Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SỰ HÌNH THÀNH và PHÁT TRIỂNCỦA TRIẾT học mác LÊNIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.17 KB, 19 trang )

SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂNCỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN . Ý
NGHĨA VÀ SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG TRONG LÃNH ĐẠO
XÂY DỰNGCHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
Sự hình thành triết học Mác-Lênin là một thể thống nhất giữa chủ nghĩa duy
vật biện chứng (CNDVBC) và chủ nghĩa duy vật lịch sử (CNDVLS). Đó là đỉnh
cao sự phát triển của trí tuệ loài người, là một kết quả hợp quy luật khách quan của
sự phát triển của khoa học, là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác; đồng
thời là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của toàn bộ chủ nghĩa Mác trong
xem xét, đánh giá, cải tạo và làm chủ mọi sự vật hiện tượng, làm chủ thế giới
khách quan, cũng như làm cơ sở đánh giá trong các lĩnh vực khoa học khác. Triết
học Mác khác hẳn về chất so với tất cả các học thuyết triết học trước đó, vì vậy
Lênin đã viết: “… Đã là học thuyết vạn năng vì đã là một học thuyết chính xác, đã
là một học thuyết hoàn bị và chặt chẽ. đã cung cấp cho người ta một thế giới quan
hoàn chỉnh, không thoả hiệp với bất cứ một sự mê tín nào nào, một thế lực phản
động nào" (1).
Sự hình thành và phát triển của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng
trong lịch sử triết học. Triết học Mác ra đời chính là do những đòi hỏi cấp
thiết của điều kiện kinh tế, chính trị trong xã hội tư bản đầu thế kỷ XIX ,
cùng với sự nhận thức và khái quát thiên tài của Mác-Ăngghen lúc bấy giờ đã
làm rõ những cơ sở khoa học, đó là những di sản quý báu trong kho tàng lý
luận của nhân loại. Triết học Mác ra đời trong những điều kiện cả khách quan
và chủ quan ở thế kỷ XIX.
Về nhân tố khách quan. Điều kiện kinh tế-xã hội những năm 40 của thế kỷ
XIX, phương thức sản xuất (PTSX) tư bản chủ nghĩa ở Tây Âu đã được xác lập,
nhất là ở Anh và Pháp; nước Anh đã trở thành cường quốc tư bản chủ nghĩa
(TBCN) với ngành công nghiệp hùng hậu. ở Pháp cũng hoàn thành cuộc cách
mạng công nghiệp, đã làm biến đổi sâu sắc mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội ở phạm vi nhiều nước. Từ chỗ lực lượng sản xuất có sự biến đổi về chất, đã
chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp là chủ yếu, lao động
máy móc thay cho lao động thủ công, từ đó làm cho năng xuất lao động tăng vọt.
Sự tiến bộ và tính chất ưu việt của PTSX TBCN đã ngày càng khẳng định rõ nét


(1)

Lênin, Toàn tập, tập 23, Nxb TBM 1980, tr.50.


hơn. Điều đó đã tất yếu làm nảy sinh một nền đại công nghiệp, đồng thời cũng
xuất hiện 2 giai cấp đối đầu trong xã hội, đó là giai cấp tư sản (GCTS) và giai cấp
vô sản (GCVS) phát triển ngày càng nhanh và hùng mạnh.
Chính sự phát triển của CNTB đã làm cho những mâu thuẫn vốn có trong xã
hội tư bản bộc lộ rõ nét và ngày càng gay gắt. Những mâu thuẫn ấy có nguồn gốc
từ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản xuất, mà biểu hiện cụ thể là mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất (LLSX) và quan hệ sản xuất (QHSX), biểu hiện của
nó về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa GCTS và GCVS. Sự bóc lột của GCVS đối với
giai cấp công nhân đã dẫn đến giai cấp công nhân nổi dậy, tuy nhiên lúc đầu vẫn
chỉ là những cuộc đấu tranh tự phát, tiêu biểu như: Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt
Lyông (Pháp) từ 1831 đến 1834; Phong trào hiến chương ở Anh vào cuối những
năm 30 của thế kỷ XIX. ở Đức nửa đầu thế kỷ XIX về cơ bản là công trường thủ
công và đang trong quá trình phát triển TBCN, kinh tế còn kém so với Anh và
Pháp, vẫn là một nước nông nghiệp, bộ phận chủ yếu trong dân cư vẫn là những
nông dân và GCTS thành thị, số lượng công nhân còn ít, chưa thực sự đủ lực để
tiến hành một cuộc cách mạng. Tuy nhiên, từ 1835 nền công nghiệp Đức bắt đầu
phát triển, cách mạng công nghiệp đã dần chuyển nghề thủ công và công trường
thủ công sang nền công nghiệp TBCN. Công nhân là những người bị bóc lột tàn
bạo trong các công xưởng TBCN, hàng loạt công nhân bị thất nghiệp do sự phát
triển của máy móc, mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX TBCN ngày càng phát triển
sâu sắc. Đến cuối thập kỷ 40 của thế kỷ XIX thì phong trào cách mạng thế giới
chuyển về Đức. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa tự phát của thợ dệt Xilêdi - 1844,
GCTS Đức mới được hình thành nên còn non yếu, không những không chống lại
mà còn thoả hiệp với nhà nước phong kiến, dựa vào nhà nước phong kiến để chống
GCVS.

Cuộc đấu tranh giữa GCTS và GCVS ở nhiều nước trên thế giới ngày càng
gay gắt, những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng có tổ chức hơn và
mang tính tự giác, tính chính trị rõ rệt và ngày càng khẳng định là một lực lượng
độc lập về chính trị. Những phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đặt ra đòi
hỏi cấp thiết phải có một lý luận cách mạng, khoa học dẫn đường nhằm lý giải một
cách khoa học về địa vị và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, sự cần thiết
phải đánh đổ chế độ TBCN và mọi thế lực phản động, vạch ra con đường mới để


hướng đến một xã hội văn minh hơn. Mác-ăngghen đã sống và chiến đấu trong
phong trào cách mạng của giai cấp công nhân. Hai ông đã nghiên cứu, tiếp thu và
khái quát thành những kinh nghiệm đấu tranh của phong trào công nhân thế giới,
từ đó xây dựng học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học, trong đó triết học Mác
là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận chung nhất.
Bên cạnh đó, tiền đề khoa học tự nhiên thế kỷ XIX cũng có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển triết học Mác. Vào những năm
40 của thế kỷ XIX khoa học tự nhiên phát triển rất mạnh, đã đem lại nhiều thành
tựu rực rỡ với những phát minh "vạch thời đại". Từ đó đặt ra đòi hỏi phải có sự
khái quát về mặt triết học để vạch ra mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các
quá trình xảy ra trong tự nhiên và chứng minh một cách biện chứng sự phát triển
của tự nhiên. Tuy nhiên, sự khái quát đó không thể có được nếu đứng trên lập
trường duy tâm, và cũng không thể đứng trên lập trường duy vật siêu hình; mà chỉ
khía quát được trên lập trường triết học DVBC. Điển hình là 3 phát kiến vĩ đại có
tác dụng to lớn đối với sự hình thành triết học Mác.
Thứ nhất, Học thuyết về cấu tạo tế bào do hai nhà bác học người Đức
Slâyđen và Svan xây dựng năm 1838-1839. Nó chứng minh rằng, cơ thể của thực
vật và động vật đều do các tế bào tạo nên, các tế bào có chung cùng một cấu trúc
như nhau, nhưng cùng một chức năng sinh lý cùng sự phát triển của cơ thể sống
diễn ra bằng còn đường nhân đôi và phân hoá của tế bào, tạo nên sự biến đổi
không ngừng trong quá trình trưởng thành và diệt vong của cơ thể sinh vật. Học

