Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

SKKN môn Tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.41 KB, 29 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
A. Đặt vấn đề
I. Lời nói đầu:
Việc hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt
(nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong môi trờng hoạt động của lứa
tuổi là một mục tiêu quan trọng của môn Tiếng Việt. Để thực hiện mục tiêu đó,
phân môn luyện từ và câu đã góp phần không nhỏ giúp học sinh ngày càng có kĩ
năng giao tiếp tự nhiên.
Nội dung phân môn luyện từ và câu ở lớp 4 khá phong phú. Việc dạy cho
học sinh câu chia theo mục đích nói trên cơ sở kế thừa chơng trình 165 tuần
còn đợc mở rộng và đi sâu hơn về các loại câu. Trong đó các bài học về câu kể có
tới 12 tiết. Chơng trình mới giúp học sinh nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về câu
kể với các kiểu câu ai làm gì? Ai thế nào? Ai là gì?.
Khi học về các kiểu câu kể nói trên, không phải học sinh nào cũng dễ dàng
xác định hay nhận dạng, phân biệt ngay đợc các kiểu câu kể. Qua thực tế giảng
dạy và trực tiếp kiểm tra kết quả học tập của học sinh hàng ngày, tôi nhận thấy
nhiều học sinh còn nhầm lẫn khi xác định các kiểu câu kể trong một đoạn văn.
Làm thế nào để giúp học sinh tránh nhầm lẫn hoặc giảm đợc nhầm lẫn, khi xác
định các câu kể kiểu Ai làm gì? Ai thế nào? Ai là gì? trong một đoạn văn luôn là
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
1
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
vấn đề khiến tôi băn khoăn trăn trở. Qua thời gian vừa dạy, vừa t duy và tự rút
kinh nghiệm, tôi xin mạnh dạn trình bày một số kinh nghiệm nhỏ nhằm nâng cao
chất lợng khi dạy học sinh lớp 4 phân biệt, xác định đúng các kiểu câu kể Ai làm
gì? Ai thế nào? Ai là gì?
II. Thực trạng và hiệu quả dạy các kiểu câu kể ở lớp 4.
1. Thực trạng:
a, Đặc điểm tình hình dạy học ở tr ờng Tiểu học Thống Nhất.
* Giáo viên:


Năm học 2006 2007, trờng TH Thống Nhất triển khai thí điểm công tác
dạy phân ban. Bản thân tôi đợc Ban giám hiệu giao nhiệm vụ dạy 3 phân môn:
Tập đọc, tập làm văn và luyện từ và câu của khối 4 với tổng số 87 học sinh/3lớp.
Việc dạy phân ban giúp tôi có điều kiện nghiên cứu, chuyên sâu hơn nội dung
dạy học Tiếng Việt lớp 4. Trong các giờ dạy, tôi đã cố gắng đổi mới PPDH, tổ
chức đa dạng các hình thức dạy học nhằm ngày càng nâng cao hơn chất lợng dạy
học.
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
2
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
* Học sinh:
Nhìn chung, các em học sinh khối 4 đều ngoan ngoãn, chăm chỉ học tập.
Nhiều học sinh luôn tự giác học tập, ít để giáo viên phải đôn đốc, nhắc nhở. Đối
với phân môn luyện tự và câu, mức độ tiếp thu bài và vận dung thực hành của học
sinh là tơng đối tốt, song với những kiến thức đòi hỏi khả năng t duy thì đa số học
sinh còn lúng túng. Việc xác định câu kể này thuộc kiểu Ai làm gì? Ai thế nào?
Ai là gì? là một dẫn chứng cho sự lúng túng đó của học sinh. Bên cạnh đó, rải rác
ở cả 3 lớp 4A, 4B, 4C vẫn còn những học sinh phải đôn đốc, nhắc nhở rất nhiều, ý
thức tự giác cha cao. Nguyên nhân là các em cha hiểu bài, cha chăm học.
b, Sách giáo khoa, vở bài tập và tài liệu tham khảo:
100% học sinh khối 4 đều có đầy đủ SGK, vở bài tập môn Tiếng Việt.
Riêng tài liệu tham khảo, đối với phân môn luyện từ và câu các em cha có sự đầu
t nhiều. Phần lớn, các em thờng mua các tài liệu phục vụ cho phân môn Tập làm
văn.
Đối với giáo viên, ngoài SGK, vở bài tập, bài soạn còn có thêm một số tài
liệu khác nh: Thiết kế giảng dạy Tiến Việt 4, từ điển Tiếng Việt, các tài liệu nâng
cao của phân môn luyện từ và câu, hỏi - đáp về dạy học Tiếng Việt... Các tài liệu
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định

