Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Liên bang nga từ 1991 đến 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.11 KB, 33 trang )

Tiểu luận
Liên Bang Nga từ 1991 đến 2015

1


MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài
Liên Bang Nga là quốc gia rộng lớn nhất thế giới với hơn 17 triệu km2. Liên Bang Nga có
lịch sử hào hùng và là cái nôi của xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm gần đây, thế giới có những sự đổi thay các thế lực mới nổi lên như Trung
Quốc, Nga.. Nổi lên đe dọa vị trí thống trị của Mỹ đối với thế giới đặc biệt là Mỹ. Nước
Nga từng bước nổi lên đe dọa sự thống trị của Mỹ.
Liên bang Xô Viết có quá khứ hào hùng. Liên Bang Xô Viết được thành lập vào năm 1917.
Trong suốt hơn 70 năm tồn tại của mình, liên xô đã có nhiều đóng góp cho nhân loại như
giải phóng thế giới khỏi chiến tranh thế giới thứ 2, giúp các nhân dân thuộc địa đấu tranh
chính nghĩa để giành được độc lập từ tay các nước đế quốc. Từ cuối năm 70 đầu năm 90
của thế kỷ XX, với đường lối sai lầm trong chính sách nên Liên bang Xô Viết tan rã, hình
thành một nước mới là Liên Bang Nga.
Liên Bang Nga trong những năm 1991 đến năm 2015 trải qua nhiều biến cố lớn như đảo
chính giành chính quyền, nền kinh tế suy yếu, tệ tham nhũng tràn lan, đến năm 2000 sau khi
Putin lên làm tổng thống nước Nga bắt đầu khởi sắc. Nạn tham nhũng từng bước từng bước
đẩy lùi, kinh tế phát triển, nước Nga khôi phục lại địa vị trên trường quốc tế. Có thể nói
Lịch sử Liên Bang Nga trải qua nhiều thăng trầm và có nhiều nét tích cực.
Tôi chọn đề tài lịch sử Liên Bang Nga từ 1991 đến 2015 để làm rõ những vấn đề mà nước
Nga đã trải qua trong giai đoạn này đồng thời qua việc nghiên cứu đề tài này giúp cho các
bạn hiểu hơn về những việc mà nước Nga trải qua, rút ra những bài học kinh nghiệm dành
cho mình.
2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
trong giai đoạn từ 1991 đến 2015, tình hình nước Nga có nhiều biến động, nhiều vấn đề
xảy ra. Liên Bang Nga trong giai đoạn này là một đề tài hấp dẫn được các nhà nghiên cứu


lịch sử quan tâm. Có những cuốn sách, các công trình nghiên cứu viết về nước Nga trong
giai đoạn này tiêu biểu:
2


trong cuốn sách lịch sử thế giới hiện đại do Nguyễn Anh Thái chủ biên. Trong tác phẩm
này, tác giả đề cập đến liên bang Nga trong giai đoạn từ 1991 đến 2000. Trong tác phẩm,
tác giả chỉ giới thiệu một cách khái quát, chưa đề cập rõ về tình hình nước Nga Trong giai
đoạn này.
Trong tác phẩm Putin từ trung tá KGB đến tổng thống Liên Bang Nga xuất bản tại nhà
xuất bản lao động. Trong tác phẩm này tác giả đề cập đến cuộc đời của tổng thống Liên
Bang Nga, tuy nhiên trong tác phẩm chưa đề cập rõ về tình hình nước Nga trong giai đoạn
từ 1991 đến 2015.
3 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về lịch sử của Liên Bang Nga.
Thời gian nghiên cứu từ 1991 đến 2015
Không gian nghiên cứu là Liên Bang Nga
4 Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này chúng tôi sử dụng phương pháp luận dựa trên quan điểm chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp lịch sử để nhìn nhận và
đánh giá sự việc một cách khách quan.
Do đề tài thuộc lĩnh vực nghiên cứu về lịch sử thế giới nên phương pháp chuyên ngành
được sử dụng chủ yếu gồm phương pháp lịch sử và phương pháp logic để thấy được lịch
sử của liên bang Nga trong hiện tại.
Bên cạnh đó để hoàn thiện đề tài chúng tôi sử dụng phương pháp cụ thể là tổng hợp
những công trình đi trước, những bài viết có liên quan đến Lịch sử Liên Bang Nga trong
giai đoạn này.
5 Đóng góp đề tài
Việc nghiên cứu đề tài về lịch sử Liên Bang Nga trong giai đoạn từ 1991 đến 2015 giúp
chúng ta hiểu rõ hơn về lịch sử Liên Bang Nga Đề tài sẽ đóng góp nguồn tư liệu về lịch sử

Liên Bang Nga.Đề tài chỉ ra những vấn đề,các sự kiện lịch sử trong giai đoạn đầy biến
động của nước Nga. Từ việc phân tích lịch sử Liên Bang Nga, đề tài đưa ra một bức tranh
3


tổng thể về nước Nga trong giai đoạn từ 1991 đến 2015, để giúp cho các nhà sử học, các
nhà nghiên cứu hình dung về bức tranh tổng quát về nước Nga.
6 Bố cục của Đề tài
Bài làm gồm 2 chương
Chương 1 Sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết
1.1 Cuộc cải cách của Giốp-ba-chốp
1.2 Hoàn cảnh ra đời của Liên Bang Nga
Chương 2 Liên Bang Nga từ năm 1991 đến năm 2015
2.1 Liên Bang Nga từ năm 1991 đến năm 2000
2.1.1 Kinh Tế
2.1.2 Xã hội
2.2 Liên bang Nga từ năm 2000 đến năm 2008
2.2 Cuộc cải tổ của Putin
2.2.1 cuộc cải tổ trên lĩnh vực Chính trị, xã hội
2.2.2 cuộc cải tổ trên lĩnh vực kinh tế
2.2.3 cuộc cải tổ trên lĩnh vực ngoại giao
2.3 Những kết quả đạt được
2.4 Nước Nga từ 2008 đến nay

4


CHƯƠNG 1 SỰ SỤP ĐỔ CỦA LIÊN BANG XÔ VIẾT
1.1 Cuộc cải tổ của Gióc-ba-chốp
- Tháng 3-1985, M. Goocbachốp được bầu làm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô. Tại

Đại hội lần thứ 27 Đảng Cộng sản Liên Xô. Goocbachốp đưa ra chủ trương cải tổ với
đường “đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước” (Chiến lược tăng tốc) rất
được nhân dân kì vọng, nhằm đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng và xây
dựng một chủ nghĩa xã hội dân chủ, nhân văn đúng như bản chất của nó.
+ Về chính trị: Mở rộng chế độ tự quản xã hội chủ nghĩa của nhân dân, đề cao dân chủ,
mở rộng tính công khai, phê bình và tự phê bình…
- Mục tiêu cải tổ rất tốt đẹp, được nhân dân chờ đợi, song trong gần 6 năm tiến hành cải
tổ, do không lường hết khó khăn, thiếu sự chuẩn bị chu đáo nên công cuộc cải tổ đi vào bế
tắc, hậu quả là nền kinh tế tụt hậu. Năm 1989, tổng sản phẩm quốc dân giảm 4-5%, năng
suất lao động xã hội giảm 2,5%…Trước tình hình đó ban lãnh đạo Liên Xô vội chuyển
sang cải tổ chính trị cực đoan, đến mức chấp nhận chế độ đa đảng thiết lập chế độ Tổng
thống (1990) dẫn đến nội bộ Đảng Cộng sản chia rẽ, các thế lực chống phá CNXH ngóc
đầu dậy, một số nước cộng hòa đòi li khai. Đất nước rơi vào khủng hoảng toàn diện.
1.2 Hoàn cảnh ra đời nhà nước Liên Bang Nga
Vào ngày 7 tháng 2 năm 1990, Uỷ ban Trung ương đảng cộng sản Liên bang Xô viết đồng
ý từ bỏ tình trạng độc quyền quyền lực. Các nước cộng hoà bắt đầu đòi chủ quyền của họ
với Moscow, và đã bắt đầu một "cuộc chiến tranh pháp luật" với chính phủ trung ương
Moscow, trong đó các chính phủ các nước cộng hoà chối bỏ một pháp chế tập hợp toàn bộ
ở điểm nó xung đột với các luật lệ địa phương, đòi hỏi quyền kiểm soát các nền kinh tế
của họ và từ chối trả thuế cho chính phủ trung ương Moscow. Cuộc tranh chấp này gây ra