thuyết đã khẳng định sự thống nhất của tất cả những cơ thể sống và chúng có cùng
nguồn gốc. Qua đó có thể nhìn vào bản chất sự sống theo quan điểm về mối liên
hệ, về sự thống nhất các hình thức của nó và sự phát triển của các hình thức ấy, về
sự phát triển nhảy vọt trong quá trình tồn tại và phát triển của các sinh vật sống.
Thứ hai, Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng do Rmayerơ (Đức)
khái quát 1842-1845. Rmayero đã chứng minh, vận động trong tự nhiên là khách
quan và phổ biến, nó được biểu hiện bằng nhiều hình thức khác nhau và có thể
chuyển hoá cho nhau. Trong quá trình chuyển hoá giữa các hình thức vận động,
năng lượng của sự vật luôn được bảo toàn, không mất đi; sau đó đã được nhà vật lý
học Anh M.Pharađây chứng minh bằng thực nghiệm. Định luật bảo toàn và chuyển
hoá năng lượng đã xác định rõ căn cứ khoa học trong quan niệm triết học về tính


vĩnh viễn và không thể bị tiêu diệt của vật chất, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các
hình thức tồn tại đa dạng của vật chất.
Thứ ba, Học thuyết tiến hoá của nhà bác học người Anh ĐácUyn đã chứng
minh sự phát triển của thế giới hữu cơ, diễn ra từ hình thức cũ cho đến sự xuất hiện
hình thức mới, đó là từ hình thức ít phức tạp đến hình thức phức tạp nhiều hơn.
ông khẳng định, giữa các giống loài đều có mối liên hệ chung và phát triển theo
quy luật nhất định. Đặc tính chung của các cơ thể là biến dị và di truyền, những
biến đổi nào có lợi cho động vật và thực vật trong cuộc đấu tranh sinh tồn thì được
củng cố và tích luỹ để di truyền lại và quyết định sự xuất hiện của những dạng
động vật và thực vật mới. Học thuyết tiến hoá chính là minh chứng về tính đúng
đắn và vai trò của quan niệm phát triển trong nhận thức khoa học, cũng như trong
lĩnh vực triết học.
Ba phát kiến vĩ đại trên đã góp phần xác nhận nguyên tắc về tính thống nhất
vật chất của thế giới trong tư duy triết học. Những phát minh đó đã đặt ra đòi hỏi
phải có sự khái quát về mặt triết học, nhằm vạch ra những mối liên hệ lẫn nhau
giữa các quá trình xảy ra trong tự nhiên, biện chứng sự phát triển của tự nhiên.
Đồng thời, kết quả những phát minh ấy đã giáng một đòn chí tử vào chủ nghĩa duy

tâm, tôn giáo và phương pháp đánh giá, xem xét siêu hình trong quan niệm về thế
giới. Hơn thế, chính những kết quả đó đã tạo điều kiện cho Mác-ăngghen khái quát
những luận điểm cơ bản của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử sau
này.
Cùng với tiền đề về kinh tế xã hội, khoa học tự nhiên, tiền đề về lý luận có
vai trò quan trọng trong sự hình thành triết học Mác. Mác-Ăngghen đã đánh giá rất
cao tư tưởng biện chứng trong triết học Hêghen. C.Mác chỉ ra: "… ở Hêghen, phép
biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được
cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần bí" (1). Đồng thời, Mác-ăngghen
đã chỉ ra hạn chế lớn nhất trong triết học Hêghen đó là sự mâu thuẫn sâu sắc giữa
hệ thống triết học duy tâm và phương pháp biện chứng, từ đó hai ông đã rút ra "hạt
nhân hợp lý" là phép biện chứng và cải tạo chúng trên cơ sở duy vật. Trong khi phê
phán chủ nghĩa duy tâm (CNDT) của Hêghen, Mác dựa toàn bộ truyền thống chủ
nghĩa duy vật (CNDV) triết học mà trước hết là CNDV Phoiơbắc; 2 ông đánh giá
(1)

C.Mác, Tư bản quyển 1, tr.39.


cao triết học duy vật của Phoiơbắc nhưng đồng thời cũng lên án phê phán những
sai lầm như: tính siêu hình trực quan, duy tâm về mặt xã hội, chỉ nói đến con người
chung chung trừu tượng, siêu giai cấp, tách con người khỏi các mối quan hệ xã hội,
vứt bỏ "hạt nhân hợp lý" là phép biện chứng của Hêghen. Trong tư tưởng triết học
của mình, Mác-ăngghen đã tiếp thu những hạt nhân cơ bản của Phoiơbắc và cải
tạo, phát triển lên một chất lượng mới trong nội dung tư tưởng triết học sau này.
Mác-ăngghen đã phê phán, kế thừa và tiếp thu có chọn lọc những mặt tiến bộ của
phép biện chứng Hêghen và CNDV Phoiơbắc. Từ đó sáng lập ra một học thuyết
triết học mới mà trong đó, CNDV và phép biện chứng thống nhất hữu cơ với nhau,
khái quát nên CNDVBC và CNDVLS. Bên cạnh đó, Mác-Ăngghen còn kế thừa
những yếu tố hợp lý trong kinh tế chính trị Anh và CNXH không tưởng Pháp để

khía quát nên CNDVLS, tiêu biểu là quan niệm về lý luận giá trị trong kinh tế
chính trị của Ađamxmit và Ricácđô, sự tuyệt đối hoá vai trò của quy luật giá trị
dưới hình thức đặc thù của xã hội tư bản và không đi tới nghiên cứu nguồn gốc giá
trị thặng dư của 2 tác giả này. Từ đó, Mác-ăngghen đã cải tạo kinh tế chính trị Anh
và đi tới quan niệm DVLS.
Về nhân tố chủ quan. Triết học Mác xuất hiện không chỉ là kết quả của sự
vận động và phát triển có tính quy luật của các nhân tố khách quan, mà còn được
hình thành trong sự thống nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Đó
là thiên tài của Mác-ăngghen, lập trường GCVS và tình bạn vĩ đại của hai ông.
Trước Mác do hạn chế về lập trường giai cấp và lịch sử, về thế giới quan và
phương pháp luận

nên không một nhà triết học nào thực hiện được cuộc cách

mạng trong triết học. Lênin chỉ ra rằng: "Thiên tài của Mác chính là ở chỗ ông đã
giải đáp được những vấn đề tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra" (1). Sở dĩ
Mác-Ăngghen làm nên bước ngoặt cách mạng trong lý luận và đã xây dựng được
một khoa học triết học mới là vì, ở hai ông có sự kết hợp nhuần nhuyễn và sâu sắc
những phẩm chất tinh tuý và uyên bác của nhà bác học và nhà cách mạng, chiều
sâu của tư duy triết học, chiều rộng của nhãn quan khoa học, quan điểm sáng tạo
trong việc giải quyết những nhiệm vụ do thực tiễn đặt ra là những phẩm chất đặc
biệt nổi bật của hai ông.

