Tải bản đầy đủ (.pdf) (325 trang)

ĐHQG giáo trình ô nhiễm không khí (NXB đại học quốc gia 2007)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.35 MB, 325 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
VIỆN MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN (IER)
PGS.TS. ĐINH XUÂN THẮNG

GIÁO TRÌNH
Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ
(Tái bản lần thứ nhất, 2007)

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA
TP HỒ CHÍ MINH 2007


LỜI NÓI ĐẦU
Môi trường sống – cái nôi của nhân loại đang ngày càng ô nhiễm trầm trọng
do con người. Cùng với sự phát triển của xã hội, môi trường đang từng bước bò hủy
diệt là mối quan tâm không chỉ riêng của một quốc gia nào. Bảo vệ môi trường là
nghóa vụ của cộng đồng toàn cầu và của Việt Nam nói riêng. Chỉ thò số 36/CT-TW
ngày 25/06/1998 của Bộ Chính trò Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện đường lối
chỉ đạo đúng đắn đối với công tác bảo vệ và gìn giữ môi trường sống của nước ta.
Hiện trạng môi trường không khí ở nước ta, đặc biệt là trong các khu công nghiệp và
đô thò lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai … đang là mối
lo ngại cho các cơ quan quản lý nhà nước về mặt môi trường cũng như toàn thể dân
cư trong khu vực. Phần lớn các nhà máy xí nghiệp chưa có hệ thống xử lý ô nhiễm
không khí hoặc có nhưng hoạt động không có hiệu quả và mang tính chất đối phó.
Bên cạnh đó, với đặc điểm của một nền công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp mang
tính chất sản xuất nhỏ, công nghiệp lạc hậu, thiếu thốn nguyên vật liệu…, nên ngày
càng thải vào môi trường sống một khối lượng bụi, hơi khí độc và mùi hôi khổng lồ,
gây ảnh hưởng không những cho công nhân trực tiếp sản xuất mà ngay cả dân cư
khu vực lân cận cũng chòu ảnh hưởng đáng kể.
Việc xây dựng đất nước trên cơ sở công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với
mức độ gia tăng đáng kể các khu vực đô thò, khu dân cư không có quy hoạch đồng


bộ, tổng thể và thiếu hợp lý lại càng gây phức tạp thêm cho công tác quản lý và
khống chế ô nhiễm từ các nguồn thải. Các phương tiện giao thông công cộng ít hoặc
không thuận tiện cho việc đi lại của nhân dân cùng với hiện trạng quy hoạch về
mạng lưới các tuyến đường không đáp ứng nhu cầu rất cao của thực tế đã góp phần
rất lớn gây ô nhiễm môi trường không khí ở các khu đô thò lớn như thành phố Hồ Chí
Minh, Hà Nội, … Đặc biệt là vào giờ cao điểm thường gây ra kẹt xe đôi khi tới 3
hoặc 4 giờ liền.
Cuốn sách này được biên soạn nhằm mục đích phục vụ cho công tác giảng dạy
và học tập của cán bộ, sinh viên và các học viên sau đại học chuyên ngành Kỹ thuật
Môi trường.



3


Nội dung của cuốn sách bao gồm những vấn đề về nguồn gốc ô nhiễm không
khí, tác hại của ô nhiễm không khí, các quá trình biến đổi, khuếch tán chất ô nhiễm
trong khí quyển và kiểm soát các nguồn thải.
Với nội dung trên, cuốn sách này cũng có thể phục vụ cho đông đảo bạn đọc
thuộc các chuyên ngành khác có quan tâm đến lónh vực ô nhiễm môi trường không
khí.
Do nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan, sách không tránh khỏi những
thiếu sót. Tác giả xin chân thành cảm ơn sự quan tâm theo dõi và mong nhận được
nhiều ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp và bạn đọc.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Giáo sư Tiến siõ Trần Ngọc Chấn
đã góp ý cho nội dung của cuốn sách.
Chân thành cảm ơn Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh đã
sớm tái bản cuốn sách này.


TP. Hồ Chí Minh, 02/2007
Tác giả

4




CHƯƠNG I

GIỚI THIỆU VỀ
Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ

1.1. TỔNG QUAN VỀ Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ
Mosris Neibusger - nhà khí tượng học của một trường đại học ở California đã
trích dẫn từ tạp chí “Today’s Health” do hiệp hội Y học Mỹ xuất bản như sau: “Tất
cả các quốc gia văn minh rồi sẽ đi theo con đường, không phải là những biến động
bất thình lình mà là sự ngẹt thở từ trong bầu không khí chứa chất thải của chính họ”.
Một số nhà sử học đã tiên đoán các giả thiết rằng: “Sự bùng nổ về dân số sẽ kéo
theo các nhu cầu thiết yếu cần nhiều thực phẩm hơn, nhiều nước hơn, cũng như nơi
ở, phương tiện giao thông đi lại và công ăn việc làm. Để thỏa mãn được nhu cầu đó
sẽ không bao giờ chấm dứt được nạn ô nhiễm không khí xung quanh ta”.
Những sông, hồ sạch sẽ từ đời tổ tiên ông bà ta để lại đã nhanh chóng trở thành
các dòng chảy có mùi, những hồ nước thối rữa mà trong đó không một sinh vật nào
dù là nhỏ bé có thể sống nổi. Khả năng tự làm sạch của các dòng chảy hầu như
không còn nữa hoặc với khả năng giảm đi rất nhiều vì các nhân tố gây ô nhiễm gồm
quá nhiều loại nước thải như: nước thải sinh hoạt từ các ống cống, chất giặt tẩy,
thuốc trừ sâu và các chất thải công nghiệp.
Các phương tiện giao thông vận tải như máy bay, tàu hỏa dùng dầu Diesel, khí
thải từ các xe gắn máy, xe ô tô, lò đốt và chất thải rắn cùng thải vào khí quyển của

chúng ta. Trong bài báo “Man - An erglangerred Spieceis” ( Con người – Mối hiểm
hoạ), năm 1968 Department of the interrion year boook đã cảnh báo rằng: “Chúng ta
phải nâng cao tất cả mọi thứ trong tương lai trừ tốc độ gia tăng dân số của loài
người”. Trước đây trẻ em và cái máy xúc là hai điều kiện tốt nhất để phát triển xã
hội. Nhưng ngày nay nếu loài người muốn tồn tại thì phải đưa ra kế hoạch cho sự
phát triển.



5


Một đặc trưng cần lưu ý là việc thuyết phục con người phòng bệnh hơn chữa
bệnh là một việc làm rất khó. Điều này có nghóa là, với ô nhiễm môi trường, để
thuyết phục con người phòng chống, bảo vệ và gìn giữ môi trường là một việc làm
rất khó không chỉ với những người không hiểu biết gì về ô nhiễm môi trường mà
ngay cả những người hiểu biết về chúng cũng tìm cách né tránh.
Irving S. Bengelsdorf thuộc Los Angeles Times đã nói rằng, từ khi các nhà khoa
học và các kỹ sư đã nhận thức được vấn đề ô nhiễm là trách nhiệm của họ phải giải
quyết vấn đề này, đề xuất các chính sách và trợ giúp các nhà lãnh đạo hành chính
trong việc hướng dẫn thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ môi trường. Tuy nhiên,
vấn đề ô nhiễm không chỉ giải quyết bằng công nghệ mà phải xem xét trên cả
phương diện xã hội và kinh tế học. Nguyên nhân cơ bản gây phiền toái môi trường
của chúng ta là sự rối rắm, phức tạp và chiều sâu của nó. Chúng ta phải thay thế sự
tăng trưởng về chất thay cho sự tăng trưởng về lượng, cung cấp đầy đủ các tính toán
về phí tổn của xã hội của các vấn đề ô nhiễm, xem xét các yếu tố về mặt môi
trường khi có kế hoạch hoặc quyết đònh một vấn đề nào đó, nhận thức môi trường
như một vấn đề tổng hợp. Chúng ta phải hiểu và công nhận sự phụ thuộc cơ bản của
tất cả các khía cạnh của môi trường bao gồm cả con người.
Vấn đề ô nhiễm môi trường là một vấn đề mang tính chất toàn cầu, yêu cầu