5


sự chuyển chỗ của kinh tế, khi các đường cung cấp trong nền kinh tế bị phá vỡ, và gây
hậu quả nền kinh tế Xô viết suy sụp hơn nữa.
Gorbachev tung ra những cố gắng vô vọng và bất hạnh cuối cùng nhằm xác nhận quyền
kiểm soát, đặc biệt đối với các nước cộng hoà vùng Baltic, nhưng quyền lực và uy quyền
của chính phủ trung ương đã hoàn toàn và không thể bị đảo ngược xói mòn.
Ngày 11 tháng 3 năm 1990 tại Litva, dẫn đầu bởi vị chủ tịch Hội đồng tối cao mới được

bầu là Vytautas Landsbergis, tuyên bố độc lập và thông báo rằng họ đã bị kéo ra khỏi Liên
bang Xô viết. Tuy nhiên, Hồng quân có sự hiện diện mạnh mẽ ở Litva. Liên bang Xô viết
khởi đầu một cuộc phong toả kinh tế Litva và giữ các đội quân ở đó nhằm "giữ quyền lợi
của những người Nga".
Ngày 13 tháng 1 năm 1991 xung đột giữa quân đội Xô viết và những người dân thường
Litva không vũ khí đã xảy ra dẫn tới cái chết của 13 người và nhiều người bị thương. Điều
này càng làm suy yếu tính hợp pháp của Liên bang Xô viết, cả trên trường quốc tế và bên
trong.
Ngày 30 tháng 3 năm 1990, chỉ 19 ngày sau khi Litva tuyên bố độc lập, Hội đồng tối cao
Estonia tuyên bố quyền lực của Xô viết ở Estonia từ 1940 là bất hợp pháp, và đã bắt đầu
một quá trình nhằm tái lập Estonia là một nước độc lập.
Ngày 17 tháng 3 năm 1991, trong một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc, 78% dân chúng
đồng ý duy trì Liên bang Xô viết dưới một hình thức mới. Các nước Baltic, Armenia,
Gruzia và Moldova tẩy chay cuộc trưng cầu. Trong mỗi nước trong số chín nước cộng
hoà, đa phần cử tri ủng hộ duy trì Liên bang Xô viết. Tháng 6 năm 1991, các cuộc bầu cử
trực tiếp được tiến hành để bầu chức Tổng thống nước Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Xô viết Nga. Ứng cử viên dân tuý Boris Yeltsin, người thường đưa ra các chỉ trích
nhắm vào Mikhail Gorbachev thắng 57% số phiếu, đánh bại ứng cử viên yêu thích của
Gorbachev là cựu chủ tịch Nikolai Ryzhkov với chỉ 16% số phiếu.

6


Vụ đảo chính tháng 8
Xe tăng trên Quảng trường Đỏ trong cuộc đảo chính năm 1991
Phải đối mặt với chủ nghĩa ly khai từ các nước cộng hoà, Gorbachev đã cố gắng tái cấu
trúc Liên bang Xô viết thành một nhà nước ít tập trung hơn. Ngày 20 tháng 8 năm 1991
các nước cộng hoà đã ký một hiệp ước, biến họ thành các nước độc lập trong một liên
bang với một tổng thống chung, chính sách ngoại giao và quân sự chung. Hiệp ước mới
được các nước vùng Trung Á rất ủng hộ, bởi vì họ cần quyền lực kinh tế và thị trường của

Liên bang Xô viết để trở thành thịnh vượng. Tuy nhiên những nhà cải cách triệt để hơn
ngày càng tin rằng một cuộc chuyển đổi nhanh chóng sang nền kinh tế thị trường là cần
thiết và mong muốn được thấy sự tan rã của Liên xô nếu điều đó là cần thiết để thực hiện
các mục tiêu của họ. Sự tan rã của Liên xô cũng được đồng thuận và mong muốn của các
chính quyền địa phương như chức vụ của tổng thống Yeltsin, để thành lập quyền lực toàn
bộ đối với lãnh thổ của họ. Trái ngược với sự lãnh đạm của những nhà cải cách về việc
đạt tới một hiệp ước, những người bảo thủ và những người còn yêu mến Liên xô, vẫn còn
mạnh bên trong Đảng Cộng sản và quân đội hoàn toàn chống đối bất kỳ điều gì có thể gây
hại tới nhà nước Xô viết.
19 tháng 8 năm 1991, Phó tổng thống của Gorbachev, Gennadi Yanayev, Thủ tướng
Valentin Pavlov, Bộ trưởng quốc phòng Dmitriy Yazov, Giám đốc KGB Vladimir
Kryuchkov, và một số quan chức cao cấp khác hành động để ngăn chặn dấu hiệu của một
hiệp ước liên bang bằng cách dựng lên "Uỷ ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp." "Uỷ
ban" đặt Gorbachev (đang trong kỳ nghỉ tại Krym) trong tình trạng giam giữ tại gia và cố
gắng khôi phục nhà nước liên bang. Những nhà lãnh đạo đảo chính nhanh chóng đưa ra
một sắc lệnh khẩn cấp đình chỉ hoạt động chính trị và cấm đa phần báo chí.
Trong khi những người tổ chức đảo chính chờ đợi một số ủng hộ của dân chúng cho
những hành động của họ, thì tình cảm của dân chúng Moscow đa phần là chống lại họ.
7