(1)

V.I Lênin, Toàn tập, tập 23, Nxb TBM. 1978, tr.49.


Mác-Ăngghen sống trong phong trào công nhân và là người trực tiếp chỉ đạo
phong trào, tình bạn của hai ông đã làm cho lý tưởng XHCN của phong trào công

nhân từ không tưởng trở thành hiện thực. Như vậy, triết học Mác cũng như toàn bộ
chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu lịch sử không những vì nó phản ánh thực
tiễn xã hội đương thời, nhất là thực tiễn cách mạng của phong trào công nhân, mà
còn là sư phát triển hợp quy luật tư tưởng của nhân loại và vạch ra con đường sáng
cho nhân loại.
Giai đoạn hình thành triết học Mác 1841-1848. Sự ra đời và phát triển một
thế giới quan mới - thế giới quan cách mạng của GCVS trong những năm đầu hoạt
động chính trị và khoa học của Mác-Ăngghen cho đến cách mạng tư sản 1848.
Trước 1841, quan điểm lập trường triết học Mác là duy tâm, quan điểm chính trị
theo lập trường dân chủ cách mạng. Duy tâm được biểu hiện đó là hai ông đều là
học trò của Hêghen, tôn thờ triết học Hêghen và đều thừa nhận tinh thần sản sinh
ra mọi vật. Mác nói: "Tôi coi cuộc sống là biểu hiện hành vi của tinh thần".
ăngghen nói: "Tôi quay về thượng đế, tất cả con tim tôi hướng về người". Mặt
khác, 2 ông đều thừa nhận nhà nước Phổ là hiện thân sinh động của “ý niệm tuyệt
đối" như Hêghen, các ông cũng đấu tranh chống CNDV, tuyệt đối hoá vai trò cá
nhân trong lịch sử, lập trường chính trị theo phái “Hêghen trẻ”.
Trước hết là sự quá độ từ CNDT và chủ nghĩa dân chủ cách mạng đến
CNDVBC của chủ nghĩa cộng sản khoa học của Mác- Ăngghen (1841-1844).
C.Mác sinh ra và lớn lên tại tỉnh Ranh nước Phổ và chịu ảnh hưởng của cuộc
cách mạng tư sản Pháp. Ngay từ khi học phổ thông, Mác đã tỏ rõ chí hướng và
khát khao làm giầu trí tuệ, ham học hỏi. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, Mác vào
học đại học luật ở Bon, sau 1 năm chuyển sang nghiên cứu lịch sử và triết học ở
BécLin. Tốt nghiệp đại học đầu 1841, đến giữa 1841 bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ
triết học với đề tài "Sự khác biệt giữa triết học tự nhiên của Đmôcrít và Eopiquya.
Sau đó, Mác có ý định làm phó giáo sư tại trường đại học tổng hợp Bon, nhưng do
một loạt những nhà bác học tiến bộ ở đây bị gạt ra khỏi công tác giảng dạy ở
trường này, nên Mác từ bỏ ý định đó và đến với báo chí để tổ chức diễn đàn và
tuyên truyền quan điểm dân chủ cách mạng của mình. Đến đầu 1842, Mác bắt đầu
cộng tác với tờ báo "Nhật báo tỉnh Ranh" và đến 10/1842 là tổng biên tập của báo
này. Dưới sự lãnh đạo của Mác tờ báo ngày càng có xu hướng DCCM rõ rệt, tham



gia đấu tranh cho lợi ích quần chúng nghèo khổ. Đây chính là thời kỳ chuyển đổi
TGQ của Mác.
C.Mác là học trò của Hêghen, nghiên cứu triết học Hêghen và chủ yếu là
PBC của Hêghen. Lúc đầu Mác thừa nhận Hêghen, nhưng sau khi làm việc ở tờ
báo tỉnh Ranh, với thực tiễn hoạt động và nhất là khi tờ báo này bị đóng cửa
1.4.1843 vì quan điểm trì trích chính phủ, thì sự nghi ngờ về sự "tuyệt đối đúng
đắn" của học thuyết Hêghen về mối quan hệ xã hội và nhà nước, sự nảy sinh
khuynh hướng duy vật từ sự khát vọng muốn cắt nghĩa hiện thực, xác lập tư tưởng
tự do trong thực tế và sự không dung hợp giữa tinh thần dân chủ cách mạng sâu
sắc với triết học duy tâm tư biện đã khiến Mác đi sâu nghiên cứu và tiến hành phê
phán triết học duy tâm của Hêghen. Mác kết luận: Pháp luật không phải của chung
cho mọi người, mà nó chỉ bảo vệ lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị. Và chính
lĩnh vực kinh tế nó quyết định cơ cấu xã hội; cơ cấu xã hội, nhất là cơ cấu giai cấp
nó quyết định nhà nước. Chức năng của nhà nước là bảo vệ giai cấp tổ chức ra nó,
từ đó Mác đi đến kết luận tổng quát: kinh tế quyết định chính trị. Đồng thời, đây là
cơ sở xuất phát cho những quan niệm về DVLS của Mác sau này và giáng một đòn
mạnh mẽ vào quan điểm của những người theo phái “Hêghen trẻ”.
Giữa 1843, Mác viết tác phẩm "Góp phần phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen". Mở đầu tác phẩm Mác viết: "Con người sáng tạo ra tôn giáo chứ không
phải tôn giáo sáng rạo ra con người". Thông qua đây đã chứng tỏ lập trường của
Mác đã có sự chuyển biến sang duy vật. Cuối 1843, Mác cùng Gienni sang Pari và
ở đay ông đã chuyển sang CNDV và CNCS, rời bỏ hẳn CNDT và chủ nghĩa dân
chủ cách mạng. Mác đã viết nhiều bài để khẳng định điều đó; tiếp đó Mác bắt đầu
nghiên cứu về CNXH, CNCS, hệ thống hoá những vấn đề về kinh tế chính trị và
phong trào công nhân ở châu âu. Đến đầu 1844, Mác hợp tác với nhà xuất bản
Rugơ xuất bản tạp chí "Niên giám Pháp Đức". Các tác phẩm đăng trên tạp chí này
đã chỉ ra sai lầm của chủ nghĩa xã hội không tưởng, đồng thời Mác khẳng định,
giải phóng chính trị chính là một trong những cải cách dân chủ tư sản, đó là một

bước tiến bộ nhưng chỉ giới hạn trong chế độ tư bản, chỉ có giải phóng nhân loại
mới là sự giải phóng chân chính của con người. Đồng thời, Mác đã hình thành tư
tưởng về vai trò lịch sử quốc tế của giai cấp công nhân, vai trò của cách mạng vô
sản.


