.
M.A.K. Naudop - Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Bungary - đã có công
trình nghiên cứu về bản chất của sáng tạo văn học. Trong tác phẩm “Tâm lý
học sáng tạo văn học” ông đã đề cập đến các vấn đề quá trình sáng tạo, các
yếu tố ý thức của sáng tạo văn học và vấn đề cảm hứng sáng tác dưới góc độ
triết học duy vật biện chứng.
Nhìn chung, các nhà tâm lý học Liên Xô và một số nước Đông Âu đã
có nhiều đóng góp to lớn trong việc nghiên cứu vấn đề sáng tạo, quá trình
sáng tạo, nhân cách sáng tạo và việc phát triển năng lực sáng tạo.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu vấn đề sáng tạo ở Việt Nam
Ngày nay, ở Việt Nam cũng như nhiều nước vùng Châu á - Thái Bình
Dương, những hiểu biết về sáng tạo của con người do tâm lý học và các khoa

20
học liên quan mang lại đang được phản ánh vào việc xây dựng chiến lược con
người, vào nội dung chương trình, vào phương pháp giáo dục và đào tạo

người sáng tạo, một kiểu người cần thiết cho xã hội công nghiệp hóa, kiểu
người có khả năng thích ứng cao với xã hội kinh tế thị trường.
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến hoạt động sáng tạo và việc phát
triển các tài năng sáng tạo. Chúng ta có Tổ chức hỗ trợ sáng tạo khoa học và
công nghệ Việt Nam thuộc Viện Khoa học Việt Nam và Trung tâm sáng tạo
khoa học kỹ thuật thuộc Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Hàng
năm, Bộ Khoa học - công nghệ và môi trường thường xuyên tổ chức hội thi
sáng chế kỹ thuật VIFOTEC; các hội, quỹ hỗ trợ tài năng trẻ được tổ chức
dưới nhiều hình thức khác nhau, nhằm khuyến khích, động viên các tài năng
trẻ.
Năm 1990, Viện Khoa học giáo dục thuộc Bộ Giáo dục - đào tạo là cơ
quan khoa học đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu về trí sáng tạo của học sinh.
Các nghiên cứu này nhằm nhận thức về bản chất, cấu trúc tâm lý của sáng tạo,
phương pháp chẩn đoán, đánh giá loại thuộc tính nhân cách này, tìm ra con
đường giáo dục phát huy tính sáng tạo ở học sinh và người trưởng thành ở
Việt Nam. Với mục đích nghiên cứu ấy, một vài bộ trắc nghiệm sáng tạo của
nước ngoài (VKT của Schoppe, TSD - Z của Kratzmeier và TSD - Z của
Klaus K.Urban ) đã và đang được nghiên cứu áp dụng để đo tính sáng tạo
của học sinh và sinh viên Việt Nam (trong khuôn khổ đề tài C9, C5, B98-49-
56 của Nguyễn Huy Tú - Viện Khoa học giáo dục). Các trắc nghiệm sáng tạo
này bước đầu được sử dụng để tuyển sinh viên vào lớp Cử nhân tài năng của
Trường Đại học Khoa học tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội khóa 1997-
1998, 1998-1999, 1999-2000 và 2000-2001 và lớp Diễn viên khóa 8 của Đại
học Sân khấu điện ảnh Hà Nội.

21
Việc nghiên cứu phát triển năng lực sáng tạo ở nước ta mới chỉ là manh
nha và với quy mô nhỏ, điều này chưa tương xứng với yêu cầu của xã hội.
Thực trạng này tất yếu gây nên những hạn chế nhất định đến chất lượng giáo
dục đào tạo, chất lượng nguồn lực con người. Do đó, ở một chừng mực nhất

định cũng chưa phát huy được cao độ những tinh hoa sáng tạo của thế hệ trẻ
và người Việt Nam nói chung.
Cho đến nay chúng ta mới chỉ có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
tâm lý học, xã hội học nghiên cứu về vấn đề sáng tạo, nhưng cũng đã có
những đóng góp rất to lớn về mặt lý luận và thực tiễn cho việc nghiên cứu vấn
đề này.
Năm 1998, tác giả Lê Thị Bằng đã nghiên cứu đề tài “Bước đầu đánh
giá về tưởng tượng sáng tạo của sinh viên Trường Đại học Mỹ thuật công
nghiệp Hà Nội”. Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu thực trạng tưởng
tượng sáng tạo của sinh viên Trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp Hà Nội
bằng trắc nghiệm tâm lý. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất sử dụng test như một
phương pháp bổ trợ trong việc tuyển chọn sinh viên của trường và ở chừng
mực nào đó đóng góp vào việc nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
Năm 2000, tác giả Phạm Thu Hương đã tìm hiểu vấn đề “Tiềm năng
sáng tạo và biểu hiện của nó trong vận động theo nhạc ở trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi”. Thông qua đề tài tác giả muốn tìm hiểu thực trạng tiềm năng sáng tạo
và những biểu hiện sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi trong vận động theo nhạc ở
trường mầm non. Tác giả đã rút ra kết luận: trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở thành phố
Hồ Chí Minh của Việt Nam có tiềm năng sáng tạo ở mức trung bình theo
chuẩn của TSD đối với trẻ Âu - Mỹ; trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở thành phố Hồ Chí
Minh có biểu hiện sáng tạo trong vận động theo nhạc còn thấp hơn so với
tiềm năng sáng tạo của các em. Nguyên nhân là do hiện nay việc giáo dục âm
nhạc trong trường mầm non ở nước ta chưa đưa hình thức vận động tự do