Hàng nghìn người xuống đường để bảo vệ "Nhà Trắng" (văn phòng của Yeltsin), lúc đó là
cái ghế tượng trưng cho chủ quyền Nga. Những người tổ chức tìm cách bắt giữ nhưng
hoàn toàn vô vọng Yeltsin, người tuần hành những cuộc chống đối lớn đảo chính.
Sau những ngày đó, vào 21 tháng 8 vụ đảo chính sụp đổ, những người tổ chức bị bắt giam
và Gorbachev quay trở lại làm tổng thống Liên bang Xô viết. Tuy nhiên, lúc đó quyền lực
của Gorbachev đã bị thoả hiệp một cách chết người bởi vì không cơ cấu quyền lực tại bất
kỳ một nước cộng hoà nào và ngay cả nước Nga còn nằm trong tay ông.
Hậu quả của cuộc đảo chính
Trong suốt mùa hè năm 1991, chính phủ Nga dần thay thế chính phủ liên bang, từ từ từng

bộ. Tháng 11 năm 1991, Yeltsin ra một nghị định cấm Đảng Cộng sản Liên xô trên toàn
bộ cộng hoà Nga. Vì thế, nhiều đảng viên cộng sản cũ từ bỏ Đảng Cộng sản để đổi lấy các
vị trí trong các cơ cấu của chính phủ mới.
Sau vụ đảo chính, các nước cộng hoà Xô viết tăng tốc quá trình độc lập, từng nước một
tuyên bố chủ quyền. Các chính quyền địa phương của họ bắt đầu nắm lấy tài sản liên bang
trên lãnh thổ của mình. Ngày 6 tháng 9 năm 1991, chính phủ Liên xô công nhận nền độc
lập của ba nước cộng hoà Baltic, mà các cường quốc phương Tây luôn cho là có chủ
quyền. Sau đó ngày 6 tháng 12 năm 1991, Ukraina tuyên bố độc lập khỏi Liên bang Xô
viết sau một cuộc trưng cầu dân ý với hơn 90% người dân ủng hộ độc lập. Khi đó, trong
trận chiến quyền lực, ngày 18 tháng 10 Gorbachev và các đại diện của 8 nước cộng hoà
(không bao gồm Azerbaijan, Gruzia, Moldova, Ukraina, và các nước cộng hoà vùng
Baltic) ký một thoả thuận về việc thành lập một cộng đồng kinh tế mới.
Trong lúc đó, tình hình kinh tế Liên xô tiếp tục xấu đi. Tới tháng 12 năm 1991, tình trạng
thiếu hụt lương thực mở miền trung nước Nga đã dẫn tới việc phân phối lương thực theo
tem phiếu ở vùng Moscow lần đầu tiên kể từ Thế chiến II. Trước một sự sụp đổ không thể
tránh khỏi, Tổng thống Liên xô Gorbachev và chính phủ của ông vẫn tiếp tục phản đối các
cải cách kinh tế thị trường như chương trình "500 Ngày" của Yavlinsky. Để phá vỡ sự
8


phản đối của Gorbachev, Yeltsin quyết định giải tán Liên xô theo Hiệp ước Liên bang
năm 1922 và theo đó loại bỏ Gorbachev cùng chính phủ Xô viết khỏi quyền lực. Hành
động này được ủng hộ mạnh mẽ từ các chính phủ Ukraina và Belarus, là những bên tham
gia Hiệp ước năm 1922 cùng với Nga.
Sự thành lập SNG và chính thức giải tán Liên xô
Ngày 8 tháng 12 năm 1991, những nhà lãnh đạo các nước cộng hoà Nga, Ukraina và
Belarus gặp mặt tại Belavezhskaya Pushcha để đưa ra một tuyên bố rằng Liên bang Xô
viết đã bị giải tán và được thay thế bởi Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG theo tiếng
Nga; CSI theo tiếng Anh). Gorbachev miêu tả tuyên bố này là một vụ đảo chính bất hợp
pháp và nguy hiểm về mặt thể chế. Tuy nhiên ông ta đã trở thành một tổng thống của

không một nước nào cả.
Mười hai trong số mười lăm nước cộng hoà ký Hiến chương năng lượng châu Âu tại
Hague ngày 17 tháng 12 năm 1991, với tư cách là các nước có chủ quyền, với 28 nước
châu Âu khác, Uỷ ban châu Âu và bốn nước không thuộc châu Âu.
Ngày 25 tháng 12 năm 1991, Gorbachev từ chức tổng thống Liên xô và bị thay thế bởi
Boris Yeltsin. Ngày hôm sau, Xô viết Tối cao bầu cử để bãi bỏ tuyên bố được viết năm
1922 việc chính thức thành lập Liên bang Xô viết và tự giải tán. Tới 31 tháng 12 năm
1991, tất cả các định chế chính thức của Liên xô đã dừng hoạt động.
Sự sụp đổ của Liên Xô sau này được tổng thống Nga Putin gọi là "thảm họa địa chính trị
tồi tệ nhất thế kỷ 20. Đối với nước Nga, nó đã trở thành một bi kịch thực sự. Hàng triệu
công dân và những người yêu nước của chúng ta bỗng nhiên thấy họ đang sống bên ngoài
lãnh thổ Nga.".Cựu Thủ tướng Nga Evgeny Primakov cho rằng: "Cái giá của sự sụp đổ
Liên Xô là rất khủng khiếp, nền kinh tế Nga tổn thất còn nhiều hơn Thế chiến thứ hai. Sẽ
là điên rồ nếu nói rằng đất nước này được hưởng lợi từ những năm 1990.
Đa số người dân Liên Xô cũng không muốn đất nước Liên Xô tan rã. Cuối năm 2005, kết
quả một cuộc điều tra dư luận của hai cơ quan độc lập nổi tiếng ở Nga cho thấy: 66%
9


người Nga ngày nay cảm thấy nuối tiếc cho sự sụp đổ của Liên Xô; 76% số người cho
rằng Liên Xô có rất nhiều điểm đáng để tự hào, 60% người Nga tin rằng: sự sụp đổ của
Liên Xô gây nhiều tác hại nhiều hơn là lợi ích. Trong cơn đại hồng thủy đó, nhiều nước
cộng hòa hậu Xô viết đã rơi vào bạo lực sắc tộc sau khi có được độc lập, khiến cả trăm
ngàn người thiệt mạng.

10


Chương 2 Liên Bang Nga từ năm 1991 đến năm 2015
2.1 Liên Bang Nga từ năm 1991 đến năm 2000

2.1.1 Kinh Tế
Liệu pháp sốc
Khái niệm
Liệu pháp sốc là phương pháp chuyển đổi màthời gian cho quá trình chuyển đổi sẽ ngắn
hơn và khả dĩ hơn về mặt chính trị so với cách thức chyển đổi từng bước.
Ưu điểm
Với phương pháp này nó khẳng định được rõ ràng ngay từđầu mục tiêu của chuyển đổi
kinh tế: định hướng kinh tế thị trường vàđạt được sự tin cậy trong xã hội; tranh thủđược
sự nhất quán của công chúng không thể chấp nhận được cơ chế kế hoạch hóa tập trung
trước đây và nhanh chóng muốn thay đổi nó.
các nhà cải cách theo liệu pháp sốc cho rằng chỉ có cải cách, tiến lên với tốc độ tối đa thì
mới là giải pháp tốt nhất, nếu không muốn nói làduy nhất.
Nhược điểm
Bên cạnh đó thì liệu pháp sốc cũng tồn tại những mặt hạn chế của nó đó là nó sẽ gây ra
những đảo lộn xã hội và những tổn thất to lớn chưa lường hết được. Một khi nhà nước và
chính phủ tỏ ra yếu ớt và không đủ sức kiểm soát được quá trình chuyển đổi thì nguy cơ
bất ổn chính trị, xã hội sẽ xảy ra, từ đó có thể gây mất niềm tin của dân chúng đối với cải
cách.
Đặc trưng của phương pháp cải cách theo liệu pháp sốc.
Về cơ bản, chuyển đổi kinh tế theo liệu pháp sốc được triển khai theo một chương
trình đã được vạch sẵn, bao gồm nội dung các biện pháp cải cách, thời hạn, cách tổ chức
thực hiện. Đặc biệt thời hạn và tiến độ của các biện pháp được đề ra rất chặt chẽ và trong
thời gian ngắn được mở đầu và kết thúc vào một thời điểm cụ thể. Do vậy có thể nói, cải
cách theo liệu pháp sốc là một chương trình chủ động của chính phủ, của giới lãnh đạo.
11


Trước hết quá trình tự do hóa được tiến hành ngay lập tức và nhanh chóng bao gồm
những vấn đề sau:
- Đồng tiền được được phá giá mạnh và được tăng khả năng chuyển đổi.