Mùa hè 1844, Mác viết "Bản thảo kinh tế chính trị". Trong tác phẩm này, Mác
đưa ra những khái quát đầu tiên về kinh tế chính trị học, thông qua việc phê phán
kinh tế chính trị học cổ điển Anh và những quan điểm triết học thông qua việc tiếp
tục phê phán triết học Hêghen, nhất là PBC với những "hạt nhân hợp lý" của nó.
Những quan điểm mới của Mác được thể hiện trong việc phân tích sự tha hoá của
lao động và phạm trù "lao động bị tha hoá". Thuật ngữ "tha hoá" đã được sử dụng
rộng rãi hồi ấy trong các sách báo triết học, ở Hêghen là sự tự tha hoá của “ý niệm
tuyệt đối" thành giới tự nhiên; ở Phoiơbắc là sự tha hoá của bản chất tộc loại của con
người trong chúa. Mác cắt nghĩa sự tha hoá của con người từ chính điều kiện sống
và các quan hệ xã hội của con người, từ chính hoạt động thể hiện năng lực bản chất
của nó là lao động; đi từ nghiên cứu con người và cho rằng bản chất của con người
là hoạt động lao động, chính hoạt động lao động là phương thức tồn tại của con
người.
C.Mác đưa ra cơ chế của hoạt động con người đó là, quá trình lao động là
quá trình di chuyển một phần năng lượng bản chất của mình vào vật thể là sản
phẩm lao động. Sau đó con người lại tiêu dùng vật phẩm đó, đó chính là quá trình
vật phẩm hoàn toàn trả lại con người, để con người tái sản xuất sức ra lao động và
từ đó làm cho con người ngày càng phong phú hơn; chứ không như trong xã hội tư
bản tách rời giữa lao động và sở hữu và đã làm phá vỡ cơ chế hoạt động trên. Theo
Mác, để thiết lập được sở hữu với lao động thì phải xoá bỏ hiện tượng lao động bị
tha hoá và cụ thể là xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân, giải phóng con người. Đó cũng
là sự luận chứng cho tính tất yếu của CNCS trong sự phát triển xã hội. Đồng thời,
Mác luận giải theo quan điểm DVBC về vai trò quyết định của yếu tố vật chất,
khẳng định vai trò của lý luận và triết học. C.Mác viết: "Vũ khí của sự phê phán

không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí; lực lượng vật chất chỉ có thể
đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật
chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng"(1), "Cũng giống như triết học thấy
giai cấp vô sản là vũ khí của mình, giai cấp vô sản thấy triết học là vũ khí tinh
thần của mình"(2).

(1)
(2)

Mác - Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb ST, HN 1980, tr.25.
Mác - Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb ST, HN 1980, tr.34.


Đó là quan niệm thiên tài của Mác về duy vật lịch sử, quan điểm duy vật về
sự thống nhất biện chứng của ý thức xã hội với tồn tại xã hội.
Ph.Ăngghen sinh ra trong một gia đình chủ xưởng sợi ở tỉnh Ranh nước Phổ
(Đức), ông chỉ được gia đình cho học hết trung học và muốn ông trở thành nhà
kinh doanh. Sau này ông đã vừa làm vừa tự học và tham gia hoạt động khoa học và
chính trị và tự chọn con đường cách mạng cho cuộc đời mình. Việc nghiên cứu
triết học trong thời gian ở BécLin khi làm nghĩa vụ quân sự 2 năm đã dẫn ông đi xa
hơn. Sống ở Anh từ cuối 1842, ông đã nghiên cứu đời sống kinh tế và sự phát triển
chính trị của nước Anh, trực tiếp tham gia phong trào công nhân, do đó đã dẫn đến
bước chuyển biến căn bản trong thế giới quan của Ph.ăngghen sang CNDV và
CNCS. Các tác phẩm của Ph.ăngghen đăng trong "Niên gián Pháp-Đức" như: phác
thảo góp phần phê phán kinh tế chính trị; tình cảnh giai cấp công nhân Anh; Tô
mát Các Lây, quá khứ và hiện tại, đã chứng tỏ ông đã hoàn thành việc chuyển từ
CNDT sang CNDV, từ CNDCCM sang CNCS. Ph.ăngghen đã đứng trên lập
trường quan điểm duy vật và lập trường của CNXH để phê phán kinh tế chính trị
học của AđamXmit, Ri các đô, vạch trần quan điểm chính trị phản động trên lập
trường giai cấp quý tộc phong kiến của CácLây. Sự nhất trí về tư tưởng đã dẫn đến

tình bạn vĩ đại của C.Mác và Ph.ăngghen, gắn liền với tên tuổi của 2 ông với sự ra
đời và phát triển một thế giới quan mới mang tên Mác - TGQ cách mạng của giai
cấp công nhân.
C.Mác-Ph.ăngghen từng bước xây dựng những nguyên lý triết học DVBC và
DVLS. Tác phẩm "Gia đình thần thánh" là công trình khoa học đầu tiên do 2 ông
viết chung, được xuất bản tháng 2 năm 1845. Trong tác phẩm Mác-ăngghen đã lý
giải nhiều vấn đề theo quan điểm duy vật trong triết học mang tính chiến đấu như:
tập trung phê phán CNDT của phái “Hêghen trẻ" đứng đầu là anh em nhà Bauơ và
toàn bộ CNDT nói chung, đồng thời đề xuất một số nguyên lý cơ bản của triết học
mác xít và CNCS khoa học như: cuộc đấu tranh của CNDV và CNDT trong lịch
sử; vấn đề cơ bản của triết học; vấn đề nhận thức luận; biện chứng của sự thống
nhất và đấu trang giữa các mặt đối lập; các phạm trù của CNDVBC…
Đầu 1845, Mác đã đề xuất một quan điểm về CNDVLS với tư cách là cơ sở
triết học của CNCSKH thông qua "bản luận cương về Phoiơbắc" với tư tưởng
chính là vai trò quyết định của thực tiễn cách mạng, của vật chất trong đời sống xã


hội. C.Mác khẳng định, thực tiễn là cơ sở, là tiêu chuẩn và là mục đích của nhận
thức, kể cả nhận thức triết học mới; chỉ có trong quá trình thực tiễn cách mạng, con
người mới làm thay đổi hiện thực xung quanh mình, cũng như thay đổi bản thân
mình. Đồng thời, Mác phê phán quan niệm siêu hình, phi lịch sử của Phoiơbắc về
con người và đưa ra luận điểm quan trọng của CNDVLS: "…Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội", con người trong xã hội
bao giờ cũng là sản phẩm của một hình thái xã hội nhất định, "các nhà triết học đã
chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới".
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” của 2 ông viết đầu 1846 đã thể hiện nghệ
thuật luận chiến tuyệt vời. Chương mở đầu tập 1 "Phoiơbắc, sự đối lập giữa quan
điểm duy vật và quan điểm duy tâm" được 2 ông đã trình bày có hệ thống quan điểm
duy vật về lịch sử cũng như học thuyết của CNCSKH. Còn các chương khác hai ông
chủ yếu phê phán những địch thủ của mình như: Bauơ, Sti-éc-nơ… Từ đó các ông