phải có biện pháp giải quyết trên toàn thế giới. Tổ chức giáo dục, văn hóa, khoa học
của Liên Hiệp Quốc đã có những hoạt động tích cực trong lónh vực này. Hội thảo
quốc tế của Liên Hiệp Quốc về “con người và môi trường” được tổ chức tại
Stockholm - Th Điển tháng 6/1972 đã tập hợp rất nhiều chuyên gia, các nhà khoa
học, các quan chức của chính phủ các nước trên thế giới nhằm thống nhất cương lónh
hành động chung trong công tác gìn giữ và bảo vệ môi trường. Hội thảo đã khẳng
đònh việc giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường không chỉ có các nhà khoa học, các
kỹ sư, các quan chức hành chính, các tổ chức thế giới…, mà phải mang tích chất cộng
đồng - tức là mỗi cá nhân, mỗi con người đều phải có ý thức giữ gìn và bảo vệ môi
trường. Cũng tại hội nghò này người ta thống nhất lấy ngày 5 tháng 6 hàng năm làm
ngày “Môi trường thế giới”.
Trong thông điệp gửi toàn thế giới hãy “Cứu lấy trái đất” – chiến lược cho cuộc
sống bền vững, của Hiệp hội quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (IUCN), Chương trình
môi trường của Liên Hiệp Quốc (UNEP) và Quỹ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên
(WWF) – Grand, Th Sỹ tháng 10 năm 1991, đã nhấn mạnh ba mục tiêu chiến lược
bảo vệ toàn cầu là:

6






Phải duy trì các quá trình sinh thái quan trọng của các hệ bảo đảm sự
sống;

• Phải bảo tồn tính đa dạng di truyền;
• Phải sử dụng bền vững bất cứ một loài hay một hệ sinh thái nào.
Để thực hiện được các mục tiêu đó, lời kêu gọi nhấn mạnh phải hành động ngăn

chặn nạn ô nhiễm môi trường. “Tất cả các chính phủ cần phải ban hành nguyên tắc
phòng ngừa. Đó là giảm hoặc nơi nào đó có điều kiện thì ngăn chặn việc thải bỏ bừa
bãi các chất thải độc hại. Tốt nhất là dành việc bảo vệ đất, không khí, sông ngòi và
biển cho một cơ quan. Phải vận dụng cả các biện pháp kích thích bằng kinh tế và
quy chế. Tất cả các chính quyền thành phố, công xưởng, công nghiệp và nông dân
đều phải đóng góp cho công việc đó”.
“Việc thải ra các chất SOx, NOx, CO và các chất hydrocarbon phải được giảm
tới mức tối thiểu ở các nước có thu nhập cao. Bên cạnh đo,ù với các nước đang công
nghiệp hoá, tình trạng đó không được để tăng lên. Việc thải ra các chất gây “hiệu
ứng nhà kính” cần phải hạn chế tới mức tối đa. Với các nước có thu nhập thấp cần
phải cố gắng giảm thiểu ô nhiễm từ những nguồn mới.
Cũng theo lời kêu gọi đó “Vào cuối thế kỷ này, tất cả các chính phủ phải ban
hành nguyên tắc phòng ngừa. Những nước có thu nhập cao phải giảm thải sulfur
đioxit đến 10 % của mức năm 1980 và giảm 75 % của khí thải NOx của mức năm
1985. Việc chế tạo và sử dụng các chất CFCI (hợp chất của chlor, flor và carbon
trong công nghệ đông lạnh) phải được ngừng ở những nước có thu nhập cao, giảm
nhanh và mạnh ở các nước khác”. “Việc thải CO phải được cắt giảm 20 % của mức
năm 1990 vào năm 2005, ở những nước thu nhập cao phải ngừng việc sản xuất và sử
dụng vào năm 2010”.
Tại Mỹ, từ chính sách quốc gia về môi trường năm 1969, ngày 1 tháng 1 năm
1970 đã ban hành chính sách bảo vệ môi trường như là một luật dân sự (Bộ luật No
91 - 190). Chính sách này được thông qua một hội đồng về chất lượng môi trường và
quản lý tất cả các chương trình về chất lượng môi trường với sự xem xét kỹ lưỡng
tất cả các mối liên quan của các chương trình khác nhau có ảnh hưởng đến môi
trường.
Cơ quan Bảo vệ Môi trường của Mỹ (Environmental Protection Agency - EPA),
đã đưa ra sự thống nhất của nhiều cơ quan thuộc nhiều sở, ban, ngành khác nhau
cùng giải quyết các vấn đề về môi trường. Nhiệm vụ của EPA là tổ chức giải quyết
các vấn đề môi trường trên cơ sở hợp nhất, thừa nhận mối quan hệ giữa các chất ô
nhiễm, hình thức ô nhiễm và công nghệ xử lý.




7


Tại Việt Nam, vấn đề ô nhiễm môi trường mới được Nhà nước quan tâm và đầu
tư khá nhiều kinh phí trong những năm gần đây. Tuy là một nước lạc hậu, kinh tế
kém phát triển nhưng vấn đề ô nhiễm môi trường cũng gây không ít phiền phức cho
xã hội do nền kinh tế Việt Nam mang một hình thái kinh tế riêng biệt với công nghệ
lạc hậu, nguyên vật liệu thiếu thốn, quy mô nhỏ, nằm xen kẽ trong khu dân cư và
đặc biệt là nguồn kinh phí đầu tư cho công tác gìn giữ và bảo vệ môi trường là khá
hạn hẹp.
Một đặc thù khác là ở những thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh, … do mật độ giao thông lớn, các phương tiện công cộng ít hoặc gần như không
phù hợp với thò hiếu người dân nên vấn đề ô nhiễm không khí do giao thông vận tải
gây ra không phải là nhỏ. Theo thống kê mới đây nhất dân số thành phố Hồ Chí
Minh là 6.239.938 người (con số điều tra cuối năm 2005), với mật độ dân số như vậy
việc gây ô nhiễm môi trường do hàng triệu xe máy, hàng trăm ngàn xe tải, xe hơi là
không tránh khỏi.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, một phần do nền kinh tế được ngày một
nâng cao, được Đảng và Nhà nước quan tâm đúng mức công tác gìn giữ và bảo vệ
môi trường ở Việt Nam từng bước đã đi vào nề nếp. Song song với việc ra đời của
bộ chủ quản (Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, nay là Bộ Tài nguyên – Môi
trường) là các hệ thống ngành dọc (các Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường nay
là Sở Tài ngun & Mơi trường) cùng các cơ quan hành chính khác. Điều quan trọng
nhất là sự ra đời của Bộ Luật bảo vệ môi trường của nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghóa Việt Nam 10/1/1994 và Luật Môi trường sửa đổi được Quốc Hội khóa XI, kỳ
họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005, Chủ tòch nước ký ban hành ngày 12/12/2005
và có hiệu lực từ 01/07/2006, công tác bảo vệ môi trường đã được chú trọng trên

phạm vi cả nước. Các công tác giám sát, xử lý môi trường được thực hiện cho hầu
hết các cơ sở, xí nghiệp, nhà máy đã, đang và sẽ xây dựng trong tương lai. Song
song đó là hàng loạt các văn bản, nghò đònh dưới luật của các cơ quan Nhà nước và
các đòa phương nhằm thực hiện tốt Bộ Luật nêu trên.

1.2. CÁC TÁC NHÂN GÂY Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ
1.2.1. Không khí “sạch”
Không khí và nước cùng với thực phẩm là một trong các điều kiện hết sức cần
thiết và quan trọng đối với sự sống của các loài động và thực vật nói chung. Người ta
có thể nhòn ăn, nhòn uống hàng chục ngày vẫn không chết nhưng nếu con người
ngưng thở trong vài phút đã có thể dẫn đến tử vong.