- Thắt chặt chính sách tài chính và tiền tệ.
- Hợp pháp hóa trao đổi ngoại tệ chợ đen, cũng như tự do hóa hệ thống thương mại cả
trong và ngoài nước.
- Tự do hóa giá cả.
- Bãi bỏ các quy định đối với các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, đồng thời ban
hành luật tư nhân hóa.
Quá trình tư nhân hóa
Chương trình tư nhân hóa hàng loạt của Nga đòi hỏi phải tư nhân hóa được 5.000 xí
nghiệp nhá nước lớn và giành quyền tham gia chương trình cho 16 đến 20 nghìn xí nghiệp
trung bình. Con số này thấp hơn nhiều so với thực tế. Kế hoạch tư nhân hóa của Nga được
thực hiện từ“ dưới lên”. Vai trò tư nhân hóa của Nhà nước bị giới hạn ở việc cung cấp cho
các xí nghiệp một số quan điểm và một số văn kiện tư nhân hóa chung đồng thời xem xét
phê chuẩn các chương trình tư nhân hóa của cấp dưới đưa lên. Các hãng và công nhân
Nga được tự do gây dựng các quỹ bằng giấy chứng nhận để có thể tích lũy và tham gia
đấu thầu các xí nghiệp trên cơ sở tuân theo các tiêu chuẩn tối thiểu. - Mở cửa nền kinh
tế.
Kết quả
- 7/1994 Nga tư nhân hóa khoảng hơn 70 xí nghiệp công nghiệp và dịch vụ
Việc tư nhân hóa ồ ạt, thiếu kiểm soát chặt chẽ từ việc phân phát cho không phiếu tư nhân
hóa cho đến phát hành cổ phiếu, không định giá tài sản trước khi tư nhân hóa… đã khơi
dậy và thúc đẩy mạnh mẽ làn sóng kinh doanh ngầm, kể cả tội phạm kinh tế.
Theo số liệu của bộ nội vụ Nga, giữa năm 1993 có tới 40 ngàn xí nghiệp được kiểm soát
bởi tội phạm.
12


Từ 70 đến 80% số công ty tư nhân hóa phải cống nạp cho các tội phạm và viên chức tham
nhũng để duy trì sự tồn tại của mình.
-


Về tư nhân hóa các xí nghiệp quy mô nhỏ cũng đạt được một số kết quả. Việc kiểm

soát chương trình này tập trung vào các nhà chức trách thành phố, thị xã. Về cơ bản tất cả
mạng lưới bán buôn và bán lẻ trong việc tiêu thụ các hành công nghiệp, các cơ sở cung
cấp lương thực thực phẩm, các dịch vụ tiêu dùng và các xí nghiệp nhỏ thuộc vào loại tư
nhân hóa bắt buộc. Đến tháng 4 năm 1994 có 6.700 xí nghiệp nhỏ được bán trên khắp
nước Nga. Mặc dù tư nhân hóa quy mô nhỏ chưa thúc đẩy được sự tăng trưởng của khu
vực nhưng nước Nga đã có nhiều tiến bộ trong lĩnh vực này.
- Về vấn đề sở hữu cổ phần các xí nghiệp, trung bình 70% cổ phần không có lãi cố định
của một xí nghiệp đã tư nhân hóa rơi vào tay những người bên trong, trong đó 17% sẽ do
giới quản lý sở hữu. Trong 30% còn lại thì 16% do các quỹ tài sản nắm giữ.
Tự do hóa nội thương.
-

Thông báo chính sách tiền tệ nghiêm ngặt dựa trên tỉ lệ lãi suất cao.

-

Cắt giảm chi tiêu ngân sách (bảo vệ chi tiêu, trợ cấp)

-

Lương tối thiểu và điều tiết lương hưu, không có chính sách thu nhập.

-

Lần đầu áp dụng thuế giá trị gia tăng VAT ở tỉ lệ 28% sau đó hạ xuống 15%

Bắt đầu chương trình tư nhân hóa (Nghị định 29/12/1991):
-


Áp dụng duy nhất một tỷ giá hối đoái cho đồng rúp vào tháng 4/1992

Đặc điểm kinh tế nước Nga sau khi chuyển đổi
Giai đoạn từ năm 1991 đến 1995
Nền kinh tế Nga bị suy thoái nặng nề, tốc độ tăng GDP năm 1991 là -11,8%, năm 1992 là
-17,8%, năm 1993 là -13,1%, năm 1994 là -15%, năm 1995 là -4%, thâm hụt ngân sách
thường ở mức 7 - 8% GDP. Nga đã trở thành con nợ lớn ngang hàng với các nước châu
Phi bị nội chiến tàn phá: trong đó nợ nước ngoài 143,9 tỷ USD, nợ trong nước 15 tỷ USD.
Lạm phát thường ở mức 3 con số: năm 1991 là 143,9%, năm 1992 là 153,3%, năm 1993
là 896%, năm 1994 là 302%, năm 1995 là 190%. Nói chung nền kinh tế Nga trong thời
13


gian này là một màu xám và cái giá phải trả cho việc chuyển nhanh sang nền kinh tế thị
trường ở mức này là quá đắt.
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự suy thoái nghiêm trọng đó là do việc áp dụng rời rạc,
thiếu đồng bộ các yếu tố cơ chế thị trường, sự rối loạn các chức năng điều tiết và kiểm
soát nền kinh tế của các cơ quan Nhà nước.... Đồng thời, phải kể đến một nguyên nhân
khách quan là do sự đứt đoạn đột ngột những quan hệ hợp tác sản xuất với các nước cộng
hòa khác thuộc Liên Xô ( cũ ) và sự sụp đổ của khối SEV. Có nhiều nhà nghiên cứu đánh
giá những nguyên nhân khách quan này quy định tới 1/3 mức suy giảm sản xuất chung
của nước Nga. Trong những năm 1992 và 1993 khối lượng sản xuất của Nga đã giảm đi
hơn 50%. Các nước Mỹ và Tây Âu hứa hẹn nhiều nhưng thực hiện ít: Nga được hứa hẹn
viện trợ 43 tỷ USD nhưng chỉ nhận được 5 tỷ USD.
2.2 Chính trị - xã hội
sau khi Liên Xô tan rã, nhiệm vụ chính trị chủ yếu của ban lãnh đạo nước Nga là củng cố
nhà nước có chủ quyền và ngăn chặn sự tan rã của nhà nước Nga.
Ngày 31-3 tại mát- cơ- va đã ký hiệp ước liên bang quyết định mối quan hệ qua lại giữa
các chủ thể liên bang Nga (cộng hòa, vùng, khu) và quyết định ranh giới lãnh thổ