đã làm sáng tỏ một hệ thống phạm trù của CNDVLS; kết quả chủ yếu của quan
điểm DVLS là kết luận về tính tất yếu của cuộc CMVS. Mác- Ăng ghen đã chỉ ra
mối quan hệ giữa TTXH và YTXH, TTXH quyết định YTXH, YTXH chẳng qua là
sự phản ánh TTXH và mối quan hệ này trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau chúng
được biểu hiện khác nhau, vai trò của YTXH ngày càng tăng. Mác-Ăng ghen đã chỉ
ra "Đối với chúng ta chủ nghĩa cộng sản. Không phải là một trạng thái cần phải
sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà là hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta
gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xoá bỏ trạng thái hiện
nay"(1).
Đến 1847, Mác viết tác phẩm "Sự khốn cùng của triết học", trong đó Mác chỉ
rõ những sai lầm của Bruđông và cho rằng những khái niệm là do con người đặt ra
để phản ánh hiện thực. Đến 1848, Mác-ăngghen viết "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản".
đây là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác, trong đó cơ sở
triết học của chủ nghĩa Mác được trình bày một cách thiên tài, thống nhất với các
quan điểm kinh tế và các quan điểm chính trị, xã hội; những cơ sở của chủ nghĩa
Mác lần đầu tiên được trình bày dưới dạng hoàn chỉnh hệ thống với sự thống nhất
hữu cơ giữa các bộ phận của nó. Nội dung của “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” chủ
yếu đưa ra học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trong xã hội có giai cấp đối
(1)

Mác - Ăngghen, Toàn tập, tập.3, Nxb CTQG, HN, 1995, tr.51.


kháng, đấu tranh giai cấp là một quy luật tất yếu khách quan để xã hội vận động phát
triển. Từ đó Mác-ăngghen kết luận đấu tranh giai cấp giữa GCVS và GCTS là tất
yếu trong xã hội tư bản; đồng thời chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là
xoá bỏ CNTB, xây dựng chế độ xã hội mới đó là CNCS. Mác-ăngghen còn chỉ ra
con đường, biện pháp thực hiện cách mạng XHCN: giai cấp vô sản phải tổ chức ra
lực lượng chính trị, lý luận tiên phong, Đảng Cộng sản; đấu tranh trong mọi lĩnh
vực, trong đó chính trị phải đặt ra mục tiêu giành chính quyền, thiết lập CCVS.

Như vậy, từ 1844 đến 1848 là quá trình Mác-ăngghen hoàn thành việc sáng
lập ra CNDVBC và CNDVLS, đặt nền móng triết học vững chắc cho học thuyết
của mình, xây dựng những nguyên lý cơ bản của CNCSKH và học thuyết kinh tế
chính trị theo lập trường giai cấp vô sản.
Tiếp đó là sự phát triển của triết học Mác trong thời đại CNTB trước độc
quyền, từ CMTS 1848 đến Công xã Pari 1871. Đặc điểm nổi bật thời gian này là:
Phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ và chuyển dần từ tự phát sang tự giác;
đã xuất hiện Đảng Cộng sản, những cuộc đấu tranh của GCVS để giành dân chủ có
xu hướng chuyển thành cuộc đấu tranh cho CNXH. Quốc tế cộng sản thứ nhất ra
đời(1864-1872). Đây là thời kỳ Mác-ăngghen trực tiếp lãnh đạo phong trào công
nhân, hai ông đã phát triển triết học thêm một bước mới. Thời kỳ này, việc nghiên
cứu những vấn đề chính trị căn bản như: lý luận đấu tranh giai cấp, cách mạng, nhà
nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Do đó, 2 ông đã tập trung nghiên cứu những
quy luật phát triển kinh tế của hình thái kinh tế xã hội (HTKTXH) TBCN và tác
dụng của chúng trong những năm 1850-1860.
Trong tác phẩm "Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị" Mác đã chỉ rõ:
Trong xã hội với nghĩa rộng bao gồm 4 lĩnh vực cơ bản: Lĩnh vực kinh tế, đời sống
xã hội (PTSX: LLSX - QHSX); lĩnh vực xã hội (nghĩa hẹp) bao gồm các tầng lớp,
dân cư, giai cấp; lĩnh vực chính trị bao gồm tư tưởng chính trị, pháp luật và các
thiết chế; lĩnh vực tư tưởng bao gồm tâm lý xã hội, hệ tư tưởng, các HTYTXH, đạo
đức. Bên cạnh đó, Mác-ăngghen cũng đã trình bày một số vấn đề về triết học quân
sự như: vấn đề khởi nghĩa, vấn đề nghệ thuật và khoa học quân sự, vấn đề tổ chức
lực lượng tác chiến, vấn đề lãnh đạo chỉ huy trong chiến tranh… Về vấn đề khởi
nghĩa, ăngghen chỉ rõ: "Khởi nghĩa là nghệ thuật, khởi nghĩa phải tuân theo một
số quy tắc nhất định, khi bước vào khởi nghĩa phải hành động với một quyết tâm


rất lớn và phải giành thế tấn công, phòng ngự là diệt vong của mọi cuộc khởi
nghĩa vũ trang"(1).
Sự phát triển của chủ nghĩa Mác và triết học Mác từ sau Công xã Pari 1871