22
theo nhạc vào chương trình giảng dạy. Từ đó tác giả kiến nghị nên xây dựng
lại yêu cầu của chương trình giáo dục âm nhạc cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi,
trong đó cần nêu rõ yêu cầu phát triển tính sáng tạo trong vận động theo nhạc
để giúp các cô giáo mẫu giáo nhận thức rõ ràng hơn và có năng lực thực hiện
yêu cầu này một cách đầy đủ và hoàn hảo.

Năm 2000, tác giả Đỗ Thị Thanh Mai đã bảo vệ thành công đề tài
“Nghiên cứu khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo lớn 5-6 tuổi thông qua hoạt
động vẽ”. Theo tác giả, thông qua hoạt động vẽ các em bộc lộ, đồng thời phát
triển các thuộc tính sáng tạo nói riêng, các đặc điểm cá nhân nói chung, tuy
nhiên, khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo được bộc lộ chưa cao và có sự khác
biệt về khả năng sáng tạo giữa các cá nhân trong cùng độ tuổi, giữa trẻ mẫu
giáo nội và ngoại thành Hà Nội. Khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo được
nghiên cứu ở địa bàn nội thành Hà Nội cao hơn so với các bạn cùng độ tuổi ở
ngoại thành. Điều này là do sự khác nhau về điều kiện sinh hoạt, môi trường
văn hóa, điều kiện dạy học giữa hai môi trường sống tạo nên.
Năm 2003, tác giả Dương Thị Loan đã nghiên cứu đề tài “Tính sáng
tạo trong hoạt động của luật sư”. Qua sự phân tích tâm lý học sáng tạo về các
case hoạt động cụ thể của luật sư cũng như kết quả đo đạc bằng trắc nghiệm
tâm lý khách quan trên một nhóm khách thể là các luật sư, tác giả đã đi đến
kết luận: trí thông minh ở mức độ nhất định là cần thiết đối với sự thành công,
nhưng trí sáng tạo mới là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của luật
sư trong hoạt động tố tụng tại các phiên tòa, giúp họ bảo vệ được quyền lợi
hợp pháp của các thân chủ.
Năm 2005, đề tài “Tính sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 tuổi qua test KVS-
P của Guenter Krampen” đã được tác giả Nguyễn Thị Hà bảo vệ thành công
tại Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Qua nghiên cứu tác giả cho thấy rằng,
trẻ mẫu giáo 5 tuổi ở thành phố Thái Nguyên có tính sáng tạo ở mức trung

23
bình (nghiêng về dưới trung bình). Số liệu này phù hợp với nghiên cứu của
Nguyễn Huy Tú vào năm 2000 trên trẻ em tiểu học Việt Nam. Tác giả cũng
cho rằng, có mối quan hệ giữa kiểu giáo dục của cha mẹ và tính sáng tạo của
con cái họ. Những trẻ mẫu giáo là con của các bậc phụ huynh áp dụng kiểu
giáo dục dân chủ có tính sáng tạo cao hơn những trẻ mẫu giáo là con của các
bậc phụ huynh áp dụng kiểu giáo dục áp đặt, quyền uy.

Từ thực tế nghiên cứu về sáng tạo nêu trên cho chúng ta thấy việc
nghiên cứu về sáng tạo mặc dù rất khó nhưng lại thu hút được sự quan tâm
của rất nhiều nhà khoa học trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Các công trình
khoa học đi trước đã có ý nghĩa rất lớn về mặt lý luận và phương pháp luận
và chúng tôi nhận thấy việc tiếp tục nghiên cứu về sáng tạo là cần thiết. Đặc
biệt năng lực sáng tạo của sinh viên Mỹ thuật là vấn đề mới mẻ nên chúng tôi
mạnh dạn lựa chọn vấn đề này nhằm đóng góp một phần nhỏ bé vào việc
nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ giáo viên Mỹ thuật hiện nay.