ngày 9/4/1992 hiệp ước đã được phê chuẩn tại đại hội VI đại biểu nhân dân Liên Bang
Nga. Mặc dù Tactaxtan và checchen không ký, nhưng đó là bước lớn trong cải cách hiến
pháp ở Nga.
Bước tiếp theo trong quá trình xây dựng nhà nước Liên Bang Nga là dự thảo hiến pháp
mới.
Ngày 21 tháng 9, 1993, Yeltsin giải tán Sô viết tối cao và Đại hội đại biểu nhân dân bằng
nghị định.
Nghị định của Yeltsin quy định giai đoạn chuyển tiếp cho tới cuộc bầu cử nghị viện mới,
Duma Quốc gia và trưng cầu dân ý về một hiến pháp mới. Nghị định này đã gây ra
cuộcKhủng hoảng hiến pháp Nga 1993 và chỉ kết thúc với một cuộc tranh giành quân sự
tại Mátxcơva, khiến 187 người thiệt mạng, Sô viết tối cao tuyên bố tước bỏ chức vụ tổng
14


thống của Yeltsin, vì vi phạm hiến pháp, và Phó tổng thống Rutskoy tuyên thệ nhậm chức
tổng thống tạm quyền.
Toàán hiến pháp xác nhận những hành động đó là hợp hiến. Tuy nhiên, cùng với sự hỗ trợ
của truyền thông và quân đội, Yeltsin nắm quyền kiểm soát, tìm cách cô lập nghị viện
bằng cả sức mạnh và truyền thông. Sau hai tuần cuộc khủng hoảng biến thành những cuộc
ẩu đảđẫm máu trên đường phố, toà nhà nghị viện bị ném bom và chiếm giữ, các lãnh đạo
nghị viện bị bắt giam.
Toà án hiến pháp xác nhận những hành động đó là hợp hiến. Tuy nhiên, cùng với sự hỗ
trợ của truyền thông và quân đội, Yeltsin nắm quyền kiểm soát, tìm cách cô lập nghị viện
bằng cả sức mạnh và truyền thông. Sau hai tuần cuộc khủng hoảng biến thành những cuộc
ẩu đả đẫm máu trên đường phố, toà nhà nghị viện bị ném bom và chiếm giữ, các lãnh đạo
nghị viện bị bắt giam.
Các cuộc bầu cử Duma Quốc gia mới được tổ chức ngày 12 tháng 12, 1993, trong đó
Đảng Dân chủ Tự do Nga cánh hữu và Đảng cộng sản Nga có được số ghế cao, trái ngược
với đảng "Sự lựa chọn của nước Nga" được Yeltsin ủng hộ. Tuy nhiên, cuộc trưng cầu
dân ý được tổ chức cùng thời điểm đó đã thông qua hiến pháp mới, theo đó mở rộng

quyền lực tổng thống, trao cho ông quyền chỉ định các thành viên chính phủ, bãi nhiệm
thủ tướng, và, trong một số trường hợp, giải tán Duma. Dù có những nỗ lực "cải thiện"
chính phủ, mạng lưới các thể chế chính phủ Nga vẫn hầu nhưđông đảo tương đương thời
kỳ Sô viết. Chính phủ có hàng nghìn công chức quan liêu dính líu nặng nề tớihối lộ và
tham nhũng.
Tháng 7, 1996, Yeltsin thắng cử nhiệm kỳ thứ hai với sự hỗ trợ tài chính từ phía các đầu
sỏ chính trị, những người đã trở nên giàu có nhờ các mối quan hệ với bộ máy của Yeltsin
Năm 1998, một cuộc khủng hoàng kinh tế và chính trị xuất hiện khi chính phủ Yeltsin
không thể trả nổi các khoản nợ của mình, gây ra tình trạng hoảng loạn trên các thị trường
tài chính và khiến đồng tiền tệ quốc gia, đồng rúp mất giá. Trong cuộc Chiến tranh
Kosovo năm 1999, Yeltsin mạnh mẽ phản đối chiến dịch quân sự của NATO chống lại
Nam Tư vàcảnh báo Nga có thể can thiệp nếu NATO triển khai bộ binh tới Kosovo.
15


2.1.3 chính sách đối ngoại
Chính sách của Yeltsin-Kozurev (1991-1995)
-Từ 1991-1993: “Nhất biên đảo”, thân Mỹ và phương Tây nhằm thanh thủ sự hậu thuẫn,
ủng hộ mục tiêu phục hưng nước Nga chống cộng, theo mô hình phương Tây, “đi theo
phương Tây vô điều kiện” nhưng không đạt được kết quả.
-Từ cuối 1993, bắt đầu điều chỉnh theo hướng cân bằng Âu-Á. Trong thông diệp LB ngày
29/9/1994, Tổng thống Enxin khẳng định: “Năm 1994 chúng ta sẽ chấm dứt thực tiễn sai
lầm đơn phương nhượng bộ và nhấn mạnh việc chuyển sang xây dựng quan hệ đối tác
bình đẳng thể hiện trên hai mặt - trong hợp tác kinh tế và phối hợp hành động trong việc
giải quyết các vấn đề quốc tế”.


“Những luận điểm cơ bản của CSĐN của LB Nga” (4/1993) xác định 9 lợi ích sống

còn của quốc gia, trong đó có “3. Khắc phục khủng hoảng nội bộ bằng các cải cách chính

trị và kinh tế-xã hội” và “7.Bằng mọi phương tiện củng cố quan hệ với các nước ngoài
mới ra đời trên lãnh thổ Liên Xô cũ”.
“Những nguyên tắc cơ bản của học thuyết quân sự Nga” (HĐAN thông qua 21/11/1993)
xác định 2 mối đe dọa chủ yếu đối với an ninh quốc gia là
(i) Chiến tranh cục bộ và xung đột vũ trang
(ii) Các cuộc xung đột vũ trang trong nước. Nguyên nhân” “chủ yếu là do các mâu thuẫn
xã hội, chính trị, kinh tế, khu vực, tôn giáo, dân tộc, sắc tộc và các mâu thuẫn khác, cùng
mưu toan của một số nước và lực lượng chính trị muốn giải quyết mâu thuẫn này bằng vũ
lực”.
-Nguyên nhân điều chỉnh: sự thay đổi và xu hướng lớn trong môi trường chiến lược khu
vực và thế giới, thực tế tình hình an ninh (xu hướng ly khai và xung đột) và phát triển
trong nước, mục tiêu kiềm chế Nga của Mỹ và phương Tây, thay đổi tương quan lực
lượng trên chính trường sau bầu cử QH năm 1993 (phái dân chủ thân phương Tây chiếm
16


không còn vị thế áp đảo), đấu tranh nội bộ, sức ép của dư luận xã hội về cả đối nội và đối
ngoại) v.v.
Sự điều chỉnh chính sách của Yeltsin-Primacov (1996-1999)
-Từ 1/1/1996, Primacov giữ chức Bộ trưởng NG thay Kozurev, thực hiện chính sách “Cân
bằng Đông Tây” (khôi phục và thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc và Ấn Độ), cân bằng
không có nghĩa là không có ưu tiên nhưng tránh “nhất biên đảo” và tạo vị thế tốt hơn nhờ
hợp tác đa phương, đa dạng nhằm tận dụng “sức mạnh cấu trúc” và “sức mạnh cộng
sinh”.