đến 1895. ở thời kỳ này, chủ nghĩa Mác đã trở thành học thuyết chiếm địa vị thống
trị trong giai cấp công nhân châu âu, được tuyên truyền rộng rãi trong giai cấp
công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động cực khổ. Mác-ăngghen tiếp tục phát
triển và nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của triết học mác xít, những quy luật,
những phạm trù của PBC, vấn đề cơ bản của triết học, nguồn gốc bản chất của
CNDT tôn giáo; đồng thời đánh giá cụ thể những thành công và hạn chế của triết
học cổ điển Đức (nhất là triết học Hêghen và Phoiơbắc), phê phán những trào lưu
triết học phản động khác.
Ph.Ăngghen nói về vấn đề cơ bản của triết học, đó là vấn đề giải quyết mối
quan hệ giữa tồn tại và tư duy (vật chất và ý thức) - giữa con người với thế giới (theo
nghĩa rộng). Vấn đề vật chất và vận động cũng được Mác-ăngghen khẳng định trong
nguyên lý tính thống nhất vật chất của thế giới, chỉ có một thế giới duy nhất - thế giới
vật chất; nó vận động, phát triển tuân theo quy luật khách quan; ý thức tinh thần là
thuộc tính của dạng vật chất phát triển cao - đó là óc người; mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức là mối quan hệ giữa thực thể với thuộc tính của nó. Vận động là thuộc tính
cố hữu của vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất; ăngghen đã phân ra các hình
thức vận động: cơ, lý, hoá, sinh, vận động xã hội; không gian, thời gian là phương
thức tồn tại của vật chất.
C.Mác- Ph.Ăng ghen đã đưa ra và khái quát các quy luật của PBC. Các quy
luật của PBC chủ yếu Hêghen đã nêu ra, Mác-ăngghen chỉ lật ngược lại và hoàn
chỉnh nó khỏi cái vỏ duy tâm thần bí của nó. Để chứng minh cho điều đó, ăngghen
đưa ra biện chứng khách quan, biện chứng chủ quan và chỉ rõ biện chứng khách
quan là biện chứng của hiện thực có trước, biện chứng chủ quan là sự phản ánh ít
nhiều đúng đắn các biện chứng khách quan vào trong đầu óc con người biết suy
nghĩ, là cái có sau. Mặt khác, Mác-ăngghen đã duy vật hoá 3 quy luật và các cặp
phạm trù của Hêghen. Bàn về lý luận nhận thức, ăngghen đã gắn hoạt động nhận
thức với hoạt động thực tiễn, xác định thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc, động lực thúc
đẩy nhận thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Bàn về triết học xã hội, ăngghen
(1)


Mác - Ăngghen, Toàn tập, tập 2, Nxb ST, HN.1981, tr.356-357.


nghiên cứu nguồn gốc giai cấp, gia đình, chế độ tư hữu, nhà nước. Khi Mác mất,
Ăng ghen đã bổ sung và làm rõ về vai trò tích cực sáng tạo của ý thức tác động trở
lại vật chất; cấu trúc xã hội suy đến cùng là do lực lượng kinh tế quyết định.
Sáng tạo ra CNDVBC và CNDVLS là cuộc cách mạng lớn lao, là bước
ngoặt cách mạng do Mác-Ăngghen thực hiện trong lĩnh vực triết học nói riêng và
trong sự phát triển tư tưởng của nhân loại nói chung. Sự thống nhất giữa CNDV
với PBC, giữa quan niệm duy vật về tự nhiên với quan niệm duy vật về đời sống
xã hội, giữa cách giải thích hiện thực về mặt triết học với cuộc đấu tranh để cải tạo
hiện thực cách mạng là công lao to lớn của 2 ông. Bước ngoặt đó được biểu hiện:
Mác-Ăngghen đã khắc phục sự hạn chế của CNDV cũ, tính siêu hình, máy móc và
trực quan của nó; đồng thời tiếp thu có chọn lọc những mặt tiến bộ, phê phán
những mặt hạn chế của THDV Phoiơbắc, qua đó xây dựng nên CNDV nhất
nguyên chân chính. Khắc phục hình thức thần bí của PBCDT của Hêghen, rút ra
những "hạt nhân hợp lý", trên cơ sở đó xây dựng nên PBC mác xít, hạt nhân
phương pháp luận của toàn bộ chủ nghĩa Mác; lần đầu tiên trong lịch sử Mácăngghen đã sáng tạo ra học thuyết triết học hoàn chỉnh, đó là CNDVBC. Hơn thế,
Mác-Ăngghen đã sáng tạo ra CNDVLS - học thuyết khoa học chân chính về những
quy luật vận động, phát triển của xã hội, xem xét sự phát triển của xã hội loài
người như một quá trình lịch sử tự nhiên và khẳng định: không phải chính trị quyết
định kinh tế, mà ngược lại kinh tế quyết định chính trị, TTXH quyết định YTXH;
những quan hệ chính trị, tôn giáo, pháp luật, đạo đức, triết học… phụ thuộc vào
những QHSXVC. Đồng thời, Mác-Ăngghen đã bổ sung vào triết học hàng loạt vấn
đề mới: xác định đúng đắn đối tượng và nhiệm vụ của triết học và vai trò, vị trí của
nó trong hệ thống các khoa học và chứng minh mối quan hệ biện chứng giữa triết
học và các khoa học cụ thể; trong đó triết học là cơ sở TGQ và PPL chung nhất của
các khoa học khác - còn các khoa học cụ thể thì nghiên cứu các quá trình trên một
lĩnh vực nhất định của thực tiễn khách quan. Hai ông cũng chỉ rõ, chỉ có THDVBC
mới có thể khái quát nên những quy luật chung nhất trong sự vận động, phát triển

của tự nhiên, xã hội, tư duy.
Mặt khác, Mác-Ăngghen đã công khai tính Đảng vô sản trong triết học của
mình, biến triết học thành vũ khí tinh thần của GCVS, thể hiện sâu sắc lập trường
triệt để của GCVS, không thoả hiệp trong cuộc đấu tranh tư tưởng. Tính đảng


trong triết học Mác gắn liền với tính khoa học. Triết học Mác đã khám ra bản chất
của hoạt động thực tiễn, chỉ ra vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận nhận
thức. Vì vậy, sự khác nhau căn bản về chất giữa triết học Mác với tất cả các học
thuyết triết học trước kia là ở chỗ: các nhà triết học trước đây chỉ giải thích thế giới
bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề cải tạo thế giới thì chưa được bàn đến
hoặc cố ý bỏ qua.
C.Mác- Ph.ăngghen đã tạo nên bước ngoặt cách mạng trong lĩnh vực lý luận
chiến tranh và quân đội, chỉ rõ vai trò, chức năng của quân đội; vạch ra tính chất xã
hội, nguồn gốc và bản chất của chiến tranh gắn liền với chính trị, giai cấp; chỉ rõ
vai trò quyết định của kinh tế trong chiến tranh, về mối quan hệ giữa chiến tranh và
hoà bình, khẳng định chiến tranh là bạn đường của CNTB, nghiêm khắc lên án
những cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa, chiến tranh phản động do GCTS tiến
hành.
Khi Mác mất, Lênin đã tiếp tục bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trước
những âm mưu chống phá của GCTS và những phát kiến vạch thời đại mới về
khoa học tự nhiên cùng với sự đòi hỏi về lý luận trong thời gian đó.
Cuối thế kỷ 19, chủ nghĩa tư bản đã có những biến đổi sâu sắc, chủ nghĩa tư
bản đã biến thành chủ nghĩa đế quốc. Cuộc đấu tranh giữa GCVS và tư sản ngày càng
gay gắt. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phát triển mạnh mẽ.
Trung tâm cách mạng thế giới chuyển từ nước Đức sang nước Nga. Giai cấp vô sản
Nga dưới sự lãnh đạo của Đảng mác xít kiểu mới do Lênin đứng đầu đã trở thành đội
tiên phong của phong trào công nhân quốc tế. Giai cấp công nhân Nga cùng giai cấp
nông dân đã thực hiện cuộc cách mạng tư sản, sau đó tiếp tục phát triển sang cách
mạng xã hội chủ nghĩa bằng thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa 10-1917 đã mở