1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến đề tài:
1.2.1. Khái niệm năng lực:
1.2.1.1. Các tác giả khác nhau bàn về năng lực
Lý luận về năng lực đã chỉ rõ: mỗi hoạt động muốn đạt kết quả tốt thì
đòi hỏi phải có một số năng lực tương ứng. Chẳng hạn, người giáo viên muốn
hoàn thành tốt công tác dạy học và giáo dục của mình thì cần phải có những
năng lực cần thiết, cơ bản như: năng lực tổ chức, năng lực điều khiển, điều
chỉnh, năng lực dạy học, năng lực giáo dục, năng lực hiểu học sinh Đặc biệt,
đối với người giáo viên mỹ thuật, ngoài những năng lực cơ bản của người
giáo viên nói chung còn cần phải có năng lực tưởng tượng, năng lực sáng tạo.

24
Nói đến năng lực tức là nói đến khả năng hoàn thành nhiệm vụ trong
một điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Năng lực ở mỗi người được hình thành
và phát triển trong cuộc sống, trong thực tiễn học tập, công tác và chiến đấu,
trong hoạt động tích cực của mỗi cá nhân. Nói cách khác, năng lực của con
người chỉ phát triển khi con người tham gia vào quá trình hoạt động. Con
người càng tham gia nhiều hoạt động và tích cực trong hoạt động thì càng có
điều kiện phát huy năng lực và năng lực càng trở nên phong phú, chính vì vậy
mà có nhiều người sở hữu nhiều năng lực khác nhau. Chúng ta đã từng biết
đến Leona de Vinci - nhà sáng chế, họa sĩ tài năng, đến Lomonoxop - nhà bác

học đã có những cống hiến trong các lĩnh vực vật lý, hóa học và chúng ta
cũng rất tự hào với Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người vừa là một lãnh tụ thiên
tài, vừa là nhà văn, nhà thơ, nhà báo xuất chúng.
Năng lực của con người phản ánh được sở trường, tay nghề của cá nhân
khi tham gia hoạt động nào đó. Thói quen làm việc, kỹ năng, kỹ xảo cũng
được phản ánh trong một năng lực nhất định. Cho đến nay có rất nhiều công
trình nghiên cứu của nhiều tác giả và đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về
năng lực.
Các nhà tâm lý học mácxít như Ph.N.Gonobolin, P.A.Rudich,
A.G.Covaliop và một số nhà tâm lý học khác đã xây dựng lý luận về năng lực.
Các tác giả đã thống nhất quan điểm đưa năng lực vào trong cấu trúc của nhân
cách. Sự phát triển năng lực thống nhất với sự phát triển nhân cách và một
năng lực nghề nghiệp nào đó chỉ hình thành trong hoạt động nghề nghiệp
tương ứng. Năng lực gắn liền với tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của con người.
Con người càng hiểu biết nhiều về một lĩnh vực nào đó thì năng lực hoạt động
về mặt này càng phát triển nhanh.

25
Theo P.A.Rudich, năng lực - đó là thuộc tính tâm sinh lý của con người
chi phối quá trình tiếp thu các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, cũng như hiệu quả
thực hiện một loại hoạt động nhất định 26, 203
A.G.Covaliop đã đưa ra khái niệm năng lực: năng lực là một tập hợp
hoặc tổng hợp những thuộc tính của cá nhân con người đáp ứng những yêu
cầu của một hoạt động và đảm bảo cho hoạt động đạt được những kết quả cao
20, 90
Theo A.G.Covaliop thì năng lực thuộc vào khía cạnh sai biệt giữa các
cá nhân. Do đó, khi nói đến năng lực tức là muốn nói đến thành tích cao trong
hoạt động của cá nhân này so với cá nhân khác.
Mọi hoạt động đều phức tạp và đều diễn ra những yêu cầu nhiều mặt
đối với con người. Nếu hệ thống các thuộc tính của cá nhân đáp ứng được

những yêu cầu đó thì con người có năng lực tiến hành hoạt động có kết quả ở
mức độ cao, trong trường hợp ngược lại là người không có năng lực.
Ph.N.Gonobolin lại cho rằng: năng lực là những thuộc tính riêng lẻ của
cá nhân, nhờ những thuộc tính này mà con người hoàn thành tốt đẹp một hoạt
động nào đó và mặc dù phải bỏ ra ít sức lao động nhưng vẫn đạt kết quả cao.
Theo ông, người có năng lực hoạt động trong một lĩnh vực nào đó không phải
nỗ lực nhiều trong quá trình công tác mà vẫn khắc phục được những khó khăn
một cách nhanh chóng và dễ dàng hơn những người không có năng lực đối
với hoạt động đó 21, 76
X.Laytex cho rằng: năng lực là những thuộc tính tâm lý nào của cá
nhân mà là điều kiện để hoàn thành tốt đẹp những loại hoạt động nhất định.
Phạm Minh Hạc trong bài viết của mình đã định nghĩa năng lực như
sau: “Năng lực là những đặc điểm tâm lý cá biệt tạo thành điều kiện quy định

×