8




Hàng ngày, một người trung bình phải hít, thở khoảng trên dưới 15 kg không khí
để phục vụ cho sự sống. Yêu cầu đối với không khí đó là sự trong sạch của nó. Thời
xa xưa nếu không kể đến các hiện tượng thiên nhiên xảy ra như động đất, núi lửa,
bão cát sa mạc hay dòch phấn hoa thì môi trường thiên nhiên vốn là trong sạch, yên
tónh, không bò ô uế. Nó rất thuận lợi và tiện nghi cho con người cũng như các loài
sinh vật khác. Một cách tương đối, có thể coi không khí đó là “không khí sạch”.
Trong giáo trình này, kể từ đây chúng ta thống nhất gọi không khí sạch là không khí
để tiện sử dụng.
Không khí là hỗn hợp của không khí khô và hơi nước. Người ta cũng có thể gọi
không khí nêu trên là không khí ẩm vì thành phần của chúng ngoài các chất khí ra,
chúng còn chứa một lượng hơi nước nhất đònh tuỳ thuộc vào nhiệt độ và áp suất của
khí quyển.
Ở điều kiện bình thường không khí chưa bò ô nhiễm có các thành phần chính sau

đây:
Bảng 1. 1. Thành phần các chất trong không khí khô chưa bò ô nhiễm
Tên chất

Công thức

Tỷ lệ theo thể tích

phân tử

Tổng trọng lượng trong khí
quyển (Triệu tấn)

Nitơ

N2

78,09

3.850.000.000

Oxy

O2

20,91

1.180.000.000

Argon


Ar

0,93

65.000.000

Cacrbon dioxit

CO2

0,032

2.500.000

Neon

Ne

18ppm (*)

64.000

Heli

He

5,2 “

3.700


Metan

CH4

1,3 “

3.700

Kripton

Kr

1,0 “

15.000

Hydro

H2

0,5 “

180

Nitơ ôxit

N2 O

0,25 “


1.900

Cacrbonmonoxít

CO

0,10 “

500

Ôzon

O3

0,02 “

200

Sulfur dioxit

SO2

0,001 “

11

Nitơ dioxit

NO2


0,001 “

8
3

Ghi chú: (*) 1 ppm = 0,0001 % thể tích; 1 ppm = M/22,4 mg/m



9


hoặc 1 mg/m3 = 22,4/M.
Trong đó:M là phân tử lượng của chất khí;
22,4 là thể tích (tính bằng lít) của một mole chất khí ở điều kiện tiêu
chuẩn (0oC và 1 atm).
Như đã trình bày ở trên, ngoài các thành phần khô nêu trên mà người ta thường
gọi là không khí khô, trong không khí còn chứa một lượng hơi nước nhất đònh. Thông
thường hơi nước tồn tại trong không khí dưới dạng “hơi quá nhiệt”, tức là chúng ở
trạng thái chưa bão hoà. Không khí có thể nhận thêm hơi nước để trở về trạng thái
bão hoà.
Nồng độ bão hoà của hơi nước trong không khí phụ thuộc rất nhiều vào nhiệt
độ. Lượng hơi nước bão hòa theo nhiệt độ có thể tham khảo bảng 1.2 sau đây:
Bảng 1.2. Nồng độ bão hoà hơi nước phụ thuộc vào nhiệt độ
Nhiệt độ (toC)

Nồng độ hơi nước bão hoà (%)

0


0,6

10

1,2

20

2,3

25

3,1

30

4,2

Lượng hơi nước chứa trong không khí có ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề ô nhiễm
môi trường. Cùng với các yếu tố khác của khí quyển, chúng có thể là môi trường tạo
nên các phản ứng hoá học giữa các chất ô nhiễm với nhau đặc biệt là với các chất
khí có tính “háo nước” dễ tạo thành các axit, đây là nguyên nhân tạo nên các trận
mưa axit mà chúng ta thường nhắc đến.
1.2.2. Các tác nhân gây ô nhiễm không khí
Ở trên chúng ta đã đề cập đến khái niệm không khí sạch, như vậy : Thế nào là
không khí bò ô nhiễm? Có thể hiểu một cách tương đối như sau:
Bên cạnh các thành phần chính của không khí, bất kỳ một chất nào ở dạng rắn,
lỏng, khí được thải vào môi trường không khí với nồng độ vừa đủ gây ảnh hưởng tới
sức khỏe con người, gây ảnh hưởng xấu đến sự sinh trưởng, phát triển của động, thực


10




vật, phá huỷ vật liệu, làm giảm cảnh quan môi trường đều gây ô nhiễm môi trường,
hay nói khác đi là không khí đó đã bò ô nhiễm.
Ô nhiễm không khí có thể là thể pha trộn của các thể rắn, lỏng, khí. Những thể
mà chúng được phân tán rất nhanh nhờ các điều kiện về khí hậu. Khi xảy ra hiện
tượng giảm áp (áùp thấp nhiệt đới) các khối không khí chuyển động làm cho các chất
gây ô nhiễm trở nên đậm đặc, thảm hoạ ô nhiễm có thể xảy ra. Tương tự như vậy,
các chất vô hại dưới tác dụng của áp xuất sẽ bốc lên và có thể trở thành chất gây ô
nhiễm nghiêm trọng cho môi trường không khí khi chúng kết hợp với chất khác cùng
có trong môi trường không khí.
Các nhân tố góp phần tạo nên ô nhiễm không khí bao gồm cả nhân tố tự nhiên
và do con người. Các nhân tố tự nhiên bao gồm các q trình tự nhiên như: động đất,
núi lửa, bão cát sa mạc, cháy rừng, sóng thần hay dịch phấn hoa và q trình thối rữa
của động và thực vật. Thông thường, các nhân tố tự nhiên thường xảy ra ở xa ngoài
tầm kiểm soát của con người.
Các nhân tố ô nhiễm do con người tạo ra thì dễ kiểm soát hơn. Chất gây ô
nhiễm do con người tạo ra thường phát sinh từ quá trình hoạt động cơng nghiệp, giao
thơng vận tải, nơng nghiệp, dịch vụ thương mại, phá rừng và kể cả các hoạt động trong
chiến tranh gây ra. Chất ô nhiễm không khí do con người tạo ra về tổng quan có thể
chia làm các dạng sau: Ơ nhiễm do bụi, hơi khí độc, nhiệt thừa, mùi hơi, chất phóng xạ
và các vi sinh vật.

1.3. MỘT SỐ HIỂM HOẠ VỀ Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ
1.3.1. Trên thế giới
Lòch sử nhân loại đã xảy ra khá nhiều hiểm hoạ về ô nhiễm không khí. Có thể

kể đến thảm hoạ đầu tiên xảy ra trong thế kỷ 20 do ô nhiễm môi trường không khí
gây ra là khí thải công nghiệp thải ra gây nên hiện tượng “nghòch đảo nhiệt” kìm
hãm không cho khí thải phát tán lên cao, gây ra hiện tượng đầu độc ở thành phố
thuộc thung lũng Manse của Bỉ vào năm 1930 và cũng tương tự như vậy ở dọc thung
lũng Monongahela vào năm 1948. Trong các thảm hoạ này làm cho hàng trăm người
chết và rất nhiều người khác bò ảnh hưởng đến sức khỏe. Hiện tượng nghòch đảo đã
làm tăng nồng độ hơi khí độc gây ngạt thở tại thủ đô London nước Anh, làm chết và
bò thương 4.000 đến 5.000 người.
Tại nước Mỹ vào tháng 8 năm 1969 không khí ô nhiễm bò “tù hãm” lâu ngày đã
bao phủ từ miền Chicago và Milwankee tới New Orleans và Philadelphia gây rất



11


nhiều thiệt hại. Thảm hoạ lớn nhất do ô nhiễm không khí xảy ra trong thời gian gần
đây nhất, đó là vụ rò rỉ khí MIC (khí Metyl–iso–cyanate) của liên hiệp sản xuất
phân bón ở Bhopal thuộc Ấn Độ vào năm 1984. Khoảng trên 2 triệu người đã bò
nhiễm độc, trong đó có 5.000 người chết và 50.000 người bò nhiễm độc trầm trọng,
rất nhiều người bò mù… Khí MIC là loại khí độc được dùng trong thuốc trừ sâu. Nó
tác dụng với nước rất nhanh, thâm nhập vào đường hô hấp gây nên bệnh phổi phù
thũng. Rất nhiều người ở Bhopal đã chết vì phổi của họ chứa đầy nước. Cứ 3 trẻ em
mà mẹ của chúng có thai trong thời gian đó thì chỉ có một em được sống sót. Rất
nhiều em sinh ra bò dò tật. Thực vật cũng bò ảnh hưởng nghiêm trọng, ở phạm vi 3,5
km2 bao quanh nhà máy, cây cối đều bò chết hoặc vàng lá, năng suất thu hoạch của
các loại cây ăn trái, củ rất thấp.
Thành phố Mexico, thủ đô của Mexico với 20 triệu dân là thành phố đông dân
nhất thế giới và cũng là nơi ô nhiễm môi trường không khí vào loại bậc nhất thế
giới. Tháng 3 năm 1992, dân chúng thành phố đã trải qua những ngày rất khó khăn