đầu một thời đại mới.
Khoa học tự nhiên phát triển mạnh mẽ, nhiều phát minh có tính chất vạch
thời đại ra đời như: tia Rơnghen 1895; hiện tượng phóng xạ 1896; điện tử 1987;
tìm ra Uranium 1897. Những phát minh này đòi hỏi phải khái quát về mặt triết học
để trả lời những câu hỏi đang đặt ra, song phải đứng trên lập trường THDVBC,
nghĩa là vạch ra mối liên hệ phổ biến và sự phát triển của các sự vật, hiện tượng,
khẳng định những thành tựu mà khoa học đã đạt được. Tuy nhiên những phát minh
mới này bị cho rằng không giải thích được; người ta chứng minh nguyên tử là phân


chia được do vậy nguyên tử không phải là viên gạch cuối cùng xây dựng nên thế
giới vật chất. Lợi dụng điều đó, một số nhà triết học duy tâm kết luận: vật chất tiêu
tan, chỉ còn chúa là tồn tại vĩnh viễn. Từ đó các nhà khoa học tự nhiên khủng
hoảng về thế giới quan. Lênin dựa trên cơ sở CNDVBC mácxít và khái quát thành
tựu khoa học tự nhiên, vạch ra đường đi và đưa ra định nghĩa vật chất kinh điển
mang tính cách mạng và khoa học. Đồng thờ,i đấu tranh để bảo vệ triết học Mác
khỏi sự tấn công của bọn phản động trong lĩnh vực tư tưởng và triết học.
Về mặt lý luận, Lênin đã kế thừa trực tiếp di sản văn hoá Nga, Tônxtôi
Bêlinxki… Kế thừa toàn bộ di sản văn hoá nhân loại thông qua các của Alếch
xanĐrơ và PlêKhaNốp để đến với Mác-ăngghen. Bản thân PlêKhaNốp đã viết
nhiều tác phẩm chống lại phái dân tuý tự do chủ nghĩa; song đã phạm phải sai lầm
nghiêm trọng trong cuộc đấu tranh chống phái dân tuý, không đứng trên lập trường
mácxít để xác định đúng đắn động lực của cuộc cách mạng DCTS đang chín mùi ở
Nga, không thấy vai trò của giai cấp nông dân Nga. Bên cạnh đó, Lênin kế thừa
trực tiếp tư tưởng THDV Pháp thế kỷ 18, tư tưởng DCCM Nga, tư tưởng khai sáng
Pháp, đặc biệt là tư tưởng THDVBC của Mác-Ăngghen.
Để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác, Lênin thực sự là một thiên tài mà
chủ yếu trưởng thành và làm cách mạng từ hoạt động thực tiễn. Ông đã từ bỏ mọi
đặc quyền đặc lợi, danh hoa phú quý để hiến thân vào con đường đấu tranh vì lợi
ích của những người cần lao; cả cuộc đời là một tấm gương sáng chói chỉ vì lợi

ích nhân dân, đất nước và nhân loại.
Quá trình bảo vệ và phát triển triết học Mác, Lênin là người có nhiều công
lao to lớn, kế tục trung thành và triệt để học thuyết của Mác-ăngghen, bảo vệ chủ
nghĩa Mác; chống chủ nghĩa cơ hội xét lại và phát triển một cách sáng tạo cả 3 bộ
phận của chủ nghĩa Mác; trong đó CNDVBC và CNDVLS đem lại cho triết học
Mác một sức sống mới, sinh động hơn trên cơ sở giữ vững nguyên tắc cơ bản của
nó. Quá trình phát triển triết học Mác của Lênin có thể chia làm 3 thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất, Lênin phát triển triết học Mác trong quá trình đấu tranh
thiết lập Đảng mácxít kiểu mới ở Nga và thực hiện cuộc cách mạng DCTS Nga
(1894-1907). Lênin đã ghiên cứu toàn bộ chủ nghĩa xã hội Mác;
đấu tranh chống phái dân tuý, phái kinh tế; đấu tranh để thiết lập đảng và
lãnh đạo phát triển toàn nước Nga. Lênin đã viết tác phẩm "Những người bạn


dân…" vạch trần bộ mặt phản cách mạng, giả danh "những người bạn dân" của
bọn dân tuý Nga vào những năm 90 của thế kỷ 19; phê phán quan điểm duy tâm
chủ quan về lịch sử của những người dân tuý, bảo vệ chủ nghĩa Mác khỏi sự xuyên
tạc, làm phong phú thêm quan điểm DVLS, nhất là lý luận HTKT- XH của Mác.
Về CNDVBC, Lênin kế thừa và phát triển bản chất, đặc điểm PBC mácxít,
đối lập PBC mác xít với BCDT của Hêghen, các quy luật khách quan - sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn....
Về CNDVLS, Lênin trú trọng nghiên cứu quy luật vận động và phát
triển của xã hội; phê phán những quan điểm DTCQ về lịch sử của phái dân tuý,
phái cải lương xã hội và phái kinh tế; phát triển và làm phong phú thêm quan điểm
DVLS về vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân anh hùng lãnh tụ trong lịch
sử; vai trò của Đảng tiên phong và lý luận cách mạng trong thực tiễn đấu tranh của
giai cấp vô sản; nghiên cứu các hình thức đấu tranh giai cấp và khởi nghĩa vũ
trang, phê phán mạnh mẽ quan điểm cơ hội xét lại, vạch mặt bọn phản động trong
quốc tế. Lênin đã tổng kết kinh nghiện cách mạng Nga lần 1; đấu tranh chống bọn
Mensêvích, vạch mặt bọn phản động trong quốc tế 2 và lãnh đạo phong trào cách

mạng.
Lênin tập chung nghiên cứu sâu quy luật lượng - chất, giải quyết hàng loạt
vấn đề L-C, độ, những bước nhảy vọt biện chứng; vấn đề mâu thuẫn; biện chứng
giữa cái chung - cái riêng, cái đơn nhất, cái bộ phận. đưa ra học thuyết giai cấp và
đấu tranh giai cấp, đặc biệt là về đấu tranh vũ trang; bạo lực cách mạng và xem đó
là điều kiện tiên quyết lật đổ bạo lực thống trị; đồng thời phát triển tư tưởng cách
mạng không ngừng của Mác-ăngghen trong điều kiện mới.
Thời kỳ thứ hai, Lênin phát triển toàn diện chủ nghĩa Mác và lãnh đạo
phong trào công nhân Nga. Suốt thời kỳ này, Lênin sống lưu vong và chỉ đạo
phong trào cách mạng từ nước ngoài. Tiến hành củng cố, hàn gắn xây dựng tổ
chức Đảng và phong trào công nhân; chống chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa Ma Khơ
do viện cớ bảo vệ chủ nghĩa Mác thực chất là đã xuyên tạc triết học mác xít;
nghiên cứu và khái quát các thành tựu khoa học tự nhiên; nghiên cứu vấn đề dân
tộc, quan hệ quốc tế.