3
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
này góp phần hỗ trợ các nội dung dạy học và phơng pháp dạy học trong quá trình
giảng dạy.
2. Kết quả dạy và học phân môn luyện từ và các câu trong đó có nội dung
dạy câu kể.
* Kết quả giảng dạy của giáo viên:
Qua hai năm dạy học chơng trình mới đối với lớp 4 trong đó có phân môn
luyện từ và câu, bản thân tôi vừa nghiên cứu nội dung chơng trình, vừa tiến hành
dạy học trên lớp, tôi đã tự khắc phục dần những thiếu sót, tồn tại của các tiết dạy
trớc, rút kinh nghiệm, bổ sung sáng tạo hơn trong các tiết dạy sau. Bên cạnh đó,
tôi còn tham gia dự giờ thăm lớp và học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, trao
đổi về PPDH, hình thức tổ chức dạy học, tham gia học BDTX chu kỳ III. Vì vậy,
nhìn chung các tiết dạy đợc đánh giá từ mức độ khá trở lên.
* Về kết quả học tập của học sinh:
Đối với môn Tiếng Việt nói chung, học sinh tham gia học tập một cách tích cực.
Nhiều em bộc lộ rõ khả năng tiếp thu bài nhanh. Cuối học kỳ I, kết quả kiểm tra
định kì đối với môn Tiếng Việt của toàn khối nh sau:
Loại giỏi Loại khá Loại trung bình Loại yếu
SL TL SL TL SL TL SL TL
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
4
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
10 11,5 41 47,1 34 39,1 2 2
Với các tiết học về câu kể của phân môn luyện từ và câu nói riêng, các em
đã có những phẩn ứng nhanh, nhạy trong các giờ học. Tuy nhiên, số học
sinh có những phát hiện nhanh cha nhiều. Để khảo sát chất lợng học học sinh đối
với việc xác định kiểu câu kể, tôi đã cho học sinh làm bài tập nhỏ sau đây:
Em hãy gạch 1 gạch dới chủ ngữ, hai gạch dới vị ngữ trong câu văn sau và

nói rõ câu văn thuộc kiểu câu kể Ai làm gì? Ai thế nào? hay câu Ai là gì?:
Bốn cánh khẽ rung rung nh đang còn phân vân.
Kết quả là:
Bài đạt điểm: 9,10 : 9 em = 10,3%
Bài đạt điểm 7, 8 : 33 em = 37,9%
Bài đạt điểm 5, 6 : 40 em = 46,1%
Bài có điểm dới 5: 5 = 5,7%.
Câu văn trên thuộc kiểu câu kể Ai thế nào? song lại có tới hơn 50% số HS
xác định đây là câu kể kiểu Ai làm gì? do nhầm lẫn từ rung rung chỉ hoạt động
của đôi cánh mà không quan tâm đến từ khẽ chỉ đặc điểm của sự vật (bốn
cánh).
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
5
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
Với các bài tập yêu cầu HS viết đoạn văn trong đó có câu thuộc một trong
các kiểu câu kể đã học nhiều em chỉ chú trọng sao cho viết đúng đoạn văn có đủ
số lợng câu theo yêu cầu đề bài (5-7 câu). Nhiều khi các em còn quan niệm cứ
một dòng là đợc một câu nên thờng trao đổi với nhau tớ đợc 3 dòng rồi còn tớ
đợc 6 dòng rồi. Tất cả những quan sát và đánh giá trên đây cho thấy việc xác
định đúng các kiểu câu kể và phân biệt rõ các kiểu câu kể của học sinh phần nào
có sự mơ hồ, thiếu sự chắc chắn.
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
6
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
B. Giải quyết vấn đề
I. Các giải pháp thực hiện:
1. Tìm hiểu và nắm vững cấu trúc, nội dung dạy câu kể ở lớp 4:
Nội dung chơng trình phân môn luyện từ và câu ở lớp 4 đợc sắp xếp xen kẽ