do trên 2,5 triệu chiếc xe hơi và khoảng 30 ngàn xí nghiệp công nghiệp hoạt động
thải vào môi trường lượng hơi khí độc, bụi và mùi hôi rất lớn. Theo thống kê cho
thấy mỗi năm khoảng 4,3 triệu tấn chất thải độc hại thải vào môi trường đã làm cho
nồng độ Ôzon cao hơn tiêu chuẩn cho phép 3 lần. Thành phố đã phải áp dụng biện
pháp khẩn cấp là trường học phổ thông phải đóng cửa, giảm bớt giờ sinh hoạt và làm
việc của người lớn. Tạm ngừng hoạt động của 1 triệu ô tô, hàng trăm nhà máy, xí
nghiệp công nghiệp phải ngừng sản xuất hoặc hoạt động với 3/4 công suất nhằm
giảm lượng hơi khí độc thải vào khí quyển.
Chắc chúng ta hẳn còn nhớ thảm hoạ nhà máy điện nguyên tử Trernobưn của
Ucraina (thuộc Liên Xô cũ) vào năm 1984. Hậu quả của thảm hoạ này không chỉ
gây ảnh hưởng ngay khi xảy ra mà nó còn tiềm ẩn và gây ảnh hưởng rất lâu dài cho
đến nay vẫn chưa khắc phục được. Toàn thế giới đều quan tâm đến tai hoạ này. Phải
mất hàng chục tỷ dollar mới có thể khắc phục hậu quả này.
Ô nhiễm không khí cùng với việc khai thác tài nguyên không hợp lý, chặt phá
rừng bừa bãi…, làm cho tầng ơzon bò thủng, gây nên hiệu ứng nhà kính và đặc biệt là
thay đổi khí hậu toàn cầu gây nên hiện tượng Elnino và Lanina kèm theo những trận
mưa lụt, bão khủng khiếp và hạn hán kéo dài. Kết quả cuối cùng là dẫn đến thiệt
hại nhân mạng tài sản của cộng đồng cùng nạn cháy rừng nghiệm trọng như đã từng
xảy ra tại Bangladesh, Trung Quốc, Mỹ, Nhật, Indonesia và các nước khác trên thế
giới trong đó có Việt Nam. Kèm theo các hiện tượng này là ô nhiễm nguồn nước, ô

12




nhiễm môi trường không khí không chỉ trên phạm vi một nước mà có thể ảnh hưởng
tới các nước lân cận.
1.3.2. Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, thật may mắn cho chúng ta là chưa xảy ra thảm hoạ nào gây ảnh

hưởng lớn đến môi trường do ô nhiễm không khí. Tuy nhiên, thực tế cho thấy do các
hoạt động công nghiệp, giao thông vận tải, sinh hoạt, nông nghiệp…, đã làm gia tăng
mức độ ô nhiễm không khí lên rất cao, nhất là sau khi có chính sách mở cửa đầu tư
vào sản xuất từ năm 1984 của Đảng và Nhà nước ban hành. Tại các khu công
nghiệp, các thành phố lớn, nồng độ các chất ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn cho phép
rất nhiều lần. Gần đây chúng ta đã phát hiện đã có mưa axit ở Cà Mau, Bạc Liêu và
rất có thể còn nhiều nơi khác mà chúng ta chưa biết đến.

1.4. Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ
MỘT SỐ ĐÔ THỊ VIỆT NAM
Tình hình ô nhiễm không khí tại Việt Nam thường tập trung ở một số thành phố
lớn và các khu đô công nghiệp. Các thành phố lớn và khu công nghiệp của Việt
Nam so với nhiều nước trên thế giới tuy quy mô và tầm cỡ chưa bằng, nhưng tình
trạng ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm môi trường không khí nói riêng
đang có nguy cơ ngày một tăng, có nơi đã ở mức trầm trọng. Công tác điều tra, đánh
giá hiện trạng ô nhiễm môi trường mới được các cơ quan chức năng thực hiện trong
những năm của thập niên 90 thông qua các trạm quan trắc quốc gia, các mạng lưới
kiểm soát và giám sát ô nhiễm môi trường của các tỉnh, các khu công nghiệp. Vì thế
chưa có đủ số liệu để đánh giá một cách đầy đủ tình hình ô nhiễm không khí của
nước ta. Mặt khác, nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước nên diện mạo khu đô thò và công nghiệp thay đổi rất nhanh, do vậy phải
thường xuyên cập nhật thông tin, điều tra, giám sát bổ sung thì mới có cơ sở để đánh
giá và đề xuất các chính sách quản lý và giám sát thích hợp. Tuy nhiên, theo những
số liệu ban đầu cũng có thể sơ bộ cho thấy tình hình ô nhiễm không khí tại một số
đô thò và khu công nghiệp điển hình như sau.
1.4.1. Tình trạng ô nhiễm không khí tại TP Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh trước năm 1945 chỉ có khoảng 400.000 dân cư sinh
sống (kể cả Chợ Lớn), các hoạt động về giao thông vận tải chủ yếu bằng xe thồ, ghe
thuyền, số lượng xe hơi không đáng kể, chủ yếu chỉ có một số thương gia giàu có và
thực dân Pháp lúc đương thời. Theo thống kê mới nhất dân số thành phố Hồ Chí




13


Minh là 6.239.938 người (con số điều tra cuối năm 2005), đó là chưa kể số dân vãng
lai khơng thống kê được. Đây là thành phố có số dân đông nhất Việt Nam, là trung
tâm văn hoá, khoa học kỹ thuật và giao dòch với nước ngoài thông qua các cảng lớn
như Sài Gòn, Bến Nghé, Tân Cảng … và sân bay Tân Sơn Nhất. Mặt khác, nó còn là
đầu mối giao thông rất quan trọng với các tỉnh miền Đông Nam Bộ và các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long.
Trên đòa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có hàng chục khu công nghiệp
đã và đang hình thành với quy mô hàng chục ngàn hecta như khu công nghiệp Tân
Thuận, Linh Xuân, Linh Trung, Tân Tạo, Vónh Lộc, Lê Minh Xuân, khu công nghiệp
quận Tân Bình… Theo số liệu thống kê trong những năm gần đây cho thấy có khoảng
gần 800 xí nghiệp công nghiệp, trên 30.000 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp đang
hoạt động trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Qua hai đợt kiểm tra của Sở Khoa học Công nghệ Môi trường thành phố Hồ Chí
Minh đối với các nhà máy xí nghiệp lớn đã phân loại và đánh giá được 85 nhà máy,
xí nghiệp được liệt kê vào “sách đen”, đó là những nhà máy, xí nghiệp có mức độ ô
nhiễm nặng cần phải giải quyết tức thời. Qua thực tế đó có thể thấy tải lượng các
chất ô nhiễm do các nhà máy, xí nghiệp này thải ra rất lớn, nồng độ các chất ô
nhiễm thường cao hơn tiêu chuẩn cho phép. Bảng 1.3. dưới đây cho chúng ta thấy
các số liệu đó.
Bảng 1.3. Hiện trạng ô nhiễm môi trường không khí của một số nhà máy ở thành
phố Hồ Chí Minh
Tên nhà máy

Tải lượng


Tải lượng

Tải lượng

Nồng độ

Nồng độ

Nồng độ

Tiếng

bụi

SO2

NO2

bụi

SO2

NO2

ồn

(tấn/năm)

(tấn/năm)


3

3

3

(tấn/năm)

(mg/m )

(mg/m )

(mg/m )

(dBA)