Về tư tưởng triết học, Lênin tập trung nghiên cứu giải quyết căn bản những
vấn đề cơ bản của PBC, nguồn gốc PBC; đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất,
khắc phục được sự khủng hoảng TGQ của nhà khoa học tự nhiên và triết học;
nghiên cứu nguồn gốc CNDT, tôn giáo; nghiên cứu con đường biện chứng của
nhận thức chân lý khách quan; nghiên cứu lịch sử triết học, các tác phẩm của
Hêghen. Lênin nghiên cứu TTXH và YTXH, đặc biệt cuộc đấu tranh chống bọn
Bô-Đa-Nốp không thừa nhận quan hệ vật chất xã hội khách quan và những quy
luật phát triển của các mối quan hệ đó; nghiên cứu và phát triển lý luận HTKTXH
của Mác; nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX; phát triển học
thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp, cách mạng XHCN, đưa ra định nghĩa giai cấp
và vấn đề liên minh công nông, quan hệ các dân tộc.
Trong tác phẩm "Bút ký triết học”, Lênin đã tiếp tục khai thác "hạt nhân hợp
lý" của triết học Hêghen để làm phong phú thêm PBCDV, nhất là lý luận về sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập; đồng thời nghiên cứu vấn đề chân lý

tương đối và tuyệt đối, chân lý khách quan, chân lý cụ thể; vấn đề thực tiễn và mối
liên hệ giữa lý luận và thực tiễn.
Về vấn đề Nhà nước và cách mạng, Lênin chỉ ra nhà nước là sản phẩm và
biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà, bản chất của nhà nước
là cơ quan thống trị giai cấp. Lênin còn nêu ra vấn đề cách mạng bạo lực, CCVS,
lý luận về đảng kiểu mới. Đặc biệt là luận điểm của Lênin về khả năng thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội bắt đầu ở một số nước, thậm chí ở một nước riêng lẻ, được rút
ra từ sự phân tích quy luật phát triển không đều của CNTB, đã có ảnh hưởng rất
lớn với tiến trình cách mạng ở nước Nga cũng như trên toàn thế giới. Đồng thời,
ông nêu lên vai trò sứ mệnh của GCVS, nhất là vai trò của Đảng Cộng sản. Vấn đề
QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX như thế nào? Đưa ra tư tưởng
về thời kỳ quá độ; nghiên cứu SXVC, quan hệ các dân tộc, chiến tranh và hoà bình.
Thời kỳ thứ ba, Lênin với những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng
CNXH ở Liên Xô (từ sau cách mạng 10.1917 đến khi Lênin mất). Lênin vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, giải đáp hàng loạt vấn đề bức bách do nhiệm
vụ lịch sử đặt ra. Ông đã giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa vật chất - ý thức; làm
phong phú và cụ thể hơn những vấn đề CNDVBC; đề ra học thuyết phản ánh, nêu
lên các chân lý tương đối, tuyệt đối; nêu nên nguyên tắc thống nhất giữa PBC-


LLNT-LGH; xây dựng hệ thống các quan điểm triết học vô thần, đạo đức học…
Từ sau khi Lênin mất đến nay triết học Mác-Lênin tiếp tục được các Đảng Cộng
sản và công nhân phát triển trong quá trình lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng và
xây dựng CNXH; nhiều vấn đề triết học Mác-Lênin đã được bổ sung, phát triển và
làm sáng tỏ thông qua khái quát khoa học, tổng kết kinh nghiệm cách mạng thế
giới làm cho nó thực sự trở thành cơ sở TGQ-PPLKH, xứng đáng là học thuyết vĩ
đại để nhận thức và cải tạo thế giới phục vụ lợi ích của con người. Triết học MácLênin đã xâm nhập ngày càng sâu rộng vào cuộc sống và hoạt động xã hội của
quần chúng nhân dân lao động.
Tuy nhiên, trong sự vận động và phát triển không ngừng triết học Mác-Lênin
gặp nhiều lực cản do những sai lầm khuyết điểm nảy sinh trong quá trình đấu tranh

cách mạng và xây dựng CNXH. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, với những căn
bệnh giáo điều, cứng nhắc, duy ý chí và tác phong lãnh đạo độc đoán, chuyên
quyền của cán bộ Đảng, Nhà nước ở các nước XHCN là trở lực lớn đối với sự phát
triển tư duy lý luận triết học, tước đi sức mạnh sáng tạo và động lực bên trong vốn
có của nó. Trong khi đó, sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ; sự biến đổi mau lẹ của đời sống kinh tế-chính trị-xã hội khiến cho các lý
thuyết khoa học và triết học dù đúng đắn mấy cũng mau chóng bộc lộ tính hạn chế
lịch sử của nó và sẽ trở thành lạc hậu nếu không được thường xuyên bổ sung và
phát triển. Bên cạnh đó lợi dụng khó khăn và phức tạp về lý luận và thực tiễn đó
trào lưu cơ hội, xét lại vốn tồn tại dai dẳng trong triết học và trong chính trị tìm
cách ngóc đầu dậy ra sức bác bỏ những nguyên lý cách mạng khoa học của Chủ
nghĩa Mác - Lênin,

Thực tiễn xây dựng ở nhiều nước đã bộc lộ nhiều sai lầm,

khuyết điểm, hạn chế về nhận thức lý luận và sự chậm trễ trong việc đổi mới nhận thức lý
luận Mác-Lênin làm cho nó rơi vào xơ cứng, giáo điều từ đó dẫn đến tạo điều kiện cho sự
nảy sinh và phát triển của những xu hướng cơ hội xét lại đủ loại. Thực tiễn lịch sử cho thấy
việc xa rời Chủ nghĩa Mác - Lênin, vi phạm hoặc bác bỏ những nguyên tắc lý luận căn bản
của nó sẽ không tránh khỏi dẫn đến những hậu quả nặng nề cho phong trào cộng sản và
phong trào công nhân quốc tế, cho lợi ích của các nước XHCN và các dân tộc. Thực tiễn
đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ngày nay nói lên tính cấp bách và cực kỳ quan
trọng trong việc bảo vệ, nghiên cứu, bổ sung và phát triển sáng tạo triết học Mác-Lênin đó


là nội dung quan trọng của đổi mới tư duy, tổng kết kinh nghiệm, phát triển lý luận đối với
Đảng và nhân dân ta.
Trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng triết học Mác,
Đảng và Nhà nước ta đã luôn sáng suốt trong việc đề ra đường lối, chủ trương, chính sách
đúng đắn, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở

nước ta. Đảng và Nhà nước ta luôn đứng vững trên lập trường chủ nghĩa Mác, luôn lấy chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nềng tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi
hành động của Đảng. Chính nhờ đó mà Đảng ta đã lãnh đạo quân và dân ta đấu tranh
giành độc lập dân tộc, đánh đuổi mọi kẻ thù xâm lược, thống nhất Tổ quốc, xây dựng nước
Việt Nam theo con đường chủ nghĩa xã hội và phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tiến đến mục tiêu cuối cùng là chủ nghĩa
cộng sản tươi đẹp.



×