Công hàm của Tổng thống gửi HĐLB tháng 6/1996: nêu 5 lợi ích quốc gia sống

còn và các ưu tiên đối ngoại: Nga có vị trí tương xứng trên toàn cầu, bảo đảm môi trường
an ninh khu vực và tăng cường hợp tác khu vực, đẩy mạnh quá trình liên kết SNG theo

hướng hợp tác toàn diện.
2.2 Cuộc cải cách của Putin
Vào đầu những năm 2000, liên bang Nga khủng hoảng trên nhiều phương diện: kinh tế,
chính trị, ngoại giao, xã hội.
Cuộc khủng hoảng diễn ra trầm trọng, xã hội Nga rối loạn với cuộc bạo động của phiến
quân checchya, các viên chức nhà nước hủ bại làm mọi cách chiếm đoạt tiền người dân.
Các tài phiệt, các tay chân thân tín của tổng thống Yersin tham ô tài sản, chuyển tiền
chiếm đoạt ra nước ngoài. Theo ước tính mỗi năm chuyển từ 100 đến 150 tỷ USD ra nước
ngoài.
Đối diện với khủng hoảng thời hậu tổng thống Yelsin, Tổng thống Nga Putin bắt đầu cải
cách nước Nga trên tất cả các lĩnh vực cụ thể:
2.2.1 cuộc cải to trên lĩnh vực chính trị xã hội
*chính trị
Chính phủ của Putin đã áp dụng nhiều biện pháp quan trọng. Không lâu sau khi nhận
chức, trên cơ sở 89 bang vốn có của Nga,
Putin đã thành lập 7 khu liên bang lớn. Ông chính thức uỷ nhiệm bảy vị đại diện tổng
thống thay ông quản lý các liên bang này. Bảy khu vực liên bang này cũng giống như ranh
17


giới quân sự của Nga. Bộ nội vụ được tách ra để thiết lập các cơ sở tại bảy khu liên bang
nơi có các đại diện tổng thống. Chính phủ trung ương cũng cử các đại diện chuyên giám
sát đôn đốc tình hình chính trị, tài chính và ngân sách trung ương tại các khu liên bang.
Chính phủ Putin đã kết thúc tình hình đối kháng giữa chính phủ trung ương và các thế lực
địa phương, làm suy yếu quyền lực của các quan chức địa phương, đảm bảo hoạt động của
chính quyền thông suốt từ trên xuống dưới.
Tấn công các "ông trùm kinh tế"
Sau khi nhận chức, Putin đã chú trọng nhiều tới việc điều chỉnh dư luận, quản lý và giám
sát báo chí. Ông đã nhiều lần lên tiếng phản đối việc một vài tờ báo và đài truyền hình bị
các ông trùm kinh tế khống chế. Thông qua việc điều chỉnh quyền cổ đông, chính phủ

Putin đã tiến hành chỉnh đốn một số đài truyền hình, xoá bỏ quyền kiểm soát của các ông
trùm kinh tế với các phương tiện thông tin đại chúng.
Đối mặt với tình hình can thiệp chính trị, xâm phạm tới lợi ích quốc gia của các ông trùm
kinh tế, Putin đã nhiều lần tỏ rõ: nhà nước sẽ không bị khống chế, quyết không chịu khuất
phục những thế lực này . Năm 2000, ông đã nhiều lần tấn công vào các nhân vật cầm đầu
trong giới tài phiệt Nga làm cho một số kẻ đầu sỏ phải bỏ chạy khỏi Nga
Đẩy nhanh cải cách tư pháp
Viện trưởng Viện kiểm sát Nga cho rằng, tiêu cực là mầm mống tai hoạ lớn nhất chưa thể
loại bỏ tận gốc của Nga trong 10 năm cải cách, nó cũng là mối hiểm hoạ tiềm tàng trong
chính nội bộ nước Nga.
Sau khi Putin nhận chức, rất nhiều người đề nghị ông giơ cao ngọn cờ chống lại sự thối
nát, hủ bại.
Mùa hè năm 2001, Viện kiểm sát và Uỷ ban thẩm tra của Nga đã tiến hành thanh tra toàn
diện đối với các bộ ngành: Bộ tình trạng khẩn cấp, Bộ đường sắt, Hải quan, Ngư nghiệp…
Ngay cả Cục quản lý văn phòng phủ Tổng thống cũng không ngoại lệ.
Về phương diện cải cách và xây dựng thể chế pháp luật, Putin chủ trương xử lý tốt các
quan hệ lập pháp, điều chỉnh các quy định gây cản trở giữa các bộ ngành và pháp luật.
18


Ông chủ trương nâng cao vai trò của toà án, nâng cao hiệu quả của thi hành án, tăng
cường giám sát, kiểm tra đội ngũ nhân viên toà án . Năm 2002, lương của các nhân viên
toà án đã được nâng cao thêm 40 - 50% để ngăn chặn các lãnh đạo hoặc thế lực xã hội đen
làm hư hỏng các nhân viên toà án.
Cải tổ Uỷ ban liên bang
Sau khi chính phủ thành công trong việc thành lập 7 khu liên bang lớn trên toàn quốc,
Duma quốc gia Nga đã thông qua "Luật thành lập Uỷ ban liên bang" do Putin đề xướng.
Theo Luật mới này quy định, 178 thành viên của Uỷ ban liên bang được chọn từ cơ quan
lập pháp và cơ quan hành chính, mỗi cơ quan có một người đại diện cho 89 bang . Như
vậy có thể tránh được việc các quan chức địa phương được "dân bầu" và được hưởng

quyền miễn trừ tư pháp mà có thể "không chịu sự quản lý". Tháng 1 năm 2002, Uỷ ban
liên bang mới được thành lập.
Cải cách xã hội
Nhiều năm sau, công cuộc cải cách về chính trị của Nga đã có hiệu quả rõ rệt nhưng cải
cách về xã hội vẫn còn rất chậm chạp. Các lĩnh vực như: điện, nước, khí đốt, sửa chữa nhà
ở của dân chúng Nga vẫn tuân theo thể chế của thời Liên Xô.
Năm thứ hai sau khi lên cầm quyền, Putin bắt đầu tiến hành cải cách đối với lao động,
giáo dục, tiền trợ cấp cho người già, đất đai, thuế, hải quan, hệ thống dự toán ngân sách
v.v…
Những cải cách về xã hội còn rất nhiều khó khăn, nhưng đã tỏ ra rất có hiệu quả.
Xem ra, các chính sách cải cách "thiết thực và cẩn trọng" của Putin đã thích hợp hơn với
các lĩnh vực xã hội dường như đã trở thành thâm căn cố đế của Nga . Nước Nga đã thực
sự quay trở lại vũ đài chính trị quốc tế.
quy định của địa phương mâu thuẫn nghiêm trọng với Hiến pháp của quốc gia.
2.2.2 Cải cách về kinh tế