Dệt Việt Thắng

11,26

153,73

35,25

0,59

0,20

0,083


90

Dệt Phước Long

5,28

72,06

13,22

0,56

0,23

0,13

96–100

Dệt Phong Phú

8,45

115,30

26,44

0,6

0,35


0,22

96–100

Dệt Thành Công

-

126,8

26,9

-

-

-

84 – 97

Dệt Thắng Lợi

-

116,6

25,7

-


-

-

84 – 96

Dệt Chấn Á

-

67,84

15

1,90

0,142

0,08

108

Dệt Quyết Thắng

11,26

153,73

35,25


0,42

0,30

0,015

90

Dệt may Gia Đònh

0,64

42,4

-

-

-

-

-

14





Giấy Vónh Huê

1,714

19,22

4,41

0,83

0,32

0,06

-

Giấy Xuân Đức

-

-

-

0,59

0,14

-


-

2,82

48,08

11,02

0,51

0,14

0,021

-

-

160 –200

21,4

-

-

-

-


Vissan

0,5

0,03

3,4

-

-

-

-

Saigon Vewong

1,6

0,9

106

-

-

-


-

Rượu Bình Tây

1,02

0,58

67,84

-

-

-

-

XK Cầu Tre

-

117,8

25,9

0,2

0,35


0,053

-

Vifon

-

233,2

51,4

0,19

0,245

0,122

-

Bia Sài Gòn

-

408,7

97,6

-


-

-

-

Bột giặt VISO

3,53

56,52

11,02

0,53

0,33

0,03

-

Bột giặt TICO

1,0

95,4

21


0,48

0,02

-

-

Cty Phương Đông

0,8

79,5

17,5

-

-

-

-

Thép Thủ Đức

47,17

129,71


29,74

0,85

0,53

1,01

-

Thép Nhà Bè

114,31

44,09

20,22

0,77

0,55

0,96

-

Thép Tân Bình

98,6


56,4

19,2

-

-

-

85–100

Điện Thủ Đức

1078,8

13.872

4.687,2

0,41

0,68

0,71

-

-


583

128

-

-

-

-

140,4

1.900

436

5,2

0,45

-

-

Cement QK.7

181


48

12

46,2

-

-

95 - 110

Cement Bình Điền

3,6

-

-

8,6

-

-

90–105

Thuốc lá Vónh Hội


-

63

14,2

-

-

-

-

Thuốc lá Sàigòn

-

98

20,6

-

-

-

-


1,8

466,4

102,8

4,1

0,62

0,095

-

Giấy Liksin
Hoá chất T.Bình

Điện Chợ Quán
Cement Hà Tiên 1

Thuỷ

tinh

Khánh

Hội

Nguồn số liệu: Sở Khoa học Công nghệ Môi trường tp Hồ Chí Minh




15


Về giao thông vận tải, theo số liệu thống kê những năm gần đây cho thấy một
số lượng xe cộ khổng lồ đang lưu hành trên đòa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Có thể
tham khảo số liệu dưới đây:
Bảng 1.4. Thống kê số lượng xe tại tp Hồ Chí Minh (số liệu 1997) (chiếc)
Loại xe

Năm 1993

Năm1994

Năm 1995

Năm 1996

Năm 1997

Xe gắn máy

866.000

954.738

1.004.000

1.098.899


1.288.754

Xe ô tô

73.000

87.929

96.000

100.992

194.777

Nguồn số liệu: Sở Khoa học Công nghệ Môi trường tp Hồ Chí Minh. 1997
Đó là chưa kể một số lượng xe vãng lai và xe không đăng ký tại Sở Giao thông
Công chánh. Hàng năm số lượng xe tăng lên khá nhanh.
Cũng theo số liệu thống kê năm 1996, lượng nhiên liệu tiêu thụ của các loại xe
nói trên với một khối lượng đáng kể. Bảng 1.5 cho thấy điều đó.
Bảng 1.5. Lượng nhiên liệu tiêu thụ trong giao thông đường bộ 1996 (lít/ngày)
Khu vực

Dầu DO

Xăng

Vành đai ngoài

163.062


110.711

Vành đai trong

117.195

199.017

Nội thành

106.836

668.280

Toàn thành

387.093

978.008

Nguồn số liệu: Sở Khoa học Công nghệ Môi trường tp Hồ Chí Minh
Trên cơ sở các số liệu trên có thể tính toán sơ bộ lượng khí thải thải ra do các
phương tiện trên trong các năm 1996 và 1997 như sau:
Bảng 1.6. Tải lượng ô nhiễm theo lượng nhiên liệu bán ra năm 1996 (tấn/năm)
Chỉ tiêu ô nhiễm

Xe chạy dầu

Xe chạy xăng


Tổng cộng

Bụi
SO2
NOx
CO

1.672
7.783
21.404
10.895

2.518
2.157
14.387
215.790

4.190
9.940
35.791
226.685

HC
Chì

4.665

21.597
186


26.241
186

Nguồn số liệu: Sở Khoa học Công nghệ Môi trường tp Hồ Chí Minh
16




Bảng 1.7. Tải lượng ô nhiễm theo lượng nhiên liệu bán ra năm 1997 (tấn/năm)
Chỉ tiêu ô nhiễm

Xe chạy dầu

Xe chạy xăng

Tổng cộng

Bụi

1.551

2.755

4.306

SO2

7.217


2.360

9.577

NOx

19.849

15.741

35.590

CO

10.103

236.100

246.203

HC

4.330

23.610

27.940

Chì


-

203

203

Nguồn số liệu: Sở Khoa học Công nghệ Môi trường tp Hồ Chí Minh.
Một điều đáng chú ý là trong ô nhiễm giao thông vận tải, do đặc điểm là nguồn
đường nên rất khó kiểm soát và phạm vi ô nhiễm lan rất nhanh gây ảnh hưởng xấu
đến dân cư hai ven đường. Có thể tham khảo số liệu sau đây:
Bảng 1.8. Năm 1997 tải lượng ô nhiễm theo hành trình và loại xe (tấn/năm)
Chỉ tiêu ô nhiễm

Xe chạy dầu

Xe chạy xăng

Tổng cộng

B

686

1.328

2.014

SO2


3.193

1.138

4.331

NOx

8.782

7.586

16.368

CO

4.470

113.785

118.255

HC

1.196

11.397

13.295


Chì

-

98

98

Nguồn số liệu: Sở Khoa học Công nghệ Môi trường tp Hồ Chí Minh
Báo cáo của Sở Khoa học Công nghệ Môi trường thành phố Hồ Chí Minh tháng
2 năm 1997 về “Hoạt động môi trường thành phố Hồ Chí Minh” cho thấy chất lượng
môi trường không khí bò ô nhiễm chủ yếu là từ các ngành công nghiệp hoá chất,
luyện kim, vật liệu xây dựng, năng lượng, giao thông vận tải và các hoạt động có
liên quan đến đốt các loại nhiên liệu đặc biệt là dầu DO.
Toàn thành phố có 688 con đường lớn nhỏ với tổng chiều dài 811km, có trên
600 hẻm nhỏ hẹp với tổng chiều dài 813km. Số lượng nút giao thông là 9.814, số nút
có khả năng gây ùn tắc 1.102 nên rất dễ gây hiện tượng ùn tắc về giao thông thậm


17


chí ngay cả trong các giờ không phải cao điểm. Với đặc điểm đường nhỏ hẹp, mặt
khác, các phương tiện giao thông chủ yếu là xe gắn máy và các loại xe hơi, xe đạp
và số lượng tăng rất nhanh hàng năm, do vậy tình trạng ô nhiễm giao thông tăng lên
cũng khá nhanh.
Theo kết quả nghiên cứu của đề tài 28.01.04 (1985) do Kỹ sư Đỗ Trần Đính và
Tiến siõ Phạm Đức Nguyên tiến hành cho thấy ô nhiễm do bụi và tiếng ồn khu vực
thành phố Hồ Chí Minh và khu vực Biên Hoà là lớn nhất vùng Đông Nam Bộ.
Đường đẳng trò bụi lắng 40 mg/m3 bao quanh khu vực giáp ranh quận 1 và quận 5.