các bài mở rộng vốn từ với các bài học có nội dung lí thuyết. Qua các bài lí
thuyết, các em đợc cung cấp kiến thức từ dễ đến khó, bắt đầu từ các bài học về
tiếng, từ đến câu, bộ phận phụ của câu, Dấu câu và một số nghi thức giao tiếp đợc
học xen kẽ trong chơng trình.
Nội dung về câu kể đợc học ở cuối kỳ I (3 tiết) ở tuần 16 và 17 đến đầu kỳ
II (9 tiết) tuần 19, 20, 21, 22, 24, 25, 26. Cụ thể nh sau:
Tuần 16: 1 tiết: Câu kể
Tuần 17: 2 tiết: Câu kể Ai làm gì?
Vị ngữ trong câu kể Ai làm gì?
Tuần 19: 1 tiết: Chủ ngữ trong câu kể Ai làm gì?
Tuần 20: 1 tiết: Luyện tập về câu kể Ai làm gì?
Tuần 21: 2 tiết: Câu kể Ai thế nào?
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
7
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
Vị ngữ trong câu kể Ai thế nào?
Tuần 22: 1 tiết: Chủ ngữ trong câu kể Ai thế nào?
Tuần 24: 2 tiết: Câu kể Ai là gì?
Vị ngữ trong câu kể Ai là gì
Tuần 25: 1 tiết: chủ ngữ trong câu kể Ai là gì?
Tuần 26: 1 tiết: Luyện tập về câu kể Ai là gì?
Những tiết luyện tập gồm tập hợp 3 4 bài tập. Còn lại các bài cung cấp
kiến thức mới đều có cấu trúc giống nhau: gồm 3 phần: nhận xét, ghi nhớ, luyện
tập.
Việc sắp xếp nội dung các bài học cũng đợc cấu trúc tơng tự nhau. Mỗi
kiểu câu kể đều học bài thứ nhất giới thiệu kiểu câu đó là gì? Bài thứ hai học về
bộ phận vị ngữ, bài thứ ba học về chủ ngữ, bài thứ 4 là bài luyện tập.
2. Tìm hiểu các tài liệu hớng dẫn giảng dạy về câu kể ở lớp 4:
Để có đợc sự thống nhất chung và đúng đắn nhất trong một tiết dạy về câu

kể, tôi thờng xem lại chơng trình học BDTX, nội dung học chuyên đề đối với
phân môn luyện từ và câu, tham khảo tiến trình bài soạn trong sách giáo viên
Tiếng Việt 4, thiết kế giảng dạy Tiếng Việt 4. Sau khi tham khảo thài liệu, tôi
soạn giáo án cho mỗi tiết dạy có sự chọn lọc, sắp xếp lại sao cho phù hợp với đối
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
8
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
tợng học sinh, điều kiện dạy học song vẫn đảm bảo đầy đủ nội dung và mục tiêu
tiết dạy.
Ngoài ra, tôi còn tham khảo, vận dung, kế thừa các phơng pháp dạy học về
câu kể của chơng trình cũ, đọc thêm tài liệu sách, báo có tin, bài nói, viết về dạy
luyện từ và câu ở lớp 4 nhằm góp phần giúp học sinh nâng cao chất lợng xác định
các kiểu câu kể.
3. Nắm vững tinh thần chung khi dạy luyện từ và câu ở lớp 4:
Phân môn luyện từ và câu ở lớp 4 đợc dạy dới hai kiểu:
a, Kiểu bài lí thuyết: bào gồn 3 phần: nhận xét, ghi nhớ, luyện tập. Thông
thờng, giáo viên tổ chức cho học sinh giải quyết các bài tập ở phần nhận xét, giáo
viên gợi mở giúp học sinh rút ra ghi nhớ. Từ ghi nhớ, học sinh vận dung bài làm
bài tập ở phần luyện tập dới hình htức cá nhân hay nhóm.
b, Kiểu bài luyện tập và mở rộng vốn từ: Bao gồn tập hợp các bài tập.
Chủ yếu, giáo viên tổ chức cho học sinh các hoạt động dạy học theo cách thức
linh hoạt (trao đổi nhóm, thi đua giữa các nhóm, cá nhân) theo trình tự.
+ Hớng dẫn HS tìm hiểu yêu cầu bài tập.
+ Chữa mẫu cho học sinh một phần hoặc một bài.
+ Tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động học tập.
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
9
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007