19


Chính phủ Putin đang ra sức phát triển kỹ thuật cao, tăng cường sản xuất các sản phẩm có
tính trí tuệ cao, phát triển hệ thống thông tin, công trình công cộng, kinh doanh, khoa học
và giáo dục, thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế...
Hơn 70% thiết bị của các công ty công nghiệp Nga đều đã lạc hậu, chỉ còn lại năm mươi
phần trăm sức sản xuất. Sau khi Putin đắc cử Tổng thống, ông bắt đầu điều chỉnh cơ cấu
kinh tế, coi trọng phát triển các sản phẩm có trình độ khoa học kỹ thuật cao, thay đổi cơ
cấu xuất khẩu dựa vào nguyên liệu là chính. Vì thế, việc điều chỉnh năng lượng được đặt
lên vị trí hàng đầu.
Việc điều chỉnh thuế suất, thuế quan, giá cả, cơ cấu năng lượng và việc đổi mới các thiết
bị kỹ thuật công nghiệp năng lượng là những vấn đề mang tính toàn cục. Chính phủ Putin
dự định sẽ tăng lượng xuất khẩu dầu để đảm bảo nguồn ngoại hối thu về . Nhưng các công

ty dầu lại buộc phải căn cứ vào sự dao động giá cả trên thị trường quốc tế để quyết định
sản lượng dầu nhằm đảm bảo lợi nhuận.
Năng lượng là ngành công nghiệp quan trọng của Nga và là nguồn thu ngoại hối chính.
Chính phủ Putin đã tiến hành cải cách ban lãnh đạo của công ty điện lực, dầu mỏ, khí đốt
tự nhiên
Chính phủ Nga chủ trương đẩy nhanh việc cải cách ruộng đất, hỗ trợ nông dân về tư liệu
sản xuất và cho vay vốn ngân hàng, giải quyết những vấn đề khó khăn của nông dân.
Trước đây, khoảng cách giàu nghèo của người Nga tăng nhanh, khoảng cách của các khu
vực, giữa các ngành nghề cũng tăng lên nhanh chóng. Chính phủ Putin đã phải hỗ trợ một
lượng lớn tiền vốn cho các khu vực, giải quyết vấn đề nâng cao mức sống cho người dân.
Putin quyết định tăng 10% tiền lương hưu, tiền lương hưu tối thiểu tăng từ 453 rúp tăng
lên 600 rúp (21 đô la). Mức lương tối thiểu của Nga và bình quân tiền lương hàng tháng
cũng tăng lên.
Sau khi Nga thực hiện tư hữu hoá về nhà ở, rất nhiều công trình kiến trúc có hệ thống
cung cấp điện, nước và làm ấm có thâm niên hơn 50 năm đã xuống cấp rất cần phải cải
tạo.

20


Chính phủ Putin nỗ lực khống chế mức lạm phát ở mức 12% và từng bước nâng cao mức
sống của người dân…
Chính phủ Putin tăng cường điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế nhà nước, coi trọng phát triển
kinh tế có trình độ khoa học và kỹ thuật cao, cải thiện cơ cấu kinh tế tiến tới từng bước
tiến hành cải cách kinh tế; kích thích tính tích cực của các nhàđầu tư, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Để duy trì tính liên tục của việc cải cách nền kinh tế thị trường, nước Nga không
thực hiện quốc hữu hoá, ngăn chặn việc bán các doanh nghiệp nhà nước với giá thấp, các
doanh nghiệp mang tính chiến lược vẫn duy trì cơ chế nhà nước hoặc do nhà nước nắm cổ
phần lớn.
Chính phủ Putin đã thay đổi chính sách thông qua việc phát hành trái phiếu để bù vào lỗ

hổng tài chính; cải cách chế độ phúc lợi xã hội; khống chế nguồn vốn tuồn ra ngoài một
cách phi pháp; giảm nợ trong và ngoài nước; bãi bỏ khuynh hướng sai lầm coi trọng tài
chính, xem nhẹ sản xuất trước đây, ra sức hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ; giảm thuế, thuế
giá trị gia tăng và thuế lợi nhuận; trong cạnh tranh quốc tế, bảo hộ cho nhà sản xuất và thị
trường Nga.
2.2.3 Cải cách về ngoại giao
Putin lấy an ninh quốc gia và tạo ra môi trường bên ngoài thuận lợi cho sự phát triển của
Nga làm trọng điểm, chỉ rõ tính thiết thực của ngoại giao.
Putin đã dựa vào địa vị vốn có của Nga trên quốc tế yêu cầu xây dựng một thế giới đa
cực, tham gia tích cực vào các sự vụ của khu vực như Trung Đông và bán đảo Triều Tiên,
từ đó khôi phục một cách có hiệu quả địa vị quốc tế của Nga.
Cộng đồng quốc gia độc lập khu vực Âu Mỹ và châu A là hướng phát triển ngoại giao ưu
tiên của Nga. Dưới sự lãnh đạo của Putin, Nga đã triển khai hướng phát triển ngoại giao
toàn diện từ phương Tây sang phương Đông. Vài năm trở lại đây, Nga đã làm giảm được
cục diện đòi độc lập chính trị của các nước độc lập liên bang, loại bỏ được bóng đen trong
quan hệ căng thẳng giữa Nga và phương Tây do cuộc khủng hoảng Kosovo và gây ra cuộc
chiến tranh Chechnya mang lại, Nga và Khối NATO đã có nhiều cuộc tiếp xúc.
21


Nga coi Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam là trọng điểm ngoại giao ở châu A, là bước đi
không thể thiếu để nâng cao ảnh hưởng của Nga tại khu vực này . Nga đã khôi phục lại
quan hệ với các nước từng có quan hệ lâu đời như Iran, Irac và Cu Ba. Tiến thêm một
bước tăng cường cân đối hợp tác và đối thoại với các nước phương Tây trong đó Mỹ là
đối tượng đầu tiên . Nhưng, trong các lĩnh vực như củng cố sự ổn định của cục diện chính
trị Nga, tiến thêm một bước phát triển kinh tế và xử lý quan hệ Nga - Mỹ, Putin vẫn còn
trách nhiệm nặng nề trước mắt.
Theo đuổi thế giới đa cực
Ngày 10 tháng 2, tại Hội nghị An ninh quốc tế thường niên được tổ chức ở thành phố
Murnid (Đức), Tổng thống Nga Vladimir Putin đã có bài phát biểu quan trọng thể hiện tư

tưởng theo đuổi thế giới đa cực của ông. Sau đây là bài phát biểu:
Thế giới đơn cực không phù hợp với sự tự do dân chủ
Tôi rất cảm ơn về lời mời tham dự một Hội nghị tầm cỡ như thế này, một diễn đàn có sự
tham gia của các nhà chính trị, quân sự, các nhà kinh doanh, các chuyên gia từ hơn 40
nước trên thế giới.
2.3 những thành tựu đạt được
2.3.1 chính trị xã hội
Năm đầu sau khi Putin lên nắm quyền, thông qua các cải cách như "thành lập khu liên
bang lớn" và "thay đổi hình thức tổ chức hội đồng liên bang", ông đã xây dựng thành công
chếđộ tập quyền đối với địa phương.
Nhân dân Nga ủng hộ công cuộc cải cách của Putin. Từ năm 2001, cơ chế "Khu liên bang
lớn" bắt đầu phát huy vai trò. Putin thông qua đại diện toàn quyền tổng thống ở các liên
bang để tiến hành giám sát cơ quan quyền lực của các bang. Rất nhiều văn kiện pháp luật
và quy định địa phương không phù hợp với Hiến pháp, pháp lệnh của liên bang đều
đãđược sửa đổi.
22