Trên đường Trần Hưng Đạo, từ ngã tư Nguyễn Văn Cừ đến ngã tư Nguyễn Tri
Phương là khu vực ô nhiễm bụi lớn nhất thành phố, nồng độ bụi vượt từ 3 đến 4 lần
tiêu chuẩn cho phép. Đường đẳng trò bụi lắng 30 mg/m3 bao quanh khu vực từ chợ
Bến Thành đến thò trấn An Lạc và xa cảng miền Tây. Đường đẳng trò bụi lắng 20
mg/m3 (vượt trò số cho phép khoảng 2 lần) bao gồm toàn bộ khu vực dân cư còn lại
của thành phố trừ Thảo Cầm Viên, Phú Thọ Hòa và khu vực Thanh Đa.
Về ô nhiễm do SO2, đường đẳng trò nồng độ SO2 = 0,8 mg/m3 bao phủ toàn bộ
khu vực chợ Bến Thành, chợ Bình Tây. Ngã tư Trần Hưng Đạo và Nguyễn Tri
Phương là nơi ô nhiễm SO2 cao nhất. Nồng độ SO2 = 1,84 mg/m3 cao hơn tiêu chuẩn
cho phép (0,05 mg/m3) là 37 lần. Đường đẳng trò SO2 = 0,5 mg/m3 bao phủ hầu hết
khu vực đông dân từ bờ sông Sài Gòn đến xa cảng miền Tây, Nhà Bè, Bình Triệu,
Thủ Đức và Biên Hoà.
Về tiếng ồn, ở thành phố Hồ Chí Minh chủ yếu do các phương tiện giao thông
vận tải gây nên đặc biệt là các loại xe vận tải, xe ba gác máy, xích lô máy. Tuy mật
độ xe thấp hơn các nước khác trên thế giới nhưng mức độ ồn lại cao hơn rất nhiều.
Trên các đường Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Ba tháng Hai, vv… mức độ ồn đo
được xấp xỉ 80 dBA, hấu hết các đường khác là 75 dBA, cao hơn tiêu chuẩn cho
phép từ 15 đến 20 dBA.
Theo những số liệu thống kê gần đây cho thấy mật độ giao thông tại thành phố
Hồ Chí Minh tăng lên rất nhanh. Có thể tham khảo số liệu sau đây về lưu lượng xe ở
một số tuyến đường chính trong thành phố.
Bảng 1.9. Lưu lượng xe giờ cao điểm trên một số đường chính (1997) tại tp HCM
Tên đường

Lưu lượng (xe/giờ)

Ba tháng hai
Trần Hưng Đạo
Hùng Vương
18


13.000
12.500
10.015




Lý Thường Kiệt

11.306
Nguồn: Viện Môi trường và Tài nguyên – ĐHQGTPHCM

Mức độ lưu thông của các loại xe gia tăng, mặc dù thành phố đã có nhiều biện
pháp khác nhau như cấm xe giờ cao điểm, xây dựng nhiều nút giao thông, mở rộng
đường, giải tỏa lòng lề đường nhưng qua kết qủa giám sát của các trạm giám sát
quốc gia cho thấy mức độ ô nhiễm không khí vẫn ngày một gia tăng. Theo kết quả
giám sát của trạm quan trắc quốc gia thuộc Viện Môi trường và Tài nguyên – Đại
học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh nồng độ một số chất ô nhiễm như bụi, SO2,
tiếng ồn…, đã vượt tiêu chuẩn cho phép.
Bảng 1.10. Nồng độ các chất ô nhiễm tại một số điểm trong tp Hồ Chí Minh (4/1997)
Bụi

Điểm đo

CO
3

Chì
3


NO2
3

(mg/m )

(mg/m )

(mg/m )

(mg/m3)

Đinh Tiên Hoàng – Điện Biên Phủ

1.35

16,76

0,0031

0,127

Hàng Xanh
Minh Phụng – Hậu Giang
Phú Lâm

0,5
0,86
0,37


10,37
11,78
10,31

0,0022
0,0023
0,0017

0,083
0,0063
0,029

Nguồn: Viện Môi trường và Tài nguyên – ĐHQGTPHCM
Theo các số liệu giám sát gần đây nhất cho thấy nồng độ bụi của các điểm
giám sát đều vượt tiêu chuẩn cho phép. Các chỉ số ô nhiễm khác đều có xu hướng
tăng hơn so với những năm trước.
Bảng 1.11. Nồng độ các chất ô nhiễm tại một số điểm trong tp Hồ Chí Minh (7/1999)
Bụi
(mg/m3)

Điểm đo

CO
(mg/m3)

Chì
(mg/m3)

NO2
(mg/m3)


Đinh Tiên Hoàng – Điện Biên Phủ
Hàng Xanh

1.87
1,14

17,29
6,96

0,0032
0,0023

0,217
0,115

Phú Lâm

0,63

6,77

0,0017

0,052

Nguồn: Viện Môi trường và Tài nguyên – ĐHQGTPHCM
Bên cạnh đó các dòch vụ sản xuất, xây dựng cơ bản cũng làm cho mức độ ô
nhiễm giao thông của thành phố tăng lên rất nhiều, có nơi nồng độ bụi tăng lên quá
tiêu chuẩn cho phép từ 50 đến 60 lần.

Về lónh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp mức độ gây ô nhiễm môi trường
không khí cũng không kém phần quan trọng. Qua hai đợt kiểm tra thành phố đã
thống kê được 84 nhà máy, xí nghiệp được liệt kê vào “sách đen” để xử lý. Các loại



19


xí nghiệp như hoá chất, dệt nhuộm, chế biến thực phẩm, sản xuất giấy, nhà máy
điện, thuốc trừ sâu, sản xuất thép, mỳ ăn liền, sản xuất vật liệu xây dựng… thường
nằm trong diện đó. Ví dụ: nhà máy điện Thủ Đức mỗi ngày đốt 1.000 tấn dầu FO và
750 tấn dầu DO để phát điện; Mỗi năm thải ra 1.078 tấn bụi;, 13.872 tấn SO2;
4.687,2 tấn NO2. Nhà máy hoá chất Tân Bình sản xuất các sản phẩm H2SO4 và phèn
nhôm. Nhà máy sử dụng một số lượng rất lớn lưu huỳnh, quặng bôxit, dầu FO. Các
chất ô nhiễm thải ra môi trường không khí bao gồm: SO2 và SO3 = 160 đến 200
tấn/năm; 21,4 tấn NO2; đó là chưa kể lượng bụi phèn và tiếng ồn. Nhà máy cement
Hà Tiên thải ra lượng khí thải từ lò hơi với lượng bụi 140,4 tấn/năm, NO2 = 436
tấn/năm, ngoài ra còn lượng bụi cement thải ra rất lớn chưa có số liệu đo đạc chính
xác về chúng.
Bên cạnh các xí nghiệp công nghiệp lớn như nêu trên, với trên 30.000 cơ sở tiểu
thủ công nghiệp và cơ sở sản xuất hoạt động đang làm cho môi trường không khí
thành phố bò ô nhiễm nặng nề không kém. Trong những năm gần đây, với chính
sách dãn dân, xây dựng thêm nhiều khu công nghiệp lớn, giải toả bớt các cơ sở gây
ô nhiễm nặng của thành phố đã đạt được những thành tích nhất đònh. Tuy nhiên, các
khu vực ô nhiễm nặng như khu công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp thuộc phường
19, 20 Tân Bình, khu vực Suối Cái, Xuân Trường, Suối Nhum Thủ Đức, Quận 6,
Quận 8, 11 và Quận 5…, vẫn còn là những nơi có mức độ ô nhiễm không khí rất cao.
Theo những con số thống kê gần đây cho thấy dân số thành phố tính đến năm
2005 là 6.239.938 người với mức độ tăng hàng năm khoảng trên 110.000 người chưa

kể số dân nhập cư không hợp pháp và khách vãng lai đã gây áp lực rất lớn về nhu
cầu đi lại của người dân thành phố. Mạng lưới giao thông công cộng của thành phố
cùng với hệ thống đường xá chưa được quy hoạch và phát triển đồng bộ mặc dù
thành phố đã có nhiều chính sách ưu tiên cho lónh vực này đầu tư thêm các phương
tiện xe bus, có chính sách trợ giá cho xe bus, tăng cường sửa chữa mạng lưới đường
xá, xây dựng các vòng xoay, cầu vượt… nhưng vẫn không hạn chế được mức độ ô
nhiễm môi trường không khí ngày càng gia tăng hiện nay. Có thể minh hoạ sự gia
tăng số lượng phương tiện giao thông qua bảng 1.12. sau đây:

Bảng 1.12. Thống kê số lượng phương tiện vận chuyển ở TP. HCM (ĐV: chiếc)
Loại phương tiện
Xe 2 bánh

2000

2001

2002

1.723.754

2.181.456

2.498.992

Xe ô tô các loại

27.765

53.764


80.186

Xe bus, xe lam

2.190

3.836

4.379

20



2003
2.809.853
130.848
4.894

2004
3.115.838
228.300
5.389


Nguồn: Sở Giao thông Công chánh thành phố. HCM
Có thể nói mức độ ô nhiễm môi trường của thành phố Hồ Chí Minh là cao nhất
so với tất cả các thành phố, các tỉnh khác trong cả nước.
1.4.2. Tình hình ô nhiễm môi trường không khí tại Hà Nội