+ Tổ chức đánh giá, nhận xét kết quả bài làm.
4. Tham khảo các tiết dạy trên băng và ý kiến đồng nghiệp:
Trong thời gian tham gia học chuyên đề thay SGK lớp 4 và lớp 5, tôi đã đ-
ợc xem một số băng hình các tiết dạy luyện từ và câu. Thực tế không có các băng
dạy về câu kể song qua băng hình dạy các kiểu bài lí thuyết, ít nhiều bàn thân tôi
đã học tập đợc cách tổ chức dạy học, đặc biệt là cách tổ chức cho học sinh khai
thức ngữ liệu ở phần nhận xét. Trong quá trình giảng dạy, nếu có vẫn đề gì còn
băng khoăn áy náy, tôi thờng tham khảo ý kiến đồng nghiệp, xin ý kiến chỉ đạo
của phụ trách chuyên môn, học hỏi thêm kinh nghiệm tổ chức dạy học của đồng
nghiệp trong trờng. Qua đó, tôi đã tự rút ra những kinh nghiệm thiết thực khi dạy
luyện từ và câu nói chung và dạy cho học sinh xác định đúng, phân biệt đợc các
kiểu câu kể đã học nói riêng. Bằng những giải pháp trên, sau đây tôi xin đợc trình
bầy một só biện pháp giúp học sinh lớp 4 xác định đúng các kiểu câu kể.
II. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 xác định đúng các
kiểu câu kể.
Khác với chơng trình cũ, chơng trình mới ngoài bài câu kể có tính khái
quát chung, học sinh còn đợc học kĩ càng về 3 kiểu câu kể Ai làm gì? Ai thế nào?
Ai là gì?. ở những tiết đầu, khi mới học về kiểu câu kể Ai làm gì? đa số học sinh
đều xác định tơng đối đúng kiểu câu này. Nhng khi học tiếp sang kiểu câu kể Ai
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
10
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
thế nào? và Ai là gì? thì việc xác định các kiểu câu kể trong một đoạn văn nhiều
em bị nhầm lẫn. Chẳng hạn hai câu sau đây là hai câu kể kiểu Ai làm gì? nhng đa
số học sinh xác định đây là câu kể kiểu Ai thế nào?
Câu 1: Đàn voi bớc đi chậm rãi.
Câu 2: Ngời quản tợng ngồi vắt vẻo trên chú voi đi đầu.
Nguyên nhân của sự nhầm lẫn này là ro các em thấy trong hai câu trên đều
có các từ ngữ chỉ đặc điểm, tính chất (từ chậm rãi, vắt vẻo) mà không tìm hiểu để

thấy hai từ này đều chỉ đặc điểm của hoạt động (đi, ngồi) chứ không chỉ đặc điểm
của sự vật. Để giúp học sinh tránh đợc sự nhậm lẫn trên, tôi xin đợc đợc ra một số
biện pháp nh sau:
1. Giúp học sinh nắm vững khái niệm câu kể, cách dùng câu kể.
Thuộc ghi nhớ về khái nhiệm câu kể thì có nhiều học sinh rất thuộc song
hiểu và nắm vững khái miệm câu kể thì chỉ có những học sinh khá, giỏi đạt đợc.
Vì vậy, nhằm giúp học sinh nắm vững khái niệm câu kể, ngay bài học đầu tiên về
câu kể, giáo viên phải gây đợc ấn tợng cho học sinh bằng cách tổ chức cho HS
phân tích tốt ngữ liệu. Đoạn văn ngữ liệu (bài tập 1) trang 161 Tiếng Việt 4
tập 1 có 3 câu kể và 1 câu hỏi. Từ sự phân tích đoạn ngữ liệu này và đoạn ngữ
liệu ở bài tập 3, giáo viên cho học sinh phát hiện và so sánh đặc điểm của câu hỏi
với các câu còn lại, gợi mở để học sinh phát hiện đặc điểm của kiểu câu mới. Từ
đó rút ra kết luận về câu kể và chốt lại nội dung so sánh giữa câu hỏi và câu kể
bằng bảng so sánh sau:
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
11

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×