Phó viện trưởng kiểm sát của Nga phụ trách tiến hành điều tra mọi hành vi tham ô trái
pháp luật của những quan chức lãnh đạo địa phương, và có thể căn cứ theo kết quả điều
tra tiến hành khởi tố các quan chức này. Qua hai năm nỗ lực không mệt mỏi, cuộc cải
cách thể chế liên bang của Putin đã giành được thành công.
Có rất nhiều người lãnh đạo của các bang đưa ra ý kiến phản đối, yêu cầu căn cứ theo
pháp luật phân rõ quyền hạn của trung ương và địa phương, đặc biệt là phải phân rõ quyền
hạn chung giữa trung ương và địa phương chứ không thể chỉ do đại diện toàn quyền của
Tổng thống ở liên bang giám sát.
Tháng 6 năm 2001, Putin hạ lệnh thành lập "Ủy ban hoạch định chính sách về vấn đề
phân rõ chức quyền của các bang và Trung ương" Ủy ban bao gồm đại diện của các bang
và đại diện các bộ, ngành trung ương".
Về phương diện cải cách chế độ, những vấn đề ảnh hưởng lớn nhất ở Nga là sự ra đời và

thực thi "Luật chính đảng".
Sau nhiều năm tiến hành sửa đổi, tháng 7 năm 2001 Quốc hội Nga đã phê chuẩn "Luật
Chính đảng".
Trong "Luật Chính đảng" có hai điều quy định rất quan trọng là quy định số lượng người
thấp nhất trong tổ chức chính đảng và vai trò của chính đảng trong bầu cử cơ quan quyền
lực của nhà nước.
Căn cứ theo quy định "Luật Chính đảng", thì một chính đảng phải có số lượng thành viên
từ 1 trăm nghìn người trở lên, ít nhất trong một phần hai bang phải có tổ chức cơ sở và có
lượng người từ 100 trở lên. Vai trò của chính đảng là nhằm tham gia các cuộc bầu cử cơ
quan đại diện nhà nước và cơ quan chính quyền các cấp.
Y nghĩa quan trọng của việc thông qua "Luật Chính đảng" là có thể thay đổi tình trạng
hỗn loạn của thể chế chính đảng ở Nga, xóa bỏ hiện tượng các đảng phái ở Nga đang đua
nhau mọc lên.
"Luật chính đảng" vừa được thông qua, trong nghị viện
Nga lập tức xuất hiện hàng loạt liên minh chính đảng.
Ví dụ, Đảng đoàn kết và phong trào "tổ quốc" trong Duma đã hợp nhất thành một chính
23


đảng mới, ngày 1 tháng 12, liên minh này đã tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ nhất. Liên
minh này đã tích cực ủng hộ việc cải cách của Tổng thống Putin. "Liên minh lực lượng
cánh hữu" trong Duma cũng tuyên bố đổi tên gọi là "Chính đảng liên minh lực lượng cánh
hữu".
Đầu năm 2001, để chuẩn hóa các hành vi xã hội và chỉnh đốn trật tự xã hội, Putin đã ra
lệnh cho các ban ngành hành chính như Văn phòng Tổng thống lên kế hoạch trình lên
Quốc hội liên bang những đề án pháp luật có nội dung liên quan đến chế độ tư pháp quốc
gia, chế độ chính đảng, chế độ hành chính, chế độ quân sự và chế độ tuyển cử.
Có những đề án được sửa đổi hoặc bổ sung trên cơ sở văn bản cũ nhưng có những đề án là
mới hoàn toàn. Ví dụ: "Luật Chính đảng", "Luật Đất đai" - tất cả những văn bản luật này
đều mới được thông qua trong năm 2001.

Chỉ trong thời gian một năm, Chính phủ Putin đã đưa ra rất nhiều văn bản pháp luật, pháp
quy, điều đó chứng tỏ Chính phủ Putin sẽ xây dựng được một quốc gia có chế độ hóa cao
độ.
Lúc đó tội phạm xã hội gia tăng, trật tự xã hội ngày càng xấu đi. Trong nhiều năm ở các
cơ quan tư pháp, do mức lương của thẩm phán và nhân viên chấp pháp quá thấp nên họ
thường bị lợi dụng hoặc bị hối lộ, vấn đề này đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự công
bằng của tư pháp Nga.
Năm 2001, quần chúng nhân dân Nga yêu cầu chính phủ Putin phải tiến hành cải cách
ngành tư pháp ngày càng.
Ngày 20 tháng 11 năm 2001, chính phủ Nga thông qua "Cương lĩnh mục tiêu phát triển hệ
thống tư pháp Liên bang Nga đến năm 2006" và quyết định trích 45 tỷ rúp cho việc cải
cách ngành này.
Về phương diện cải cách chế độ, những vấn đề ảnh hưởng lớn nhất ở Nga là sự ra đời và
thực thi "Luật chính đảng".
Sau nhiều năm tiến hành sửa đổi, tháng
2.3.2 kinh tế
24


Trong nền kinh tế Nga đã có những mặt nổi trội như giá trị tăng trưởng nông nghiệp
5,4%, tỷ lệ lạm phát giảm xuống còn 6,6%, tỷ lệ thất nghiệp 9%, ngân sách chính phủ dư
2,1%.
Để giảm bớt sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc dân vào giá cả năng lượng, Putin đãáp
dụng rất nhiều biện pháp, ví dụ tăng mạnh mức độđầu tư, tăng cao giá cả năng lượng,
v.v... thông qua đẩy mạnh nhu cầu trong nước để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Khi đó Putin cảm thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nga là quá thấp. Ông cho rằng, nền
kinh tế Nga đến trước năm 2010 phải duy trì tỷ lệtăng trưởng không được thấp hơn 5%,
một số năm phải đạt được 8% - 10%.
Chính phủ Nga đang đặt ra biện pháp tăng cường phát triển kinh tế. Ví dụ: cho phép đồng
rúp giảm giá một cách thích hợp để mở rộng xuất khẩu, đẩy mạnh phát triển sức sản xuất;

giảm nhẹ gánh nặng cho các nhà máy, giảm thuế lợi nhuận của các nhà máy từ 35%
xuống còn 24%, tăng cường giúp đỡ các nhà máy vừa và nhỏ, nhà máy nhỏ chỉ còn phải
nộp phần trăm thuế lợi nhuận hoặc thuế doanh nghiệp, khuyến khích giúp đỡ xuất khẩu
các sản phẩm như dầu thô, khí thiên nhiên và công nghiệp quốc phòng.
Nước Nga đang dần thay thế vị trí số 1 về xuất khẩu dầu mỏ của Arập Xêút, ngoài ra
khuyến khích phát triển các ngành kỹ thuật cao như điện tử và thông tin.
Ngày 18 tháng 4 năm 2002 tại Điện Kremly, Putin đã có bài báo cáo tình hình đất trước
thượng viện và hạ viện. Ông đã nói về chính sách đối nội, đối ngoại của Nga với các nghị
sĩ, nhân viên chính phủ và lãnh đạo của các địa phương. Ông cũng đề cập về mục tiêu
công tác năm 2003 của chính phủ Nga.
Về mặt kinh tế, mặc dù ba năm nay tổng sản lượng quốc nội (GDP) Nga tăng trưởng 20%,
đầu tư xây dựng tăng 30%, thu nhập quốc dân tăng trưởng gần 1/3, nhưng vẫn còn 25%
dân chúng có thu nhập dưới mức tiêu chuẩn cơ bản . Hơn nữa, sự ảnh hưởng của giá cả
năng lượng đối với tăng trưởng kinh tế khá lớn, tốc độ tăng trưởng cũng có xu hướng
giảm liên tục trong mấy năm nay.
Putin cho rằng, nhân dân Nga có khả năng thoát khỏi các cuộc khủng hoảng để tạo ra cuộc
sống hạnh phúc. Ông chỉ rõ, tổng sản lượng quốc nội năm 2010 sẽ tăng gấp đôi năm 2000,
25


×