Trước năm 1954 Hà Nội là một thành phố mang nặng tính chất hành chính và
trung tâm tiêu thụ, công nghiệp chưa phát triển. Nội thành chiếm 1.200 ha trong đó
có 120 ha được cấu trúc đô thò hoàn chỉnh. Dân số nội thành có 25.000 người. Đến
năm 1992 nội thành đã mở rộng lên 4.300 ha (tăng 3,5 lần), dân số nội thành gần 1
triệu người. Về công nghiệp, năm 1955 mới chỉ có 9 xí nghiệp công nghiệp, nay con
số này tăng lên đến 277 (năm 1990), ngoài ra còn 240 xí nghiệp thương nghiệp, ăn
uống, 300 xí nghiệp dòch vụ, sửa chữa, 450 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp và 3.550
tổ sản xuất dòch vụ với trên 30.000 lao động. Phần lớn các xí nghiệp công nghiệp,
nhà máy đều sử dụng các thiết bò cũ, công nghệ lạc hậu, đặc biệt là các đơn vò sản
xuất nhỏ. Một số nơi chưa có các hệ thống thông gió và xử lý hơi khí độc, một số nơi
tuy đã có nhưng không duy tu, bảo dưỡng tốt hoặc hư hỏng chưa thay thế do không
có kinh phí…, nên thực tế không hoạt động được. Vì vậy, tuy mức độ sản xuất công
nghiệp nhỏ nhưng môi trường không khí lại bò ô nhiễm trầm trọng hơn so với thủ đô
các nước khác.
Nhà máy điện Yên Phụ thuộc Quận Ba Đình trước đây là nguồn gây ô nhiễm
rất lớn cho khu vực dân cư xung quanh. Nồng độ SO2 trong khu vực gần nhà máy đạt
tới 0,32 mg/m3 gấp 6 lần tiêu chuẩn cho phép, vì vậy Nhà nước đã quyết đònh đóng
cửa.
Thượng Đình – khu công nghiệp lớn nhất Hà Nội bao gồm 22 xí nghiệp, nhà
máy lớn, nhỏ trước đây nằm xa khu dân cư, nay hàng loạt khu dân cư xung quanh
mọc lên như Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân Nam, Kim Giang…, mặt khác, các nhà
máy, xí nghiệp lại nằm xen kẽ trong khu dân cư, cơ quan, trường học nên mức độ
ảnh hưởng rất lớn.
Quận Hai Bà Trưng trước đây các xí nghiệp công nghiệp nằm ở vùng ven nội
thành, nay do mức độ đô thò hoá phát triển nhanh dẫn đến tình trạng các nhà máy, xí
nghiệp lại nằm xen kẽ trong khu dân cư. Ví dụ Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo,
Rượu bia Hà Nội, Dệt kim Đông Xuân, Dệt 8 tháng 3, Hoá chất Ba Nhất, Cơ khí Mai
Động… Nồng độ bụi và hơi khí độc ở các khu vực trên vượt quá tiêu chuẩn cho phép
từ 7 đến 8 lần, có nơi đến 15 hoặc 16 lần. Theo số liệu thống kê và đo đạc trên 110
xí nghiệp công nghiệp của nội thành thuộc 4 quận đã cho thấy kết quả đáng lo ngại.




21


Bảng 1.13 dưới đây cho thấy kết quả khảo sát của 4 quận nội thành nêu trên.
Bảng 1.13. Tình hình ô nhiễm môi trường không khí 4 quận nội thành Hà Nội
Bụi
(mg/m3)

SO2
(mg/m3)

CO2
(mg/m3)

CO
(mg/m3)

Quận Đống Đa

0,3 – 1

0,15 – 0,3

6 – 10

2–5


Quận Hai Bà Trưng
Quận Ba Đình
Quận Hoàn Kiếm

0,3 – 1
0,15
-

0,15 – 0,5
0,05 – 0,15
-

6 – 10
2
-

5 – 10
1
-

Tên Quận

Nguồn số liệu: Đề tài NCKH do Uỷ ban Khoa học Hà Nội – UBND tp Hà Nội
quản lý.
Về giao thông vận tải, tuy mật độ xe không lớn, các tuyến đường chính chỉ
khoảng 1.500 – 3.000 xe/giờ như do đường hẹp, mặt đường xấu, không phân tuyến
rõ ràng nên các phương tiện phải luôn thay đổi tốc độ, đặc biệt ở một số nút giao
thông như Cửa Nam, Ngã Tư Sở, Khâm Thiên…, các xe phải dừng lâu nên lượng
khói thải sinh ra rất lớn. Theo thống kê của Sở Giao thông Công chánh Hà Nội, năm
1996 ở Hà Nội có khoảng 65.000 ô tô các loại, 1.200 xe lam, 1.150 xe Bông Sen,

600.000 xe gắn máy 2 bánh, 150 xe bus các loại. Hàng năm số lượng xe ở Hà Nội
tăng lên rất nhanh, khoảng 17 – 20 % /năm. Dự báo đến năm 2.000 số xe ở Hà Nội
tăng lên rất nhanh so với năm 1996 (2,35 lần), trong đó ô tô con tăng 2,35 lần, xe tải
62 lần và xe bus 1,23 lần.
Tại một số tuyến đường như Mai Động, Lò Đúc, Minh Khai, Giải Phóng, Ngã
Tư Sở, Nguyễn Trãi, Thanh Xuân… nồng độ các chất ô nhiễm so với tiêu chuẩn cho
phép (TCVN – 1995) cao hơn rất nhiều lần.
Nồng độ SO2 tại Ngã Tư Sở lên đến 1,5 – 7,5 mg/m3, vượt tiêu chuẩn cho phép
3 – 15 lần.
Về tiếng ồn do các phương tiện giao thông gây ra trung bình trên các tuyến
đường từ 75 – 79 dBA, đây là mức ồn tương đối lớn, tương đương với mức ồn của các
thành phố khác trên thế giới.
Một đặc điểm cần lưu ý nữa là do các dòch vụ ăn uống, chế biến thức ăn và chợ
nhỏ nhiều nên lượng vi khuẩn tồn tại trong không khí khá nhiều. Qua khảo sát ở một
số đường phố phía Nam thành phố thì cứ 10 lít không khí chứa 282 – 386 con vi
khuẩn gây bệnh khác nhau, trong khi đó tại Berlin (Đức) sau thế chiến thứ 2 số
lượng vi khuẩn trong 10 lít không khí chỉ là 1 con.
Mức độ tồn tại các loại vi khuẩn trong không khí cao có thể dẫn đến dòch bệnh
22




và ảnh hưởng đến sức khỏe của dân cư xung quanh cao hơn các nơi khác.
1.4.3. Ô nhiễm không khí ở thành phố Hải Phòng
Thành phố Hải Phòng với dân số trên 400.000 người, đường sá chật hẹp, tổ chức
giao thông không khác gì Hà Nội nên ô nhiễm môi trường không khí gây ra không
khác gì Hà Nội. Mặt khác, đây lại là một hải cảng lớn thường xuyên đón các tàu chở
hàng xuất và nhập khẩu vào các tỉnh phía Bắc và là trung tâm phân phối hàng đi các
tỉnh phía Bắc nên mật độ giao thông tăng khá cao.

Về công nghiệp, Nhà máy cement Hải Phòng là nguồn gây ô nhiễm lớn nhất
thành phố Hải Phòng. Nhà máy sản xuất với hệ thống thiết bò lạc hậu, hệ thống lọc
bụi và xử lý khí độc hoạt động với hiệu quả kém và hay hỏng, không hoạt động.
Lượng khói bụi thải ra môi trường khá lớn. Về mùa hè do ở cuối hướng gió nên nội
thành ít bò ô nhiễm như vùng ngoại thành là nơi chòu ảnh hưởng rất lớn nguồn ô
nhiễm này. Nồng độ bụi lơ lửng xung quanh nhà máy biến thiên từ 1,4 đến 4,2
mg/m3, cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 3 đến 8 lần. Vùng dân cư cách xa ống khói
1.000 m bò ảnh hưởng lớn nhất do quá trình phát tán chất ô nhiễm gây nên. Ngoài
Nhà máy cement Hải Phòng ra, các nhà máy điện Thượng Lý, Cơ khí Duyên Hải,
Đóng tàu Bạch Đằng, nhà máy Thuỷ Tinh, vv… cũng là những nguồn ô nhiễm đáng
kể gây nên hiện trạng ô nhiễm hiện nay của thành phố Hải Phòng. Khu vực bò ô
nhiễm đã chiếm 60 % diện tích toàn thành phố. Trong một số nhà máy nồng độ các
chấy ô nhiễm tăng cao quá lớn; ví dụ nồng độ bụi trong Nhà máy cement Hải Phòng
tại phân xưởng đóng bao lên tới 639 mg/m3. Tiếng ồn trong một số Nhà máy như Cơ
khí Duyên Hải là 112 dBA, Nhà máy đóng tàu Bạch Đằng 106 đến 116 dBA.
1.4.4. Ô nhiễm môi trường không khí ở một số khu công nghiệp và các tỉnh khác
Trong những năm trước đây, khi chưa có chính sách cho phép đầu tư sản xuất,
trên lãnh thổ Việt Nam còn khá ít các khu công nghiệp. Ở miền Bắc có một số khu
công nghiệp như vùng mỏ Quảng Ninh, khu gang thép Thái Nguyên, khu công
nghiệp Việt Trì, Hải Phòng… Bên cạnh đó còn một số nhà máy lớn với mức độ ô
nhiễm khá trầm trọng như Nhà máy cement Hoàng Thạch, Nhà máy nhiệt điện Ninh
Bình, Phân đạm Hà Bắc, Phân lân Văn Điển, vv… Ở miền Nam, lớn nhất là khu công
nghiệp Biên Hoà (nay đổi thành Biên Hoà 1) thuộc tỉnh Đồng Nai, ngoài ra còn khá
nhiều nhà máy nằm rải rác xen kẽ trong các khu dân cư như khu vực quận Tân Bình
với các nhà máy Hoá chất Tân Bình, Dầu ăn Tân Bình, Mì Vifon, Dệt Thắng Lợi,
khu các nhà máy dệt Phước Long, Việt Thắng thuộc huyện Thủ Đức, Hoá chất Thủ
Đức, vv… Đó là chưa kể hàng chục ngàn cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp và sản




23


xuất tư nhân.
Trong các khu công nghiệp hoặc các nhà máy nêu trên, nồng độ các chất ô
nhiễm rất cao, có nơi vượt tiêu chuẩn cho phép hàng trăm lần. Phạm vi bò ô nhiễm
cũng rất rộng, có nơi lên tới hàng chục km.
Ví dụ Nhà máy cement Hoàng Thạch, với chiều cao ống khói 87 m, trước đây
khi hệ thống lọc bụi tónh điện hoạt động tốt, lượng bụi thải ra ngoài tuy có nồng độ
cao hơn tiêu chuẩn cho phép nhưng không nhiều. Trong những năm 1986 đến 1988,
do hệ thống lọc bụi bụi hỏng, không khí trong khu vực bò ô nhiễm rất nặng nề.
Lượng bụi thải ra mỗi ngày trung bình là 100 tấn, có nơi cách xa 10 đến 15 km vẫn
bò ô nhiễm. Qua kết quả nghiên cứu của một số đề tài trước đây ở miền Bắc cho
thấy, nồng độ bụi ở các xã xung quanh nhà máy rất cao. Ví dụ xã Minh Tân (Huyện
Kim Môn) cách nhà máy 0,5 đến 2 km nồng độ bụi trong không khí mùa hè tới 9,2
mg/m3, mùa đông 1,2 mg/m3. Bụi lắng trên mặt đất mùa hè từ 110 đến 417 g/m2
/tháng, mùa Đông từ 13 đến 163 mg/m2/ tháng. Ở xã Kim Sơn thuộc huyện Đông
Triều cách xa 5 đến 10 km, nồng độ bụi mùa hè là 0,65 đến 0,75 mg/m3, mùa đông
từ 0,65 đến 0,8 mg/m3; bụi lắng trên mặt đất mùa hè là 107 đến 128 g/m2 /tháng,
mùa đông là 69 đến 91 g/m2/tháng. Nồng độ SO2 ở các xã đều lớn, có nơi rất lớn như
xã Minh Tân đạt 1,67 đến 2,61 mg/m3.
Tại vùng mỏ Quảng Ninh, vựa than lớn nhất cả nước tình trạng ô nhiễm môi
trường không khí cũng đang ở mức báo động. Nồng độ bụi có cỡ hạt 5 μm (bụi gây
bệnh hô hấp) chiếm tỷ lệ rất cao, ở hầm lò là 70 đến 95 %, còn ở các nhà máy sàng,
tuyển thì thay đổi theo mùa, mùa mưa thời tiết ẩm tỷ lệ này là 50 đến 60 %, mùa
khô tỷ lệ này là 60 đến 8 %. Hàm lượng SiO2 (các tác nhân gây bệnh bụi phổi)
chiếm tỷ lệ 16 đến 30 % trong bụi than. Do đó tỷ lệ công nhân mắc các bệnh về
đường tai mũi họng chiếm 80 % trong tổng số người được khám, còn số người bò
bệnh bụi phổi chiếm tới 85 % trên tổng số công nhân mắc bệnh bụi phổi trong ngành
công nghiệp. Ở một số mỏ than hầm lò như Mạo Khê, Hà Lầm, Thống Nhất nồng độ

bụi đều vượt tiêu chuẩn cho phép rất nhiều lần. Bảng 1.14 cho chúng ta thấy điều
đó.
Bảng 1.14. Nồng độ bụi tại một số hầm lò (mg/m3)
Lò chợ

24

Nồng độ bụi trong không khí
(mg/m3)

Thống Nhất

33

Vàng Danh

58,2

Hà Lầm

128




Mạo Khê

77,7

Ở mỏ lộ thiên nồng độ bụi còøn cao hơn rất nhiều, có nơi vượt quá tiêu chuẩn

cho phép hàng trăm lần.
Ở một số các khu công nghiệp khác, nồng độ các chất ô nhiễm cũng rất cao,
theo kết quả sơ bộ điều tra của các cơ quan quản lý và giám sát môi trường cho thấy
một số kết quả sau,
Bảng 1.15. Ô nhiễm môi trường không khí ở một số nhà máy ở miền Bắc
Tên nhà máy

Điểm đo

Chất ô nhiễm

Nồng độ (mg/m3)

Hoá chất Việt Trì

Phối liệu thuốc 666

Bụi 666

0,8

Phân đạm Hà Bắc

Máy tạo khí

CO

150 – 170

Phân xưởng urê


NH3

95 – 101

Đúc chì

Hơi Chì

0,04

Đúc bản cực

Hơi Chì

0,03

Nạp liệu lò cao

CO

40 – 110

Ra liệu lò cao

HF

0,8 – 4

Xưởng điện giải


Cl2

5

Accu Vónh Phú
Phân lân Văn Điển
Vicaco

Về tiếng ồn trong các nhà máy như Cơ Khí Duyên Hải, xe lửa Gia Lâm, Dệt
Nam Đònh, Dệt Vónh Phú, Cơ khí Cẩm Phả…, tiếng ồn lên đến 100 đến 115 dBA, còn
trong các khu dân cư là 60 đến 70 dBA, vượt tiêu chuẩn cho phép hàng chục dBA.
Sau năm 1985, hàng loạt các khu công nghiệp đã hình thành, thu hút hàng ngàn
các nhà đầu tư chủ yếu là nước ngoài và một số nhà đầu tư trong nước tập trung ở
một số tỉnh, thành phố như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương,
Tây Ninh, Long An, Bà Ròa – Vũng Tàu, vv... Việc quản lý chặt chẽ ngay từ đầu về
ô nhiễm môi trường đã hạn chế mức độ ô nhiễm môi trường nói chung và môi trường
không khí nói riêng rất nhiều. Đây là một thành tích đáng kể của các cơ quan quản
lý và giám sát môi trường trên đòa bàn cả nước.
Câu hỏi kiểm tra và đánh giá:
1. Thế nào là không khí “sạch”?
2. Các tác nhân nào gây ô nhiễm không khí?
Tài liệu tham khảo:
Tiếng Việt



25



1. Trần Ngọc Chấn, Ô nhiễm không khí và kỹ thuật xử lý, Nhà xuất bản Khoa học
và Kỹ thuật, Hà Nội, 2000 – 2001.
2. Phạm Ngọc Đăng, Môi trường không khí, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật,
Hà Nội, 1997.
Tiếng Anh
3. Henry C. Perkins, Air pollution, Aerospace and Mechanical Engineering
Department University of Arizona, 1974.

26




×